Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cho phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.96 KB, 36 trang )

Kinh tế học phát triển
MỤC LỤC
2. Bản chất của vốn sản xuất..................................................................4
3. Phân loại vốn trong doanh nghiệp........................................................6
1. Vốn đối với phát triển kinh tế...........................................................17
.......................................................................................................................19
CHƯƠNG II. SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
TRONG DOANH NGHIỆP..............................................................................21
1. Các khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh tế...............................21
4. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn........................................24
4.1. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp........................................................24
4.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định.................25
4.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh
nghiệp........................................................................................................26
4.4. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp. . 27
CHƯƠNG III. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HIỆU QẢ SỬ DỤNG VỐN
TRONG DOANH NGHIỆP...............................................................................29
3.1. Các nhân tố chủ quan...........................................................................29
3.2. Các nhân tố khách quan.......................................................................30
3.3.2.Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn................................32
3.3.3.Tổ chức và quản lý tốt quá trình kinh doanh.............................32
3.3.4. Mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh.
....................................................................................................................33
3.3.5.Tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán và phân tích hoạt động
sản xuất kinh doanh.................................................................................34

1
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23



Kinh tế học phát triển
LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho
mọi hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề
cấp bách. Đầu tư và tăng trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trưởng
kinh tế, để thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện
nay ở nước ta cần đến một lượng vốn lớn.
Vốn cho phát triển kinh tế- xã hội luôn là vấn đề quan trọng và cấp
bách trong cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới ở nước ta. Đương nhiên để
duy trì những thành quả đã đạt được của nền kinh tế nhờ mấy năm đổi mới
vừa qua, giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, tránh cho đất nước rơi
vào tình trạng lạc “tụt hậu” so với nhiều nước láng giềng trong khu vực và
trên thế giới. Trong giai đoạn hiện nay nước ta đang tìm mọi cách khơi dậy
mọi nguồn vốn trong nước từ bản thân nhân dân và việc sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn đã có tại các cơ sở quốc doanh. Nguồn nước ngoài từ ODA,
NGO và từ đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Tuy nhiên cần thấy rõ nguồn
vốn trong nước là chủ yếu, nguồn vốn trong nước vừa phong phú vừa chủ
động nằm trong tầm tay. Nguồn trong nước vừa là tiền đề vừa là điều kiện
để “ đón” các nguồn vốn từ nước ngoài. Nguồn vốn nước ngoài sẽ không
huy động được nhiều và sử dụng có hiệu quả khi thiếu nguồn vốn “bạn
hàng” trong nước.
Mặc dù điều kiện quốc tế thuận lợi đã mở ra những khả năng to lớn để
huy động nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng nguồn vốn ở trong nước được
xem là quyết định cho sự phát triển bền vững và độc lập của nền kịnh tế.
Qua nghiên cứu thực tế, và với cơ sở kiến thức đã tích luỹ được trong
thời gian qua em nhận thấy tầm quan trọng của việc nguồn vốn phục vụ cho
phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Cũng như xuất phát từ
tính cấp thiết của vấn đề này, em chọn đề tài: “Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
cho phát triển kinh tế”.


2
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển

CHƯƠNG I. VỐN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
A.Vốn sản xuất
1. Khái niệm
Vốn là một phạm trù kinh tế trong lĩnh vực tài chính, nó gắn liền với
nền sản xuất hàng hoá. Vốn là tiền huy động vào sản xuất nhằm mục đích
sinh lợi, hay nói cách khác, tiền chỉ là vốn khi được đưa vào trong sản xuất
lưu thông.
Vai trò vốn sản xuất trong doanh nghiệp thực hiện yêu cầu của cơ chế
hạch toán kinh doanh, tức là quán triệt quan điểm tiết kiệm và hiệu quả sử
dụng vốn trên cơ sở tự chủ kinh tế và tài chính. Yêu cầu tiết kiệm nói nên tính
hợp lý, tính đúng mức trong việc sử dụng vốn với một lượng vốn nhất định
với mục đích đạt được một mức lợi nhuận hoặc doanh thu cao hơn. Hiệu quả
kinh tế cuối cùng thể hiện ở số lợi nhuận thu được. Điều đó phụ thuộc vào
vấn đề sản xuất vốn có hợp lý hay không, có tiết kiệm chi phí và tăng dự trữ
hay không để đạt được mục đích nâng cao số vòng quay của vốn.
Đối với mỗi loại hình doanh nghiệp nguồn gốc việc hình thành vốn là
khác nhau và sở hữu cũng khác nhau. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì vốn
sản xuất là do nhà nước cấp và giao quyền tự chủ về tài chính cho doanh
nghiệp và doanh nghiệp có trách nhiệm phải bảo toàn và phát triển vốn. Đối
với loại hình doanh nghiệp khác nhau như doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp tập thể, doanh nghiệp tư bản thì nguồn vốn được huy động từ các

nguồn vốn khác nhau.
• Đặc trưng của vốn
- Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định. Có nghĩa là vốn phải
được biểu hiện bằng giá trị tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh
nghiệp.
- Vốn phải vận động và sinh lời, đạt được mục tiêu trong kinh doanh.
- Vốn phải được tích tụ và tập trung một lượng nhất định thì mớicó khả năng
phát huy tác dụng khi đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực
kinh doanh.
- Vốn có giá trị về mặt thờigian. Điều này có thể có vai trò quan trọng khi bỏ
vốn vào đầu tư và tính hiệu quả khi sử dụng đồng vốn.
- Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, vốn sẽ không được đưa ra để
đầu tư khi mà người chủ của nó nghĩ về một sự đầu tư không có lợi nhuận.
- Vốn được quan niệm như một thứ hàng hoá và có thể được coi là thứ hàng
hoá đặc biệt vì nó có khả năng được mua bán quyền sở hữu trên thị trường
vốn, trên thị trường tài chính.
3
Học Viên: Nguyễn Quang Linh
Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
- Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền hay các giá trị hiện vật ( tài sản cố định
của doanh nghiệp: máy móc, trang thiết bị vật tư dùng cho hoạt động quản lý.
. . ) của các tài sản hữu hình ( các bí quyết trong kinh doanh, các phát minh
sáng chế,. . . )
2. Bản chất của vốn sản xuất.
Đứng trên các giác độ khác nhau ta có cách nhìn khác nhau về vốn.
Theo quan điểm của Mark - nhìn nhận dưới giác độ của các yếu tố sản xuất
thì Mark cho rằng: “vốn (tư bản) không phải là vật, là tư liệu sản xuất, không


phải là phạm trù vĩnh viễn. Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng
cách bóc lột lao động làm thuê. Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản ứng tiền ra
mua tư liệu sản xuất và sức lao động, nghĩa là tạo ra các yếu tố của quá trỡnh
sản xuất. Cỏc yếu tố này cú vai trũ khỏc nhau trong việc tạo ra giỏ trị thặng
dư. Mark chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tư bản bất
biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hỡnh thức tư liệu sản xuất (máy móc, thiết
bị, nhà xưởng,…) mà giá trị của nó được chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm.
Cũn tư bản khả biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hỡnh thức lao động, trong
quá trỡnh sản xuất thay đổi về lượng, tăng lên do sức lao động của hàng hoá
tăng. Tuy nhiên, Mark quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị
thặng dư cho nền kinh tế. Đây là một hạn chế trong quan điểm của Mark.
Còn Paul A.Samuelson, một đại diện tiêu biểu của học thuyết kinh tế hiện
đại cho rằng: Đất đai và lao động là các yếu tố ban đầu sơ khai, còn vốn và hàng
hoá vốn là yếu tố kết quả của quá trình sản xuất. Vốn bao gồm các loại hàng hoá
lâu bền được sản xuất ra và được sử dụng như các đầu vào hữu ích trong quá trình
sản xuất sau đó.

Theo David Begg, Stenley Ficher, Rudiger Darubused trong cuốn (Kinh
tế học) thì: vốn hiện vật là giá trị của hàng hoá đã sản xuất được sử dụng để
tạo ra hàng hoá và dịch vụ khác. Ngoài ra còn có vốn tài chính. Bản thân vốn
là một hàng hoá nhưng được tiếp tục sử dụng vào sản xuất kinh doanh tiếp
theo. Quan điểm này đã cho thấy nguồn gốc hình thành vốn và trạng thái biểu
hiện của vốn, nhưng hạn chế cơ bản là chưa cho thấy mục đích của việc sử
dụng vốn.
Một số nhà kinh tế học khỏc lại cho rằng: Vốn có nghĩa là phần lượng
sản phẩm tạm thời phải hi sinh cho tiêu dùng hiện tại của nhà đầu tư, để đẩy
mạnh sản xuất tiêu dùng trong tương lai. Quan điểm này chủ yếu phản ánh
động cơ về đầu tư nhiều hơn là nguồn vốn và biểu hiện của nguồn vốn. Do
vậy quan điểm này cũng không đáp ứng được nhu cầu nâng cao hiệu quả sử

dụng vốn cũng như phân tích vốn.
Trong cuốn “Kinh tế học” của David Begg cho rằng: “Vốn được phân chia
theo hai hình thái là vốn hiện vật và vốn tài chính”. Như vậy, ông đã đồng nhất vốn
với tài sản của doanh nghiệp.Trong đó:

4
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
Vốn hiện vật: Là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất mà sử dụng để sản xuất ra
các hàng hoá khác.
Vốn tài chính: Là tiền và tài sản trên giấy của doanh nghiệp.
Ngoài ra, có nhiều quan niệm khác về vốn nhưng mọi quá trình sản xuất
kinh doanh đều có thể khái quát thành:
T...... H (TLLD, TLSX) ....... SX ....... H’......T’
Để có các yếu tố đầu vào (TLLĐ, TLSX) phục vụ cho hoạt động kinh
doanh, doanh nghiệp phải có một lượng tiền ứng trước, lượng tiền ứng trước này
gọi là vốn của doanh nghiệp. Vậy: “Vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền
của vật tư, tài sản được đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nhằm thu lợi nhuận”.
Nhưng tiền không phải là vốn. Nó chỉ trở thành vốn khi có đủ các điều kiện
sau:
Thứ nhất: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định hay nói
cách khác, tiền phải được đảm bảo bằng một lượng hàng hoá có thực.
Thứ hai: Tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định. Có
được điều đó mới làm cho vốn có đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh dù là
nhỏ nhất. Nếu tiền nằm ở rải rác các nơi mà không được thu gom lại thành một

món lớn thì cũng không làm gì được. Vì vậy, một doanh nghiệp muốn khởi sự thì
phải có một lượng vốn pháp định đủ lớn. Muốn kinh doanh tốt thì doanh nghiệp
phải tìm cách gom tiền thành món để có thể đầu tư vào phương án sản xuất của
mình.
Thứ ba: Khi có đủ một lượng nhất định thì tiền phải được vận động nhằm
mục đích sinh lời.
Từ những vấn đề trên ta thấy vốn có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Vốn là hàng hoá đặc biệt vì các lý do sau:
- Vốn là hàng hoá vì nó có giá trị và giá trị sử dụng.

+ Giá trị của vốn được thể hiện ở chi phí mà ta bỏ ra để có được nó.
+ Giá trị sử dụng của vốn thể hiện ở việc ta sử dụng nó để đầu tư vào quá
trình sản xuất kinh doanh như mua máy móc, thiết bị vật tư, hàng hoá...
- Vốn là hàng hoá đặc biệt vì có sự tách biệt rõ ràng giữa quyền sử dụng và
quyền sở hữu nó. Khi mua nó chúng ta chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền
sở hữu và quyền sở hữu vẫn thuộc về chủ sở hữu của nó.
Tính đặc biệt của vốn còn thể hiện ở chỗ: Nó không bị hao mòn hữu hình
trong quá trình sử dụng mà còn có khả năng tạo ra giá trị lớn hơn bản thân nó.
Chính vì vậy, giá trị của nó phụ thuộc vào lợi ích cận biên của của bất kỳ doanh
nghiệp nào. Điều này đặt ra nhiệm vụ đối với các nhà quản trị tài chính là phải làm
sao sử dụng tối đa hiệu quả của vốn để đem lại một giá trị thặng dư tối đa, đủ chi
trả cho chi phí đã bỏ ra mua nó nhằm đạt hiệu quả lớn nhất.

5
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển

Thứ hai: Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định chứ không thể có đồng
vốn vô chủ.
Thứ ba: Vốn phải luôn luôn vận động sinh lời.
Thứ tư: Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể
phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Tuỳ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp mà có một
lượng vốn nhất định, khác nhau giữa các doanh nghiệp. Để góp phần nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn tại công ty, ta cần phân loại vốn để có biện pháp quản lý tốt hơn.

3. Phân loại vốn trong doanh nghiệp.
3.1.Phân loại vốn theo hình thức chu chuyển
3.1.1. Vốn cố định.
a) Khái niệm và đặc điểm vốn cố định:
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định, đó chính là số
vốn doanh nghiệp đầu tư mua sắm, trang bị cơ sở vật chất. Để là tài sản cố
định phải đạt được cả hai tiêu chuẩn. Một là, phải đạt được về mặt giá trị đến
một mức độ nhất định (ví dụ hiện nay giá trị của nó phải lớn hơn hoặc bằng
5.000.000đồng). Hai là, thời gian sử dụng phải từ trên 1 năm trở lên. Với
những tiêu chuẩn như vậy thì hoàn toàn bình thường với đặc điểm hình thái
vật chất của tài sản cố định giữ nguyên trong thời gian dài. Tài sản cố định
thường được sử dụng nhiều lần, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và chỉ
tăng lên khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm. Qua quá trình sử dụng,
tài sản cố định hao mòn dần dưới hai dạng là hao mòn hữu hình và hao mòn
vô hình. Hao mòn vô hình chủ yếu do tiến bộ khoa học công nghệ mới và
năng suất lao động xã hội tăng lên quyết định. Hao mòn hữu hình phụ thuộc
vào mức độ sử dụng khẩn trương tài sản cố định và các điều kiện ảnh hưởng
tới độ bền lâu của tài sản cố định như chế độ quản lý sử dụng, bảo dưỡng,
điều kiện môi trường... Những chỉ dẫn trên đưa ra tới một góc nhìn về đặc
tính chuyển đổi thành tiền chậm chạp của tài sản cố định. Tuy thế, các tài sản
cố định có giá trị cao có thể có giá trị thế chấp đối với ngân hàng khi vay vốn.

b) Hình thái biểu hiện của vốn cố định:
Cơ cấu vốn cố định là tỉ lệ phần trăm của từng nhóm vốn cố định chiếm
trong tổng số vốn cố định. Nghiên cứu cơ cấu vốn cố định có một ý nghĩa
quan trọng là cho phép đánh giá việc đầu tư có đúng đắn hay không và cho
phép xác định hướng đầu tư vốn cố định trong thời gian tới. Để đạt được ý
nghĩa đúng đắn đó, khi nghiên cứu cơ cấu vốn cố định phải nghiên cứu trên
hai giác độ: Nội dung cấu thành và mối quan hệ tỉ lệ trong mỗi bộ phận so
với toàn bộ. Vấn đề cơ bản trong việc nghiên cứu này phải là xây dựng được
một cơ cấu hợp lý phù hợp với trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, đặc
điểm kinh tế kỹ thuật của sản xuất, trình độ quản lý, để các nguồn vốn được
sử dụng hợp lý và có hiệu quả nhất. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ trọng trong cơ
6
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
cấu vốn là chỉ tiêu động. Điều này đòi hỏi cán bộ quản lý phải không ngừng
nghiên cứu tìm tòi để có được cơ cấu tối ưu.
Theo chế độ hiện hành Vốn cố định của doanh nghiệp được biểu hiện
thành hình thái giá trị của các loại tài sản cố định sau đây đang dùng trong
quá trình sản xuất:
1) Nhà cửa được xây dựng cho các phân xưởng sản xuất và quản lý
2) Vật kiến trúc để phục vụ sản xuất và quản lý
3) Thiết bị động lực
4) Hệ thống truyền dẫn
5) Máy móc, thiết bị sản xuất
6) Dụng cụ làm việc, đo lường, thí nghiệm
7) Thiết bị và phương tiện vận tải

8) Dụng cụ quản lý
9) Tài sản cố định khác dùng vào sản xuất công nghiệp
Trên cơ sở các hình thái giá trị của tài sản cố định như trên chỉ ra rõ ràng
cơ cấu vốn cố định chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Quan tâm nhất là
đặc điểm về kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp, sự tiến bộ kỹ thuật, mức
độ hoàn thiện của tổ chức sản xuất, điều kiện địa lý tự nhiên, sự phân bổ
sản xuất. Vì vậy khi nghiên cứu để xây dựng và cải tiến cơ cấu Vốn cố
định hợp lý cần chú ý xem xét tác động ảnh hưởng của các nhân tố này.
Trong kết quả của sự phân tích, đặc biệt chú ý tới mối quan hệ giữa các bộ
phận Vốn cố định được biểu hiện bằng máy móc thiết bị và bộ phận Vốn
cố định được biểu hiện bằng nhà xưởng vật kiến trúc phục vụ sản xuất.
3.1.2. Vốn lưu động.
a) Khái niệm và đặc điểm của vốn lưu động.
Vốn lưu động và biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu
thông. Đó là số vốn doanh nghiệp đầu tư để dự trữ vật tư, để chi phí cho quá
trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chi phí cho hoạt động quản lý của doanh
nghiệp. Hoàn toàn khách quan không như vốn cố định, Vốn lưu động tham
gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất kinh doanh, chuyển qua nhiều hình thái
giá trị khác nhau như tiền tệ, đối tượng lao động, sản phẩm dở dang, bán
thành phẩm, thành phẩm và trở lại hình thái tiền tệ ban đầu sau khi tiêu thụ
sản phẩm. Như vậy vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định, quá
trình vận động của Vốn lưu động thể hiện dưới hai hình thái:
- Hình thái hiện vật: Đó là toàn bộ nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang,
bán thành phẩm, thành phẩm.
7
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23



Kinh tế học phát triển
- Hình thái giá trị: Là toàn bộ giá trị bằng tiền của nguyên vật liệu, bán
thành phẩm, thành phẩm, giá trị tăng thêm do việc sử dụng lao động sống
trong quá trình sản xuất và những chi phí bằng tiền trong lĩnh vực lưu thông.
Sự lưu thông về mặt hiện vật và giá trị của Vốn lưu động ở các doanh
nghiệp sản xuất có thể biểu diễn bằng công thức chung:
T - H - SX - H' - T'
Trong quá trình vận động, đầu tiên Vốn lưu động biểu hiện dưới hình
thức tiền tệ và khi kết thúc cũng lại bằng hình thức tiền tệ. Một vòng khép kín
đó gợi mở cho chúng ta thấy hàng hoá được mua vào để doanh nghiệp sản
xuất sau đó đem bán ra, việc bán được hàng tức là được khách hàng chấp
nhận và doanh nghiệp nhận được tiền doanh thu bán hàng và dịch vụ cuối
cùng. Từ các kết quả đó giúp ta sáng taọ ra một cách thức quản lý vốn lưu
động tối ưu và đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
b) Hình thái biểu hiện của vốn lưu động:
Xác định cơ cấu Vốn lưu động hợp lý có ý nghĩa tích cực trong công tác
sử dụng hiệu quả vốn lưu động. Nó đáp ứng yêu cầu vốn cho từng khâu, từng
bộ phận, đảm bảo việc sử dụng tiết kiệm hợp lý Vốn lưu động. Trên cơ sở đó
đáp ứng được phần nào yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong điều kiện thiếu
vốn cho sản xuất.
Cơ cấu Vốn lưu động là quan hệ tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm đó so
với toàn bộ giá trị Vốn lưu động. Tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm trong
toàn bộ Vốn lưu động hợp lý thì chỉ hợp lý tại mỗi thời điểm naò đó và tính
hợp lý chỉ mang tính nhất thời. Vì vậy trong quản lý phải thường xuyên
nghiên cứu xây dựng một cơ cấu hợp lý đảm bảo độ "khoẻ mạnh" đáp ứng
yêu cầu sản xuất kinh doanh từng thời kỳ. Để thuận lợi cho việc quản lý và
xây dựng cơ cấu vốn như thế, người ta thường có sự phân loại theo các quan
điểm tiếp cận khác nhau:
- Tiếp cận theo quá trình tuần hoàn và luân chuyển, Vốn lưu động chia thành
3 loại:

+ Vốn trong dự trữ: Là bộ phận vốn dùng để mua nguyên vật liệu, phụ
tùng thay thế, dự trữ... chuẩn bị đưa vào sản xuất.
+ Vốn trong sản xuất: Là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản
xuất như: sản phẩm dở dang, chi phí phân bổ, bán thành phẩm, tự chế tự
dùng.
+ Vốn trong lưu thông: Là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu
thông như tiền mặt, thành phẩm.
- Tiếp cận về mặt kế hoạch hoá, Vốn lưu động được chia thành Vốn lưu
động không định mức và Vốn lưu động định mức.
8
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
+ Vốn lưu động định mức là số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, nó bao gồm vốn dự trữ vật tư hàng
hoá và vốn phi hàng hoá.
+ Vốn lưu động không định mức là số vốn lưu động có thể phát sinh
trong quá trình kinh doanh và trong sản xuất, dịch vụ phụ thuộc nhưng không
đủ căn cứ để tính toán được.
3.2. Phân loại vốn theo nguồn hình thành
3.2.1. Vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu là số vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư góp
vốn và doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán, do vậy vốn chủ sở hữu
không phải là một khoản nợ.
* Vốn pháp định:
Vốn pháp định là số vốn tối tiểu phải có để thành lập doanh nghiệp
do pháp luật quy định đối với từng ngành nghề. Đối với doanh nghiệp Nhà

nước, nguồn vốn này do ngân sách nhà nước cấp.
* Vốn tự bổ sung:
Thực chất nguồn vốn này là số lợi nhuận chưa phân phối ( lợi
nhuận lưu giữ ) và các khoản trích hàng năm của doanh nghiệp như các quỹ
xí nghiệp (quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi …)
* Vốn chủ sở hữu khác:
Thuộc nguồn này gồm khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản,
do chênh lệch tỷ giá ngoại tệ, do được ngân sách cấp kinh phí, do các đơn vị
phụ thuộc nộp kinh phí quản lý và vốn chuyên dùng xây dựng cơ bản.
3.2.2. Vốn huy động của doanh nghiệp.
Đối với một doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường,
vốn chủ sở hữu có vai trò rất quan trọng nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong
tổng nguồn vốn. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp phải tăng cường huy động các nguồn vốn khác dưới hình thức vay nợ,
liên doanh liên kết, phát hành trái phiếu và các hình thức khác.
* Vốn vay.
Doanh nghiệp có thể vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các cá
nhân, đơn vị kinh tế để tạo lập hoặc tăng thêm nguồn vốn.
- Vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng rất quan trọng đối với
các doanh nghiệp. Nguồn vốn này đáp ứng đúng thời điểm các khoản tín
dụng ngắn hạn hoặc dài hạn tuỳ theo nhu cầu của doanh nghiệp trên cơ sở các
hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và Doanh nghiệp,
9
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
- Vốn vay trên thị trường chứng khoán. Tại những nền kinh tế có thị

trường chứng khoán phát triển, vay vốn trên thị trường chứng khoán là một
hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể phát hành
trái phiếu, đây là một công cụ tài chính quan trọng dễ sử dụng vào mục đích
vay dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh. Việc phát hành trái
phiếu cho phép doanh nghiệp có thể thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong xã
hội để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.
* Vốn liên doanh liên kết.
Doanh nghiệp có thể kinh doanh, liên kết, hợp tác với các doanh
nghiệp khác để huy động thực hiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đây là một hình thức huy động vốn quan trọng vì hoạt động tham gia góp
vốn liên doanh, liên kết gắn liền với việc chuyển giao công nghệ thiết bị giữa
các bên tham gia nhằm đổi mới sản phẩm, khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp cũng có thể tiếp nhận máy móc, thiết bị nếu hợp đồng
liên doanh quy định góp vốn bằng máy móc thiết bị.
* Vốn tín dụng thương mại .
Tín dụng thương mại là các khoản mua chịu từ người cung cấp hoặc
ứng trước của khách hàng mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Tín dụng
thương mại luôn gắn với một luồng hàng hoá dịch vụ cụ thể, gắn với một
quan hệ thanh toán cụ thể nên nó chịu tác động của cơ chế thanh toán, của
chính sách tín dụng khách hàng mà doanh nghiệp được hưởng. Đây là
phương thức tài trợ tiện lợi, linh hoạt trong kinh doanh và nó còn tạo khả
năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên
các khoản tín dụng thương mại thường có thời hạn ngắn nhưng nếu doanh
nghiệp biết quản lý một cách khoa học nó có thể đáp ứng phần nào nhu cầu
vốn lưu động cho doanh nghiệp.
* Vốn tín dụng thuê mua .
Trong hoạt động kinh doanh, tín dụng thuê mua là một phương thức
giúp cho các doanh nghiệp thiếu vốn vẫn có được tài sản cần thiết sử dụng
vào hoạt động kinh doanh của mình. Đây là phương thức tài trợ thông qua
hợp đồng thuê giữa người thuê và người cho thuê. Người thuê được sử dụng

tài sản và phải trả tiền thuê cho người cho thuê theo thời hạn mà hai bên thoả
thuận, người cho thuê là người sở hữu tài sản.
Tín dụng thuê mua có hai phương thức giao dịch chủ yếu là thuê vận
hành và thuê tài chính:
* Thuê vận hành:
Phương thức thuê vận hành ( thuê hoạt động ) là một hình thức thuê
ngắn hạn tài sản. Hình thức thuê này có đặc trưng chủ yếu sau:

10
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
- Thời hạn thuê thường rất ngắn so với toàn bộ thời gian tồn tại hữu
ích của tài sản, điều kiện chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước trong thời
gian ngắn.
- Người thuê chỉ phải trả tiền thuê theo thoả thuận, người cho thuê
phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo trì, bảo hiểm, thuế
tài sản, … cùng với mọi rủi ro về hao mòn vô hình của tài sản.
Hình thức này hoàn toàn phù hợp đối với những hoạt động có tính
chất thời vụ và nó đem lại cho bên thuê thuận lợi là không cần phải phản ánh
tài sản loại này vào sổ sách kế toán.
* Thuê tài chính:
Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung hạn và dài
hạn theo hợp đồng. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài
sản, thiết bị mà mà người cần thuê và đã thương lượng từ trước các điều kiện
mua tài sản từ người cho thuê. Thuê tài chính có hai đặc trưng sau:
- Thời hạn thuê tài sản của bên thuê phải chiếm phần lớn hữu ích

của tài sản và hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê phải đủ để bù
đắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng.
- Ngoài khoản tiền thuê tài sản phải trả cho bên thuê, các loại chi
phí bảo dưỡng vận hành, phí bảo hiểm, thuế tài sản, cũng như các rủi ro khác
đối với tài sản do bên thuê phải chịu cũng tương tự như tài sản Công ty.
Trên đây là cách phân loại vốn theo nguồn hình thành, nó là cơ sở để
doanh nghiệp lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp tuỳ theo loại hình sở hữu,
ngành nghề kinh doanh, quy mô trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật
cũng như chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp. Bên
cạnh đó, đối với việc quản lý vốn ở các doanh nghiệp trọng tâm cần đề cập là
hoạt động luân chuyển của vốn, sự ảnh hưởng qua lại của các hình thái khác
nhau của tài sản và hiệu quả quay vòng vốn. Vốn cần được xem xét dưới
trạng thái động với quan điểm hiệu quả.
B. Vốn đầu tư.
1. Khái niệm.
Là nguồn lực tích luỹ được của xã hội, cơ sở sản xất kinh doanh
dịch vụ, tiết kiệm của dân, huy động từ nước ngoài được biểu hiện dưới các
dạng tiền tệ các loại hoặc hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình và hàng hoá đặc
biệt khác.
2. Bản chất của nguồn vốn đầu tư
Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay
tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất
xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác - Lênin
11
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển

và kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “Của cải của dân tộc” (1776), Adam Smith, một đại
diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã cho rằng: “Tiết kiệm là
nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho
quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có
tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”.
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ
giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề trực tiếp liên quan
đến tích luỹ, C. Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế hai khu vực,
khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c + v + m) trong đó c là
phần tiêu hao vật chất, (v + m) là phần giá trị mới tạo ra. Khi đó, điều kiện để
đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm
bảo (v + m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực
II. Tức là:
(v + m)I > cII
Hay nói cách khác:
(c + v + m)I > cII + cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ
bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà còn
phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất
tiếp theo.
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)2
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị
sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn,
nền kinh tế mới có thể dành một phần để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô
vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng
quy mô đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở

khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai
khu vực. Mặt khác phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu
vực II, thực hành tiết kiệm tư liệu tiêu dùng ở cả hai khu vực.
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của
C.Mác, con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất
mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm cả ở trong sản
xuất và tiêu dùng. Hay nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản
xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích
luỹ của nền kinh tế.
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được
12
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng
“Lý thuyết tổng quan về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình,
Jonh Maynard Keynes đã chứng minh được rằng: Đầu tư chính bằng
phần thu nhập mà không được chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông
cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với
tiêu dùng.
Tức là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập - Tiêu dùng Như vậy:
Đầu tư = Tiết kiệm
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát
từ tính song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất
và bên kia là người tiêu dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch

giữa doanh thu từ bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ và tổng chi
phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải được bán cho người
tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tư hiện hành
chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới trong kỳ. Vì vậy,
xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà người ta
gọi là tiết kiệm không thể khác vơí phần gia tăng năng lực sản xuất
mà người ta gọi là đầu tư.
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh
tế đóng. Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm
của khu vực tư nhân và tiết kiệm của chính phủ. Điểm cần lưu ý là
tiết kiệm và đầu tư xem xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế không
nhất thiết được tiến hành bởi cùng một cá nhân hay doanh nghiệp
nào. Có thể có cá nhân, doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó có
tích luỹ nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi đó, có một
số cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích luỹ
chưa đầy đủ. Khi đó thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề
bằng việc điều tiết nguồn vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư
thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà đầu tư có thể
phát hành cổ phiếu, trái phiếu (trên cơ sở một số điều kiện nhất định,
theo quy trình nhất định) để huy động vốn thực hiện một dự án nào
đó từ các doanh nghiệp và các hộ gia đình - người có vốn dư thừa.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền
kinh tế không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền
kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có
thể được chuyển sang cho nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại,
vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể nhỏ hơn nhu cầu đầu tư, khi đó
nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong trường hợp
13
Học Viên: Nguyễn Quang Linh


Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài
khoản vãng lai.
CA = S - I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (current account)
Như vậy, trong nền kinh tế mở nếu như nhu cầu đầu tư lớn
hơn tích luỹ nội bộ nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì
có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi đó đầu tư nước ngoài
hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan
trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu
đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì
quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài
vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
3. Phân loại và bản chất nguồn vốn đầu tư
3.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước.
Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế
bao gồm tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp
và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã
hội.
Đây là nguồn vốn cơ bản, có vai trò quyết định chi phối mọi hoạt động
đầu tư phát triển trong nước. Theo lí luận cũng như thực tiễn đã chứng minh
bất kì nước nào cũng phải sử dụng lực lượng nội bộ là chính. Sự chi viện bổ
sung từ bên ngoài chỉ mang tính chất tạm thời và chỉ khi sử dụng nguồn vốn
trong nước có hiểu quả thì mới nâng cao được vai trò của nguồn bên ngoài
này.
• Nguồn vốn nhà nước.
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước,

nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát
triển của doanh nghiệp nhà nước.
- Nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Thường
chiếm một tỉ trọng nhất định trong toàn bộ khối lượng đầu tư, giữ một vai trò
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án đầu tư vào lĩnh vực cần tham gia của nhà
nước. Đây là nguồn cung quan trọng để xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng, hình
thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi
trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế. Nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể
được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, khi các doanh
nghiệp gặp khó khăn cần sự trợ giúp của nhà nước.
- Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
14
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ
chuyển từ hình thức cấp phát vốn ngân sách sang hình thức tín dụng đối với
các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Đây là hình thức cho vay ưu đãi
với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường tín dụng nên nhà nước phải dành ra
một phần ngân sách để trợ cấp bù lãi suất. Có tác dụng giảm chi ngân sách
nhà nước và nâng cao trách nhiệm của người sử dụng vốn. Đồng thời có vai
trò đáng kể trong việc phục vụ công tác quản lí và điều tiết kinh tế vĩ mô. Do
mang tính ưu đãi nên nhà nước chủ động định hướng dòng chảy của nguồn

vốn này theo chiến lược quy hoạch đã vạch sẵn để thực hiện các mục tiêu xã
hội như xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế …
- Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước.
Nguồn vốn này chủ yếu từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại
của doanh nghiệp nhà nước, thường chiếm 14 – 15% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội, chủ yếu là đầu tư theo chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện
đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước
là thành phần chủ đạo của nền kinh tế và nắm giữ một lượng lớn nguồn vốn
của đất nước. Hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước là hoạt động then
chốt của nền kinh tế nó và góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất,
huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết
định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu
ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc
làm, xoá đói giảm nghèo, chống lạm phát...
• Nguồn vốn của dân cư và khu vực tư nhân.
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của khu vực dân
cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Trong giai
đoạn 2001 – 2005 vốn đầu tư của dân cư va khu vực tư nhân chiếm khoảng
26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng
nguồn vốn huy động được của hệ thông ngân hàng. Tiềm năng vốn của khu
vực này là rất lớn, nếu có thể huy động triệt để thì sẽ tạo ra được số vốn
khổng lồ phục vụ cho nhu cầu đầu tư của cả nền kinh tế. Có vai trò đặc biệt
quan trọng trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang
ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch
vụ và vận tải trên các địa phương. Đây là khhu vực năng động, nhạy bén, tạo
nhiều công ăn việc làm, giải quyết vấn đề thất nghiệp, thất nghiệp thời vụ tại
các vung nông thôn, phát huy được các lợi thế của địa phương.
3.2.Nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy của cá nhân, các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động

vào quá trình đầu tư của nước sở tại.
Đây là nguồn vốn quan trọng mà mỗi quốc gia đều quan tâm, nó có thể tạo ra
cú hích cho sự phát triển. Nó bổ sung vốn cho đầu tư khi nguồn vốn trong
15
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
nước không đáp ứng đủ nhu cầu, nhất là đối với các nước đang phát triển khi
nội lực chỉ mới đáp ứng hơn 50% tổng nhu cầu về vốn.
• Nguồn vốn ODA .
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các
chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát
triển. Với các điều kiện ưu đãi hấp dẫn về lãi suất thấp, thời hạn cho vay dài,
khối lượng cho vay lớn và đặc biệt bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không
hoàn lại đạt ít nhất 25%.
Nguồn vốn này được cấp qua các cơ quan chính thức của chính phủ nước
nhận viện trợ, và để được nhận ODA thì nước nhận đầu tư phải có nguồn vốn
đối ứng tương ứng. Nguồn vốn ODA mang mục đích nhân đạo, tăng cường
mối quan hệ giữa các nước nên không cấp cho dự án mang tích thương mại.
Tuy có nhiều ưu đãi song đi kèm với loại vốn này thường là các điều
kiện và ràng buộc bất lợi cho nước nhận viện trợ. Các nước khi đi viện trợ
vốn ODA đều gắn với nhũng lợi ích và chiến lược lâu dài để mở rộng thi
trường, mở rộng các quan hệ có lợi cho mình, gây ra sự lệ thuộc về quân sự,
chính trị, … các nước viện trợ ODA thường yêu cầu các nước nhậ viện trợ
phải dỡ bỏ dần hang rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ,
giảm thuế nhập khẩu. Hơn nữa các dự án ODA thường đòi hỏi phải do các
công ty của nước viện trợ trực tiếp thực hiện dự án, với giá cả đắt hơn hẳn so

với giá cả chung của thị trường, bỏi vậy cho nên thường hơn 90% nguồn vốn
ODA lại chảy về nước viện trợ qua các công ty này. Bởi vây nhiều lúc bản
chất của viện trợ ODA là các nước viện trợ tạo điều kiện cho các công ty của
nước mình có các hợp đồng béo bở, bởi vậy thực sự khi đi viện trợ họ lại
được nhiều hơn mất. Bởi vậy khi đàm phán xin viện trợ cần cố gắng hạn chế
đến mức thấp nhất bất lợi này.
• Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
Đây là nguồn vốn vay từ ngân hàng thương mại quốc tế với lãi suất
tương đối cao, có thời gian trả nợ chính xác và thủ tục cho vay khắt khe. Tuy
nhiên nó không có các ràng buộc về chính trị xã hội. Đây là nguồn vốn cho
vay với lãi suất thương mại nên nếu các nước tiếp nhận không sử dụng hiệu
quả nguồn vốn này thì có nguy cơ dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả,
dẫn đến nguy cơ vỡ nợ. Đây là những trở ngại không nhỏ đối với các nước
nghèo khi hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Bởi vậy nguồn vốn này thường
được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu vốn của các hoạt động xuất nhập
khẩu thường là ngắn hạn.
• Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước này đến để đầu
tư cho sản xuất kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận ở một
nước khác. Hình thức này không làm phát sinh nợ ở nước nhận đầu tư bởi vì
nhà đầu tư thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư thì họ sẽ thu được lợi nhuận
16
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
khi kết quả đầu tư đi vào hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
thường mang theo tất cả tài nguyên kinh doanh như phương pháp quản lí, mô

hình hoạt động, công nghệ máy móc, … nên có thể thúc đẩy phát triển ngành
nghề mới, như ngành công nghệ cao hay ngành cần nhiều vốn. Bởi vậy nguồn
vốn này có tác động cực kì lớn tới quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đấy
nước, chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tốc độ tăng trưởng cao và tăng thu cho ngân
sách ở nước nhận đầu tư.
Nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế.
Đây là nguồn vốn được huy động từ thị trường chứng khoán trên thế giới
bằng việc bán các chứng khoán của chính phủ và các công ty trong nước ra
nước ngoài.
Có thể huy động vốn với số lượng lớn, trong thời gian dài để đáp ứng
nhu cầu về vốn cho nến kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về
tín dụng, quan hệ cho vay để gây sức ép với nước huy động vốn trong các
quan hệ khác.
C. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp và phát triển kinh tế.
1. Vốn đối với phát triển kinh tế
Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá có tính kế hoạch nhiều
thành phần , định hướng XHCX nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất của
xã hội, khai thác và sử dụng có tiềm năng vốn của đất nước đã đặt nền kinh tế
nước ta đến một loạt các mâu thuẫn lớn cần giải quyết cấp bách.Trong đó có
mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư và nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu ấy. Việc đánh
giá đúng nguồn vốn và việc sử dụng nó trong thời gian vừa qua nó cho chúng
ta những cơ sở để tạo ra chiến lược tạo vốn nhằm khai thác mọi tiềm năng về
vốn và định hướng chính sách sử dụng nguồn vốn có hiệu quả
- Đối với việc huy động vồn trong nước thì đây chính là nguồn vốn
đóng vai trò quan trọng, quyết định. Trong khi đất nước nghèo nàn, khả năng
tích luỹ còn thấp thì tiết kiệm những phần chi tiêu không mang lại hiệu quả
thì nó không những là quốc sách mà chúng ta cần có các giải pháp để hoàn
thiện dần; Nhà nước , các doanh nghiệp, hộ gia dình, các tổ chức tài chính…
Phải gắn tiết kiệm với tích luỹ trong sự tác động của các các
nhân tố kích thích về lợi ích kinh tế đã huy động tối đa các nguồn vốn trong

nước.
- Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn vốn trong các khu
vực: Như ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà nước và
các tổ chức tín dụng tư nhân.
- Vốn đầu tư từ khu vực nhà giữ vai trò quan trọng trong việc đầu tư vào
khu vực doanh nghiệp nhà nước để phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội, các
công trình công cộng, hỗ trợ các vùng chậm phát triển, vùng sâu, vùng xa, hải
đảo...
17
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
Vốn đầu tư của tư nhân có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát triển
kinh tế nông nghiệp- nông thôn,mở mang các ngành nghề ở nông hôn phát triển,
tiểu thủ công nghiệp, vận tải, dịch vụ và thương nghiệp.
Nguồn vốn trong nước tiếp tục tăng cả về tốc độ tuyệt đối và tốc độ
tương đối trong GDP từ 10,1% năm 1991 lên tới 19% năm 1995, sau đó ổn định
ở mức 16-17% GDP và là động lực chủ yếu gia tăng tổng nguồn vốn đầu tư
toàn xã hội mà kết quả cuả nó là sự phát triển của nền kinh tế. Tổng sản phẩm
trong nước thời kỳ 1991- 1995 tăng lên với tốc độ 8,5% trong đó nông nghiệp
và thuỷ sản tăng 4,4% , công nghiệp và dịch vụ tăng 13,2%, dịch vụ tăng
8,6%. Trong tương lai cần tiến hành làm thông thoáng thị trường vốn, tích cực
hình thành thị trường chứng khoán để đầu tư. Nguồn vốn trong dân cư còn rất
bé,vốn
nhàn
rỗi
trong

dân

không
huy
động
được, theo kết quả đIều tra mức sống gần đây của uỷ ban nhà nước và tổng cục
thống kê cho thấy số tiền của người dân được tích luỹ dưới nhiều hình thức.
Vì vậy việc bán tín phiếu với lãi xuất thích hợp đang thu hút nhanh
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Và gần đây chính phủ cho phép thành lập
quỹ tín dụng nhân nhân, cũng như ngân hàng dành cho người nghèo để hỗ trợ
cho các doanh nghiệp còn nhiều khó khăn.
2. Vốn đối với doanh nghiệp
Để tiến hành một chu kỳ sản xuất, kinh doanh thì đều cần có vốn. Vậy
vốn là gì? Tại sao nó lại có vai trò quan trọng như thế đối với bất kỳ các
doanh nghiệp hay một tổ chức cá nhân nào. Với tầm quan trọng như vậy, việc
tìm hiểu và nghiên cứu cần phải bắt đầu từ việc làm rõ khái niệm cơ bản vốn
là gì? vai trò của vốn đối với doanh nghiệp.
Vốn được thể hiện dưới hình tháI vật chấtcủa toàn bộ tư liệu sản xuất kết
hợp với sức lao động trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Do vậy, nó là
nhân tố trực tiếp tác động đến kết quả sản xuất kinh doanh.
Xét về hình thái vật chất của vốn sản xuất gồm hai yếu tố cơ bản của
qúa trình sản xuất là tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Chu trình vận động của vốn trong doanh nghiệp :
Trong doanh nghiệp vốn vận động theo quy trình của qúa trình
tái sản xuất của doanh nghiệp như sau:

18
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23



Kinh tế học phát triển
Sơ đồ: Quy trình vận động của vốn trong doanh nghiệp
Mua

Tiền

Công cụ lao động và
sức lao động

Nguyên vật
liệu

sản xuất
chế biến

Bán

hàng
hoá

Tiền

Các doanh nghiệp dù hoạt động theo mô hình nào, to hay nhỏ thì một
nhu cầu không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp đó là vốn. Nó là tiền
đề cho quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp.
Về mặt pháp lý: Mỗi doanh nghiệp khi muốn có giấy phép để hoạt
động sản xuất kinh doanh thì cần phải chứng minh được một trong các yếu tố
cơ bản đó là vốn ( điều này đã được nhà nước quy định cho từng loại hình

doanh nghiệp) khi đó thì địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập.
Ngược lại, thì doanh nghiệp sẽ không đủ điều kiện để hoạt động. Tuy nhiên
không phải khi đã có được giấy phép kinh doanh thì doanh nghiệp muốn kinh
doanh như thế nào cũng được mà trong thời gian đó thì doanh nghiệp luôn
phải đáp ứng được mọi nhu cầu về vốn theo quy định nếu không thì doanh
nghiệp thu hồi giấy phép hay tuyên bố giải thể, phá sản, sát nhập... Như vậy
có thể coi vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong các vấn đề của doanh
nghiệp nhằm đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của doanh nghiệp trước
pháp luật.
Về mặt kinh tế: Khi các doanh nghiệp đảm bảo nhu cầu về vốn thì
doanh nghiệp đó có khả năng chủ động trong các hình thức kinh doanh, thay
đổi công nghệ, mua sắm trang thiết bị hiện đại phục vụ cho kinh doanh, điều
này khá quan trọng vì nó sẽ giúp doanh nghiệp hạ được giá thành sản phẩm,
đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong xã hội.
Có thể nhận thấy được vai trò quan trọng của vốn đối với các doanh
nghiệp. Nhờ có nó mà các doanh nghiệp có thể thay đổi được trang thiết bị,
mở rộng quy mô sản xuất... trong thời gian ngắn. Nó mang lại cho doanh
nghiệp được nhiều lợi thế như; cải tiến được mẫu mã, giảm giá thành sản
phẩm, giảm được sức lao động cho nhân công...mà vẫn đáp ứng được chất
lượng của sản phẩm và nhu cầu của thị trường điều mà các doanh nghiệp
luôn mong muốn. Nhờ đó mà các doanh nghiệp sẽ đáp ứng được nhu cầu của
thị trường, nâng cao uy tín của mình trên thương trường mà vẫn mang lại
hiệu quả kinh tế cho các nhà đầu tư.

19
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23



Kinh tế học phát triển
3. Vai trò của huy động vốn đối với sự phát triển kinh tế
Với nền kinh tế như Việt Nam hiện nay,việc có vốn đang là một nhu cầu
cấp thiết. Để trở thành một nước phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới.
Con đường ngắn nhất chỉ có thể là làm cách nào để huy động được vốn
đầu tư nhằm cung cấp cho nền kinh tế.Trước đây khi còn thực hiện cơ chế kinh
tế kế hoạch hoá tập trung nhà nước nắm toàn quyền quản lý cũng như kiểm
soát thì việc huy động vốn là rất khó khăn. Chủ yếu huy động vốn qua các
kênh ở trong nước hoặc không thì cũng là những viện trợ không hoàn laị của
các chính phủ các nước khác tài trợ cho Việt Nam, hoặc kênh huy động khác là
vay nợ nước ngoài nhưng nguồn vốn này đã bộc lộ hạn chế lớn đó là việc nợ
nước ngoài quá nhiều. Khi nhà nước đổi mới cơ chế kinh tế năm 1986 từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì việc
huy động vốn trở nên dễ dàng hơn. Đã có hàng trăm các doanh nghiệp nước
ngoài đã đến Việt Nam đầu tư phát triển kinh tế. Có thể nói Việt nam rất vui
mừng khi được đón tiếp và hoan nghênh các nhà đầu tư. Một lý do rất đơn
giản cho việc đó là vì Việt Nam rất coi trọng những nguồn vốn này. Có vốn
đầu tư để phát triển Việt Nam sẽ nhanh chóng dùng nó để xây dựng cơ sở hạ
tầng, phát triển kinh tế và từ đó có cơ sở để phát triển kinh tế nhanh chóng
sánh vai với khu vực và trên thế giới. Như vậy vốn có thể coi như một yếu tố
không thể thiếu được đối với sự phát triển của một đất nước.

20
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
CHƯƠNG II. SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG

VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1. Các khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh tế.
1.1. Các khái niệm.
Từ trước đến nay, các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau
về hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm sản
xuất ra tức là giá trị của nó hoặc doanh thu là lợi nhuận thu được trong qúa
trình sản xuất kinh doanh.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế phản ánh qua
nhịp độ tăng lên của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này là phiếm diện chỉ
đứng trên mức độ biến động thời gian.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và tăng kết
quả. Đây chỉ là biểu hiện của bản chất chứ không phải là khái niệm về hiệu
quả kinh tế.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu được xác định bằng tỷ lệ so
sánh giữa kết quả và chi phí.Định nghĩa như vậy chỉ nói về cách xác lập các
chỉ tiêu, chứ không toát lên ý niệm của vấn đề.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức tăng kết quả của sản xuất kinh
doanh trên mỗi lao động hay mức danh lợi của vốn sản xuất kinh doanh.
Quan điểm này muốn quy hiệu quả về một chỉ tiêu tổng hợp cụ thể nào đó.
Bởi vậy cần một khái niệm bao quát hơn.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế theo chiều sâu
phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ chi phí các nhuồn lực
đó trong qúa trình sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước
đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ
bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng
thời kỳ. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được xác định bằng cách so sánh kết
quả đầu ra với chi phí đầu vào.
Định mức vốn lưu động
cho thành phẩm


=

Tổng chi phí đầu vào
Tổng kết quả đầu ra

Hiệu quả sử dụng vốn là một phạm trù kinh tế thể hiện trình độ sử
dụng vốn của doanh nghiệp, phản ánh trình độ khai thác và sử dụng các
nguồn vốn trong doanh nghiệp nhằm đạt kết quả cao nhất trong qúa trình sản
xuất kinh doanh với chi phí thấp nhất.
1.2. Bản chất và hiệu quả kinh tế.
21
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
Bản chất của hiệu quả kinh tế là nâng cao năng suất lao động xã hội và
tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có liên quan mật thiết của vấn đề
hiệu quả kinh tế, gắn liền với hai quy luật tương ứng nền sản xuất xã hội là
quy luật tăng năng suất lao động và quy luật tiết kiệm thời gian. Chính việc
khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả
mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đặt ra yêu cầu phải khai thác tận dụng
và triệt để các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh các doanh nghiệp
buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực của các yếu tố
sản xuất và tiết kiệm chi phí.
Vì vậy yêu cầu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết
quả tối đa với chi phí tối thiểu hay nói chính xác hơn là đạt được kết quả tối
đa với chi phí nhất định hay ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối

thiểu. Chi phí ở đây được theo nghĩa rộng: Chi phí tạo ra nguồn lực và chi phí
sử dụng nguồn lực; đồng thời bao gồm cả chi phí cơ hội.
2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh
nghiệp. Hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải
luôn đề cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn tài chính. Đây là vấn đề có ảnh
hưởng trực tiếp đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn có hiệu
quả sẽ giúp cho doanh nghiệp nâng cao khả năng huy động các nguồn vốn tài
trợ cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đảm bảo. Điều này
sẽ khiến cho doanh nghiệp có đủ năng lực để phục vụ cho hoạt động kinh
doanh.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ là điều kiện để doanh nghiệp tham
gia vào quá trình cạnh tranh trên thị trường. Để đáp ứng các yêu cầu về sản
lượng cũng như đổi mới các trang thiết bị, máy móc hiện đại...doanh nghiệp
cần có đủ vốn cũng như tiềm lực của mình.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được mục
tiêu tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh
nghiệp như nâng cao uy tín của công ty trên thương trường. Bởi vì trong quá
trình hoạt động kinh doanh thì việc doanh nghiệp có được chỗ đứng trên thị
trường thì sẽ có nhiều khả năng mở rộng hoạt động sản suất kinh doanh cũng
như tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Điều này sẽ làm cho
năng suất của doanh nghiệp sẽ ngày càng được nâng cao và đời sống của cán
bộ công nhân viên sẽ được nâng cao. Điều này sẽ tạo ra động lực cho nền
kinh tế cũng như đóng góp cho nhà nước một khoản ngân sách đáng kể.
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không
những mang lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà
còn ảnh hưởng tới nền kinh tế và xã hội. Do vậy doanh nghiệp luôn phải tìm
ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp.
22

Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
Tóm lại: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một yêu
cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay với bất cứ loại hình doanh nghiệp
nàovì nâng cao hiệu quả sử dụng vốn chính là cơ sở để cho doanh nghiệp
chiến thắng trong cạnh tranh tồn tại và phát triển. Đặc biệt là đối với các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, do tiềm năng về vốn còn hạn chế nhiều,
vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lại càng quan trọng.
3.Thực trạng sử dụng vốn của các doanh nghiệp.
Từ khi luật Doanh nghiệp được ban hành có hiệu lực từ 1/1/2000 đã đơn
giản hoá rất nhiều thủ tục hành chính không cần thiết nhằm tạo thuận lợi
trong việc đăng ký và hoạt động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp,
đồng thời giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp. Đến nay đã được sửa đổi
nhiều lần để phù hợp vói tình hình phát triển kinh tế trong nước và trên thế
giới.
Theo thống kê mới nhất, cả nước hiện có trên 500.000 doanh nghiệp nhỏ và
vừa, chiếm tới 98% số lượng doanh nghiệp với số vốn đăng ký lên gần
2.313.857 tỷ đồng (tương đương 121 tỷ USD).
Ngoài 500.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa, cả nước còn có khoảng 3
triệu hộ kinh doanh thương mại.Dĩ nhiên các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt
Nam có quy mô rất… nhỏ. Doanh nghiệp vừa có số vốn từ 20 - 100 tỷ đồng
(tương đương 1 - 5 triệu USD) sử dụng cao nhất 300 lao động; còn doanh
nghiệp nhỏ chỉ có vốn nhiều nhất 20 tỷ đồng, sử dụng nhiều nhất 200 lao
động… Dù vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt ở khu vực tư nhân có
hiệu quả đầu tư khá cao so với các khu vực khác.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp hơn 40% GDP cả nước. Nếu

tính cả 133.000 HTX, trang trại và các hộ kinh doanh cá thể thì khu vực này
đóng góp vào tăng trưởng tới 60% GDP.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ đóng góp đáng kể vào sự phát
triển kinh tế của đất nước mà còn giúp tạo ra hơn một triệu việc làm mới mỗi
năm cho số lao động phần lớn chưa qua đào tạo; góp phần xóa đói giảm
nghèo, tăng cường an sinh xã hội… Hiện các doanh nghiệp này sử dụng trên
50% lao động xã hội. Sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong 25
năm đổi mới là hết sức to lớn.
Tuy nhiên để tìm ra những giải pháp hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta, chúng tôi xin lấy doanh nghiệp vừa và nhỏ
thuộc thành phần kinh tế thuộc khu vực dân doanh để phân tích vì:
-Các yếu tố sản xuất ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực dân
doanh được sử dụng triệt để và hiệu quả hơn các doanh nghiệp nhà nước.
-Sự tăng trưởng sản xuất ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực dân
doanh có thể đem lại hiệu quả trong việc mở rộng việc làm và tăng thu
23
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
nhập.
4. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn.
4.1. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Để đánh giá trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta xem xét cơ
cấu vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp chỉ ra tỷ trọng vốn
mà doanh nghiệp đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động là bao nhiêu
trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Cơ cấu có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử
dụng vốn vì cơ cấu vốn của doanh nghiệp càng hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả

sử dụng càng hợp lý bấy nhiêu. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp hợp lý tức là
doanh nghiệp đáp ứng đủ nhu cầu về vốn ở các khâu của doanh nghiệp,
không có hiện tượng thiếu vốn hay thừa vốn.
1-1/ Tỷ trọng tài sản cố định :
Tỷ trọng tài
=
sản

Tổng giá trị tài sản cố định
Tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp

Chỉ số này cho biết tổng tài sản của doanh nghiệp thì có bao nhiêu phần
là tài sản cố định. Mức tài sản cố định hợp lý cho từng doanh nghiệp phụ
thuộc vào nghành nghề mà doanh nghiệp đó tham gia vào sản xuất.
1-2/ Tỷ trọng tài sản lưu động :
Tỷ trọng tài
sản

Tổng tài sản lưu động

=

Tổng tài sản của doanh nghiệp

Chỉ số này chỉ ra tỷ trọng của tài sản lưu động trong tổng tài sản của
doanh nghiệp.
1-3/ Vòng quay của vốn:
Vòng quay của vốn

Tổng doanh thu thuần


=

Tổng số vốn

Số vòng quay của vốn
lưu động

=

Tổng doanh thu thuần
Tổng số vốn lưu động

Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chu chuyển của vốn doanh nghiệp. Tốc
độ chu chuyển vốn doanh nghiệp càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn doanh
nghiệp càng cao do chỉ tiêu doanh thu của doanh nghiệp là cao. Ngược lại sẽ
24
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


Kinh tế học phát triển
là có vốn để nếu như các chỉ tiêu về vòng quay của vốn của doanh nghiệp
giảm đi so với kỳ trước.
4.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định.
2-1/ Sức sản xuất của tài sản cố định:
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng nguyên giá tài sản cố định bình quân
được huy động trong sản xuất thì tạo ra bao nhiêu đồng giá trị sản lượng của
doanh nghiệp.Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.

Sức sản xuất của
tài sản cố định

=

Giá trị tổng sản lượng

=

Nguyên giá bình quân tài sản cố định
Giá trị tổng sản lượng ta có thể thay thế bằng doanh thu hay giá trị sản
xuất công nghiệp.
2-2/ Sức sinh lời của của tài sản cố định :
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng nguyên giá trị tài sản cố định dùng
trong sản xuất tạo ra mấy đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
Sức sinh lời của tài
sản cố định

Tổng lợi nhuận

=

Nguyên giá bình quân tài sản cố định

2-3/ Suất hao phí tài sản cố định :
Chỉ tiêu này cho biết cứ để tạo ra một đồng giá trị tổng sản
lượng thì phải có bao nhiêu đồng nguyên giá tài sản cố định. Chỉ tiêu này
càng nhỏ càng tốt và chứng tỏ trong kỳ doanh nghiệp đã sử dụng tiết kiệm tài
sản cố định của doanh nghiệp.
Suất hao phí tài

sản cố định

=

Nguyên giá bình quân tài sản cố định
Giá trị tổng sản lượng

Ngoài ra chúng ta còn nên tham khảo các chỉ tiêu hệ số sử dụng máy
móc thiết bị của doanh nghiệp về công suất (H1) và hệ số sử dụng máy móc
thiết bị về thời gian và hệ số đổi mới tài sản cố định ( H3) khi đánh giá về
hiệu sử dụng vốn cố định.
H1

=

Công suất thực tế của máy móc thiết bị
Công suất thiết kế của máy móc thiết bị

Hệ số này phản ánh năng lực hoạt động thực tế của máy móc trong
doanh nghiệp so với công suất thiết kế của chúng. Hệ số này càng cao chứng
tỏ rằng công ty có những lỗ lực đáng kể trong việc sử dụng máy móc thiết bị,
25
Học Viên: Nguyễn Quang Linh

Quản lý kinh tế kỹ thuật K23


×