Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Việt Nam Tham Gia Công Ước Viên 1980 Về Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế (CISG) Lợi Ích Và Hạn Chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.86 KB, 25 trang )

NHÓM CộNG TÁC VIÊN VCCI
DEFINING THE LEGAL EDGE

11/04/2010

VIỆT NAM THAM GIA CÔNG ƯỚC VIÊN 1980
VỀ MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ (CISG)
LỢI ÍCH VÀ HẠN CHẾ

Address: 31A Nguyen Dinh Chieu
Street, Dakao Ward, District 1,
HCMC, S.R. Vietnam
Tel: 84-8-38232648
Fax: 84-8-38232657
Website: www.eplegal.com.vn
Page i


CÁC THÀNH VIÊN NHÓM CỘNG TÁC

1.
2.
3.
4.

Nguyễn Trung Nam (LLM, MBA) (nhóm trưởng)
Nguyễn Mai Phương (LLM, MBA)
Trần Hà Giang
Trần Quốc Huy

ii




MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................20
DANH MỤC CÁC NGUỒN LUẬT.........................................................................................................21
CÁC VỤ ÁN ĐƯỢC VIỆN DẪN............................................................................................................21

Lời nói đầu:
Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 (Công ước Viên 1980 hay
CISG) là một trong những công ước quốc tế về thương mại được phê chuẩn và áp
dụng rộng rãi nhất hiện nay, với 74 thành viên (tính đến ngày 11/4/2010/) ước tính
CISG điều chỉnh khoảng 80% giao dịch thương mại quốc tế.Việt Nam hiện chưa
phải thành viên của Công ước trong khi giao dịch thương mại quốc tế đang ngày
càng trở thành một phần quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Bài viết này nhằm
giới thiệu sơ lược về Công ước Viên 1980, phân tích bài học của các nước khi tham
gia CISG và những lợi ích và bất lợi về kinh tế, pháp lý và các khía cạnh khác của
Việt Nam khi cân nhắc việc trở thành một thành viên của Công ước.
Nhóm tác giả

iii


1.

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CISG

1.

Lịch sử hình thành


Năm 1965, Liên Hiệp Quốc lập ra Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật Thương Mại Quốc tế
(“UNCITRAL”) với mục đích lập ra hệ thống luật chung cho các hợp đồng mua bán quốc
tế. Công ước này được đóng góp và bổ sung bởi các học viện, tổ chức, thương nhân, nhà
ngoại giao và luật sư từ hơn 61 quốc gia đại diện những quy phạm pháp luật khác nhau.
UNCITRAL nhất trí phê duyệt dự thảo và trình lên Hội đồng Liên Hiệp quốc. CISG được
phê duyệt chính thức năm 1980 tại Viên và được dịch sang 6 ngôn ngữ: tiếng Ả Rập, tiếng
Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha. Hiện nay, Công ước Viên là
một trong những công ước quốc tế về thương mại được phê chuẩn và áp dụng rộng rãi nhất,
với 74 thành viên (tính đến ngày 11/4/2010/) ước tính CISG điều chỉnh khoảng 80% giao
dịch thương mại quốc tế.
2.

Nội dung chính của Công ước

Công ước Viên 1980 (“CISG”) được đưa ra nhằm mục đích giảm thiểu những xung đột
trong các giao dịch thương mại quốc tế nhờ đưa ra một khung pháp lý thống nhất, có thể áp
dung tại mọi quốc gia không phân biệt trình độ phát triển kinh tế. Đối tượng áp dụng của
Công ước là hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc
gia khác nhau là thành viên của công ước và một số trường hợp mua bán hàng hóa quốc tế
khác.
Về vấn đề xác lập hợp đồng mua bán,1 CISG thừa nhận quy tắc Đề Nghị – Chấp Nhận
(offer-acceptance rule).2 Công ước quy định một thư chào giá phải được gửi đến một người
cụ thể và miêu tả đầy đủ về hàng hóa, số lượng, giá cả và những ràng buộc liên quan. Thư
chào hàng có thể được thu hồi nếu thư thu hồi đến khách hàng trước hoặc cùng lúc với thư
chào hàng, hoặc trước khi khách hàng gửi lại thư chấp thuận. Bất kỳ sự thay đổi nào với
thư chào hàng gốc đều được xem như sự từ chối thư chào hàng trừ phi các điều khoản sửa
chữa không làm thay đổi những điều khoản thiết yếu của thư chào hàng.
1

Phần 2, Điều 14-24 CISG.

CISG Điều 18.2 quy định một chấp thuận chào giá sẽ có hiệu lực khi người chào giá nhận được chấp thuận
này .
2

Page 1


Về các điều khoản hợp đồng, CISG quy định nghĩa vụ và trách nhiệm về rủi ro hàng hóa
của người mua và người bán:
− Người bán có nghĩa vụ giao hàng và các văn bản liên quan theo như hợp đồng,
không bị ràng buộc bởi bất cứ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trừ
trường hợp người mua đồng ý nhận loại hàng bị ràng buộc vào quyền hạn và yêu
sách như vậy.
− Người mua phải thực hiện các thủ tục nhận hàng và thanh toán tiền hàng.
Đồng thời, CISG cũng đưa ra các biện pháp bảo hộ pháp lý trong trường hợp người mua vi
phạm hợp đồng và quy định rõ khì nào Công ước được áp dụng và việc áp dụng Công ước
cho những hoạt động mua bán quốc tế khi hai nước liên quan có pháp luật tương tự nhau về
chủ thể.
3.

Ý nghĩa của CISG đối với xu hướng thống nhất luật pháp quốc tế về hợp đồng
mua bán hàng hóa

Thống nhất và hài hòa hóa luật pháp quốc tế về hợp đồng thương mại là một xu hướng phát
triển tất yếu của thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế hiện nay đã trở thành một phần
quan trọng của nền kinh tế.3 Việc giảm thiểu chi phí giao dịch quốc tế là một mục tiêu quan
trọng của tất cả các chính phủ cũng như các doanh nghiệp, trong đó một biện pháp hữu hiệu
là đơn giản hóa giao thương quốc tế bằng cách xóa bỏ các rào cản pháp lý 4 và tăng cường
tính ổn định pháp luật của giao dịch quốc tế. 5 Để thực hiện điều này, việc tạo ra một bộ luật


3

Điều này có thể được minh chứng qua việc từ sau thế chiến thứ 2, xuất khẩu hàng hóa quốc tế đã tăng 172
lần (từ 59 triệu USD năm 1948 lên 10.159 triệu USD năm 2005, (World Trade Report 2006, trang 6) truy cập
tại < ngày 10/8/2009; hiện
nay xuất khẩu hàng hóa dịch vụ chiếm tới 27% tổng số GDP của thế giới (World Trade Report 2008, trang
64) truy cập tại < ngày
10/8/2009.
4
Trong giao dịch nội địa, người bán và người mua thường dễ dàng tìm được luật áp dụng chung điều chỉnh
quan hệ giao dịch của mình. Tuy nhiên, khi nguời bán và người mua ở hai quốc gia khác nhau với văn hóa và
nền pháp luật khác nhau, vấn đề luật áp dụng trở nên rất phức tạp vì các nền luật pháp khác nhau sẽ trở thành
rào cản pháp lý của quan hệ giao dịch quốc tế.
5
John Felemegas (ed.), An International Approach to the Interpretation of the United Nations Convention on
Contracts for the International Sale of Goods (1980) as Uniform Sales Law (Cambridge 2007) 3.

2


thương mại quốc tế thống nhất trong khuôn khổ CISG 6 mang lại rất nhiều lợi ích không cần
phải bàn cãi.7 Như giáo sư Hackney đã nhận xét:
“…nhờ đó doanh nhân sẽ không phải lo lắng về những hệ thống pháp lý nước
ngoài, vì chỉ có một hệ thống chung mà cả thế giới thương mại sử dụng. Điều
này giảm thiểu rủi ro pháp lý thường gặp trong thương mại quốc tế và tăng lợi
ích giao dịch thương mại chung.”8
Trong số các nỗ lực thống nhất luật pháp hợp đồng quốc tế, Công ước Viên được đánh giá
là hết sức thành công, bởi ngôn ngữ luật chung, quy mô và tính chất áp dụng bắt buộc của
nó. Ý nghĩa của CISG được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, so với các công ước đa phương khác về mua bán hàng hóa (như các công ước

Hague 1964)9 CISG là Công ước quốc tế có quy mô lớn hơn hẳn về số quốc gia tham gia và
mức độ được áp dụng.10 CISG cũng trở thành nguồn luật trong nước của rất nhiều quốc gia.
Thứ hai, CISG được đánh giá là ông tổ của Các nguyên tắc UNIDROIT 11 hay Các nguyên
tắc của Luật Hợp đồng Châu Âu (PECL).12 Trên cơ sở nền tảng của CISG, Các nguyên tắc
này đã trở thành một nguồn luật quốc tế quan trọng, được nhiều quốc gia và doanh nhân sử
dụng trong thương mại giao dịch quốc tế.
Thứ ba, CISG cũng được khuyến khích áp dụng cho các giao dịch không thuộc khuôn khổ
CISG như một Lex Mercatoria.13 Nhiều doanh nhân các nước đã tự nguyện áp dụng áp
6

Có hai phương thức chính để thống nhất luật: (1) thống nhất xung đột pháp luật; và (2) thống nhất chính các
quy định luật. CISG thuộc hình thức thống nhất luật thứ hai.
7
Xem G Conetti 'Uniform Substantive and Conflicts Rules on the International Sale of Goods and Their
Interaction' trong P. Sarcevic & P. Volken (eds), International Sale of Goods (Dubrovnik Lectures Oceana,
1986); V. Susanne Cook, ‘The Need for Uniform Interpretation of the 1980 United Nations Convention on
Contracts for the International Sale of Goods’ (1988) 50 University of Pittsburgh Law Review 197; Gyula
Eörsi, ‘Problems of Unifying Law on the Formation of Contracts for the International Sale of Goods’ (1979)
27 The American Journal of Comparative Law, 311-323.
8
Philip T. Hackney, ‘Is the United Nations Convention on the International Sale of Goods Achieving
Uniformity?’ (2000-2001) 61 La. L. Rev. 473, 474.
9
Các công ước Uniform Law on International Sale (ULIS) và Uniform Law on the Formation of contracts of
sales (ULF) được thông qua tại Hội nghị Hague năm 1964 và có hiệu lực từ tháng 8/1972.
10
Điều đáng nói là khi các quốc gia phê chuẩn tham gia CISG, các điều khoản của CISG sẽ tự động được áp
dụng một cách bắt buộc đối với giao dịch thương mại quốc tế và trở thành luật nội địa của các quốc gia thành
viên.
11

UNIDROIT Principles of International Commercial Contracts
12
The Principles of European Contract Law (PECL) công bố năm 1999.
13
Berthold Goldman định nghĩa Lex Mercatoria là “là một bộ nguyên tắc và tập quán được viện dẫn và áp
dụng trong khuôn khổ thương mại quốc tế mà không cần dẫn chiếu đến bất kỳ hệ thống luật quốc gia nào.”

3


dụng CISG cho các giao dịch thương mại quốc tế của mình mặc dù các giao dịch này
không thuộc phạm vi áp dụng của Công ước.
2.

NHỮNG LỢI ÍCH VÀ BẤT LỢI KHI THAM GIA CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 –
BÀI HỌC TỪ CÁC NƯỚC

1.

Anh – thể chế kinh tế lớn nhất chưa tham gia Công ước Viên 1980

Sau gần 30 năm ra đời, CISG vẫn chưa được Vương quốc Anh phê chuẩn. Tuy nhiều quốc
gia đã trở thành thành viên của Công ước (trong đó có Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc,…)
nhưng cường quốc này vẫn đứng ngoài cuộc và không hề có động thái chính thức nào về
việc tham gia. Dưới đây đề cập đến 3 nguyên nhân chính.
Đầu tiên, những lợi ích Công ước Viên mang lại chưa thu hút được sự quan tâm của thành
phần kinh tế. Hai cuộc khảo sát năm 1989 và 1997 lấy ý kiến của các doanh nghiệp Anh
về việc gia nhập CISG cho thấy đa số các tập đoàn kinh tế lớn không mấy hứng thú với
Công ước này, trong đó có ICI, BP, Shell,… và rất nhiều tổ chức bỏ phiếu thuận năm 1989
cũng thay đổi ý định của mình vào năm 1997. Hầu hết họ cho rằng việc tham gia công ước

sẽ càng gây thêm nhiều tranh chấp và làm giảm tầm ảnh hưởng của luật Anh trên trường
quốc tế. Tham gia một chuẩn mực như CISG sẽ làm giảm đi đáng kể thu nhập từ việc xét
xử các vụ tranh chấp hợp đồng tại nước này. Hơn nữa tính đến thời điểm hiện tại, nền kinh
tế Anh không hề bị ảnh hưởng tiêu cực bởi việc không phê duyệt CISG.
Thứ hai, một số điều luật của Công ước được xem là cái bẫy đặt ra cho các luật sư Anh.
Angelo Forte – giảng viên Luật của Đại học Aberdeen, Scotland – đã chỉ rõ những “cái
bẫy” này trong một bài nghiên cứu của mình. Thứ nhất, luật áp dụng trong các hợp đồng
mua bán là luật của nước thành viên Công ước (quy định tại khoản b của Điều 1) đồng
nghĩa với việc loại bỏ Luật của Anh ra khỏi vị trí ưu tiên áp dụng, và điều này thì chắc
chắn những nhà lập pháp của Anh không hề mong đợi. “Cái bẫy” thứ 2 ở điều 16 (2)a về
điều kiện “chào hàng không thể bị thu hồi”. Công ước quy định rằng chào hàng không thể
Đặc điểm chính của Lex Mercatoria là tính chất “bổ sung luật” (nghĩa là không phải luật nhưng bổ sung, hỗ
trợ làm rõ các quy định luật) và “xuyên quốc gia” (phát triển và được thừa nhận bởi cộng đồng thương mại
quốc tế). Các thảo luận về Lex Mercatoria có thể xem tại Monica Kilian, ‘CISG and the Problem with
Common Law Jurisdictions’ (2001) 10 J. Transnational Law & Policy 217, 219-26. Xem them F. Ferrari,
‘Uniform Interpretation of The 1980 Uniform Sales Law’ (1994-95) 24 Georgia Journal of International and
Comparative Law 183-228.

4


bị thu hồi nếu nó ấn định một thời hạn xác định để chấp nhận hay khẳng định rằng nó
không thể bị thu hồi”. Nhưng trong luật của Anh, chào hàng không thể bị thu hồi chỉ khi
“có hồi âm từ người mời thầu” và “người bán cam đoan không thu hồi”, tức là 2 điều kiện
này phải đồng thời diễn ra. Vì những nguy hiểm tiềm ẩn như vậy, các luật sư phải hết sức
cẩn thận khi soạn thảo và thương thuyết hợp đồng.
Ngoài ra, trở ngại về ngôn ngữ cũng được xem là một nguyên nhân đáng kể cho việc từ
chối tham gia. Như đã nói ở trên, quy phạm pháp lý quốc gia hiện hành tại Vương quốc
Anh và các điều khoản của Công ước 1980 không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy chỉ cần
một cách diễn đạt hay lối hành văn bị hiểu sai là có thể dẫn đến sự tổn thất nghiêm trọng

cho hệ thống Luật quốc gia. Ví dụ, những thuật ngữ quá chung được sử dụng trong công
ước như “tính Quốc tế”, “việc áp dụng thống nhất Công ước”, “tuân thủ trong thương mại
Quốc tế” tại Điều 7 sẽ gây nhiều tranh cãi trong cách hiểu và áp dụng.
Vì các lý do trên và nhiều lý do khách quan, chủ quan khác mà Vương quốc Anh đã và
đang từ chối việc gia nhập Công ước Viên – một Công ước mang tính Quốc tế cho các
thương vụ liên quốc gia.
2.

Nam Phi – nền kinh tế có hoàn cảnh tương tự Việt Nam

CISG được soạn thảo và đưa ra bàn luận giữa đại diện các nước trên thế giới trong sự vắng
mặt của Nam Phi vì Quốc gia này thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng trong thời gian đó.
Vì vậy họ không có đóng góp nào đáng kể đối với sự hình thành của CISG.
Theo giáo sư Sieg Eiselen,14 cho đến thời điểm này vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn về
việc nên hay không nên áp dụng một quy phạm thống nhất cho các hợp đồng mua bán
Quốc tế tại Nam Phi. Mâu thuẫn càng gay gắt hơn khi bàn đến sự tham gia trở thành nước
thành viên của Công ước Viên – Công ước được áp dụng cho hơn 2/3 tổng giao dịch hàng
hóa trên toàn thế giới hiện nay.
Phía ủng hộ cho rằng việc áp dụng Công ước Viên 1980 sẽ mang lại những lợi ích đáng kể:

14

Sieg Eiselen, “Adoption of the Vienna Convention for the International Sale of Goods (the CISG) in South
Africa” 116 South African Law Journal, Part II (1996) 323-370.

5


Về lĩnh vực pháp lý, áp dụng Công ước Viên sẽ loại bỏ các xung đột giữa luật Thương mại
Nam Phi và luật nước ngoài, các vụ mậu dịch sẽ không còn phải “chọn luật” như từ trước

đến nay. Ngoài ra, không những Công ước không xung đột với bất cứ điều luật hiện hành
của Nam Phi mà còn giúp hoàn chỉnh các điều luật đó theo chuẩn mực toàn cầu.
Về lĩnh vực kinh tế, Công ước giúp đơn giản hóa các thương vụ mua bán bằng việc áp dụng
quy trình chung, là tài liệu chuẩn để giải quyết các tranh chấp hợp đồng nếu có. Từ đó tiết
kiệm thời gian và chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Nam Phi,
nhất là những doanh nghiệp nhỏ.
Hầu hết các nước đối tác lớn đều đã tham gia thành viên của Công ước này (như Mỹ, Trung
Quốc, các nước Châu Âu,…) nên việc trở thành nước thành viên chứng tỏ khả năng hòa
nhập của Nam Phi trên trường Quốc tế.
Bên cạnh đó cũng có không ít ý kiến phản đối việc gia nhập, họ nêu ra những bất cập như:
Gia nhập CISG sẽ tạo ra hơn 1 hệ thống luật thương mại tồn tại ở Quốc gia này, từ đó dễ
gây cồng kềnh bộ máy quy phạm pháp luật. Những người phản đối cho rằng phía ủng hộ
Công ước đã quá phóng đại các mâu thuẫn về tranh chấp hợp đồng mà thật ra luật Quốc gia
hiện hành hoàn toàn có thể xử lý được. Không những vậy, khi tham gia Công ước, luật
pháp trở nên cứng nhắc và khó điều chỉnh vì để sửa đổi một điều khoản trong Công ước cần
có sự đồng tình của toàn bộ các nước thành viên.
Mặt khác, văn hóa thương mại và ngôn ngữ khác nhau giữa các Quốc gia khiến việc biên
dịch Công ước này tại Nam Phi có thể gây ra những sự không rõ ràng và mâu thuẫn trong
hệ thống luật (như đã phân tích đối với nước Anh).
3.

Tranh cãi ở Nhật Bản khi tham gia Công ước Viên

Nhật Bản đã gia nhập Công ước Viên ngày 1/8/2009, sau gần ba mươi năm CISG được phê
duyệt và sau gần hai mươi năm kể từ khi CISG chính thức có hiệu lực. Tại sao cường quốc
kinh tế lớn thứ hai thế giới này lại chậm trễ trong việc gia nhập CISG như vậy?
Chưa bao giờ Nhật Bản phản đối việc tham gia Công ước Viên 1980, tuy nhiên trong
khoảng thời gian khủng hoảng kinh tế ưu tiên hàng đầu đối với Chính Phủ Nhật là thoát
6



khỏi khủng hoảng. Mặt khác, vào thập niên 90 chỉ có khoảng 30 nước tham gia CISG, chưa
có một xu hướng rõ rệt hay câu trả lời chính xác rằng CISG sẽ được sử dụng rộng rãi hay
không cùng với việc thiếu sự hậu thuẫn về kinh tế từ các tập đoàn kinh doanh lớn nên Nhật
đã không tham gia CISG cho đến 1/8/2009. Có ba lý do chính cho sự thay đổi này:
Thứ nhất, việc tham gia và sử dụng CISG trong giao dịch thương mại quốc tế đã trở thành
xu thế toàn cầu. Đã có 74 quốc gia tham gia Công ước, ngay cả những nước chưa tham gia
cũng có thể sử dụng công ước như một luật điều chỉnh hợp đồng.
Thứ hai, hiện nay nền kinh tế đã đi vào ổn định, Chính Phủ Nhật đã có điều kiện tập trung
thời gian cũng như nhân lực vào công tác nghiên cứu tác động của CISG, và đã sớm khẳng
định những lợi ích mà CISG mang lại. Các thương gia chính là những người nhận thức rõ
nhất lợi ích của việc tham gia CISG như giảm chi phí khi sử dụng một bộ luật thống nhất
cho các giao dịch quốc tế, hay có thể cắt giảm chi phí cho việc đàm phán bộ luật điều chỉnh
hợp đồng. Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật Bản với
các nước châu Á ngày càng tăng, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch. Nhiều nước châu Á
là các nước đang phát triển, cần hoàn thiện hệ thống luật pháp nên việc xác định được một
bộ luật thống nhất có ý nghĩa rất lớn trong quá trình giao thương này.
Thứ ba, nhiều thương gia, cũng như các nhà làm luật đã trở nên quen thuộc với CISG do
nhiều điều khoản cũng như khái niệm của CISG đã được đưa vào luật dân sự của Nhật. Vì
vậy tâm trạng e dè đối với việc tham gia CISG hầu như không còn nữa.
3.

NHỮNG LỢI ÍCH VÀ BẤT LỢI CHO VIỆT NAM KHI THAM GIA CÔNG
ƯỚC VIÊN 1980

1.

Hệ thống quy định pháp lý về mua bán hàng hóa tại Việt Nam
1.1. Vấn đề luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế


Trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, các hoạt động thương mại phải tuân theo Luật Thương
Mại và pháp luật có liên quan (Khoản 1 Điều 1 và Khoản 1 Điều 4 Luật Thương Mại). Tuy
nhiên, các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng
pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán

7


thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam
(Khoản 2 Điều 5 Luật Thương Mại).
Ngoài ra, đối với các hoạt động thương mại không được quy định trong Luật Thương Mại
và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ Luật Dân Sự (BLDS) (Khoản 3 Điều 4
Luật Thương Mại) vì về mặt nguyên tắc, BLDS được áp dụng đối với quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài,15 trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên có quy định khác (Khoản 3 Điều 2 BLDS).
1.2. Hiệu lực của hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự giao kết một giao dịch dân sự. Luật Thương Mại
không có quy định về các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có hiệu lực, nên
chúng ta có thể dẫn chiếu các quy định trong BLDS, theo đó, giao dịch dân sự (hay hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế) có hiệu lực khi có đủ một số điều kiện. 16 Về cơ bản CISG
không điều chỉnh những nội dung này.17
1.3. Giao kết hợp đồng
Theo quy định của pháp luật Việt Nam đối với hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng, việc giao kết hợp đồng được thực hiện theo nguyên tắc
“Đề Nghị - Chấp Nhận” (Offer – Acceptance). Cụ thể, hợp đồng được giao kết vào thời
điểm Bên Đề Nghị nhận được trả lời Chấp Nhận giao kết của Bên Được Đề Nghị hoặc Bên

15

Quan hệ dân sự được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân-gia đình, kinh

doanh, thương mại, lao động (Điều 1 BLDS).
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ
chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên
tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp
luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài (Điều 758
BLDS)
16
Theo Khoản 1 Điều 22 và Khoản 1 Điều 429 BLDS Theo Khoản 2 Điều 25 của Luật Thương Mại, các điều
kiện này bao gồm: (1) Chủ thể có năng lực hành vi dân sự; (2) Đối tượng của hợp đồng mua bán là tài sản
được phép giao dịch (không thuộc hàng hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hóa kinh
doanh có điều kiện); (3) Mục đích và nội dung không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã
hội; và (4) Chủ thể tham gia hoàn toàn tự nguyện.
17
Điều 4 của CISG quy định: trừ khi có quy định cụ thể, Công ước không điều chỉnh tính hiệu lực của hợp
đồng hay các điều khoản của nó; hiệu lực của hợp đồng đối với việc sở hữu hàng hóa đã bán.

8


Được Đề Nghị im lặng (nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết), 18 nội
dung cụ thể như sau:


Đề Nghị giao kết hợp đồng:19

Đề nghị giao kết có hiệu lực (i) theo ấn định của Bên Đề Nghị hoặc (ii) khi Bên Được Đề
Nghị nhận được đề nghị đó.20 Bên Được Đề Nghị được xem là nhận được đề nghị khi (i) Đề
Nghị được chuyển đến trụ sở của bên nhận đề nghị, (ii) Đề Nghị được đưa vào hệ thống
thông tin chính thức của Bên Được Đề Nghị hoặc (iii) Bên Được Đề Nghị biết được đề
nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác.21

Đề Nghị giao kết có thể được rút lại hoặc thay đổi nếu (i) việc thay đổi hoặc rút lại Đề Nghị
được thông báo trước hoặc vào thời điểm nhận được Đề Nghị của Bên Được Đề Nghị hoặc
(ii) đáp ứng điều kiện của việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị nếu có quy định các điều kiện
này trong Đề Nghị.22 Đề Nghị giao kết chỉ có thể được hủy bỏ nếu (i) trong Đề Nghị có quy
định quyền của Bên Đề Nghị có thể hủy bỏ và (ii) Bên Được Đề Nghị nhận được thông báo
hủy bỏ trước khi trả lời Chấp Nhận đề nghị giao kết.23
Đề Nghị giao kết được chấm dứt khi (i) Bên Được Đề Nghị không chấp nhận, (ii) hết thời
hạn trả lời chấp nhận mà chưa nhận được Chấp Nhận của Bên Được Đề Nghị, (iii) thông
báo thay đổi hoặc rút lại Đề Nghị có hiệu lực, (iv) thông báo hủy bỏ Đề Nghị có hiệu lực
hoặc (v) các bên có thỏa thuận khác. Ngoài ra Đề Nghị có thể được sửa đổi theo đề xuất
của Bên Được Đề Nghị (counter-offer). Trong trường hợp này, Bên Được Đề Nghị xem
như đã đưa ra một Đề Nghị mới.24

18

Khoản 1 và 2 Điều 404 BLDS. Điều này phù hợp với điều 15 của CISG. Riêng về vấn đề im lặng, Công
ước quy định rõ tại Điều 18.1: im lặng hoặc không có hành động không được hiểu là Chấp Nhận.
19
Theo Khoản 1 Điều 390 BLDS, Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện ý định giao kết hợp đồng và
chịu sự ràng buộc về Đề Nghị này của Bên Đề Nghị đối với Bên Được Đề Nghị đã được xác định cụ thể.
20
Khoản 1 Điều 391 BLDS. Theo Điều 15.1 CISG, Đề nghị giao kết chỉ có hiệu lực khi Bên Được Đề Nghị
nhận được đề nghị đó.
21
Khoản 2 Điều 391 BLDS.
22
Khoản 1 Điều 392 BLDS. Nếu Bên Đề Nghị giao kết hợp đồng với bên thứ ba trong thời hạn chờ trả lời
chấp thuận của Bên Được Đề Nghị (nếu trong đề nghị có nêu rõ thời hạn trả lời), Bên Đề Nghị phải bổi
thường thiệt hại cho Bên Được Đề Nghị nếu có thiệt hại phát sinh (Khoản 2 Điều 390 BLDS).
23

Điều 393 BLDS. Quy định này trên thực tế chặt chẽ hơn so với CISG, theo Điều 15.2 của CISG Đề nghị
giao kết có thể được hủy bỏ ngay cả khi trong Đề Nghị không quy định quyền hủy bỏ của Bên Đề Nghị.
24
Điều 394 và 395 BLDS.

9




Chấp Nhận giao kết hợp đồng:25

Chấp Nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn chờ trả lời chấp nhận đã được
Bên Đề Nghị ấn định trong Đề Nghị. Quá thời hạn trên, nếu Bên Đề Nghị nhận được Chấp
Nhận của Bên Được Đề Nghị, Chấp Nhận này sẽ được xem là Đề Nghị mới của Bên Được
Đề Nghị đối với Bên Đề Nghị.26 Trong trường hợp giao tiếp trực tiếp (kể cả điện thoại hoặc
các phương tiện khác), Bên Được Đề Nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hay không chấp
nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Khoản 2 Điều 397 BLDS). Chấp Nhận có thể
được rút lại nếu đến trước hoặc vào cùng thời điểm Bên Đề Nghị nhận được Chấp Nhận
này.27
Có thể nói, ngoại trừ một số chi tiết cụ thể, hầu hết các quy định của pháp luật Việt Nam
liên quan đến giao kết hợp đồng đều tương thích với những nguyên tắc cơ bản của Công
ước Viên 1980.
1.4. Hình thức của hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập
bằng hành vi cụ thể (Khoản 1 Điều 24 Luật Thương Mại). Riêng đối với hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, Luật Thương Mại chỉ công nhận theo hình thức văn bản hoặc bằng hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương.28 Theo BLDS, hợp đồng dân sự có thể được giao
kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, trừ một số loại hợp đồng có yêu
cầu riêng.29

1.5. Nội dung hợp đồng và nghĩa vụ của các bên

25

Điều 396 BLDS quy định: Chấp Nhận giao kết hợp đồng là sự đồng ý của Bên Được Đề Nghị đối với Bên
Đề Nghị đối với toàn bộ nội dung của Đề Nghị (). Như vậy, nếu Bên Được Đề Nghị chỉ chấp nhận một phần
nội dung của Đề Nghị và đề xuất sửa đổi hoặc đưa ra điều kiện đối với Bên Đề Nghị, theo Điều 395 BLDS,
Bên Được Đề Nghị đã đưa ra một Đề Nghị mới.
26
Tuy nhiên Chấp Nhận vẫn có hiệu lực nếu đến chậm vì lý do khách quan với điều kiện Bên Đề Nghị biết
hoặc phải biết về lý do khách quan này trừ trường hợp Bên Đề Nghị trả lời ngay không đồng ý với Chấp Nhận
đó (Khoản 1 Điều 397 BLDS).
27
Điều 400 BLDS. Điều này hoàn toàn tương thích với Điều 15.2 của CISG.
28
Khoản 2 Điều 27 Luật Thương Mại.
29
Khoản 1 Điều 401 BLDS. Điều 11 của CISG cũng quy định tương tự, tức là một hợp đồng mua bán hàng
hóa không nhất thiết phải ký bằng văn bản và không có yêu cầu nào về hình thức.

10


Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải tuân thủ theo quy định của pháp
luật Việt Nam. Cụ thể bao gồm: 30 (i) Đối tượng của hợp đồng; (ii) Chất lượng, số lượng;
(iii) Giá, phương thức thanh toán; (iv) Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp
đồng; (v) Quyền và nghĩa vụ của các bên; 31 (vi) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; (vii)
Phạt vi phạm hợp đồng; (viii) Các nội dung khác theo thỏa thuận của các bên không trái với
quy định của pháp luật. Như đã nêu trên, Công ước Viên không quy định các yêu cầu này.
Điều 34-62, Mục 2, Chương II, Luật Thương mại 2005 quy định về nghĩa vụ của các bên

trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, do các quy định này được áp dụng chung
cho mua bán hàng hóa cả trong nước lẫn quốc tế, hầu hết các điều khoản đều có độ vênh
nhất định so với CISG (được soạn thảo riêng cho mua bán quốc tế)

32

và còn thiếu nhiều

quy định liên quan đến mua bán xuyên quốc gia.33
2.

Lợi ích của Việt Nam khi tham gia Công ước Viên 1980
2.1. Lợi ích về kinh tế

Việt Nam đang trên con đường hội nhập một cách chủ động và tích cực vào nền kinh tế thế
giới, đẩy mạnh các hoạt động thương mại quốc tế, trong đó thương mại hàng hóa vẫn là
hoạt động sôi động nhất là động lực và từ lâu đã đóng vai trò quan trọng cho tăng trưởng
kinh tế trong nước, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO.
Do đó, việc xác định một nguồn luật thống nhất điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế sẽ mang lại lợi ích kinh tế không nhỏ cho Việt Nam vì hầu hết các cường quốc
thương mại trên thế giới đều đã gia nhập Công ước Viên, trong đó có rất nhiều quốc gia là
bạn hàng lớn và lâu dài của Việt Nam như Pháp, Mỹ, Italia, Liên bang Nga, Canada, Đức,
Hà Lan, Australia, Trung Quốc…Các công ty, doanh nghiệp của các nước này đã áp dụng
và đã quen áp dụng Công ước Viên cho các hợp đồng mua bán hàng hoá ký với các đối tác
nước ngoài.
30

Điều 402 BLDS.
Điều 769 BLDS quy định: quyền và nghĩa vụ các bên được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện
hợp đồng trừ khi có thỏa thuận khác. Nếu trong hợp đồng không quy định về nơi thực hiện thì việc xác định

nơi thực hiện hợp đồng phải tuân theo pháp luật Việt Nam.
32
Do khuôn khổ có hạn, bài viết này không phân tích so sánh chi tiết quy định của Luật Việt Nam và CISG về
nghĩa vụ các bên trong mua bán hàng hóa.
33
Điều 27-33 của Luật Thương mại quy định về hàng hóa xuất nhập khẩu. Tuy nhiên các điều này không quy
định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán hàng hóa quốc tế.
31

11


CISG mang lại cho Việt Nam ba lợi ích kinh tế lớn sau:
Thứ nhất, đơn giản hóa, giảm chi phí luật trong quá trình thương mại quốc tế
Như chúng ta đã biết, càng ít nhân tố gây trở ngại nền kinh tế càng tự do thì thị trường càng
hoạt động hiệu quả và có tính cạnh tranh cao. Trong đó nhân tố gây trở ngại lớn nhất cho
giao dịch thương mại quốc tế, đăc biệt cho những nước đang phát triển như Việt Nam,
chính là môi trường luật nước ngoài. Hơn nữa trong đàm phán ký kết hợp đồng giữa Việt
Nam và các nước phát triển thì luật được chọn để điều chỉnh thường là luật của các nước
phát triển vì các doanh nghiệp Việt Nam có ít thế và lực trong đàm phán lựa chọn luật áp
dụng cho hợp đồng. Điều này làm doanh nghiệp trong nước khó đánh giá được kết quả kinh
doanh vì môi trường luật của nước ngoài thường không ổn định và chứa đựng nhiều rủi ro.
Việc áp dụng CISG như một nền tảng luật cho các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ
giảm sự bất ổn và các chi phí pháp luật liên quan.
CISG cung cấp một nguồn luật mà các thương gia_ thường là những người không chuyên
về luật_ dễ dàng hiểu rõ vì CISG được soạn thảo không phải bằng ngôn ngữ chuyên ngành
luật. Như vậy sẽ giảm chi phí nghiên cứu tìm hiểu luật trước khi ký hợp đồng hay có bất kỳ
tranh chấp nào xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng vì đã có một nguồn luật thống
nhất.
Hơn nữa các doanh nghiệp trong nước sẽ ít phải áp dụng Luật nước ngoài, tạo điều kiện

cho các doanh nghiệp có cơ hội bảo vệ mình vì việc tham dự một phiên tòa tại nước ngoài,
sử dụng nguồn luật nước ngoài là bất lợi lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những đối tượng ít có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ pháp lý.
Những lợi ích do một văn bản thống nhất luật như Công ước Viên đem lại cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ càng lớn, thì chúng ta lại càng khẳng định những lợi ích mà Công ước
này đem lại cho Việt Nam, một quốc gia ở đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đến 80%
số lượng các doanh nghiệp.
Thứ hai, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có cơ hội cạnh tranh công bằng
trên thị trường quốc tế

12


Nếu các bên làm hợp đồng trên một cơ sở luật chung thì sẽ dễ dàng đánh giá các lựa chọn,
chào giá khác nhau trên thị trường về rủi ro, độ chặt và nghĩa vụ trong hợp đồng. Điều này
làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, mang lại lợi ích về mặt
kinh tế không nhỏ.
Thứ ba, tăng cường hoạt động trao đổi hàng hóa giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế
giới
Với tính chất là một văn bản thống nhất luật, Công ước Viên đã thống nhất hoá được nhiều
mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới, đóng vai trò quan trọng
trong việc giải quyết các xung đột pháp luật trong thương mại quốc tế và thúc đẩy thương
mại quốc tế phát triển.
Trong quá trình tiến hành trao đổi hàng hóa với các đối tác nước ngoài, việc áp dụng các
văn bản luật quốc gia sẽ gây nhiều khó khăn, bất lợi, làm phát sinh những xung đột pháp
luật với các nước khác và khi giải quyết tranh chấp cũng khó khăn. Khi gia nhập Công ước
Viên, Việt Nam sẽ thống nhất nguồn luật áp dụng trong mua bán hàng hóa quốc tế với các
nước đối tác khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Khi đó, các thương nhân Việt
Nam và thương nhân nước ngoài sẽ cùng chung tiếng nói, cùng chung một cơ sở pháp lý và
các mối quan hệ mua bán hàng hóa sẽ gắn chặt hơn, lâu bền hơn và rộng mở hơn nữa, tránh

được các tranh chấp phát sinh.
2.2. Lợi ích về pháp lý
Ngoài những lợi ích về mặt kinh tế, việc tham gia Công ước Viên có thể đem lại những lợi
ích rõ ràng cho Việt Nam về mặt pháp lý.
Thứ nhất, với nền kinh tế mới phát triển và mở cửa quốc tế chưa lâu, hệ thống quy phạm
pháp luật của Việt Nam về mua bán hàng hóa quốc tế còn rất nhiều thiếu sót và cần nhiều
nguồn luật quốc tế bổ sung. Quan trọng hơn, như trên đã phân tích, các quy định này hầu
hết được soạn thảo để điều chỉnh quan hệ dân sự trong nước, chứ không có những quy định
cụ thể, riêng biệt cho giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế. Việc tham gia và áp dụng CISG
sẽ giúp hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa quốc tế theo
hướng ổn định, rõ ràng, công bằng hơn và phù hợp với xu thế chung của luật pháp quốc tế.
13


Thứ hai, là một hệ thống Dân luật (Civil Law), cách tiếp cận của hệ thống luật Việt Nam
khá trùng khớp với Công ước Viên, vì thế khi tham gia CISG Việt Nam sẽ không gặp phần
lớn những khó khăn về tìm hiểu và áp dụng án lệ như trường hợp của các nước theo hệ
thống Thông luật (Common Law), cũng như sẽ gặp ít khó khăn hơn về việc giải thích ngôn
ngữ trong Công ước.
Thứ ba, việc CISG trở thành một phần luật nội địa sẽ tạo điều kiên cho việc xử án, xử trọng
tài tại Việt Nam trở nên thống nhất và dễ dàng hơn, bởi chỉ có một nguồn luật được giải
thích và áp dụng. Các doanh nhân, trọng tài viên, thẩm phán đều không cần xem xét,
nghiên cứu và cân nhắc bất kỳ nguồn luật nước ngoài nào khác ngoài CISG. Việc giải thích
và áp dụng CISG dễ dàng hơn rất nhiều việc viện dẫn đến một hệ thống luật địa phương,
bởi vì việc diễn giải Công ước được hỗ trợ bởi Các nguyên tắc UNIDROIT, PECL (theo cơ
chế “bổ sung luật”), các Bình luận Chính thức của Ban Tư vấn CISG, 34 các án lệ của CISG
đăng tải trên hệ thống dữ liệu UNILEX, cũng như hàng ngàn bài viết học giả được đăng tải
trên trang web chính thức của CISG (PACE).
Thứ tư, ngay cả khi Việt Nam không tham gia CISG, có nhiều trường hợp CISG vẫn sẽ
được áp dụng trong thương mại quốc tế có một bên Việt Nam tham gia, cụ thể là: (1) nếu

quy phạm xung đột dẫn chiếu đến luật một nước là thành viên CISG; 35 (2) nếu các bên tham
gia giao dịch cùng lựa chọn áp dụng CISG; (3) khi trong hợp đồng các bên không lựa chọn
luật áp dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp (tòa án hoặc trọng tài) lựa chọn CISG để giải
quyết tranh chấp. Trong số hàng nghìn án lệ về CISG, 36 đã có một án lệ liên quan đến Việt
Nam về tranh chấp giữa Công ty thương mại Tây Ninh - Tanico (Việt Nam) và Công ty Ng
Nam Bee (Singapore), được xét xử tại Toà phúc thẩm - TAND Thành phố Hồ Chí Minh,
bản án tuyên ngày 4/5/1996. Trong đó toà án đã tham chiếu các điều 29, điều 53, điều 61.3

34

Ban tư vấn CISG (CISG-AC) được thành lập năm 2001 do nhu cầu ngày càng tăng của việc làm rõ các vấn
đề tranh cãi liên quan đến CISG. CISG-AC đóng góp vào việc hướng dẫn giải thích Công ước Viên thông qua
các Bình luận Chính thức. Hiện đã có 09 Bình luận Chính thức được công bố. Xem them tại
< truy cập ngày 10/8/2009.
35
Điều 1.1(b) CISG.
36
Theo UNILEX hiện có khoảng 767 án lệ của tòa án và 88 án lệ tòa trọng tài đã được công bố viện dẫn đến
CISG. Ngoài ra còn rất nhiều án lệ của các tòa trọng tài hoặc tòa án viện dẫn CISG có thể chưa được công bố
vì nhiều lý do khác nhau.

14


và 64.1 của CISG.37 Con số này chắc chắn sẽ còn tăng lên trong tương lai, vì vậy việc tham
gia CISG sớm sẽ giúp Việt Nam nhanh làm quen với Công ước hơn.
2.3. Các lợi ích khác
Ngoài lợi ích về mặt kinh tế và pháp lý nói trên, việc Việt Nam tham gia Công ước Viên
cũng sẽ có ý nghĩa lớn về mặt chính trị và ngoại giao, vì CISG, vốn được xây dựng trên cơ
sở hài hòa hóa lợi ích của các nước XHCN và các nước tư bản, các nước phương Đông và

phương Tây, các nước đã phát triển và các nước đang phát triển, được đánh giá là một
Công ước rất thành công và có ảnh hưởng bao trùm trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc
tế. Với mục tiêu phấn đấu trở thành đầu tàu của khối ASEAN trong việc là cầu nối phát
triển quan hệ ASEAN với các nước, tổ chức chính phủ khác trên thế giới, việc Việt Nam
tham gia Công ước Viên sẽ đánh dấu vai trò to lớn hơn nữa của Việt Nam trong việc thúc
đẩy phát triển quan hệ quốc tế nói chung.
3.

Bất lợi của Việt Nam khi tham gia Công ước Viên
3.1. Bất lợi về kinh tế

Những bất lợi về mặt kinh tế do CISG mang lại không đáng kể, các quốc gia thành viên
không có nghĩa vụ đóng góp về tài chính, không phải thành lập một cơ quan riêng để thực
thi Công ước, cũng không có bất kỳ nghĩa vụ báo cáo định kỳ nào. Nhìn chung, các nguyên
tắc của Công ước cũng phù hợp với các nguyên tắc chung của pháp luật hợp đồng Việt
Nam. Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Thương mại năm 2005 đã được ban hành trên cơ
sở tham khảo các văn bản luật quốc tế, trong đó có Công ước Viên, và vì vậy, nhìn chung là
tương thích với các nguyên tắc của Công ước này. Với lý do đó, khi gia nhập Công ước
Viên, Việt Nam không phải sửa đổi pháp luật hiện hành và không phát sinh chi phí cho việc
sửa đổi luật.
Tuy nhiên, trong giao dịch buôn bán quốc tế, mỗi ngành mỗi lĩnh vực đều có những điều
khoản hợp đồng chuẩn đặc thù ví dụ mua bán dầu, gạo, hoa quả tươi… và các doanh nghiệp
không muốn từ bỏ những điều khoản đã được sử dụng rộng rãi và quen thuộc này. Do đó
37

Xem án lệ số 74/VPPT ngày 4/5/1996 tại dssid=2376&dsmid=13354> truy cập ngày 10/4/2010.

15



cho dù Việt Nam có gia nhập CISG thì Công ước này cũng không thể điều chỉnh tất cả các
hợp đồng mua bán quốc tế trong đó có Việt Nam tham gia. Hơn nữa việc áp dụng CISG
cũng còn hạn chế trong quan hệ buôn bán giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh
nghiệp của các nước chưa tham gia công ước.
3.2. Bất lợi về pháp lý

Khi tham gia Công ước Viên, Việt Nam có thể gặp một số trở ngại về pháp lý sau:
Thứ nhất, nội dung Công ước Viên còn khá mới mẻ đối với hệ thống xây dựng pháp luật, tư
pháp và trọng tài ở Việt Nam, vì vậy các bên Việt Nam (doanh nghiệp, tòa án, trọng tài)
cần có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu, hiểu rõ khi áp dụng CISG trong các quan hệ giao
dịch thương mại quốc tế. Hiện nay tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu chuyên sâu về nội
dung CISG cũng như thực tiễn áp dụng CISG trên thế giới để áp dụng tại Việt Nam. 38 Điều
này khiến việc diễn giải, áp dụng CISG trong thực tế của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, trong hệ thống giáo dục pháp luật của Việt Nam nói chung (ngoại trừ một số rất ít
trường đại học chuyên ngành luật, hợp tác với nước ngoài) cũng chưa có nội dung nào giới
thiệu, đào tạo chuyên sâu về CISG. Các doanh nghiệp, nhà thực hành luật Việt Nam cũng
chưa có diễn đàn nào riêng để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm về CISG như tại nhiều nước
khác trên thế giới. Điều này cũng sẽ làm giảm sức mạnh, tiếng nói của các doanh nghiệp
Việt Nam, và khả năng xét xử tòa án, trọng tài tại Việt Nam khi có tranh chấp liên quan đến
CISG.
Thứ ba, một số chỉ trích của các nước đối với Công ước Viên ít nhiều đều đúng trong
trường hợp Việt Nam. Là kết quả của sự thỏa hiệp giữa quá nhiều bên, các điều khoản của
CISG thường không cụ thể, vì vậy được áp dụng không thống nhất tại các nước khác nhau,
thậm chí các tòa án khác nhau (tuy nhiên điều này có thể được giải quyết nếu nhận thức về
CISG được thống nhất giữa các nước). Trong quá trình soạn thảo, phê duyệt CISG, Việt
Nam không có cơ hội tham gia đóng góp ý kiến. Việc Công ước đề cao tính quốc tế, tránh
áp dụng các cách hiểu, hay sử dụng luật nội địa của các nước sẽ làm giảm ảnh hưởng của
38


Lấy ví dụ trên hệ thống dữ liệu chính thức của CISG (PACE), trong số hơn 1200 bài viết của học giả rất
nhiều nước bình luận, phân tích về CISG, chỉ có 02 bài viết là của học giả Việt Nam viết về CISG, nhưng
chưa có bài viết nào nghiên cứu về Việt Nam trong quan hệ với CISG.

16


luật pháp Việt Nam đối với việc bảo vệ lợi ích của bên Việt Nam trong giao dịch thương
mại quốc tế (tuy nhiên riêng về vấn đề này bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng
không mặn mà lắm với việc áp dụng luật pháp Việt Nam vì pháp luật Việt Nam về hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế còn chưa đầy đủ, nhiều quy định chưa phù hợp với tập
quán thương mại quốc tế và vì vậy, khó bảo vệ một cách hiệu quả lợi ích của chính bên
Việt Nam trong quan hệ hợp đồng). 39 Khác với WTO, Công ước Viên không có cơ chế sửa
đổi, điều chỉnh thường xuyên để phù hợp với sự thay đổi cán cân lợi ích của các thành viên
(mỗi thay đổi trong Công ước sẽ phải được sự đồng ý, phê chuẩn của tất cả các thành viên).
Công ước hiện chưa có bản chính thức bằng tiếng Việt, việc bất đồng ngôn ngữ có thể sẽ
dẫn đến cách hiểu khác nhau khi áp dụng Công ước, v.v.
4.

ĐỀ XUẤT/KẾT LUẬN

Căn cứ trên các phân tích trên, nhóm cộng tác có một số kết luận và đề xuất như sau:
1.

Khẳng định Việt Nam nên tham gia Công ước Viên 1980

Bài viết này đã phân tích những thành công và ý nghĩa của CISG trong việc hài hòa hóa và
thống nhất hóa luật quốc tế về mua bán hàng hóa quốc tế. Qua những phân tích về lợi ích
về kinh tế, pháp lý và các mặt khác, cũng như một số bất lợi khi Việt Nam tham gia CISG,
đồng thời tham khảo quan điểm về CISG ở một số quốc gia khác như Anh, Nam Phi, Nhật

Bản, chúng tôi nhận thấy, mặc dù rất khó lượng hóa những lợi ích mà việc tham gia CISG
mang lại cho Việt Nam, có thể khẳng định những lợi ích này là chắc chắn, rõ ràng và vượt
trội hoàn toàn so với những bất lợi khi Việt Nam gia nhập Công ước. Ngoài ra, có nhiều bất
lợi của Việt Nam chỉ là tạm thời, vì chúng vừa mang tính khó khăn, nhưng cũng vừa mang
tính cơ hội, thử thách khi Việt Nam muốn mở rộng nền kinh tế ra quốc tế (ví dụ như những
hiểu biết về CISG, bất đồng về ngôn ngữ, v.v.). Như rất nhiều học giả đã bình luận, có thể
nói việc tham gia CISG là xu hướng tất yếu chung của các nước khi mở cửa phát triển
thương mại quốc tế và tham gia sâu rộng hơn trong quan hệ quốc tế nói chung. Vấn đề quan
trọng là xác định thời điểm nào thì phù hợp nhất và làm thế nào để khi gia nhập có thể tận
dụng được tốt nhất những lợi ích của Công ước.
39

Điều này trái ngược với trường hợp phản đối tham gia CISG của Anh, nước có nền luật pháp hết sức đầy đủ
và chặt chẽ, như đã phân tích ở trên.

17


2.

Khi nào nên tham gia và cách tận dụng những lợi ích của Công ước

Để việc tham gia Công ước Viên của Việt Nam được thuận lợi và ít gặp trở ngại nhất,
chúng tôi cho rằng Việt Nam cần có một thời gian chuẩn bị phù hợp ít nhất là 2-3 năm (với
hoàn cảnh của Việt Nam, thời gian có thể nhiều hơn thông lệ của các nước có sẵn nền
thương mại quốc tế phát triển như Singapore là 1 năm) trước khi chính thức gia nhập CISG
về những vấn đề sau:
Thứ nhất, cần thu hút và khuyến khích thêm nhiều học giả, nhà chuyên môn về luật kinh tế,
thương mại ở Việt Nam nghiên cứu cả chiều rộng và chiều sâu nội dung, về nội dung CISG
và ảnh hưởng của CISG đối với hoạt động ngoại thương và pháp luật của Việt Nam. Những

nghiên cứu này sẽ giúp ích mổ xẻ, phân tích sâu hơn những vấn để nổi cộm của CISG trong
mối liên hệ với Việt Nam, làm tiền đề và dữ liệu thô và tinh cho việc đề xuất kiến nghị
chính sách.
Thứ hai, cần thành lập ngay một nhóm nghiên cứu chuyên môn về vấn đề Việt Nam gia
nhập CISG bao gồm các chuyên gia hàng đầu về CISG, về luật thương mại quốc tế Việt
Nam nhằm mục đích phân tích, mổ xẻ môi trường pháp lý hiện tại của Việt Nam, những
điểm lợi, bất lợi của Việt Nam khi tham gia CISG, để đề xuất lên Chính phủ việc tham gia
Công ước, lộ trình tham gia, các bước chuẩn bị và cả những đề nghị bảo lưu, nếu có, đối
với các điều khoản bất thuận trong CISG đối với Việt Nam (vì Công ước không quy định
cơ chế điều chỉnh, chỉnh sửa nội dung Công ước nên khá nhiều nước đã chấp thuận phê
chuẩn Công ước với những yêu cầu bảo lưu đối với một số điều khoản, Việt Nam có thể
cân nhắc thực hiện tương tự đối với những điều khoản quá bất lợi cho mình).
Thứ ba, cần nhanh chóng phổ biến nội dung Công ước sâu rộng trong giới doanh nghiệp
(đặc biệt là doanh nghiệp xuất nhập khẩu), trong hệ thống tư pháp và trong giáo dục pháp
luật ở các trường đại học và các khóa đào tạo chuyên ngành khác về luật thương mại quốc
tế. Công tác này cần được triển khai đồng bộ, có lộ trình rõ ràng thông qua hoạt động của
Bộ Giáo dục – Đào tạo, Bộ Tư pháp, VCCI và thông qua các tổ chức doanh nghiệp, các
diễn đàn về CISG. Việc trang bị, cung cấp những kiến thức về CISG sẽ giúp các doanh
nghiệp Việt Nam giảm thiểu các rủi ro khi ký kết hợp đồng thương mại quốc tế có áp dụng
CISG, giúp bảo vệ lợi ích của bên Việt Nam khi có tranh chấp xảy ra.
18


Do khuôn khổ có hạn, bài viết này chưa đề cập được những vấn đề cụ thể, điều khoản cụ
thể của Công ước có ảnh hưởng trực tiếp đến những hoạt động thương mại quốc tế của Việt
Nam, cũng như các phương thức lượng hóa lợi ích/bất lợi của Công ước thông qua việc
đánh giá khối lượng, tiềm năng hoạt động thương mại quốc tế và xuất nhập khẩu của Việt
Nam, chi phí luật pháp có thể tiết kiệm hoặc phải chi tiêu của Chính phủ khi Việt Nam
tham gia và áp dụng Công ước Viên, v.v. Những vấn đề này có thể được đề cập, phân tích
kỹ hơn trong các nghiên cửu tiếp theo.


19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. World Trade Report 2006, tại
< />df> ngày 10/8/2009.
2. World Trade Report 2008, tại
< />df> ngày 10/8/2009.
3. John Felemegas (ed.), An International Approach to the Interpretation of the
United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods
(1980) as Uniform Sales Law (Cambridge 2007) 3.
4. G Conetti 'Uniform Substantive and Conflicts Rules on the International Sale of
Goods and Their Interaction' trong P. Sarcevic & P. Volken (eds), International
Sale of Goods (Dubrovnik Lectures Oceana, 1986).
5. V. Susanne Cook, ‘The Need for Uniform Interpretation of the 1980 United
Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods’ (1988) 50
University of Pittsburgh Law Review 197.
6. Gyula Eörsi, ‘Problems of Unifying Law on the Formation of Contracts for the
International Sale of Goods’ (1979) 27 The American Journal of Comparative
Law, 311-323.
7. Philip T. Hackney, ‘Is the United Nations Convention on the International Sale
of Goods Achieving Uniformity?’ (2000-2001) 61 La. L. Rev. 473, 474.
8. Monica Kilian, ‘CISG and the Problem with Common Law Jurisdictions’
(2001) 10 J. Transnational Law & Policy 217, 219-26.
9. F. Ferrari, ‘Uniform Interpretation of The 1980 Uniform Sales Law’ (1994-95)
24 Georgia Journal of International and Comparative Law 183-228.
10. Sieg Eiselen, “Adoption of the Vienna Convention for the International Sale of
Goods (the CISG) in South Africa” 116 South African Law Journal, Part II
(1996) 323-370.

11. CISG-Advisory Council tại < truy cập ngày 10/8/2009.

20


DANH MỤC CÁC NGUỒN LUẬT
1. Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2005.
2. Luật Thương mại Việt Nam 2005.
3. Convention relating to a Uniform Law on the Formation of Contracts for the
International Sale of Goods (ULF, 1964).
4. Convention relating to a Uniform Law on the International Sale of Goods
(ULIS, 1964).
5. Principles of European Contract Law (1999), available at website
< />l> accessed 10 Aug. 2009 (PECL).
6. UNIDROIT Principles of International Commercial Contracts (2004), available
at < accessed
10 Aug. 2009 (UNIDROIT Principles).
7. United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods of
1980, UN Doc. A/CONF. 97/18, Annex I (CISG or Vienna Convention).
CÁC VỤ ÁN ĐƯỢC VIỆN DẪN
74/VPPT Công ty thương mại Tây Ninh - Tanico v. Công ty Ng Nam Bee, People's
Supreme Court, Appeal Division in Ho Chi Minh City 05.04.1996

21



×