Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG CHÙM THƠ THU CỦA NGUYỄN KHUYẾN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.71 KB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Tiểu luận cuối kì
bộ môn Phong cách học Tiếng Việt
Đề tài

GV HƯỚNG DẪN: TH.S PHAN NGỌC TRẦN

CA 2 – THỨ 6
0


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Tiểu luận cuối kì
bộ môn Phong cách học Tiếng Việt
Đề tài

GV HƯỚNG DẪN: TH.S PHAN NGỌC TRẦN
THỰC HIỆN:
Nguyễn Thanh Kiều

K40.601.055

Huỳnh Thảo Nguyên

K40.601.094

Nguyễn Thị Mỹ Lành

K40.601.059



Nguyễn Thị Thanh Nguyên

K40.601.093

Nguyễn Hồng Thanh Thương

K40.601.128

1


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................................... 4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 4
3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 5
4. Giá trị đề tài.................................................................................................................. 5
5. Bố cục........................................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ SỞ ........................................................................ 7
1.1 Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................... 7
1.1.1 Khái niệm ............................................................................................................. 7
1.1.2 Đặc trưng ............................................................................................................. 7
1.1.2.1 Tính hệ thống ................................................................................................. 7
1.1.2.2 Tính hình tượng ............................................................................................. 8
1.1.2.3 Tính cá thể hoá............................................................................................... 9
1.1.2.4 Tính cụ thể hoá ........................................................................................... 10
1.1.3 Đặc điểm ngôn ngữ ............................................................................................ 11
1.1.3.1 Ngữ âm ........................................................................................................ 11
1.1.3.2 Từ ngữ.......................................................................................................... 12
1.1.3.3 Cú pháp ........................................................................................................ 13

1.1.3.4 Kết cấu văn bản ........................................................................................... 14
1.1.4 Chức năng .......................................................................................................... 14
1.1.4.1 Chức năng thông tin..................................................................................... 14
1.1.4.2 Chức năng thẩm mĩ ..................................................................................... 15
1.2 Chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến ......................................................................... 16
1.2.1 Tác gia Nguyễn Khuyến .................................................................................... 16
1.2.1.1 Đường đời ................................................................................................... 16
1.2.1.2 Đường văn chương ...................................................................................... 17
1.2.2 Chùm thơ thu: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm ...................................................... 17
CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRONG CHÙM THƠ THU CỦA NGUYỄN KHUYẾN ............................................. 20
2.1 Về kết cấu văn bản ................................................................................................... 20
2.3 Về từ ngữ.................................................................................................................. 32

2


2.4. Về cú pháp .............................................................................................................. 35
CHƯƠNG 3: ĐẶC TRƯNG CỦA PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRONG CHÙM THƠ THU CỦA NGUYỄN KHUYẾN ............................................. 37
3.1 Tính hệ thống ........................................................................................................... 37
3.2 Tính hình tượng........................................................................................................ 39
3.3 Tính cụ thể hoá......................................................................................................... 40
3.4 Tính cá thể hoá ......................................................................................................... 42
CHƯƠNG 4: CHỨC NĂNG CỦA PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRONG CHÙM THƠ THU CỦA NGUYỄN KHUYẾN ............................................. 44
4.1 Chức năng thông tin ................................................................................................. 44
4.2 Chức năng thẩm mĩ .................................................................................................. 45
KÊT LUẬN .................................................................................................................... 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 47


3


DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Phân tích tác phẩm văn chương trên cơ sở lý luận của Phong cách học là một
hướng phân tích thú vị và mang lại nhiều giá trị, không chỉ thực tế hoá lý thuyết về Phong
cách học mà còn giúp chúng ta phát hiện được những nét đặc sắc về ngôn ngữ – chất
liệu chính làm nên tác phẩm văn chương thay vì chỉ phân tích trên bình diện nội dung,
tư tưởng.
Chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu biểu hiện của Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
trong chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến vì nhận thấy ba bài thơ Thu vịnh, Thu điếu,
Thu ẩm thuộc chùm thơ này không chỉ mang đặc trưng phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
như một văn bản nghệ thuật nói chung mà còn mang đặc trưng của Thơ - thể loại có
những đòi hỏi đặc biệt hơn so với văn xuôi. Hơn nữa, Thu vịnh, Thu điếu và Thu ẩm
được làm bằng thể Thất ngôn bát cú Đường Luật, tin rằng nghiên cứu biểu hiện của
phong cách ngôn ngữ nghệ thuật trong ba bài thơ này sẽ thu được ngữ liệu phong phú
và có những phát hiện thú vị, làm rõ hơn kiến thức về phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
Mặt khác, Nguyễn Khuyến là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam thời trung đại,
ba bài trong chùm thơ Thu là những bài thơ được cho là hay độc nhất vô nhị, tiền bối,
người đương thời và cả hậu bối sau này không mấy ai sánh bằng khi sáng tác cùng đề
tài. Những tác phẩm được đánh giá cao như thế nên được phân tích kĩ trên phương diện
cách dùng các phương tiện ngôn ngữ để làm rõ hơn giá trị của tác phẩm đồng thời rút ra
những bài học kinh nghiệm cho sáng tác văn chương.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là một thuật ngữ vẫn còn gây nhiều tranh cãi.
Giáo sư Đinh Trọng Lạc cho rằng lời nói nghệ thuật không tạo ra phong cách chức năng
riêng, còn theo giáo sư Cù Đình Tú và một số giáo trình Phong cách học hiện nay thì
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật được xem là một loại phong cách chức năng.

Chúng tôi đồng ý với nhận định cho rằng Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là một
loại phong cách chức năng và sẽ tìm hiểu, phân tích những biểu hiện của chúng trong
4


ba bài thơ : Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm trên những phương diện cơ bản của một phong
cách chức năng, tức tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ, đặc trưng phong cách và chức năng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng phương pháp miêu tả và thủ pháp giải thích bên ngoài trong
suốt tiểu luận.
4. Giá trị đề tài
Chúng tôi muốn thông qua việc khảo sát biểu hiện của phong cách ngôn ngữ nghệ
thuật trong một nhóm tác phẩm cụ thể để chỉ ra hình thức, mức độ biểu hiện và tác dụng
của việc sử dụng phong cách ngôn ngữ nghệ thuật trong bài thơ Thất ngôn bát cú Đường
Luật, đồng thời khẳng định và làm rõ hơn giá trị về mặt ngôn ngữ của tác phẩm.
5. Bố cục
Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, nội dung chính của tiểu luận tập trung ở 4 chương:
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ SỞ
Ở chương này chúng tôi trình bày những kiến thức tổng quát có liên quan đến nội dung
nghiên cứu: về Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, về Nguyễn Khuyến và về chùm thơ
Thu ba bài của ông. Đây là cơ sở lý luận để tiểu luận đi vào phân tích những vấn đề cụ
thể trong các chương tiếp theo
CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG
CHÙM THƠ THU CỦA NGUYỄN KHUYẾN
Ở chương này chúng tôi liệt kê và phân tích những biểu hiện của phong cách ngôn ngữ
nghệ thuật trong chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên các phương diện: Kết cấu văn
bản, Ngữ âm, Từ vựng, Cú pháp.
CHƯƠNG 3: ĐẶC TRƯNG CỦA PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRONG CHÙM THƠ THU CỦA NGUYỄN KHUYẾN


5


Ở chương này chúng tôi trình bày và nhận xét về 4 đặc trưng chính của phong cách ngôn
ngữ nghệ thuật thể hiện trong chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến: Tính hệ thống, Tính
hình tượng, Tính cụ thể hoá, Tính cá thể hoá
CHƯƠNG 4: CHỨC NĂNG CỦA PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRONG CHÙM THƠ THU CỦA NGUYỄN KHUYẾN
Ở chương này chúng tôi trình bày và nhận xét về chức năng của phong cách ngôn ngữ
nghệ thuật trong chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến.

6


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ SỞ
1.1 Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
1.1.1 Khái niệm
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật ( còn được gọi bằng thuật ngữ “Phong cách văn
chương”, “Phong cách ngôn ngữ văn chương”) là phong cách được sử dụng trong các
tác phẩm văn chương (bao gồm văn vần như thơ, ca dao, phú, tục ngữ, câu đối, câu đố;
văn xuôi nghệ thuật như bút ký, phóng sự, tuỳ bút, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản văn
học) và các tác phẩm nghệ thuật có sử dụng ngôn từ (ca từ trong bản nhạc, lời thoại trong
kịch, lời thoại trong điện ảnh).
Theo Cù Đình Tú thì ngôn ngữ văn chương trong dạng lý tưởng là sự thể hiện toàn
vẹn nhất, sáng chói nhất những bước phát triển của ngôn ngữ toàn dân
1.1.2 Đặc trưng
1.1.2.1 Tính hệ thống
Tác phẩm văn chương là một cấu trúc, chỉnh thể nghệ thuật trọn vẹn. Các thành
tố nội dung tư tưởng, tình cảm, hình tượng và các thành tố ngôn ngữ diễn đạt chúng phụ
thuộc lẫn nhau và phụ thuộc vào hệ thống nói chung.

Trong tác phẩm văn chương, có khi chỉ cần bỏ đi một từ hay thay bằng một từ
khác là đủ làm hỏng cả một câu thơ, phá tan nhạc điệu của nó và phủ nhận mối quan hệ
của nó với hoàn cảnh xung quanh. Một yếu tố ngôn ngữ không tự nó có được ý nghĩa
thẩm mĩ khi nó tồn tại một mình mà phải được kết hợp chặt chẽ với những yếu tố khác
và nằm trong một chỉnh thể tác phẩm. Chính là trên cái nền văn bản phù hợp mà từ ngữ
có thể thay đổi ý nghĩa: cũ kĩ hay mới mẻ, dịu dàng hay thâm độc, trang trọng hay hài
hước... Do vậy khi phân tích tác phẩm văn học cần chú ý đến tính hệ thống, phải đặt các
chi tiết, hình ảnh, từ ngữ... trong chỉnh thể tác phẩm để cắt nghĩa.
Tính cấu trúc của ngôn ngữ trong tác phẩm nghệ thuật cũng đặt ra vấn đề “hình
tượng tác giả” – phạm trù liên kết tất cả các phương tiện ngôn ngữ đa dạng trong tác
phẩm thành một chỉnh thể lời nói nghệ thuật. Thuật ngữ “hình tượng tác giả” diễn đạt
7


hai khái niệm gắn bó với nhau: Đó là người sáng tạo ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm,
người đại diện cho quan niệm tư tưởng – nghệ thuật nhất định được thể hiện trong tác
phẩm; đó cũng là cấu trúc lời nói ngôn ngữ cá nhân xuyên suốt tác phẩm, là trung tâm
tổ chức của tác phẩm.
“Hình tượng tác giả” với tư cách là người sáng tạo ra thế giới nghệ thuật thì không
tách rời khỏi chính cái thế giới nghệ thuật đó. Trong “hình tượng tác giả” cần chú ý đến
quan điểm nghệ thuật, lập trường tư tưởng được thể hiện trong tác phẩm và quy định
những chỗ nhấn mạnh đem đến tính nhất quán cho tác phẩm. “Hình tượng tác giả” không
hoàn toàn trùng với cá tính nhà văn.
1.1.2.2 Tính hình tượng
Về phương diện nhận thức, thuật ngữ “hình tượng” chỉ những kết quả của hoạt
động nhận thức của con người, độc lập với hình thức của hình tượng (không chỉ những
hình tượng cụ thể mà cả những hình tượng trừu tượng: những khái niệm, những công
thức, những lý thuyết... Trong tâm lý học, người ta hiểu hình tượng trước hết là sự phản
ánh thực tế một cách cụ thể, cảm tính. Trong nghiên cứu văn học, “hình tượng” được
xem xét theo ba nghĩa: hình tượng như là một chi tiết có màu sắc, hình ảnh, một ẩn dụ

hoặc một hình thức chuyển nghĩa khác gắn với nghĩa bóng; hình tượng như là nhân vật
văn học và hình tượng như là một kiểu đặc biệt của nhận thức và phản ánh thế giới khách
quan. Cách giải thuyết thứ ba là cách giải thuyết chung nhất về hình tượng, còn hai cách
giải thuyết đều có thể coi là những phương tiện nhận thức và phản ánh một cách hình
tượng thực tế khách quan.
Trong ngôn ngữ học, đặc biệt trong phong cách học, tính hình tượng theo nghĩa
rộng nhất là thuộc tính của lời nói nghệ thuật, truyền đạt không chỉ thông tin logic mà
còn cả thông tin được được tri giác một cách cảm tính (cảm giác, tri giác, biểu tượng)
nhờ hệ thống những hình tượng ngôn từ. Hình tượng ngôn từ có thể được xây dựng bằng
nhiều mức độ ngôn ngữ, thậm chí một từ cũng có thể tạo nên hình tượng ngôn từ. Vì một
từ trong tác phẩm nghệ thuật không thể được coi ngang bằng như từ của ngôn ngữ thực
hành: trong văn bản nghệ thuật, từ nghệ thuật có hai bình diện theo khuynh hướng nghĩa

8


của mình, có mối tương quan đồng thời cả với những từ của ngôn ngữ văn hóa chung,
cả với những yếu tố của cấu trúc ngôn từ của văn bản nghệ thuật.
Trong những đơn vị lớn hơn từ thì khái niệm hình tượng có thể xác định như là
một thể thống nhất của tạo hình và biểu đạt. Hình tượng là một tín hiệu phức tạp trong
đó xuất hiện với tư cách là bình diện nội dung, có sự biểu đạt mới, không bị rút gọn lại
ở cái được biểu đạt trước đó. Như trong những truyện ngụ ngôn, người ta có thể phân
biệt rạch ròi hai bình diện: tạo hình, tức miêu tả ít nhiều cụ thể cái hoàn cảnh sinh hoạt
nào đó và biểu đạt, tức một suy luận logic nào đó vốn mang tính chất đạo đức, răn dạy.
Trong Phong cách văn chương, địa vị của người phát ngôn không đóng vai trò
quyết định nhiều. Tính hình tượng của ngôn ngữ văn chương bắt nguồn từ chỗ đó là
ngôn ngữ của một chủ thể tư tưởng thẩm mĩ xã hội có tầm khái quát nhất định. Chính vì
thế ngôn ngữ văn chương dễ đi vào lòng người, nó trở thành ngôn ngữ của muôn người.
Những phương tiện của tính hình tượng trong nghĩa hẹp là những phương tiện tu
từ và những biện pháp tu từ. Nhưng không thể nói rằng tính hình tượng chỉ có thể nảy

sinh do việc sử dụng những phương tiện và biện pháp này mà những từ thông thường,
không có hình tượng cũng có thể trở thành những từ có tính hình tượng khi trong việc
sử dụng chúng, người ta phát hiện ra cá tính của chủ thể tác giả hoặc nhân vật.
1.1.2.3 Tính cá thể hoá
Tính cá thể hoá được hiểu là dấu ấn phong cách tác giả trong ngôn ngữ nghệ thuật.
Dấu ấn phong cách tác giả là cái thuộc về đặc điểm bản chất, thuộc về điều kiện bắt buộc
của Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật: Dấu ấn phong cách tác giả không có trong tác
phẩm văn bản chính luận, văn bản khoa học,… nhưng luôn có trong văn bản nghệ thuật.
Ngôn ngữ là phương tiện diễn đạt chung có tính xã hội rất cao nhưng sự vận dụng
ngôn ngữ là tuỳ thuộc cá nhân. Mỗi nhà văn do xu hướng, sở trường, thị hiếu, tập quán,
tâm lí xã hội, cá tính mà hình thành giọng nói riêng, cái vẻ riêng của ngôn ngữ khi tác
giả kể, dẫn chuyện hoặc nói về mình. Đây có thể gọi là dấu ấn sáng tác cá nhân của tác

9


giả. Mỗi tác giả lớn đều có một thứ ngôn ngữ nghệ thuật riêng, không thể lặp lại trong
lịch sử văn học.
Xét về mặt ngôn ngữ, phong cách tác giả thể hiện ở hai dấu hiệu:


Khuynh hướng ưa thích, sở trường sử dụng những loại phương tiện ngôn

ngữ nào đó của tác giả.


Sự sáng tạo ngôn ngữ của tác giả (đóng góp của mỗi nhà văn vào ngôn ngữ

dân tộc).
Tính cá thể hoá của ngôn ngữ thể hiện ở từng sự vật, từng cảnh, từng nhân vật của

tác phẩm. Trong tác phẩm, vật, cảnh người không trùng nhau thì ngôn ngữ thể hiện chúng
cũng không thể giống nhau.
Tính cá thể hóa tạo cho ngôn ngữ nghệ thuật vẻ đẹp đa dạng, phong phú. Nó cũng
là cơ sở để các tác giả phát triển và thể hiện tài năng sáng tác, in đậm dấu ấn phong cách
viết của mình trong lòng bạn đọc.
Những đặc điểm nêu trên của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật kết hợp với nhau
hài hòa, khéo léo sẽ góp phần thể hiện thành công tư tưởng chủ đề và nội dung tác phẩm,
đồng thời để lại dấu ấn sâu đậm về tác phẩm – tác giả trong lòng nhiều thế hệ người đọc.
1.1.2.4 Tính cụ thể hoá
Một trong những đặc trưng của Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là có thể chuyển
hóa từ bình diện ngôn ngữ sang hình tượng: Các phương tiện ngôn ngữ thuộc các cấp độ
khác nhau góp phần vào việc tạo lập và thể hiện hệ thống các hình tượng, tác động đến
trí tưởng tượng của người đọc, kích thích người đọc.
Tính cụ thể có thể xem là thuộc tính rộng lớn nhất của lời nói nghệ thuật, giải thích
sự tác động của từ ngữ nghệ thuật đến người đọc và cũng giải thích các quy luật sáng
tạo nghệ thuật. Nếu tính cụ thể trong ngôn ngữ sinh hoạt thường ngày thể hiện ở cách
gọi sự vật cụ thể như một biểu tượng thì ở ngôn ngữ nghệ thuật nó là những cái biểu đạt
các hình tượng nghệ thuật.

10


Sự cụ thể hóa được thực hiện nhờ cách lựa chọn và tổ chức các phương tiện ngôn
ngữ. Đó có thể là sự sắp xếp các từ ngữ, chuyển đổi trật tự từ, hay chơi chữ tạo hiệu ứng
tác động vào tâm trí người đọc.
Sự cụ thể hóa nghệ thuật còn có thể đạt được bằng một phương tiện đặc biệt “sự
dẫn dắt bằng động từ”, nhà văn gọi tên từng động tác , trạng thái, giai đoạn,... bằng động
từ, từ đó tạo ra một chuỗi động từ kích thích người đọc, đem đến sự vận động của hình
tượng.
1.1.3 Đặc điểm ngôn ngữ

1.1.3.1 Ngữ âm
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật sử dụng tất cả những phương tiện ngữ âm của
ngôn ngữ dân tộc để phục vụ cho nhu cầu diễn đạt của các tác phẩm văn chương như
tiếng địa phương, tiếng nước ngoài, tiếng lóng,…
Trong Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, yếu tố ngữ âm đóng vai trò vô cùng quan
trọng, không chỉ là hình thức thể hiện mà còn góp phần thực hiện chức năng thông tin,
chức năng thẩm mĩ, tác động trực tiếp tới người đọc/ người nghe. Vì vậy trong Phong
cách ngôn ngữ nghệ thuật, người ta thường sử dụng nhiểu biện pháp tu từ ngữ âm để
nhấn mạnh, làm rõ vấn đề muốn biểu đạt. Có thể kể đến các biện pháp tu từ ngữ âm sau:
Hài thanh là biện pháp lựa chọn các yếu tố âm thanh sao cho hài hòa trong lời nói
và câu văn để dễ nghe, dễ nói, khổi chối tai, khổ độc. Trong văn chương biện pháp này
được chú ý rất nhiều đặc biệt là trong các bài thơ để tạo ra sự hài hòa về âm thanh.
Điệp âm là biện pháp dùng láy gợi âm thanh để tạo cộng hưởng ý nghĩa, hoặc là
tô đậm thêm hình tượng hoặc cảm xúc gợi tưởng tượng.
Điệp thanh trong thơ rất được chú trọng, tác giả cố láy theo một âm điệu nào đó
để tạo ra một hình vẻ, một âm điệu đặc biệt.
Biến nhịp trong thơ đó là một đặc trưng quan trọng không thể thiếu được trong
mỗi bài, khi tìm hiểu ta phải tìm hiểu dụng ý của tác giả khi có cách biến nhịp như vậy.

11


Điệp khúc là hình thức láy lại ở cuối bài một khổ thơ hay dong đầu của bài thơ.
Đây là một phương thức của cấp độ văn bản.
1.1.3.2 Từ ngữ
Văn chương là thế giới của sự sáng tạo, cuộc sống văn chương phản ánh là cuộc
sống được nhà văn tái tạo cái nhìn chủ quan của mình bằng ngôn ngữ văn chương. Ngôn
ngữ của văn chương phải có những đặc điểm mà ngôn ngữ thông thường không có về
tính biểu cảm, tính hình tượng, tính hàm súc. Từ ngữ trong phong cách văn chương rất
đa dạng, cách dùng từ rất điêu luyện, chính xác. Mỗi từ ngữ được sử dụng đểu qua quá

trình chọn lựa kĩ lưỡng, tính chính xác và tính biểu cảm cao, khó có thể thay thế. Có thể
kể đến các loại từ sau:
Từ xưng hô là những từ định danh đối tượng tham gia giáo tiếp. Qua cách định
danh của một người nào đó đối với người đối diện hoặc người được nhắc tới, Chúng ta
biết được hình ảnh của người đó trong mắt của chủ thể nói năng như thế nào. Nếu nghệ
thuật lấy đối tượng phản ánh là con người làm trung tâm thì vố từ xưng gọi luôn luôn là
những chứng cứ đáng tin cậy để chúng ta có thể giải mã văn bản nghệ thuật. Người sử
dụng Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật phải chọn lọc rất kĩ để có thể chọn được một từ
xưng hô phù hợp nhất, thể hiện trọn vẹn ý đồ sáng tác.
Từ Hán-Việt là lớp từ mượn có nguồn gốc từ tiếng Hán, hình thức chữ viết như
từ thuần Việt. Từ Hán-Việt mang sắc thái nghĩa khái quát, trừu tượng ( đối lập với tính
cụ thể cảm tính trong từ thuần Việt ). Từ đó, nó tạo ra hiệu quả biểu đạt rất riêng: Thể
hiện tính tĩnh tại của sự vật, hiện tượng đươc miêu tả ( đối lập với tính sống động của từ
thuần Việt).
Khẩu ngữ là lớp từ chuyên dụng của Phong cách khẩu ngữ, nhưng vốn từ này
cũng được sử dụng trong văn chương nhằm tạo cho tác phẩm có tính chân thực, gần gũi
với cuộc sống thực tế và tạo ra hiệu quả biểu cảm cao.
Từ địa phương cũng là lớp từ chuyên dụng trong Phong cách khẩu ngữ, nhưng
cũng được sử dụng trong Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật để khu biệt hóa đối tượng
12


được miêu tả trong tác phẩm. Từ địa phương được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ sẽ tạo ra
gía trị biểu cảm cao.
Từ láy giàu sức gợi hình gợi cảm, làm cho văn chương tiếng Việt mang một sắc
thái riêng. Đặc biệt trong thơ, từ láy vừa biểu thị những khái niệm trừu tượng vừa khái
quát hóa lại vừa cụ thể hóa sự vật hiện tượng được mô tả.
Ngôn từ dân gian được sử dụng khá phổ biến, chủ yếu là thành ngữ. Thành ngữ
được xây dựng trên những phương thức ẩn dụ, hoán dụ, so sánh… nên nó có tính hình
tượng, tính biểu cảm và được xem như một phương tiện tu từ.

Trợ từ tình thái cũng được sử dụng nhiều trong Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật,
tạo độ nhịp nhàng cho câu và thể hiện nội dung tình thái, nhấn mạnh thêm nội dung
thông báo của câu.
1.1.3.3 Cú pháp
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật sử dụng mọi loại câu, linh hoạt theo mục đích
sáng tác của tác giả. Đặc biệt, so với các phong cách khác là dùng câu đơn đặc biệt, câu
tĩnh lược, câu chuyển đổi tình thái.
Câu đơn đặc biệt được làm thành từ một từ hoặc một cụm từ (trừ cụm chủ - vị).
Các loại từ thường gặp ở đây là danh từ và vị từ (động từ, tính từ). Câu đơn đặc biệt cũng
có thể có trung tâm cú pháp phụ đi kèm làm thành phần phụ của câu cho nó.
Về câu tỉnh lược, trong quyển Ngữ pháp tiếng Việt (2005) Diệp Quang Ban cho
rằng: “Tỉnh lược được hiểu là một bộ phận nào đó của câu lẽ ra phải có mặt trong câu,
nhưngvì lí do nào đó nó được rút bỏ đi mà vẫn không làm ảnh hưởng đến việc hiểu nghĩa
của câuđang xét”. Và phần tỉnh lược có thể phục hồi để cho câu được trọn vẹn một cách
tự nhiên.
Về câu chuyển đổi tình thái: Các sách ngữ pháp chia câu làm 4 loại theo mục
đích nói, mỗi loại có một tình thái và ngữ điệu kèm theo: câu tường thuật, câu nghi vấn,

13


câu cảm thán, câu mệnh lệnh. Phong cách học nghiên cứu các dạng chuyển đổi tình thái
trong các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau. Sự chuyển đổi này khá phức tạp.
1.1.3.4 Kết cấu văn bản
Kết cấu văn bản là hình thức, cách thức tổ chức văn bản như xác định câu chủ đề,
luận điểm, luận cứ, xác định ngôn từ...và sắp xếp chúng theo trình tự nào đó. Phong cách
ngôn ngữ nghệ thuật có kết cấu văn bản tự do, linh hoạt, luôn đổi mới. Tùy theo kiểu thể
loại, đề tài, hình thức ( viết, nói )... mà có những kết cấu văn bản khác nhau.
Ở tác phẩm văn chương hiện đại thì khuôn mẫu kết cấu cho tác phẩm rất đa dạng,
biến chuyển khôn lường nếu không muốn nói là không tuân theo một kết cấu nào cả.

Nhưng tác phẩm văn chương phần lớn là sáng tác có mục đích, có tính chủ động, có xác
định những qui tắc qui định nhất định nên kết cấu văn bản luôn cụ thể, linh hoạt và luôn
đổi mới tùy theo dạng tác phẩm, ý đồ của tác giả, tùy vào giai đoạn văn học. Phong cách
ngôn ngữ nghệ thuật cũng sử dụng các phương pháp tu từ văn bản được hình thành từ
ba phương thức gồm rút gọn một phần nào đó; mở rộng một phần nào đó và đảo trật tự
các phần nào đó.
1.1.4 Chức năng
1.1.4.1 Chức năng thông tin
Ngôn ngữ nghệ thuật phản ánh cuộc sống và con người, thể hiện nhận thức của
nhà văn, nhà thơ về thế giới cũng như về bản thân mình. Ngôn ngữ nghệ thuật cung cấp
cho người đọc những hiểu biết phong phú, đa dạng về lịch sử, địa lý, văn hóa, xã hội,
phong tục, tập quán, tâm lý, tư tưởng,.. của con người, quan hệ thẩm mỹ giữa con người
và xã hội. Nghệ thuật là một hình thức sắc bén giúp con người tiếp cận chân lý hiện thực
và chân lý cuộc sống.
Nói một cách cụ thể thì phong cách ngôn ngữ nghệ thuật cung cấp cho con người
những điều cơ bản nhất về đặc điểm, tính chất của sự vật, sự việc, hiện tượng trong đời
sống xã hội.

14


1.1.4.2 Chức năng thẩm mĩ
Tạo dựng lên bức tranh về cái đẹp và giáo dục về cái đẹp cho con người đây là
chức năng trung tâm và là chức năng đặc thù nhất của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
Sự thưởng thức văn chương nghệ thuật là một hoạt động tự nguyện, chủ yếu gắn
với nhu cầu về cái đẹp, muốn vươn tới lý tưởng, vươn tới sự hoàn thiện về tâm hồn và
nhân cách. Ngôn ngữ nghệ thuật có nhiệm vụ thõa mãn nhu cầu ấy thông qua phản ánh
quan niệm thẫm mỹ của con người, quan hệ thẫm mỹ giữa con người với thiên nhiên và
cuộc sống xã hội, bồi dưỡng, phát triển cho con người năng lực cảm thụ và sáng tạo thẫm
mỹ.

Qua đó chúng ta có thể thấy rằng yếu tố cơ bản của chức năng thẫm mỹ là biểu
hiện cái đẹp và khơi gợi nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ ở người đọc, người nghe.

15


1.2 Chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến
1.2.1 Tác gia Nguyễn Khuyến
1.2.1.1 Đường đời
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), hiệu Quế Sơn, quê ở xã Yên Đỗ, huyện Bình Lục,
tỉnh Hà Nam. Ông xuất thân trong gia đình có truyền thống nhiều người đỗ đạt, tổ tiên
vốn là người Nghệ Tĩnh, ông nội đỗ tiến sĩ, ông thân sinh cũng đỗ tú tài nhưng nhà vẫn
nghèo túng, sống bằng nghề dạy học ở làng quê.
Năm 1864, ông đỗ giải Nguyên; năm 1871 ông đỗ đầu cả kì thi Hội và thi Đình
nên được gọi là Tam nguyên Yên Đỗ.
Dưới triều Nguyễn, Nguyễn Khuyến là một trong số ít 20 người đỗ Tam Nguyên.
Nhưng điều đó không có nghĩa là con đường quan trường của ông được thuận lợi bởi
thời đại ông sống đầy những biến động nên sự nghiệp công danh của ông cũng không
hoàn toàn thuận buồm xuôi gió.
Năm 1858, Pháp nổ phát súng đầu tiên tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở
đầu cho cuộc xâm lược nước ta. Khi ấy Nguyễn Khuyến vẫn còn đang dùi mài kinh sử,
chăm lo đèn sách để tự vạch cho mình con đường phò tá vua, giúp nước.
Năm 1882, 1883, Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ 2, Tự Đức chết (19-7-1883),
Pháp ồ ạt tấn công buộc triều Nguyễn kí hiệp ước Hác-măng (25-8-1883), chấp nhận
Pháp thống trị toàn bộ lãnh thổ nước ta. Nhiều phong trào nhân dân nổ ra, tiêu biểu là
phong trào Cần Vương, dân chúng nhiệt liệt hưởng ứng nhưng cuối cùng vẫn tan rã. Nhà
Nguyễn đã thực sự sụp đổ, nguyện vọng phò vua giúp nước, giấc mơ trị quốc bình thiên
hạ của vị nhân tài chẳng những không thực hiện được mà còn nảy sinh tâm thế u buồn
trước thời cuộc.
Lấy cớ đau yếu để xin tạm về quê dưỡng bệnh rồi từ bỏ hẳn chốn quan trường,

Nguyễn Khuyến về sống ở Yên Đổ với cảnh thanh bần giữa chốn thiên nhiên. Ông cương
quyết khước từ hết thảy những thủ đoạn của bọn tay sai nhằm chèo kéo ông cộng tác.
Mang trong mình tâm trạng bất mãn, bế tắc trước thời cuộc, việc Nguyễn Khuyến cáo
quan về quê là để tự giữ trọn khí tiết của bậc trí thức trước âm mưu lợi dụng của bọn

16


thực dân. Và cũng chính khoảng thời gian này đã đưa Nguyễn Khuyến đến gần hơn với
cuộc sống cơ cực của người dân chốn thôn quê, gieo hạt giống quý xuống mảnh đất tâm
hồn vốn đã màu mỡ của ông để nảy mầm thành những sáng tác vượt bật.
1.2.1.2 Đường văn chương
Nguyễn Khuyến là một trong những đại diện lớn nhất và cuối cùng của văn học
trung đại Việt Nam. Ông là một tác giả đa tài: sáng tác thơ, viết hát nói, soạn kịch, dịch
giả,… Tuy vậy, thơ ca chiếm số lượng lớn nhất và giữ vị trí quan trọng nhất trong cả sự
nghiệp văn chương của ông.
Nguyễn Khuyến sáng tác trên cả mảng thơ Nôm và thơ chữ Hán. Không những
vậy, có bài Nguyễn Khuyến viết bằng chữ Hán rồi dịch ra chữ Nôm, hoặc ông viết bằng
chữ Nôm rồi dịch sang chữ Hán. Ông cũng sáng tác rất nhiều thể loại như thơ thất ngôn,
ngũ ngôn, tứ tuyệt, lục bát, song thất lục bát,… Gia tài thơ ca Nguyễn Khuyến để lại
hôm nay là hơn 800 bài thơ phân bố trong những tập thơ quý báu như Quế Sơn thi tập,
Bách Liêu thi văn tập, Quế Sơn tam nguyên thi tập, Quế Sơn cựu lục, Quế Sơn hưu tẩu
thi tập, Quế Sơn thi tập tục biên,Yên Đổ tiến sĩ thi tập, Yên Đỗ tam nguyên thi tập, Yên
Đỗ xã tam nguyên đại nhân thi văn tập,…
Thơ của Nguyễn Khuyến chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn của nhiều phẩm chất
thơ ca: giữa tinh hoa của văn học bác học với văn học dân gian, giữa sắc thái trữ tình và
trào phúng. Trong bộ phận thơ Nôm, cụ Tam nguyên Yên Đổ vừa là nhà thơ trào phúng
vừa là nhà thơ trữ tình, mang đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương, còn thơ
chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình.
Nội dung tác phẩm của Nguyễn Khuyến rất phong phú, nhưng tựu trung lại gồm

có bốn chủ đề tiêu biểu: tâm sự của một nhà nho lạc thời, thể hiện con người với chí
hướng và phẩm cách trong sáng, nhà thơ quê hương làng cảnh Việt Nam và tiếng cười
phê phán, tố cáo xã hội đương thời.
1.2.2 Chùm thơ thu: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm
Đối với thi gia thì mùa thu là mùa của cảm xúc, của thương nhớ. Nhắc đến thơ
thu, không thể không nhắc đến chùm thơ Thu vịnh (vịnh cảnh mùa thu),, Thu điếu (câu

17


cá mùa thu) và Thu ẩm (uống rượu mùa thu) của Nguyễn Khuyến – ba bài thơ của làng
cảnh Việt Nam đậm đà chân thực, gửi gắm ít nhiều tâm sự và suy tư của tác giả.
Chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến là hiện tượng độc đáo và là cống hiến xuất sắc
của nhà thơ. Cả ba bài đều viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mỗi bài là một
phác thảo với nét bút của nền hội họa phương Đông, không rườm rà loè loẹt mà cũng
không gò bó khuôn sáo. Nhà thơ – họa sĩ họ Nguyễn đã đưa chúng ta về một vùng chân
quê quanh năm ngập nước của đất Hà Nam đầu thế kỷ này vào độ sang thu.
Thu vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Thu điếu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Thu ẩm

18


Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy.
Độ năm ba chén đã say nhè.

19


CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRONG CHÙM THƠ THU CỦA NGUYỄN KHUYẾN
2.1 Về kết cấu văn bản
Thu Vịnh, Thu Điếu và Thu ầm đều được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường
luật – thể thơ đòi hỏi khá nghiêm ngặt về kết cấu. Nhìn chung, một bài thơ Thất ngôn
bát cú Đường luật xét theo chiều dọc phải tuân thủ Bố cục, Niêm, Đối, Vần; xét theo
chiều ngang phải tuân thủ Luật. Cái độc đáo trong 3 bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến

chính là ông vừa tuân thủ lại vừa phá vỡ tính quy phạm về kết cấu của thể thơ này.
Bố cục của bài thơ Thất ngôn bát cú Đường luật gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ, Chia
thành 4 phần Đề - Thực – Luận – Kết. Cụ thể:
 Câu 1 và câu 2 gọi là câu Đề, có nhiệm vụ khái quát nội dung bài thơ.
Trong đó câu 1 là Phá đề, tức “mở ra”, giới thiệu tựa đề; câu 2 là Thừa
đề, chuyển giao giữa Đề sang Thực
 Câu 3 và câu 4 gọi là câu Thực, nhằm triển khai ý tứ đã nêu ở câu Đề,
có thể là tả cảnh, tả việc,…
 Câu 5 và câu 6 gọi là câu Luận, nêu lên nhận định hoặc cảm xúc, thể
hiện nội dung tư tưởng của bài thơ
 Câu 7 và câu 8 gọi là câu Kết, không chỉ kết luận lại vấn đề mà còn mở
ra những vấn đề khác, khơi gợi suy nghĩ khác
Nhìn vào Thu vịnh, Thu điếu và Thu ẩm, ta thấy Nguyễn Khuyến đã không tuân thủ theo
bố cục 4 phần của một bài Thất ngôn bát cú Đường luật mẫu mực. Trong cả 3 bài, suốt
8 câu thơ ông chỉ tả cảnh và tả việc, không trực tiếp bình luận hay phát biểu tư tưởng gì.
Tuy nhiên nếu phân tích kĩ, ta lại thấy Nguyễn Khuyến vẫn triển khai bài thơ theo đúng
bố cục Đề - Thực – Luận – Kết. Có thể phân tích cụ thể bài Thu điếu để làm rõ điều này:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Mở đầu bài thơ tác giả tả cảnh “ao thu lạnh lẽo nước trong veo” và sự xuất hiện của “một
chiếc thuyền câu bé tẻo teo” cũng chính là nêu lên nội dung chính của bài thơ “Thu điếu”
– câu cá mùa thu.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Sang hai câu Thực, Nguyễn Khuyến tiếp tục tả bức tranh mùa thu với sự phát triển cao
hơn ý tứ trong câu Đề. Sắc thái trong trẻo của mùa thu từ sự “trong veo” của làn nước
ao được tiếp nối bằng hình ảnh “sóng biếc”, con sóng không những “trong” mà còn

20



“xanh”. Nếu như sự “lạnh lẽo” của ao thu và hình dáng “bé tẻo teo” của chiếc thuyền
câu trong câu Đề đã gợi ra một không gian mùa thu tĩnh lặng, mênh mang thì đến 2 câu
Thực này, “sóng biếc theo làn hơi gợn tí”, “lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” không chỉ là
sự nắm bắt tinh tế những chuyển động nhỏ nhất của sự vật mà chính là nghệ thuật lấy
động tả tĩnh: không gian mùa thu phải tĩnh lặng đến mức nào thì người câu cá mới nhận
ra sóng “gợn” đã chỉ “hơi” mà lại còn “tí”, hay khoảnh khắc “khẽ đưa vèo” trong tích
tắc của chiếc lá vàng.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Ở hai câu luận, Nguyễn Khuyến tiếp tục tả cảnh, nhưng là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình,
thể hiện rõ sự trong trẻo, lãng đãng của cảnh thu và không khí vắng vẻ của miền quê Bắc
Bộ.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Hai câu Kết khép lại cảnh “câu cá mùa thu”, lại hàm chứa ý tứ sâu xa của Nguyễn
Khuyến. Theo kinh nghiệm dân gian, nước trong thì không có cá, làn nước ao thu “trong
veo” nơi Nguyễn Khuyến đi câu dẫn đến chuyện “tựa gối ôm cần lâu chẳng được” là
chuyện tất yếu trong thực tế, nhưng bỗng xuất hiện âm thanh “cá đâu đớp động dưới
chân bèo”, như thể một động lực khiến người đi câu không bỏ về mà tiếp tục “ôm cần”
dù đã “lâu chẳng được”. Ta có thể liên hệ với tâm tư của Nguyễn Khuyến trước tình hình
đất nước bấy giờ: triều đình bất lực thoả hiệp để đất nước rơi vào tay Pháp, nhà thơ vì
muốn bảo toàn khí tiết không làm tay sai cho giặc mà về ở ẩn chốn thôn dã, lánh xa thời
cuộc. Với Nguyễn Khuyến bấy giờ ông tự cho mình vô cùng bất lực, cho rằng tình hình
đất nước vô cùng u tối không có hi vọng vực dậy, như thể đi câu cá nước trong là chuyện
bất khả. Thế nhưng âm thanh “cá đâu đớp động dưới chân bèo” đã đánh thức người đi
câu đang chán nản, cũng như tình yêu nước trong lòng Nguyễn Khuyến đã thôi thúc ông
muốn đứng lên bảo vệ đất nước. Nhưng tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo” cũng là
một âm thanh hết sức mơ hồ, như trong lòng Nguyễn Khuyến vẫn còn trăn trở liệu mình
có thể góp sức thay đổi thời cuộc không hay cách tốt nhất là bất hợp tác với giặc, lánh

mình giữ khí tiết trong sạch. Như thế hai câu này đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của hai câu
Kết.
Luật của thơ thất ngôn bất cú là “Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”,
tức các chữ thứ 1, 3, 5 trong câu tự do về thanh, các chữ thứ 2, 4, 6 bắt buộc phải đối
thanh theo quy luật chữ thứ 2 và chữ thứ 6 đồng thanh, đối thanh với chữ thứ 4 (T-B-T
hoặc B-T-B). Trong 3 bài thơ Thu, Nguyễn Khuyến đều tuân thủ cấu trúc này:

21


Thu Vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
B

T

B

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
T

B

T

Nước biếc trông như tầng khói phủ,
T

B


T

Song thưa để mặc bóng trăng vào.
B

T

B

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
B

T

B

Một tiếng trên không ngỗng nước nào
T

B

T

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
T

B

T


Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
B

T

B

Thu điếu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
B

T

B

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
T

B

T

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
T

B

T

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

B

T

B

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
B

T

B
22


Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
T

B

T

Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
T

B

T

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

B

T

B

Thu ẩm
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
B

T

B

Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
T

B

T

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
T

B

T

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
B


T

B

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
B

T

B

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
T

B

T

Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy.
T

B

T

Độ năm ba chén đã say nhè.
B

T


B

Nói về Niêm, có thể hiểu nôm na là sự liên hệ về âm luật giữa hai câu thơ. Trong
thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, các cặp câu 1-8, 2-3, 4-5, 6-7 niêm với nhau, tức cùng
thanh bằng hoặc vần trắc. Thu vịnh, Thu điếu và Thu ẩm đểu không bị “thất niêm”:

23


Thu Vịnh:
Câu 1 niêm với câu 8:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
B

T

B

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
B

T

B

Câu 2 niêm với câu 3:
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
T


B

T

Nước biếc trông như tầng khói phủ,
T

B

T

Câu 4 niêm với câu 5:
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
B

T

B

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
B

T

B

Câu 6 niêm với câu 7:
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
T


B

T

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
T

B

T

Thu điếu:
Câu 1 niêm với câu 8:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
B

T

B

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
B

T

B

Câu 2 niêm với câu 3:
24



×