Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Nghiên cứu hiệu quả của các hoạt động dạy từ vựng theo hướng giao tiếp đối với sinh viên năm thứ nhất đại học công nghệ thông tin và truyền thông ĐHTN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.15 KB, 51 trang )

1

11

MỤC LỤC

DANH MỤC VIẾT TẮT
ĐH CNTT&TT: Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
EFL: English as Foreign Language
ESP: English for Specific Purpose
M.A: Master
MC: Master of Ceremonies.
TPR: Total Physical Response
VNU: Viet Nam National University

1


2

22

2

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Pages


3

33



3

LIST OF CHARTS
Pages


4

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Người ta nói rằng sống trong kỷ nguyên số này, bạn nên biết tiếng Anh để ít
nhất là cho việc giao tiếp. Bạn nghĩ thế nào về điều này?” Một người bạn của tơi có
lần đã hỏi tơi như vậy, và khơng cần suy nghĩ nhiều, tôi trả lời ngay lập tức “Mình
hồn tồn nhất trí”. Suy nghĩ này chưa bao giờ thay đổi kể từ ngày đó và tiếng Anh
hiện giờ áp đảo các ngôn ngữ khác và được coi như là ngôn ngữ thứ hai ở rất nhiều
quốc gia trên thế giới.
Cũng như các nước đang phát triển khác, nhu cầu sử dụng tiếng Anh đang tăng
lên nhanh chóng trong vài thập kỷ trở lại đây. Thực tế thì, với chính sách mở cửa và
một nền chính trị ổn định, Việt Nam hiện thu hút được ngày càng nhiều các nhà đầu
tư nước ngoài và du khách đến để kinh doanh và nghỉ ngơi. Và hiển nhiên thì tiếng
Anh là sự lựa chọn hàng đầu đối với hầu hết người Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ.
Điều này phản ánh số lượng đông đảo các trung tâm, câu lạc bộ, trường học, Đại học
dạy tiếng Anh…cả của Việt Nam và nước ngoài. Tuy nhiên thực trạng dạy và học
tiếng Anh ở Việt Nam vẫn chưa phải là một bức tranh tươi sáng thậm trí tại các
trường Đại học, cao đẳng…Một trong những ngun nhân chính đó là sự kém hiệu
quả trong phương pháp giảng dạy và lối tư duy sai lầm đối với tiếng Anh. Hãy lấy
việc dạy từ vựng làm ví dụ. Mảng phương pháp giảng dạy này đã bị xem nhẹ và sao
nhãng trong một thời gian dài, trong khi chúng ta đều biết rằng từ vựng là phương
tiện kết nối bốn kỹ năng nghe, nói đọc viết. Nếu khơng có từ vựng chúng ta khơng

thể truyền đạt chính xác những gì chúng ta muốn nói đến người nghe. Là cơng cụ
giao tiếp được sử dụng trên tồn thế giới, việc sử dụng tiếng Anh đòi hỏi người nói
phải biết nhiều từ vựng. Theo các nhà ngơn ngữ học, trong giao tiếp thì từ vựng quan
trọng hơn ngữ pháp. Tuy nhiên nó vẫn chưa có được một vị trí xứng đáng trong lớp
học. “Phần lớn thời gian dạy học được dành cho việc giải thích và đưa ra định
nghĩa. Bảng đen thường được tơ kín bởi một lượng lớn các mục từ vựng, và sinh viên
sưu tầm nhiều trang từ vựng mà họ hiếm khi có cơ hội được luyện tập” (Ruth Gairns
& Stuart Redman 1986).
Tại trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền Thông – Đại học Thái
nguyên – một trung tâm đào tạo các cử nhân, kỹ sư các ngành: công nghệ thông tin


5
và điện tử viễn thơng, tự động hóa, truyền thơng đa phương tiện…thực trạng dạy và
học từ vựng cũng không khác là mấy so với bức tranh chung của việc dạy từ vựng
trên toàn quốc. Sinh viên của trường thường cảm thấy buồn tẻ trong các giờ học từ
vựng bởi họ khơng thay đổi thói quen học như: viết từ vựng lên tờ giấy, cố gắng học
thuộc lòng hoặc học qua cách giải thích của giáo viên. Bên cạnh đó, sinh viên sau khi
ra trường có nhu cầu đọc và giao tiếp bằng tiếng Anh rất lớn. Để làm được điều này,
họ phải có được một lượng từ vựng nhất định và hơn nữa thì, họ phải biết cách sử
dụng đúng trong từng ngữ cảnh cụ thể. Từ đó, chúng ta có thể thấy rằng, để nắm chắc
tiếng Anh, bên cạnh chiến lược học hợp lý của sinh viên thì vai trò và phương pháp
giảng dạy của giáo viên cũng rất quan trọng. Vậy bằng cách nào để dạy từ vựng một
cách hiệu quả?
Trong những năm gần đây, dạy học theo đường hướng giao tiếp được áp dụng
tại việt nam và nó cho thấy sự hiệu quả trong dạy và học ngôn ngữ “dạy học theo
hướng giao tiếp là một xu hướng giúp sinh viên thêm năng động trong các tình huống
thực của cuộc sống. nó khuyến khích sinh viên luyện tập ngôn ngữ mà họ học được
bằng những cách có ý nghĩa” (Nguyen Thi Thu Van & Khuat Thi Thu Nga, 2003 ).
Từ những điều này, câu hỏi "Liệu các hoạt động dạy học theo hướng giao

tiếp trên lớp học hiệu quả hơn những hoạt động truyền thống?" đã đến với tâm trí
của tơi và làm tơi nhớ lại những tiết dạy mà đồng nghiệp của tôi đã áp dụng các hoạt
động dạy từ vựng mang tính giao tiếp. Vào thời điểm đó, nhiều hoạt động giao tiếp
được áp dụng, trong đó liên quan đến cả lớp và thu hút sự chú ý của rất nhiều sinh
viên. "Tại sao chúng ta không áp dụng các hoạt động dạy học theo hướng giao tiếp để
dạy từ vựng? Nó có hiệu quả cho sinh viên của tất cả các cấp độ khơng? Tuy vậy, chỉ
có một vài tiết học trên có phản ánh chính xác hiệu quả của các hoạt động dạy học
theo hướng giao tiếp?" Những suy nghĩ, lo lắng cộng với thực tế giảng dạy và học tập
từ vựng đã thúc đẩy tôi thực hiện nghiên cứu bán thực nghiệm "Nghiên cứu hiệu quả
của các hoạt động dạy từ vựng theo hướng giao tiếp đối với sinh viên năm thứ nhất Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thơng”
2. Mục tiêu của nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu vai trò của từ vựng trong việc tiếp thu một ngoại
ngữ và so sánh giữa các hoạt động dạy học truyền thống và các hoạt động dạy học


6
theo hướng giao tiếp trong lớp học, thông qua nghiên cứu bán thử nghiệm để đánh
giá hiệu quả của một số hoạt động dạy từ vựng theo hướng giao tiếp đối với sinh viên
năm thứ nhất - Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
Như đã đề cập trong phần Lý do chọn đề tài, từ vựng thực sự cần thiết và quan
trọng đối với người học để giao tiếp tốt. Tuy nhiên giá trị của từ vựng chưa được
đánh giá đúng hoặc nó được dạy theo cách truyền thống đơn thuần, khiến cho các giờ
học từ vựng trở nên nhàm chán. Nghiên cứu này cố gắng đánh giá hiệu quả tương đối
của một số hoạt động dạy từ vựng theo hướng giao tiếp và đề xuất một số kiến nghị
cho việc giảng dạy và học tập từ vựng một cách hiệu quả hơn.
Với nghiên cứu này, người viết hy vọng sẽ góp một phần nhỏ để giảng dạy /
học tập từ vựng theo hướng giao tiếp có hiệu quả, từ đó có thể giúp sinh viên ghi nhớ
từ vựng và giúp các giáo viên tìm ra cách thức phù hợp nhất trong việc giảng dạy từ
vựng.

4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này được thiết kế để tìm câu trả lời cho câu hỏi chính " Liệu các
hoạt động dạy từ vựng theo hướng giao tiếp có hiệu quả hơn những hoạt động dạy
học truyền thống?" Do giới hạn của một đề tài nhỏ, trong thời gian hạn chế, chúng tôi
chỉ tiến hành một nghiên cứu bán thử nghiệm kéo dài trong 6 tuần dựa trên ba đơn vị
bài học đầu tiên (Module 1, 2 và 3) của giáo trình New Cutting Edge - Elemetary.
Đối tượng nghiên cứu là 40 sinh viên năm thứ nhất không chuyên và hai giáo viên
tiếng Anh, những người đồng chuẩn bị kế hoạch bài giảng và dạy hai lớp học – một
lớp bán thực nghiệm và và một lớp kiểm sốt. Bản thân người viết khơng tham gia
dạy thực nghiệm để đảm bảo tính khách quan.
5. Câu hỏi nghiên cứu
1. Từ vựng có vai trị gì trong việc dạy và học ngoại ngữ?
2. Liệu các hoạt động dạy từ vựng theo hướng giao tiếp có hiệu quả hơn các
hoạt động dạy từ vựng truyền thống không?
3. Những gợi ý giúp cho việc dạy và học từ vựng hiệu quả hơn?


7
6. Phương pháp nghiên cứu
Trước tiên, phần nền tảng lý luận liên quan đến đề tài được tiến hành thông qua
việc sưu tầm tài liệu, các nguồn thông tin từ internet…Trong Phần 2- Nghiên cứu,
chúng tôi đưa ra một cái nhìn tổng thể về việc dạy và học từ vựng tại Đại học
CNTT&TT trong đó chúng tơi đề cập đến giáo viên, sinh viên, giáo trình …nằm
trong bối cảnh nghiên cứu này.
Với sự cố gắng nhằm tìm ra hiệu quả của các hoạt động dạy từ vựng theo hướng
giao tiếp cho sinh viên năm thứ nhất không chuyên, một nghiên cứu bán thử nghiệm
được tiến hành. Nghiên cứu này chỉ dành cho sinh viên năm thứ nhất không chuyên
Anh của ĐH CNTT&TT. 40 sinh viên này thuộc về 2 lớp học không được lựa chọn
ngẫu nhiên. Một lớp được chỉ định ngẫu nhiên làm thử nghiệm và và lớp còn lại là
lớp kiểm soát. Tương tự, hai giáo viên tương đồng với nhau về trình độ học vấn, tuổi

tác và kinh nghiệm dạy tiếng Anh không chuyên cho sinh viên, có uy tín đối với đồng
nghiệp trong trường. Một giáo viên được chọn ngẫu nhiên cho lớp thử nghiệm và
giáo viên cịn lại cho lớp kiểm sốt. Nghiên cứu bán thử nghiệm được kéo dài trong
khoảng 6 tuần với 3 bài đầu tiên của giáo trình New Cutting Edge - Elementary. Bài
kiểm tra đầu vào (pre-test) được tiến hành với sinh viên của cả hai lớp khi mới bắt
đầu thử nghiệm nhằm kiểm tra kiến thức từ vựng của sinh viên. Sau khi kết thúc mỗi
bài học, một bài kiểm tra đầu ra (post-test) dựa trên kiến thức của bài học đó, được
các sinh viên cả 2 lớp hồn thành. Tuy nhiên, nội dung bài kiểm tra đầu ra cuối cùng
bao gồm kiến thức cả ba bài. Bên cạnh bài kiểm tra đầu ra, việc thăm lớp và tự đánh
giá của giáo viên cũng được sử dụng như công cụ kiểm tra bổ xung nhằm khẳng định
kết quả của các bài kiểm tra. Dữ liệu thu được phân tích hồn tồn bằng việc mơ tả
thống kê. Bằng những cách này, chúng ta có thể thấy các hoạt động nào trong số 2
loại hoạt động dạy từ vựng theo cách truyền thống và theo hướng giao tiếp. Từ đó,
chúng tơi đưa ra một vài kiến nghị..
7. Thiết kế đề tài
Đề tài này gồm 3 phần: Phần 1- Mở đầu, trong đó đề cập đến nguồn gốc, mục
tiêu, mục đích, phương pháp nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu và thiết kế đề tài.
Phần 2 - Nghiên cứu bao gồm 3 chương. Chương 1 – Tổng quan về lý thuyết
cung cấp một cái nhìn tổng quan về các vấn đề lý luận liên quan đến từ vựng.


8
Chương 2- Bán thực nghiệm trả lời cho câu hỏi nghiên cứu. Chương cuối cùng,
Chương 3 – Phân tích số liệu, Kết quả và bàn luận làm sáng tỏ kết quả của nghiên
cứu bán thử nghiệm.
Phần 3 – Kết luận – đưa ra tóm tắt nghiên cứu, những gợi ý đối với việc dạy và
học từ vựng hiệu quả hơn.


9


PHẦN II: NGHIÊN CỨU CHÍNH
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHIÊN CỨU
1.1. Giới thiệu chung
Chương này tập trung vào việc cung cấp một cái nhìn tổng quan về kiến thức lý
luận liên quan đến nghiên cứu, bao gồm Từ vựng trong dạy và học tiếng Anh; Dạy
tiếng Anh; Phương pháp và đường hướng dạy từ vựng ở đại học; và nền tảng lý luận
về đường hướng dạy từ vựng
1.2. Từ vựng trong dạy và học tiếng Anh
1.2.1. Định nghĩa và phân loại Từ
Việc nắm bắt từ vựng bắt đầu từ đơn vị ‘Từ’. Vậy ‘Từ’ là gì? Theo Arnold I.B,
(1996), thuật ngữ ‘Từ’ biểu thị một đơn vị cơ bản của một ngơn ngữ có kết quả từ
mối quan hệ giữa một nét nghĩa cụ thể với một nhóm âm thanh cụ thể có chức năng
cú pháp. Từ là một tổng thể cấu trúc và ngữ nghĩa học trong hệ thống ngôn ngữ. Từ
điển American Heritage (1985) cho chúng ta biết rằng từ thường được ngăn cách bởi
khoảng cách trong văn viết, và được phân biệt về mặt âm vị học, chẳng hạn như về
trọng âm trong nhiều ngôn ngữ. Từ nếu là một đơn vị riêng lẻ không thể đóng tự
đóng vai trị giao tiếp: a man, I, like, good. Chúng chỉ có chức năng giao tiếp khi
được phối hợp theo một cách nhất định: I like a good man.
Charles Carpenter Fries, trong cuốn “The structure of English: An Introduction
to the construction of English tendencies” (1952) đã phân biệt bốn loại từ theo chức
năng trong câu và theo sự phối hợp của chúng với các từ khác:
- Các từ chức năng (tạo câu hỏi)
- Các từ thay thế: he, she, they…
- Các từ có chức năng ngữ pháp: some, any..
- Các từ chứa thông tin, tạo nên phần cốt lõi của từ vựng trong mỗi ngôn ngữ.
1.2.2. Định nghĩa và phân loại từ vựng
“Từ vựng là kiến thức về từ và nghĩa của từ” đó là định nghĩa của Fran Lehr và
cộng sự (2004) trong một nghiên cứu có tiêu đề “A Focus on Vocabulary. Hãy cùng
nhìn nhận thuật ngữ “kiến thức từ vựng” được hiểu như thế nào. Steven Stahl (1998)

cho chúng ta một định nghĩa như sau: “Kiến thức về từ vựng là một loại kiến thức;
loại kiến thức về từ khơng chỉ nói về định nghĩa, mà cịn nói đến cách mà một từ


10
được sử dụng một cách rộng rãi.” Điều đó có nghĩa là kiến thức về từ vựng không
chỉ là cái gì đó có thể tiếp thu một cách đầy đủ. Nó là thứ có thể mở rộng và làm sâu
sắc trong suốt cuộc đời một con người. Sự chỉ dẫn về từ vựng bao gồm nhiều hơn
việc tra từ trong từ điển và sử dụng từ trong câu. Từ vựng được tiếp thu một cách tình
cờ qua những lần bộc lộ bởi từ và có chủ ý qua việc diễn đạt hướng dẫn bằng các từ
cụ thể và các thủ thuật học từ.
Từ các lý giải trên, chúng ta có thể thấy một chiến lược học từ vựng mới luôn
rất thú vị và cần thiết. Bên cạnh đó, có thể thấy là từ vựng cực kỳ quan trọng khi sinh
viên muốn học tiếng Anh, bởi một sinh viên năm được nhiều từ vựng sẽ thấy hiểu và
tiếp thu tiếng Anh dễ hơn các sinh viên khác có ít từ vựng hơn.
Các nhà nghiên cứu thường đề cập đến bốn loại từ vựng sau:
- Từ vựng cho kỹ năng nghe: Là những từ chúng ta cần biết để hiểu được
những gì chúng ta nghe.
- Từ vựng cho kỹ năng nói: Là những từ chúng ta sử dụng khi chúng ta nói.
- Từ vựng cho kỹ năng đọc: là những từ cần thiết cho việc hiểu một bài đọc.
- Từ vựng cho kỹ năng viết: là những từ cần thiết trong văn viết.
1.2.3. Tầm quan trọng của từ vựng
Từ vựng là một bộ phận thiết yếu của tiếng Anh, đặc biệt là trong khía cạnh
giao tiếp. Ba câu trích dẫn sau có thể minh họa rõ nét điều này:
"Khơng có ngữ pháp thì có rất ít thứ được truyền tải, nhưng khơng có từ vựng
thì chẳng có gì được truyền tải cả." (Wilkins 1972: 111).
"Khi sinh viên đi chơi, họ không mang theo sách ngữ pháp mà mang theo từ
điển.” (Krashen in Lewis 1993: iii).
“ Biết nhiều từ là chìa khóa cho việc hiểu và được hiểu. Mấu chốt của việc học
một ngôn ngữ bao gồm việc học từ mới. kiến thức về từ vựng không làm nên sự

nowing words is the key to understanding and being understood. The bulk of learning
a new language consists of learning new words. Grammatical knowledge does not
make for great proficiency in a language.” (Vermeer, 1992: 147)


11
1.2.4. Vai trò của từ vựng đối với các kỹ năng ngôn ngữ
1.2.4.1. Trong giao tiếp
Tiếng Anh được sử dụng như một công cụ giao tiếp giữa hai hoặc nhiều người
nói các ngơn ngữ khác nhau. Là một cơng cụ giao tiếp được sử dụng bởi tất cả mọi
người trên thế giới, việc sử dụng tiếng Anh sẽ đòi hỏi nhiều từ vựng. Một điều không
cần bàn cãi là, một người nắm nhiều từ vựng sẽ tìm thấy nó dễ dàng hơn để làm chủ
tiếng Anh hơn bất kỳ người nào khác khơng có nhiều từ. Với người có nhiều từ vựng,
họ cũng có thể thành thạo hơn trong giao tiếp, bởi vì họ khơng cịn lo lắng khi lựa
chọn những từ sẽ được sử dụng trong khi trò chuyện. Từ đây, chúng ta có thể nói
rằng từ vựng và khả năng giao tiếp liên quan chặt chẽ. Tôi xin trích dẫn quan điểm
của Lewis để ủng hộ điều này: "Từ vựng là thứ cơ bản để giao tiếp. Nếu người học
khơng nhận ra nghĩa của các từ khóa được sử dụng bởi những người dùng chúng, họ
sẽ không thể tham gia vào các cuộc trò chuyện. Nếu họ muốn bày tỏ một số ý tưởng
hoặc yêu cầu thông tin mà họ phải có khả năng sản xuất các mặt hàng từ vựng để
truyền đạt ý nghĩa. Thật vậy, nếu sinh viên biết các hình thái và cú pháp của một
phát ngơn có địa chỉ, nhưng khơng biết ý nghĩa của mục từ vựng quan trọng thì họ sẽ
khơng thể tham gia vào các hội thoại" (Lewis, 1993)
1.2.4.2. Đối với các kỹ năng khác.
Một vốn từ vựng tốt là cần thiết để viết cũng như nó cần cho việc đọc và nghe .
người sinh viên khó có thể chọn từ thích hợp để tự diễn đạt, trừ khi họ có một sự lựa
chọn; và đó có nghĩa là có nhiều từ để chọn từ, mà sẽ đến từ việc xây dựng một vốn
từ vựng tốt . Hơn nữa, người học gặp khó khăn với việc tạo ra độ dài các chủ đề đạt
yêu cầu trong các chủ đề cho thấy một cách viết quan trọng bởi sản phẩm của từ
vựng. "Với vốn từ vựng nghèo nàn, dòng chảy tự do của ý tưởng và ngòi bút bị chặn

và nhỏ giọt ra; với vốn từ vựng tốt, nó sẽ được giúp đỡ để tuôn chảy."
(www.aug.edu/fenglish/learning_materials/how2_vocabulary.htm)
Từ vựng cũng rất quan trọng đối với đọc hiểu và nghe hiểu. người học không
thể hiểu những gì họ đang đọc và nghe mà khơng biết hầu hết những gì các từ có ý
nghĩa.
Tóm lại, việc xây dựng vốn từ vựng là như một khía cạnh quan trọng trong việc
học một ngoại ngữ. Việc thiếu hụt vốn từ vựng sẽ ảnh hưởng đến sự khó khăn của


12
việc sử dụng đúng tiếng Anh trong các hình thức nói và viết. Do đó, việc tiếp thu từ
vựng nên được coi là cơ sở của tri thức và là một phần tích hợp việc học ngơn ngữ
trong hầu hết các tình huống giao tiếp. Và một vốn từ vựng phong phú cũng như biết
cách sử dụng từ vựng hợp lý cũng cải thiện khả năng giao tiếp của sinh viên thơng
qua nói, nghe, và viết
1.3. Việc dạy từ vựng
1.3.1. Vai trò của việc dạy từ vựng
Dạy từ vựng là một bộ phận quan trọng của việc dạy ngoại ngữ có mục tiêu để
giúp sinh viên khơng chỉ để cải thiện và mở rộng vốn từ vựng của mình. Sự lựa chọn
rộng của một từ làm cho ngôn ngữ trở nên linh hoạt, nó hỗ trợ trong việc tránh sự lặp
lại và sự đơn điệu của lời nói, và nó mang lại khả năng diễn đạt ý tưởng chính xác và
dễ hiểu hơn. Ngày nay, điều này thường được chấp nhận rằng việc giảng dạy từ vựng
nên là một phần của chương trình và được giảng dạy một cách cơ bản, được lên kế
hoạch chu đáo. Lewis (1993) lập luận rằng vốn từ vựng cần được đặt ở trung tâm
qúa trình giảng dạy ngơn ngữ, bởi vì "ngơn ngữ bao gồm từ vựng được ngữ pháp
hóa, chứ khơng phải là ngữ pháp hóa từ vựng". Do vậy, các giáo trình mới hiện nay
đều bao gồm các phần từ vựng học. Do đó, người học phải có nỗ lực nghiêm túc để
đạt được các mục tiêu ngôn ngữ không chỉ trong mà cả ở ngồi lớp học. Để việc
giảng dạy ngơn ngữ hiệu quả, sinh viên được tiếp xúc với ngôn ngữ đích theo nhiều
cách, và mục tiêu của giáo viên là làm cho các bài học từ vựng không nhàm chán và

trên tất cả là khuyến khích sinh viên của mình tự chủ trong việc học ngơn ngữ.
1.3.2. Cái gì cần được dạy khi dạy từ vựng?
Dạy hay học từ có nghĩa là dạy hay học: dạng, nghĩa và cách dùng của nó

• Phát âm
• Chính tả
• Biến tố

• Nghĩa đen và bóng
• Nghĩa phái sinh và hàm
ngơn

• Quan hệ ngữ nghĩa học

Dạng

• Phân loại
• Sự sắp xếp
• Ngơn ngữ học xã hội và thể
loại


13
Cách dùng

Nghĩa

Từ minh họa trên, chúng ta có thể thấy sự cân bằng giữa ba thành tố của việc
dạy từ vựng: Dạng, Nghĩa và cách dùng. Nói cách khác 3 thành tố này cần phải được
chú trọng như nhau.

1.3.3. Phương pháp và cách tiến hành dạy từ vựng ở đại học
Trong số rất nhiều yếu tố đo lường sự thành công hay thất bại trong việc học và
dạy, phương pháp được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Các phương
pháp được thực hiện nhằm cố định hệ thống giảng dạy với các kỹ thuật và các phần
thực hành theo quy định, và các cách tiếp cận là các triết lý về giảng dạy ngơn ngữ có
thể được hiểu và áp dụng bằng nhiều hình thức khác nhau trong lớp học. "Về lý
thuyết thì, một phương pháp liên quan đến một cách thức tiếp cận, được xác định
một cách có tổ chức của quyết định bởi một đề cương, và được thực hiện một cách
trình tự" (Richards và Rodges, 1996). Ngồi ra, theo Prator (1991: 17) "...trong tình
hình giảng dạy nó là phương pháp được sử dụng, nhiều hơn bất kỳ yếu tố nào khác ,
xác định các kết quả đạt được "
Phương pháp dạy/học từ vựng đã trải qua rất nhiều thay đổi. Đầu tiên, hãy nhìn
vào phương pháp dịch ngữ pháp. Ở phương pháp này, từ vựng được giảng dạy bởi
các phương tiện dịch khi sinh viên được giao danh sách các từ và học qua việc dịch.
Ngôn ngữ được coi là một tập hợp các từ riêng lẻ, độc lập và phải có một từ tương
ứng trong tiếng mẹ đẻ cho mỗi từ mà sinh viên được học. Phương pháp này thường
được áp dụng trong giảng dạy từ vựng cho sinh viên không chuyên tiếng Anh tại các
cơ sở đào tạo phía bắc của Việt Nam. Trong phương pháp âm thanh ngôn ngữ, việc
giảng dạy từ vựng cũng được điều chỉnh lên dạy ngữ pháp và từ đã được trình bày và
học trong cấu trúc. Ngoài ra, sự quan tâm lớn được dành cho phát âm.
Từ vựng theo phương pháp Phản ứng của toàn bộ cơ thể được nhấn mạnh trên
lĩnh vực ngôn ngữ khác bằng cách sử dụng các mệnh lệnh để chỉ đạo hành vi và sự


14
phối hợp hành động. Phương pháp này liên quan đến một số lượng đáng kể của việc
nghe và hiểu kết hợp với phản ứng cơ thể khác nhau. Giáo viên thường sử dụng cử
chỉ, ngôn ngữ cơ thể, nét mặt để minh họa các từ cho sinh viên. Đây được coi là
phương pháp thích hợp cho người mới bắt đầu học tiếng Anh đặc biệt là trẻ em, vì
vậy phương pháp trực tiếp tốt hơn cho những người rất giỏi trong việc sử dụng vốn

từ vựng một cách hiệu quả trong giao tiếp. Những từ trong phương pháp này đều
được giảng dạy bằng mô phỏng và thực hành. Các từ cụ thể được giảng dạy thông
qua việc minh họa, các đối tượng hoặc hình ảnh trong khi những cái trừu tượng được
giảng dạy bởi sự liên kết những ý tưởng.
Và phương pháp cuối cùng, có cách tiếp cận chính xác hơn, tôi muốn đề cập
đến là Phương pháp giảng dạy theo hướng giao tiếp. Vì nghiên cứu này là có liên
quan nhiều đến phương pháp này do đó, một sự quan tâm được dành cho việc trình
bày nó trong một phần độc lập.
1.3.4. Cơ sở lý luận của phương pháp dạy học theo hướng giao tiếp
1.3.4.1. Giới thiệu và định nghĩa về phương pháp dạy học theo hướng giao tiếp
Việt Nam đang có được một sự tiến bộ kinh tế nhanh chóng trong khi chúng ta
ngày càng liên quan chặt chẽ hơn với thế giới bên ngoài. Phương pháp giảng dạy
truyền thống dịch ngữ pháp khơng cịn phù hợp với các nhu cầu giao tiếp thực tế.
Một số thay đổi thiết yếu cần phải được thực hiện để nâng cao chất lượng giảng dạy
tiếng Anh tại các trường đại học ở Việt Nam. Dạy học theo hướng giao tiếp ngày
càng trở nên phổ biến trên thế giới, và sẽ rất hữu ích khi áp dụng hướng dạy học này
vào các lớp học tại Việt Nam. Trong những năm gần đây, Dạy học theo hướng giao
tiếp đã được áp dụng ở Việt Nam và nó đã cho thấy hiệu quả tích cực trong việc dạy
và học ngoại ngữ. Với phương pháp này, sinh viên Việt Nam cảm thấy tự tin hơn khi
giao tiếp với người nước ngồi. Bởi vì nó tập trung chủ yếu vào "năng lực giao tiếp"
- được coi là mục tiêu của dạy học theo hướng giao tiếp . "Năng lực giao tiếp" đề
cập đến "các hệ thống kiến thức cơ bản và kỹ năng giao tiếp cần thiết" (Canale ,
1983: 5). Năng lực giao tiếp cho phép sinh viên sử dụng ngôn ngữ trong các phạm vi
chức năng giao tiếp khác nhau.
Chúng ta hãy quay trở lại định nghĩa về dạy học theo hướng giao tiếp. Theo
Wikipedia, "Dạy một ngôn ngữ theo hướng giao tiếp là cách tiếp cận với việc dạy các


15
ngơn ngữ thứ hai và ngoại ngữ trong đó nhấn mạnh sự tương tác của cả những

phương tiện và mục đích cuối cùng của việc học một ngơn ngữ. Nó cũng được gọi là
"đường hướng giao tiếp đối với giảng dạy ngoại ngữ" hay chỉ đơn giản là "Đường
hướng giao tiếp."
1.3.4.2. Các đặc điểm cơ bản của đường hướng giao tiếp
David Nunan (1991: 279) đã liệt kê năm đặc điểm cơ bản của dạy học theo
hướng giao tiếp:
1. Sự nhấn mạnh việc học để giao tiếp thông qua sự tương tác với ngơn ngữ
đích.
2. Sự giới thiệu của các chủ đề có thực trong các tình huống học tập.
3. Việc chuẩn bị cơ hội cho người học tập trung, không chỉ về ngơn ngữ mà cịn
với chính q trình học tập.
4. Việc củng cố kinh nghiệm của cá nhân người học là yếu tố quan trọng góp
phần vào việc học tập trên lớp.
5. Một nỗ lực để gắn các hoạt động ngơn ngữ trong và ngồi lớp học.
Năm tính năng này được các nhà nghiên cứu dạy học theo hướng giao tiếp
khẳng định, để thấy rằng họ rất quan tâm đến các nhu cầu và mong muốn của người
học cũng như việc kết nối giữa các ngôn ngữ khi chúng được được sử dụng trong và
ngoài lớp học. Từ những gì Nunan nói về các hiện tượng nổi bật của việc dạy học
theo hướng giao tiếp, chúng ta có thể thấy rằng bất kỳ việc thực hành giảng dạy nào
giúp người học phát triển năng lực giao tiếp trong một bối cảnh thực đều được coi là
một hình thức chấp nhận được và có lợi cho giao tiếp. Như vậy, trong lớp học, việc
dạy học theo hướng giao tiếp thường có dạng luyện tập theo cặp và nhóm, địi hỏi sự
thương lượng và hợp tác giữa các học viên. Các hoạt động trong đó sinh viên thực
hành và phát triển các chức năng ngơn ngữ và khuyến khích người học phát triển sự
tự tin của họ .
1.3.4.3. Vai trò của giáo viên trong việc dạy học theo hướng giao tiếp:
Vai trò của giáo viên trong việc dạy học theo hướng giao tiếp tương đối khác
với vai trò của họ trong các phương pháp giảng dạy truyền thống. Trong các lớp học
truyền thống, giáo viên phụ trách và "điều khiển" việc học tập. Trong dạy học theo
hướng giao tiếp giáo viên đóng vai người hỗ trợ, cho phép sinh viên chịu trách nhiệm



16
về việc học của mình. Giáo viên khơng chỉ đơn thuần là người truyền kiến thức; thay
vào đó, họ trở thành người hỗ trợ, người phân tích nhu cầu, tư vấn, là người quản lý
nhóm.
Các giáo viên vẫn thiết kế các bài tập và hướng dẫn vào lớp, nhưng các sinh
viên phải làm việc. Trách nhiệm tham gia giúp làm tăng sự tự tin trong việc sử dụng
ngôn ngữ. Trong dạy học theo hướng giao tiếp, sinh viên thực hành các tình huống
thực tế cuộc sống, ví dụ, mua thực phẩm tại chợ hoặc nhờ một ai đó hướng dẫn.
Trong bài tập này, mục tiêu là để sinh viên nói lên nhu cầu và suy nghĩ của mình, mà
khơng lo lắng về việc ngữ pháp có hồn hảo hay khơng.
1.3.4.4. Thách thức đối với việc áp dụng dạy học theo hướng giao tiếp ở Việt Nam
Trong bài báo "Ngoại ngữ và điều kiện dạy ngoại ngữ ở Việt Nam" Lê Văn
Canh (Tạp chí Teacher’s Edition - ĐHQGHN, Số 7, 11/ 2001) lý giải việc dạy giao
tiếp là tương đối khó khăn ở Việt Nam vì một số lý do như trình độ tiếng Anh của
giáo viên thấp, các lớp học quá đông, nhà cửa, đồ nội thất và trang thiết bị khác rất
hạn chế, các tài liệu, thư viện và các dịch vụ tư vấn và chỉ được hỗ trợ cung cấp mức
độ vừa phải. Phương pháp giảng dạy mới đòi hỏi những hiểu biết và kỹ năng mới.
Chúng thường đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian chuẩn bị tài liệu bổ sung,
trong khi hiện có rất nhiều việc địi hỏi về thời gian của giáo viên ngồi cơng việc
giảng dạy chính.
1.3.4.5. Một vài lưu ý khi áp dụng việc dạy từ vựng theo hướng giao tiếp một cách
hiệu quả.
Trong khi cố gắng áp dụng phương pháp giảng dạy từ vựng theo đường hướng
giao tiếp vào lớp học ngoại ngữ, chúng ta phải xem xét các nguyên tắc sau đây:
1. Hiểu được sự khác biệt văn hóa.
2. Điều chỉnh vai trò của giáo viên, sinh viên và các tài liệu.
3. Kết hợp giữa giới thiệu từ vựng với thực hành chúng.
4. Kết hợp tất cả bốn kỹ năng cơ bản.

1.3.4.6. Đặc trưng của các hoạt động dạy học theo hướng giao tiếp thúc đẩy việc học
từ vựng.
1. Các hoạt động giao tiếp theo nhóm kiểu mặt đối mặt có thể giúp người học
điều chỉnh giọng nói của họ sao cho phù hợp phù hợp với cả người nói và người


17
nghe. Người học tham gia hoạt động nhóm có thể nhận được sự giúp đỡ từ người
khác.
2. Các hoạt động giao tiếp thường đưa ra một bối cảnh có ý nghĩa, không chỉ
cung cấp đủ dấu hiệu giúp cho một sinh viên thực hiện phán đoán về ý nghĩa của các
từ xa lạ, mà nó cịn hỗ trợ việc ghi nhớ các mặt hàng mới.
3. Tạo cơ hội tốt cho sinh viên bộc lộ việc sử dụng lặp đi lặp lại của các từ mới.
4. Từ quan điểm ngôn ngữ học xã hội, sự tương tác ngang hàng theo nhóm
thường cung cấp một mơi trường học tập trong đó sinh viên có thể mắc lỗi và diễn tả
sự hiểu lầm mà không gây ảnh hưởng phụ của việc bộc lộ điểm yếu của mình trước
cả lớp hoặc trước giáo viên.
Tuy nhiên, bằng việc nhận thức được các đặc tính này và cách chúng ảnh hưởng
đến phản ứng của sinh viên đến những từ vựng xa lạ, giáo viên có thể giúp nâng cao
chất lượng học tập từ vựng.
1.4. Kết luận
Trong chương này, tôi đã cố gắng mô tả ngắn gọn các kiến thức lý thuyết liên
quan đến vấn đề nghiên cứu. Đó là từ vựng và vai trị quan trọng của nó trong việc
dạy và học tiếng Anh. Chương này cũng bao gồm việc thảo luận về phương pháp
giảng dạy ngoại ngữ đã được phát triển trong suốt lịch sử, từ những phương pháp cổ
điển như phương pháp dịch ngữ pháp, phương pháp trực tiếp , phương pháp âm thanh
ngôn ngữ ... đến đường hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp gần đây nhằm chỉ ra: (1) vai
trò của từ vựng trong giảng dạy và học tiếng Anh, (2) cái nhìn tổng quan về một số
phương pháp giảng dạy; (3) lý thuyết của phương pháp dạy học theo hướng giao tiếp
và các hoạt động dạy học theo hướng giao tiếp nổi bật giúp thúc đẩy quá trình học

tập.


18

CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP BÁN THỰC NGHIỆM
2.1. Giới thiệu
Chương này đề cập việc sử dụng phương pháp bán thực nghiệm để kiểm tra tính
hiệu quả của một số hoạt động giảng dạy từ vựng theo hướng giao tiếp cho sinh viên
năm thứ nhất không chuyên tiếng Anh tại ĐH CNTT&TT. Trong nghiên cứu bán
thực nghiệm này tơi đã đóng vai một nhà tổ chức, quan sát viên, thu thập dữ liệu và
phân tích ...để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu. Hai giáo viên tiếng Anh đồng nghiệp của tôi tại ĐHCNTT&TT đã giúp tôi chuẩn bị kế hoạch bài học và dạy
tiếng Anh cho sinh viên của hai lớp: thử nghiệm và kiểm soát. Do yêu cầu công việc,
tôi không thể tham dự tất cả các bài học trong thí nghiệm này, chỉ có một số trong số
họ. Đối với bài học mà tôi không thể quan sát, các dữ liệu đã được thu thập thông qua
các giấy tờ tự đánh giá giao cho các giáo viên. Để xác định ảnh hưởng của các hoạt
động dạy học theo hướng giao tiếp, ngoài việc quan sát lớp học và các giấy tờ tự
đánh giá của giáo viên, tôi đã phát triển một công cụ đánh giá được thực hiện trước
khi tiến hành thực nghiệm (pre -test) và một lần nữa sau khi hoàn thành mỗi một đơn
vị bài học (post-test)
Trước khi đi vào phần chính của chương này, chúng ta hãy nhìn vào các nền để
thiết lập các nghiên cứu bao gồm các giáo viên, sinh viên năm thứ nhất khơng chun
tiếng Anh, giáo trình và các mục tiêu chương trình tại ĐH CNTT&TT.
2.2. Bối cảnh nghiên cứu
2.2.1. Vài nét về ĐH CNTT&TT
Đại học CNTT&TT mà tiền thân là Khoa Công nghệ thông tin là đơn vị đào tạo
thành viên thuộc Đại học Thái Nguyên được thành lập ngày 14/12/2001 theo Quyết
Định số 6946/QĐ-BGD ĐT-TCCB của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Khoa Công nghệ thông tin thực hiện mơ hình phối hợp quản lý và đào tạo với

Viện Công nghệ thông tin thuộc Viện Khoa học và Cơng nghệ Việt Nam có chức
năng, nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công
nghệ trong các lĩnh vực Công nghệ thông tin và truyền thông phục vụ sự nghiệp
CNH, HĐH các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc nói riêng, cả nước nói chung.


19
Sau 10 năm xây dựng và phát triển, ngày 30/3/2011, Thủ tướng Chính phủ ký
quyết định thành lập Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông trên cơ
sở nâng cấp Khoa CNTT thuộc Đại học Thái Nguyên.
2.2.2. Đội ngũ giảng viên tiếng Anh
Hầu hết các giảng viên phụ trách giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên
ĐHCNTT&TT đến từ Bộ môn Ngoại ngữ- khoa Khoa học Cơ bản - một trong những
khoa lớn nhất của nhà trường. Bộ môn có 12 giáo viên trong đó có một giảng viên
nam. Hầu hết các giáo viên đều còn trẻ, tuổi đời trên dưới 30. Hầu hết giảng viên là
nữ giới đã lập gia đình nên có tư tưởng ổn định, n tâm công tác.
Tại trường ĐHCNTT&TT, do đặc trưng của một trường khối kỹ thuật nên
khơng có sinh viên chun tiếng Anh. Bên cạnh việc giảng dạy tiếng Anh giao tiếp,
các giáo viên được phân theo nhóm dạy tiếng Anh cho các chun ngành. Về trình độ
chun mơn, tất cả các giảng viên tiếng Anh đều đạt trình độ Thạc sĩ – chuẩn giảng
viên tiếng Anh không chuyên theo quy định.
Một điều nữa cần được nhắc đến là tất cả các giảng viên đều rất nhiệt tình trong
cơng việc, có tinh thần trách nhiệm cao. Tuy vậy, đa phần các giảng viên đều có con
nhỏ, điều này gây khó khăn khơng nhỏ đến việc hồn thành cơng việc giảng dạy
được giao.
2.2.3. Sinh viên năm thứ nhất khơng chun tiếng Anh.
Nhìn chung, các sinh viên năm thứ nhất đều mới tốt nghiệp THPT và ở độ tuổi
từ 18 đến 20. Hầu hết các em đều đến từ các vùng nông thôn, miền núi nên trình độ
tiếng Anh đầu vào khơng cao và có một số em chưa bao giờ học tiếng Anh. Một số
lớp học tiếng Anh cịn rất đơng, có những lớp số sinh viên hơn 60 em nên rất khó

khăn cho giáo viên trong việc giảng dạy ngoại ngữ và sinh viên khơng có đủ thời
gian để thực hành trên lớp. Ngồi ra, các em khơng có nhiều điều kiện giao tiếp với
người nước ngồi và trình độ tiếng Anh không đồng đều. Rất nhiều các em chưa xác
định được động cơ học tập đúng đắn, các em thường nghĩ tiếng Anh là một mơn khó
và các em chỉ cố gắng học để đủ điểm qua. Điều này cũng ảnh hưởng khá nhiều đến
kết quả dạy và học tiếng Anh nói chung và dạy ngữ pháp tiếng Anh nói riêng. Các em
chưa có được chiến lược học tập phù hợp nên vẫn học rất thụ động. Có nhiều em
khơng chịu chuẩn bị bài và làm bài tập ở nhà trước khi đến lớp nên ảnh hưởng khá


20
nhiều đến khả năng tiếp thu bài trên lớp. Một điểm nữa là, các sinh viên đến từ thành
thị thường tiếp thu khá hơn các sinh viên miền núi và nơng thơn.
2.2.4. Giáo trình
Giáo trình được sử dụng cho các sinh viên năm thứ nhất không chuyên tiếng
Anh năm đầu tiên là quyển New Cutting Edge Elementary. Cụ thể, sinh viên sẽ học 3
học phần tiếng Anh giao tiếp: Anh Văn 1 (Module 1 đến Module 5), Anh Văn 2 (từ
Module 6 đến Module 10) và Anh Văn 3 (module 11 đến Module 15). Đến học phần
thứ 4, các sinh viên sẽ học Anh văn chuyên ngành theo các chuyên ngành mà mình
đăng ký.
Các sinh viên trong nghiên cứu này đang theo học khóa học Anh văn 1, phạm vi
nghiên cứu là 3 bài học đầu từ Module 1 đến Module 3. Đây được đánh giá là giáo
trình tiếng Anh giao tiếp hay, chú trọng đến việc luyện các kỹ năng giao tiếp cho
người học, đồng thời cũng có sách bài tập kèm theo đáp án. Điều này giúp cho người
học có thể tự học cấu trúc, từ vựng ở nhà nhằm tự nâng cao khả năng sử dụng vốn từ
và cấu trúc ngữ pháp trong những tình huống khác nhau
2.2.4.1. Thiết kế các bài từ vựng trong giáo trình New Cutting Edge -Elementary
Thường có năm phần trong một đơn vị bài học, cụ thể là ngữ pháp, từ vựng,
đọc và viết, nghe nói và phát âm. Phần từ vựng được thiết kế như sau :
Module 1

Names
&countries

Module 2
Everyday
objects

Nationalit

Family

ies

(p.18)

Jobs (p.8)

Module 3
Common
verbs

Module 4
Activities

Module 5
Transport

(p.34)

(p.42)


Daily
routines
(p.26)

Bảng 1: Thiết kế từ vựng trong giáo trình New Cutting Edge -Elementary

Bên cạnh đó, từ vựng được tích hợp vào các phần khác của từng đơn vị bài học.
Vì vậy, ngồi phần từ vựng, giáo viên cũng phải dạy từ mới trong các phần kiến thức
khác.
2.2.4.2. Các bài học từ vựng trong giáo trình New Cutting Edge - Elementary
Theo quan điểm của tác giả, việc dạy và học từ vựng đều đóng vai trị rất quan
trọng trong giáo trình này. Đặc biệt ở chỗ sách được thiết kế cho mục tiêu giao tiếp
nên việc dạy từ vựng càng cần được chú ý Có ít nhất một phần từ vựng đầu vào chính


21
cho mỗi đơn vị trong giáo trình và nhiều phần từ vựng nhỏ trong các bộ phận khác.
Yếu tố phát âm có vị trí xứng đáng trong mỗi đơn vị bài học. Có ba phương pháp tiếp
cận đối với việc dạy từ vựng:
- Dạy từ mới trong một bộ phận từ vựng, ví dụ như các con số, ngơn ngữ trong
lớp học
- Khuyến khích thói quen học tập từ vựng: sử dụng từ vựng, đoán nghĩa
- Dạy các hệ thống từ vựng, ví dụ tiền tố và hậu tố, từ đồng nghĩa, trái nghĩa;
homonyms, từ đồng âm; chữ cái im lặng, danh từ ghép; cấu tạo từ ... Bên cạnh đó,
vốn từ vựng chung được bố trí phù hợp với các chủ điểm.
2.2.5. Mục tiêu việc dạy tiếng Anh tổng quát tại Đại học CNTT&TT
Mục tiêu cuối cùng của chương trình giảng dạy tiếng Anh tại ĐH CNTT&TT là
trang bị cho sinh viên những kiến thức nền tảng trình độ tiếng Anh nói chung và khả
năng giao tiếp với người nước ngoài . Sinh viên chỉ học tiếng Anh tổng quát trong ba

học kỳ, học kỳ thứ tư của năm thứ hai họ nghiên cứu tiếng Anh chuyên ngành (ESP)
để phục vụ cho cơng việc tương lai của mình
2.3. Một số hoạt động dạy học theo hướng giao tiếp trong đề tài.
2.3.1. Trò chơi
Lee Su Kim (1995) đã chỉ ra rằng: "Có một quan niệm phổ biến rằng bản chất
của sự học nên là nghiêm túc và thận trọng và rằng nếu ai có vui vẻ, hài hước và đầy
tiếng cười, đó ko phải là học thực sự. Đây là một quan niệm rất sai lầm. Người ta có
thể vừa học ngoại ngữ vừa thư giãn cung một thời điểm. Một trong những cách tốt
nhất để làm điều này là thơng qua trị chơi."
Có rất nhiều lợi thế của việc sử dụng trị chơi trong lớp học:
- Trị chơi có động cơ thúc đẩy và thử thách.
- Trò chơi thực hành ngôn ngữ trong các kỹ năng khác nhau - nói, viết, nghe và
đọc.
- Chúng khuyến khích các sinh viên tương tác và giao tiếp .
- Chúng tạo ra một bối cảnh có ý nghĩa cho việc sử dụng ngơn ngữ .
Là tác giả, tơi muốn nói thêm rằng các trò chơi cũng cho phép người học tiếp
thu những trải nghiệm mới trong việc học một ngoại ngữ mà không phải lúc nào cũng
có thể trong một bài học điển hình.


22
2.3.2. Giới thiệu nghĩa của từ bằng dịch nghĩa
Có một quan niệm sai lầm rằng không nên giới thiệu ý nghĩa của từ bằng cách
dịch. Điều đó đúng khi các giáo viên chỉ sử dụng mỗi phương pháp này và dịch tất cả
các từ chưa biết từ dễ đến khó, từ cụ thể đến trừu tượng trong lớp học. Điều đó làm
cho sinh viên khơng cố gắng đốn và buộc họ phải tìm hiểu ý nghĩa và cách sử dụng.
Đơi khi, nếu sinh viên không thể hiểu được ý nghĩa một cách dễ dàng, việc dịch cũng
phải được áp dụng để tiết kiệm thời gian của giáo viên. Nhưng giáo viên nên cân
nhắc nghĩa tiếng Việt tương đương nhất, giải thích ý nghĩa của một từ trong một ngữ
cảnh cụ thể và sau đó cho ví dụ minh họa cho những ý nghĩa đó. Điều đó sẽ tránh sự

hiểu lầm và sử dụng sai từ của sinh viên.
2.3.3. Liên hệ nghĩa từ mới với những từ đã biết
Vì trong những bài học trước sinh viên được cung cấp với nhiều từ, vì vậy nếu
một từ mới được giới thiệu liên quan đến các từ họ đã biết, họ có thể dễ dàng hiểu và
nhớ từ. Các tiền tố, hậu tố ... có thể được minh họa với gốc từ của chúng để giúp các
sinh viên đốn ý nghĩa.
Ví dụ: beauty – beautiful – beautifully

Manly – Man

2.3.4. Tương phản và đối lập
Khi giáo viên muốn giải thích ý nghĩa của một từ mới, họ đôi khi sử dụng ý
nghĩa trái ngược của từ đó. Theo tơi, cách này thực sự hiệu quả, có thể mang lại hai
lợi thế: thứ nhất , giúp sinh viên để nhớ lại một từ đã học và thứ hai, nói chính xác ý
nghĩa của một từ mới. Rất nhiều từ có thể được hiểu tốt hơn bằng cách tương phản
của họ trong bối cảnh
Ví dụ: big – small

beautiful - ugly…

2.3.5. Giáo cụ trực quan
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người học ở cấp tiểu học có thể nhớ từ
tốt hơn thơng qua bài thuyết trình từ phương tiện trực quan. Một số hoạt động giao
tiếp bằng cách sử dụng dụng cụ trực quan như: hình ảnh, ảnh, áp phích, các đối tượng
thực, bản vẽ bảng đe , Flashcards ... có thể giúp giáo viên tạo ra các tình huống hay
một bối cảnh và trên tất cả có thể kích thích sinh viên nói ngơn ngữ.
2.3.6. Sử dụng cách diễn đạt qua khuôn mặt và ngôn ngữ cơ thể


23

Giáo viên nên sử dụng các kỹ thuật khác nhau để dạy từ vựng để động viên sinh
viên. Ngôn ngữ cơ thể , hành động , nét mặt, điệu bộ và bắt chước, cử chỉ có thể được
sử dụng để giúp các sinh viên hiểu được ý nghĩa của một từ .
Ví dụ : Làm cho cử chỉ đặc trưng với bàn tay của bạn như bạn nói: Hãy đến
đây; Nhấc bút chì
2.4. Phương pháp bán thực nghiệm
Nhằm tìm ra hiệu quả của các hoạt động dạy từ vựng theo hướng giao tiếp đối
với sinh viên năm thứ nhất, chúng tơi tiến hành bán thực nghiệm tại ĐH CNTT&TT.
Thí nghiệm được tiến hành năm 2014 vào kéo dài 6 tuần.
2.4.1. Bố cục
2.4.1.1. Đối tượng
Các đối tượng của nghiên cứu là hai lớp học của sinh viên năm thứ nhất không
chuyên tiếng Anh. Mỗi lớp gồm 20 sinh viên. Dưới đây là một số đặc điểm của các
sinh viên.
Tuổi : Hầu hết các sinh viên đang trong độ tuổi 18-19 tuổi.
Giới tính: Phần lớn các đối tượng là phụ nữ , trong đó có 17 sinh viên nữ trong
lớp thực nghiệm và 16 sinh viên nam trong lớp kiểm soát.
Quê quán : Trong cả hai lớp thực nghiệm và kiểm soát, 2/3 các sinh viên đến từ
các tỉnh miền núi phía Bắc như: Cao Bằng, Hà Giang, Bắc Cạn .. . Còn lại là sinh
viên đến từ Thái Nguyên
Khả năng tiếng Anh : Bởi vì nghiên cứu này đã được thực hiện vào đầu học kỳ
đầu tiên nên rất khó để đánh giá khả năng tiếng Anh của sinh viên. Dù sao, hầu hết
trong số họ đã được học tiếng Anh tại các trường trung học, vì vậy họ ít nhiều có hiểu
biết nhất định về tiếng Anh cơ bản.
2.4.1.2. Giáo viên
Như đã đề cập trong phạm vi của nghiên cứu này, tôi đã mời hai giáo viên giúp
đỡ tôi dạy hai lớp học. Trước khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đã thảo luận và hợp
tác xây dựng kế hoạch bài học. Ngồi ra, vì thực tế thời gian làm việc không cho
phép tôi tham dự tất cả các bài học vì vậy tơi chỉ quan sát được một số của cả lớp.
Đối với những tiết học khác, tôi đã gửi phiếu tự đánh giá cho hai giáo viên này và đã

trở lại sau một hoặc hai bài học Quan sát của tôi và các phiếu tự đánh giá hỗ trợ tôi


24
trong việc kiểm tra tính hiệu quả của một số hoạt động dạy từ vựng theo hướng giao
tiếp.
2.4.1.3. Công cụ đánh giá chính: Pre-test và post-tests
Các cơng cụ chính để đánh giá là các bài kiểm tra bao gồm một pre -test và ba
bài post-test. Bài pre -test đã được phát cho sinh viên khi bắt đầu tiến hành bán thực
nghiệm, và ba bài post-test được thực hiện sau mỗi đơn vị bài học (module). Các nội
dung của hai bài post-test đầu tiên được dựa trên những kiến thức của từng Module
trong khi bài post-test cuối bao gồm kiến thức của cả 3 Modules sử dụng trong thực
nghiệm.
2.4.1.4. Các công cụ đánh giá bổ xung
2.4.1.4.1. Ghi chép từ dự giờ
Những gì tác giả quan sát được sử dụng để đánh giá hiệu quả của một số hoạt
động dạy từ vựng theo hướng giao tiếp.
2.4.1.4.2. Phiếu tự đánh giá cảu giáo viên
Giống như các bài kiểm tra và ghi chép từ quan sát lớp học, giấy tờ tự đánh giá
của giáo viên đóng một vai trị hỗ trợ trong việc kiểm tra tính hiệu quả của các hoạt
động dạy từ vựng theo hướng giao tiếp.
2.4.2 Giai đoạn hiện thực hóa
2.4.2.1. Bài Pre-test
Ở giai đoạn thứ hai của bán thực nghiệm này, một bài pre -test đã được giao cho
sinh viên của cả 2 lớp học với mục đích kiểm tra kiến thức từ vựng của họ. bài pretest với thời gian 15 phút bao gồm các câu hỏi sau:
1. Dịch các từ/ cum từ sau sang tiếng Việt:
To make a bed....................................................................................................
Unhappy.............................................................................................................
Happiness...........................................................................................................
Rewrite...............................................................................................................

Foot....................................................................................................................
Tired of..............................................................................................................
Work...................................................................................................................
Forget me not ....................................................................................................


25
Taught................................................................................................................
Learner...............................................................................................................
2. Viết tất cả những từ mà bạn nghĩ đến về các chủ điểm sau:

School
Class
Friend

Kết quả bài kiểm tra được phân tích và so sánh cẩn thận. Phương pháp thống kê
được sử dụng để tìm ra mức độ kiến thức từ vựng của sinh viên:
X = T.a x 100
T.q
(X: mức độ kiến thức từ vựng
T.a: Câu trả lời đúng
T.q: Tổng số câu hỏi)
Các kết quả của cả hai lớp học này là khá tương đương nhau. Chỉ có một nữ
sinh viên của các lớp kiểm soát được điểm 9. Các bài kiểm tra pre-test cho thấy:
1. Hơn 60 % sinh viên thực hiện các cấu tạo từ của ba từ trong vịng trịn rất
khơng tốt.
2. Kiến thức rất yếu về tiền tố và hậu tố
3. Khó khăn với từ tiếng Anh với một phạm vi rộng lớn hơn nghĩa tiếng Việt.
Hai bài tập khơng q khó đối với những người đã học tiếng Anh từ trung học.
Tuy nhiên, kết quả của pre-test cho thấy rằng các sinh viên dường như khơng nhớ

những gì họ đã được dạy. Kiến thức từ vựng của cả lớp vẫn còn nghèo nàn.


×