Chuyên đề
QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH.ĂNG GHEN, V.I.LÊNIN, HỒ CHÍ MINH
VỀ KINH TẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
* * *
I. QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH.ĂNG GHEN VỀ KINH TẾ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
1. Hoàn cảnh lịch sử
- Chủ nghĩa tư bản đang phát triển, tình thế cách mạng vô sản chưa đặt ra
trực tiếp nên những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội nói chung và những
vấn đề về thời kỳ quá độ nói riêng chưa phải là mục đích nghiên cứu trực tiếp
của Mác và Ăngghen.
- Những tư tưởng đưa ra mới chỉ ở dạng phác thảo, 3 - 1895 trong lời tựa
cuốn sách: “Đấu tranh giai cấp ở Pháp” (tập 22 - 1995, tr. 761) dựa trên sự
phát triển có tính chất lôgíc quá trình vận động của chủ nghĩa tư bản chứ chưa
phải phân tích những vấn đề chủ nghĩa xã hội hiện thực.
- Hoàn cảnh lịch sử cụ thể của thời kỳ lịch sử này gắn liền với luận điểm
của Mác - Ăngghen về cách mạng vô sản nổ ra và thắng lợi đồng thời ở các
nước tư bản phát triển nhất.
Nhưng lịch sử lại không diễn ra như vậy (theo luận điểm của Lênin thì
chỉ có thể nổ ra và giành thắng lợi ở một nước hoặc một số nước).
2. Những quan điểm về kinh tế XHCN
a. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa - kết quả tất yếu của sự
phát triển hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, là quá trình lịch sử tự
nhiên.
- Dựa trên thế giới quan duy vật về lịch sử, Mác và Ăngghen khẳng định
mọi sự biến đổi của các chế độ xã hội trong lịch sử đều là quá trình phát triển
lịch sử tự nhiên. Quá trình vận động của xã hội loài người tất yếu tiến tới
phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, Mác chỉ rõ:
+ Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, một mặt, có sự tiến bộ lịch sử,
có vai trò to lớn trong việc phát triển sức sản xuất và xã hội hóa lao động; mặt
khác, nó có giới hạn về mặt lịch sử, do mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa
ngày càng cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
+ Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo tiền đề xã hội, tiền đề vật
chất, kinh tế cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của phương thức
sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa ra đời thay thế phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa là một quá trình lịch sử tự nhiên, phù hợp với yêu
cầu của qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
- Sự thay thế như trên được thực hiện thông qua cuộc cách mạng xã hội do
giai cấp vô sản lãnh đạo quần chúng bắt đầu bằng việc giành lấy chính quyền.
Mác viết: “Cách mạng nói chung - lật đổ chính quyền hiện có và phá huỷ
những quan hệ cũ là một hành vi chính trị. Nhưng chủ nghĩa xã hội không thể
thực hiện mà không có cách mạng. Chủ nghĩa xã hội cần đến hành vi chính trị
này bởi lẽ nó cần tiêu diệt và phá huỷ cái cũ” 1.
* Những nhận thức mới trên vấn đề này: nhân tố kinh tế là nhân tố suy
cho đến cùng, chứ không phải là nhân tố duy nhất quyết định sự phát triển
lịch sử tự nhiên. Các mặt kiến trúc thượng tầng cũng có vai trò phát triển lịch
sử đôi khi giữ vị trí quyết định. Kinh tế là cơ sở.... các vấn đề kiến trúc thượng
tầng dựa trên sự phát triển kinh tế. Nhưng giữa các yếu tố đều tác động lẫn
nhau và tác động đến cơ sở kinh tế hoàn toàn không phải kinh tế là nguyên
nhân duy nhất chủ động.
b. Những đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai
Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta (1875), Mác đã trình bày quan
điểm của mình về hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản: giai đoạn trước là “giai
đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản
1
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, t.1, tr.616
chủ nghĩa ra, sau những cơn đau để kéo dài” và giai đoạn sau là “xã hội cộng sản
chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó” hay là “giai đoạn cao hơn.”2
* Mác và Ăngghen căn cứ vào tiến trình phát triển đã dự báo ban đầu
về đặc trưng của xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Một là, lực lượng sản xuất xã hội phát triển cao.
Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa cộng sản phát triển ở trình độ cao, cao
hơn nhiều so với chủ nghĩa tư bản. Đó là lực lượng sản xuất của nền sản xuất lớn
về qui mô, hiện đại về khoa học - công nghệ, có môi trường sinh thái bảo đảm
cho sự phát triển ổn định, bền vững. Lực lượng sản xuất phát triển cao là điều
kiện kinh tế vật chất cho sự phát triển tự do của mỗi thành viên trong xã hội.
Hai là, chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ
người bóc lột người bị thủ tiêu.
Xã hội cộng sản chủ nghĩa là xã hội dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư
liệu sản xuất, là xã hội giải phóng một cách hiện thực những điều kiện vật
chất, cho phép xóa bỏ tình trạng dùng tư liệu sản xuất làm phương tiện để nô
dịch bóc lột lao động.
Người lao động quan hệ hợp tác với nhau và có cơ hội phát triển như nhau. “
(tất cả các thành viên trong xã hội quan hệ với nhau như những người sở hữu
chung các tư liệu sản xuất ) nghĩa là việc xã hội hóa tư liệu sản xuất trên qui mô
toàn bộ nền kinh tế quốc dân” ( Mác - Ăngghen tuyển tập, tập 4, tr.187.)
Mác - Ăngghen chỉ ra rằng, không thể thủ tiêu ngay lập tức chế độ tư hữu
được mà chỉ có thể thực hiện dần dần, và chỉ khi nào tạo lập được một lực
lượng sản xuất hiện đại, năng suất lao động rất cao thì mới xoá bỏ được chế
độ tư hữu (lấy biện pháp kinh tế là chủ yếu). Điều kiện này chỉ có được trong
giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa. (10 biện pháp được nêu trong
Tuyên ngôn của ĐCS).(tập 4 1995, tr, 470, 471; 627).
Ba là, mục đích nền sản xuất
Sản xuất của cải vật chất là nhằm thoả mãn nhu cầu của mọi thành viên
trong xã hội. Nền sản xuất xã hội dưới chủ nghĩa cộng sản có lực lượng sản
2
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, t.19, tr. 33,25,36.
xuất phát triển cao do xã hội quản lý. Chính vì thế, mục đích của nền sản xuất
là thoả mãn mọi nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của tất cả thành
viên trong xã hội. Con người được tự do phát triển toàn diện, tự do phát huy
năng khiếu, thể lực, trí lực của mình. Con người và nhu cầu của họ trở thành
động lực và mục tiêu của nền sản xuất. Đây là tính ưu việt căn bản của chủ
nghĩa cộng sản.
Bốn là, nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên
phạm vi toàn xã hội, sản xuất hàng hóa bị loại trừ.
Vấn đề kế hoạch:
Trong chế độ cộng sản chủ nghĩa, quyền lực thuộc về nhân dân lao động
và nhờ đó trong toàn bộ nền sản xuất xã hội sẽ không còn mâu thuẫn giữa sự
tổ chức sản xuất mang tính xã hội và tình trạng vô chính phủ.
Việc tổ chức sản xuất được tiến hành một cách có ý thức, có kế hoạch,
được thực hiện trên phạm vi toàn xã hội.
Việc quản lý sản xuất nói chung không nằm trong tay các cá nhân riêng
lẻ cạnh tranh với nhau nữa, mà do toàn thể xã hội quản lý các ngành sản xuất
theo một kế hoạch chung với sự tham gia của mọi thành viên trong xã hội,
cạnh tranh được thay bằng hợp tác và thi đua sáng tạo.
Như vậy: Xã hội nắm tư liệu sản xuất thì thực hiện phát triển kinh tế theo
kế hoạch được. Kế hoạch hoá là do PCLĐXH, còn chế độ công hữu là nhân tố
bảo đảm tính hiện thực của kế hoạch. (trong phê phán cương lĩnh Ecphuya:
Ăngghen cho rằng không nên xem kinh tế tư bản chủ nghĩa giai đoạn độc
quyền vẫn là tự phát vô chính phủ, mà nó có thể kế hoạch được).
Vấn đề thị trường:
Mác và Ăngghen cho rằng, trong nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa tương lai,
tính chất hàng hóa đối với người sản xuất sẽ không còn. Mác viết: “Trong một
trật tự xã hội cộng sản chủ nghĩa được xây dựng trên chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất, những người sản xuất không trao đổi sản phẩm của họ; ở đây lao động
đã nhập vào trong sản phẩm cũng vậy, không còn biểu hiện như là giá trị của
những sản phẩm ấy, không còn biểu hiện như một tính chất thật sự mà những
sản phẩm ấy vốn có, vì từ nay, trái với điều xảy ra trong xã hội tư bản, lao động
của cá nhân trở thành bộ phận khăng khít của lao động của công xã không phải
bằng con đường quanh co, mà bằng con đường trực tiếp” ( Mác - Ăngghen, Phê
phán cương lĩnh Gô ta và Ecphuya, Nxb Sự thật, H.1957, tr. 24).
Theo Ăngghen thì: Một khi xã hội nắm trong tay các tư liệu sản xuất và
sử dụng tư liệu sản xuất đó để sản xuất dưới hình thức trực tiếp xã hội hóa, thì
lao động của mỗi người, dù tính chất đặc thù của lao động có khác nhau đến
đâu chăng nữa, ngay từ đầu và trực tiếp cũng trở thành lao động xã hội. Khi ấy
người ta không cần dùng đường vòng để xác định số lượng lao động xã hội xã
hội nằm trong một sản phẩm. Nguyên lý về tính chất xã hội trực tiếp của lao
động sản xuất đã khiến cho sự thủ tiêu quan hệ giá trị trở thành một tất yếu
kinh tế là đặc trưng của xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở của
chính nó.
Năm là, sự phân phối sản phẩm bình đẳng.
Do lực lượng sản xuất có sự phát triển cao độ, xã hội cộng sản chủ nghĩa
sẽ sản xuất ra số lượng sản phẩm dồi dào và tổ chức phân phối một cách khoa
học nhằm thoả mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội. Nguyên tắc
chung của sự phân phối sản phẩm trong xã hội cộng sản chủ nghĩa là theo sự
thoả thuận chung, hay nói cách khác là sự phân phối bình đẳng với những hình
thức cụ thể tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nguyên
tắc phân phối cộng sản chủ nghĩa tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết
để thực hiện khẩu hiệu: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu.
Sáu là, xoá bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc
và lao động chân tay, xóa bỏ giai cấp.
Ăngghen khẳng định, tình trạng xã hội phân chia thành các giai cấp khác
nhau, đối địch nhau không những sẽ trở nên thừa, mà còn không thể tương
dung với xã hội mới. Xã hội cộng sản chủ nghĩa là xã hội không còn giai cấp;
xã hội phát triển cao về kinh tế, văn hóa và xã hội sẽ tạo cơ sở để thủ tiêu sự
đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay,
lao động trở thành nhu cầu bậc nhất của cuộc sống.
Bảy là, Xu hướng quốc tế hoá quan hệ kinh tế.
Tác động của đại công nghiệp cơ khí sẽ tạo xu hướng thống nhất thị
trường toàn thế giới. Chế độ tín dụng đẩy nhanh tốc độ phát triển vật chất của
sức sản xuất và hình thành một thị trường toàn thế giới.
Cần nhận thức đúng đắn rằng, những đặc trưng kinh tế - xã hội nêu trên là
đặc trưng của xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở của chính nó.
* Đặc trưng kinh tế - xã hội chủ yếu của giai đoạn đầu của phương
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa:
Một là, kế thừa và phát triển lực lượng sản xuất mà chủ nghĩa tư bản tạo
ra. Nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất và lao động.
Hai là, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất tồn tại dưới hai hình thức sở
hữu chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Ba là, còn sản xuất hàng hóa, quan hệ giá trị còn là tất yếu kinh tế của
thời kỳ này. Việc phân phối những sản phẩm vẫn phải tuân theo nguyên tắc
trao đổi hàng hóa - vật ngang giá: một số lượng lao động dưới hình thức này
được đổi lấy cùng một số lượng lao động dưới hình thức khác. Mác viết: “Lưu
thông hàng hóa và sản xuất hàng hóa là những hoạt động thuộc nhiều phương
thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy nhiên với mức độ và phạm vi không
giống nhau”. 3 Trong thời kỳ quá độ vẫn còn giai cấp và nhà nước, mà đó là
nhà nước chuyên chính vô sản.
Bốn là, lao động vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ và còn sự khác nhau về
lao động, do đó kết quả lao động cũng khác nhau.
Năm là, thực hiện phân phối theo lao động, nghĩa là mức sống của người
lao động không thể vượt quá điều kiện kinh tế mà chế độ kinh tế đạt được, sự
hưởng thụ của cá nhân căn cứ vào lao động của họ đóng góp ở thời kỳ này.
Theo đó, phân phối ở thời kỳ này còn mang dấu vết “pháp quyền tư sản”.
2. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về những vấn đề kinh tế của
thời kỳ quá độ
a. Sự cần thiết khách quan của thời kỳ quá độ.
3
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, t.23, tr. 175.
Thời kỳ quá độ dài:
Đây là thời kỳ cần thiết để tiến hành những cải biến cách mạng làm biến
đổi căn bản mọi lĩnh vực để chuyển từ xã hội tư bản lên xã hội cộng sản. Sự
cần thiết của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản được
quyết định bởi tính chất đặc thù của sự ra đời và hình thành quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa. Theo Mác: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản
chủ nghĩa là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích
ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy
không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô
sản.” 4 Ăngghen cho rằng, cần phải có hành động chính trị của giai cấp vô sản
và có chuyên chính vô sản, coi đó là bước quá độ chuyển sang thủ tiêu giai
cấp và, cùng với giai cấp thì thủ tiêu Nhà nước”.
Thời kỳ quá độ ngắn:
Mác chỉ ra rằng, thời kỳ quá độ là thời kỳ mà về phương diện kinh tế, đạo
đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ - xã hội mà nó đã thoát
thai ra, vì thế thời kỳ này còn có những thiếu sót không tránh khỏi.
b. Hình thức quá độ
Đó là sự quá độ trực tiếp từ sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa lên sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa.
c. Độ dài của thời kỳ quá độ dài
Đó là thời kỳ khá lâu dài chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa cộng
sản. Cải tổ nền sản xuất là việc khó khăn; phải trải qua cuộc đấu tranh quyết
liệt có thể thắng được thế lực to lớn của thói quen đối với lối quản lý tiểu tư
sản và tư sản nền cần phải có thời gian.
d. Dự báo về khả năng quá độ lên chủ nghĩa cộng sản bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa.
Xuất phát từ sự nghiên cứu tình hình nước Nga lúc đó, Mác và Ăngghen nêu
các luận điểm: những nước lạc hậu có thể bước vào “con đường rút ngắn”, có thể
“chuyển thẳng” lên hình thức cộng sản chủ nghĩa bỏ qua toàn bộ thời kỳ tư bản chủ
4
Sđd, tr.47.
nghĩa, có thể không cần trải qua những đau khổ của chế độ đó, tránh được phần lớn
những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà Tây Âu đã phải trải qua.
Mác và Ăngghen chỉ ra rằng: “Thắng lợi của giai cấp vô sản Tây Âu đối
với giai cấp tư sản và gắn liền với điều đó, việc thay thế nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa bằng nền sản xuất do xã hội quản lý - đó là điều kiện tiên quyết tất
yếu để nâng công xã Nga lên cùng một trình độ phát triển như vậy.” 5
Mác và Ăngghen là người đầu tiên nêu lên khả năng những nước còn đang
trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa có thể chuyển thẳng lên hình thái
xã hội cộng sản chủ nghĩa và khả năng phát triển rút ngắn của những nước này
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Còn về nội dung thời kỳ quá độ đó như thế nào
và những nhiệm vụ cụ thể gì thì Mác và Ăngghen chưa đề cập đến.
II. QUAN ĐIỂM CỦA, V.I.LÊNIN VỀ KINH TẾ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
1. Hoàn cảnh lịch sử
Vào những năm 90 của thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản giai đoạn tự do
cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì cách mạng xã hội chủ
nghĩa đặt ra một cách trực tiếp, quan điểm của Lênin về chủ nghĩa xã hội đã
được hình thành. Đó là sự vận dụng và phát triển học thuyết Mác về chủ nghĩa
cộng sản và về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản để chỉ đạo cuộc cách
mạng tháng 10 Nga thành công và kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
Nga. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong giai
đoạn mới, Lê nin đã xây dựng lý luận về chủ nghĩa đế quốc, và vạch rõ sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa cực kỳ
không đều. Từ đó, Lê nin đã rút ra kết luận về khả năng thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội trước tiên ở một nước hoặc ở một số nước riêng lẻ và chủ nghĩa
xã hội không thể thắng lợi cùng một lúc trong tất cả các nước. Sự phân tích
của Lê nin về những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa đã dẫn đến nhận thức mới về chủ nghĩa tư bản và thời kỳ quá độ từ
5
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, t.22, tr. 629-630.
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa đế quốc đã tạo ra những
tiền đề vật chất làm cơ sở hiện thực cho sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
2. Quan điểm của Lê nin về kinh tế xã hội chủ nghĩa
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu đối với các dân tộc, một khi giành
được chính quyền thiết lập chuyên chính vô sản. Vấn đề xác định các nguyên
lý, mục tiêu, biện pháp kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội nhằm xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa quan trọng. Theo đó, Lê nin đã xác
định những nguyên lý về xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm
những vấn đề:
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể.
Mục đích nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là nhằm thoả mãn phúc lợi vật chất
đầy đủ cho toàn xã hội và sự phát triển tự do, toàn diện của mỗi thành viên trong
xã hội.
Nguyên tắc phân phối vật phẩm cho tiêu dùng cá nhân dưới chủ nghĩa xã
hội là phân phối theo lao động; người nào có sức lao động mà không làm thì
không có ăn, số lượng lao động ngang nhau thì được hưởng số lượng sản
phẩm bằng nhau.
Thực hiện nghiêm ngặt chế độ hạch toán kinh tế nhằm đánh giá đúng
mức cống hiến, mức hưởng thụ của người lao động, lợi nhuận cho doanh
nghiệp và tăng năng suất lao động.
Tổ chức nền kinh tế XHCN phát triển có kế hoạch, tập trung, thống nhất.
Nhà nước có chức năng quản lý nền kinh tế.
Nền kinh tế vận động theo quy luật kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, sử
dụng phổ biến quan hệ hàng hóa- tiền tệ, các phạm trù của sản xuất hàng hóa.
Lênin chỉ ra các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội là:
Biện pháp quốc hữu hoá xã hội chủ nghĩa là sự thủ tiêu sở hữu tư nhân
của giai cấp bóc lột về tư liệu sản xuất, chuyển nó thành sở hữu toàn dân.
Quốc hữu hóa bằng hai phương pháp: một là, tịch thu không hoàn lại (tước
đoạt); hai là, tịch thu có bồi thường (cải tạo hoà bình) được thực hiện thông
qua các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Biện pháp hợp tác hóa được thực hiện để chuyển người lao động cá thể
thành người lao động tập thể nhằm hình thành và phát triển sở hữu tập thể về
tư liệu sản xuất. Hợp tác hoá tuân theo nguyên tắc tự nguyện, từ thấp lên cao,
có sự lãnh đạo của đảng và sự giúp đỡ của nhà nước.
Biện pháp công nghiệp hóa mà Lênin nêu ra là nhằm xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Tiến hành cách mạng văn hoá- tư tưởng để xóa mù chữ, nâng cao trình độ
dân trí, đào tạo đội ngũ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao cho nền kinh tế.
Cách mạng tư tưởng - văn hóa nhằm xây dựng nền văn hoá mới và con người
mới XHCN.
Lênin khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng những bước đi trung
gian, quá độ gián tiếp thông qua phát triển kinh tế hàng hóa, sử dụng cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần, thực hiện rộng rãi các hình thức kinh tế quá độ của
chủ nghĩa tư bản nhà nước. Đó chính là yêu cầu cơ bản trong chính sách kinh
tế mới do Lênin đề xuất và tổ chức thực hiện.
Sự ra đời của chính sách kinh tế mới xuất phát từ chính sách kinh tế cũ chính sách cộng sản thời chiến tuy đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi
cuộc nội chiến, song không còn phù hợp khi đã có hoà bình do nội dung chính
sách này là xoá bỏ quan hệ hàng hóa - tiền tệ, xoá bỏ tự do mua bán lương
thực trên thị trường. Chính sách đã trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển lực
lượng sản xuất, làm mất vai trò động đối với nông dân do chủ trương trưng thu
lương thực thừa của họ mà đa số họ là trung nông.
Nội dung và biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới là: Thay thế
chế độ trưng thu trưng mua lương thực thừa bằng thu thuế lương thực; tổ chức
thị trường, mở rộng thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hóa - tiền tệ giữa
nhà nước với nông dân, giữa thành thị với nông thôn, giữa công nghiệp với
nông nghiệp và sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần, các hình thức
kinh tế quá độ, phát triển quan hệ hợp tác với các nước phương Tây.
Nhờ chính sách kinh tế mới mà đã khôi phục được nền kinh tế sau chiến
tranh, từ “nước Nga đói” trở thành nước có lương thực dồi dào. Củng cố liên
minh công - nông, củng cố lòng tin nhân dân vào bản chất tốt đẹp của chủ
nghĩa xã hội theo nguyên lý của Lê nin nêu ra. Chính sách kinh tế mới đánh
dấu bước phát triển mới về lý luận kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chính sách kinh
tế mới giúp các nước vận dụng vào điều kiện cụ thể của mình để phát triển
kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Quan điểm của Lê nin về kinh tế thời kỳ quá độ
a. Sự khẳng định tất yếu phải có thời kỳ quá độ
Lý luận về kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là bộ phận quan
trọng trong học thuyết của Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin,
sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do đặc
điểm ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách
mạng vô sản quy định. Lênin chỉ ra rằng, sau khi giành được chính quyền
chưa phải đã có chủ nghĩa xã hội, mà phải phát triển mạnh lực lượng sản xuất,
tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, xây
dựng kiểu xã hội mới. Sự phát triển như thế phải trải qua thời kỳ lâu dài, đó là
thời kỳ quá độ. Lênin khẳng định: “Về mặt lý luận không thể nghi ngờ gì được
rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ.”
6
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc,
triệt để, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng
từ xã hội cũ sang xã hội mới. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ
khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và kết thúc khi xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế, văn
hóa, tư tưởng của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Luận điểm của Lênin về thời kỳ quá độ với một loạt những bước quá độ
nhỏ hơn là sự phát triển sáng tạo học thuyết Mác. Theo Lênin, đối với một
nước tư bản chưa phát triển, không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên chủ
nghĩa xã hội được mà phải trải qua “một loại những bước quá độ”.
6
7
V.I. Lê nin, Toàn tập, t.39, Nxb Tiến bộ, M. 1977, tr. 309.
V.I. Lê nin, Toàn tập, t.44, Nxb Tiến bộ, M. 1978, tr. 189.
7
Luận
điểm này của Lênin bao gồm những nội dung chủ yếu là: không thể quá độ
trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội mà phải qua con đường gián tiếp chứ không thể
“quá vội vàng thẳng tuột, không được chuẩn bị”. 8 Những bước quá độ ấy, theo
Lênin là chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội. Bước quá độ nhỏ từ
chủ nghĩa tư bản nhà nước thể hiện trong nội dung chính sách kinh tế mới
(NEP). Khi thực hiện NEP, chúng ta có sự nhượng bộ tạm thời và cục bộ đối
với chủ nghĩa tư bản nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, từng bước
xã hội hóa sản xuất trên thực tế.
Theo Lênin, một nước lạc hậu có thể quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa khi có những điều kiện
khách quan và điều kiện chủ quan. Điều kiện khách quan là phải có một
nước giành được thắng lợi trong cuộc cách mạng vô sản, tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Nêu tấm gương và giúp đỡ các nước lạc hậu tiến lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Điều kiện chủ
quan là phải hình thành được các tổ chức đảng cách mạng và cộng sản, phải
giành được chính quyền về tay nhân dân, xây dựng nhà nước của nhân dân
và vì nhân dân. Lênin cho rằng, không thể thiếu hai điều kiện khách quan
và chủ quan của quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa.
b. Chỉ ra đặc trưng kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Lênin, người có công đầu xem xét nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội với bất cứ nước nào, đặc trưng cơ bản nổi bật của thời kỳ quá
độ là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần và xã hội nhiều giai cấp. Sự phân
tích đặc trưng này sẽ xác định đúng đắn những mâu thuẫn trong thời kỳ quá
độ. Tất cả các nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong nền
kinh tế đều có những thành phần kinh tế cơ bản là: Thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa; thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế sản xuất
hàng hóa nhỏ. Thích ứng với nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần, trong
8
V.I. Lê nin, Toàn tập, t.43, Nxb Tiến bộ, M. 1977, tr. 445.
xã hội có ba giai cấp cơ bản: giai cấp công nhân, giai cấp tiểu tư sản (đa số là
nông dân) và giai cấp tư sản.
Mỗi thành phần kinh tế, giai cấp kể trên có đặc điểm và vai trò riêng,
song chúng cùng tồn tại và vận động xen kẽ với nhau, đan xen nhau, hình
thành thực trạng kết cấu kinh tế - xã hội của kinh tế thời kỳ quá độ. Mâu
thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn này bắt nguồn từ tính độc lập tương đối về
kinh tế do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội mới ra đời
nhưng còn non yếu với chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu
diệt hoàn toàn. Chính vì tính chất quá độ đó nên trong nền kinh tế chưa có
thành phần kinh tế thống trị chi phối, mới có thành phần kinh tế nhà nước
vươn lên giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, cuộc đấu
tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản rất phức tạp,
gay go và quyết liệt, tất yếu sẽ bảo đảm địa vị chủ đạo và thống trị của
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tính chất, mức độ đấu tranh giải
quyết mâu thuẫn tuỳ thuộc vào so sánh lực lượng kinh tế - giai cấp trong
điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước trong từng giai đoạn.
c. Chỉ ra những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ
Một trong những điều kiện chủ yếu làm cho cách mạng xã hội chủ nghĩa
thắng lợi là giai cấp công nhân có ý thức về quyền thống trị của mình và sử
dụng quyền đó trong bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Theo đó, cần phải lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện tốt các nhiệm vụ
kinh tế trong thời kỳ quá độ, đó là:
Một là, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Cơ sở duy nhất và thực sự để làm tăng của cải vật chất, để xây dựng chủ
nghĩa xã hội chỉ có thể là đại công nghiệp. Do đó, phải khôi phục đại công
nghiệp, cơ sở kinh tế vững chắc trong nghành đại công nghiệp cơ khí hoá và
vận dụng nó vào nông nghiệp và vận tải, phải điện khí hoá toàn quốc. Theo
Lênin, “Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là nền đại công
nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Một nền đại công nghiệp ở
vào trình độ kỹ thuật hiện đại...đó là điện khí hoá cả nước.” 9 Nhiệm vụ công
nghiệp hoá không những tăng thêm tỷ lệ của công nghiệp, nhất là phát triển
ngành sản xuất tư liệu sản xuất mà còn phải bảo đảm sự độc lập về mặt kinh
tế của đất nước. Muốn thế phải dùng những biện pháp nhanh chóng và quan
trọng để nâng cao các lực lượng sản xuất sản xuất của nông dân; phải tăng
cường trao đổi sản phẩm của đại công nghiệp lấy các sản phẩm của nông dân;
phải tích luỹ vốn, phải tiết kiệm về mọi mặt.
Hai là, cải tạo nền kinh tế theo xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện nhiệm vụ này cần phải xác định rành mạch mục đích cuối
cùng của những cải tạo và đề ra những biện pháp cải tạo phù hợp. Theo Lênin:
Mục đích cải tạo “là thiết lập một xã hội cộng sản chủ nghĩa, một xã hội
không chỉ hạn chế ở việc tước đoạt các công xưởng, nhà máy, ruộng đất và tư
liệu sản xuất, không chỉ hạn chế ở việc kiểm kê và giám sát một cách chặt chẽ
việc sản xuất và phân phối sản phẩm”.10 Các biện pháp được sử dụng là:
Biện pháp tước đoạt tài sản đối với giai cấp tư sản phản động chống lại chủ
nghĩa xã hội và biện pháp lợi dụng chủ nghĩa tư bản làm mắt xích trung gian giữa
nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội đối với giai cấp tư sản chịu cải tạo.
Biện pháp kiểm kê, kiểm tra của toàn dân về số lượng lao động, về sản
xuất và phân phối sản phẩm. Cần có sự giám sát đặc biệt của toàn dân đối với
bọn nhà giàu cùng tay chân là bọn trí thức tư sản và bọn ăn cắp, bọn ăn bám,
bọn lưu manh.
Biện pháp hướng những người tiểu sản xuất vào các công xã nông nghiệp
theo nguyên tắc tự nguyện và nêu gương, giúp đỡ họ lối kinh doanh tập thể
trên qui mô lớn vì lợi ích chung của chính họ. “Khi nhân dân đã vào hợp tác
xã tới mức đông nhất, thì chủ nghĩa xã hội tự nó sẽ được thực hiện.” 11
Ba là, tổ chức bộ máy quản lý, chế độ quản lý.
Theo Lênin, “Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô viết cộng với điện
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 32, Nxb ST, Hà Nôị 1970, tr. 595.
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 27, Nxb ST, Hà Nôị 1971, tr. 155.
11 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb ST, Hà Nôị 1970, tr. 689.
9
10
khí hóa toàn quốc” 12do đó, ta thấy tầm quan trọng của việc tổ chức bộ máy
chính quyền, chế độ quản lý nền kinh tế đất nước.
Đối với lĩnh vực công nghiệp phải “chuyển từ hình thức ‘công nhân kiểm
soát’ sang ‘công nhân quản lý’ những công xưởng, những nhà máy, những
đường sắt.
Để tăng năng suất lao động phải nâng cao trình độ học vấn và văn hóa
của nhân dân và nâng cao tinh thần kỷ luật, kỹ năng, tính cần mẫn của
những người lao động; áp dụng chế độ trả công tính theo sản phẩm; phải
áp dụng rất nhiều yếu tố khoa học và tiến bộ trong phương pháp Taylo.
Lênin viết: “chúng ta sẽ có thể thực hiện được chủ nghĩa xã hội hay
không, điều đó chính là tuỳ ở những kết quả của chúng ta trong việc kết
hợp Chính quyền Xô viết và chế độ quản lý Xô viết với những tiến bộ mới
nhất của chủ nghĩa tư bản.
Để chuyển sang lối canh tác tập thể, kinh doanh tập thể trên qui mô lớn,
chính phủ công nông không thể dùng bất cứ một biện pháp cưỡng bức nào cả,
và cả luật pháp cấm điều đó. Do đó phải quản lý bằng phương pháp kinh tế và
thuyết phục nhân dân tự nguyện là chủ yếu.
Khi giai cấp công nhân, giai cấp nắm chính quyền Nhà nước trong
tay...thì mới thu hút được đông đảo quần chúng nông dân đi theo mình, một
cách vững chắc và thật sự. Theo đó, phải gắng sức xây dựng một nhà nước xã
hội chủ nghĩa và giúp dân tiếp cận với nguồn vốn sản xuất, ủng hộ .
Vấn đề cán bộ là vấn đề quyết định đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Theo đó, phải thu hút và đào tạo các kỹ thuật và chuyên gia vào công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Phải xây dựng được những cơ sở của việc tổ chức thi đua xã hội chủ
nghĩa rộng rãi với qui mô to lớn và mặt khác phải dùng những biện pháp
cưỡng bách cần thiết không để xuất hiện trạng thái nhu nhược mềm yếu của
chính quyền vô sản trong đời sống thực tiễn.
III. QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ KINH TẾ XÃ HỘI CHỦ
12
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 31, Nxb ST, Hà Nôị 1969, tr. 639.
NGHĨA VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa
Sau nhiều năm buôn ba, tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh là nhà yêu
nước Việt nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác - Lênin qua Lênin và cách
mạng Tháng Mười Nga. Từ đó người đã tìm thấy con đường giải phóng cho
dân tộc mình. Người chỉ rõ: ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn
con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản''(Sđd, T9, Tr.314) và
khẳng định: '' chỉ có chủ nghĩa cộng sản, mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi
người không phân biệt chủng tộc, nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bắc ái, đoàn
kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui,
hoà bình hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hoà thế giới chân chính''(T1,
Tr.461).
Hồ Chí Minh khẳng định: ''con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội của các
dân tộc là con đường chung của thời đại, của lịch sử , không ai ngăn cản nổi''
(T8, Tr.449). Và đó là con đường phát triển tất yếu của lịch sử. Hồ Chí Minh
lập luận: '' Từ xưa đến nay chế độ công cộng nguyên thuỷ sụp đổ là do chế độ
nô lệ thay thế. Chế độ nô lệ sụp đổ là do chế độ phong kiến thay thế…đó là qui
luật nhất định trong sự phát triển của xã hội. Lịch sử loài người là do người lao
động sáng tạo ra, người lao động sáng tạo ra của cải, luôn luôn nâng cao sức sản
xuất. Sản xuất phát triển tức là xã hội phát triển. Chế độ nào hợp với sức sản xuất
thì đứng vững. Nếu không hợp thì giai cấp đại biểu cho sức sản xuất mới sẽ nổi
lên cách mạng lật đổ chế độ cũ. Hiện nay chủ nghĩa tư bản có mâu thuẫn to, nó
không giải quyết được. Một là, nhà tư bản sản xuất hàng hoá quá nhiều , quá
mau, nhưng không bán được; Hai là, tính chất sản xuất là công cộng mà tư liệu
sản xuất thì nằm trong tay một số ít người…chỉ có chế độ cộng sản mới giải
quyết được mâu thuẫn ấy'' (T7, Tr.246).
Đồng thời, Hồ Chí Minh còn cho rằng việc Việt Nam làm cách mạng dân
chủ mới( tức cách mạng dân chủ gắn với chủ nghĩa xã hội) là phù hợp với xu thế
của thời đại. Người viết: ''Cách mạng Nga thành công, mặt trận đế quốc và tư bản
thế giới đã tan vỡ một phần sáu trên quả đất, đồng thời đã lập thành một chế độ
xã hội chủ nghĩa vững chắc. Tiếp đến cách mạng các nước dân chủ nhân dân
Trung, Đông Âu thành công, xây dựng và phát triển nền dân chủ mới. Vì vậy
cách mạng Việt Nam phải làm cách mạng dân chủ mới'' (T7, Tr. 210).
Trong khi khẳng định, tiến tới chế độ cộng sản là mục đích chung của tất
cả những người lao động trên toàn thế giới, thì Hồ Chí Minh còn chỉ ra việc
thực hiện mục đích ấy của mỗi nước phải tuỳ điều kiện cụ thể của mình mà
tiến dần.
Cụ thể đối với nước ta, Người chỉ rõ: ''Tính chất thuộc địa và phong kiến
của xã hội Việt Nam khiến cách mạng Việt Nam phải chia làm hai bước. Bước
thứ nhất là đánh đế quốc, đánh phong kiến thực hiện người cày có ruộng…
bước thứ hai là tiến lên chủ nghĩa xã hội tức giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng
sản'' (T7, Tr. 209).
Như vậy cách mạng Việt nam sẽ trải qua hai giai đoạn, tức là sau khi làm
xong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thì cách mạng Việt Nam sẽ tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Tóm lại: quan điểm nhất quán xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
sự lựa chọn con đường của cách mạng Việt Nam là con đường xã hội chủ
nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Quan điểm đó đã được
thể hiện một cách sinh động và sáng tạo trong suốt quá trình phát triển của
cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ và đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
2. Về bản chất của chủ nghĩa xã hội
Nắm vững học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ
đặc điểm của xã hội Việt Nam là tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông
nghiệp lạc hậu không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh
đã nêu lên những luận điểm sáng tạo về những đặc trưng của chủ nghĩa cộng
sản nói chung và về những đặc trưng phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam nói riêng.
Về đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản, Hồ Chí Minh khẳng định:'' Chủ
nghĩa cộng sản là chế độ xã hội không có chế độ tư hữu, không có giai cấp áp
bức bóc lột, là của cải đều của chung, sức sản xuất cao, nhân dân lao động
hoàn toàn giải phóng và rất tự do, sung sướng'' (T7, Tr.243)
Theo Người chủ nghĩa cộng sản có hai giai đoạn, giai đoạn thấp tức chủ
nghĩa xã hội, giai đoạn cao tức chủ nghĩa cộng sản và hai giai đoạn ấy có những
điểm giống và khác nhau. Người viết: '' Cộng sản có hai giai đoạn, giai đoạn thấp
tức chủ nghĩa xã hội , giai đoạn cao tức chủ nghĩa cộng sản. Hai giai đoạn ấy
giống nhau ở nơi: sức sản xuất đã phát triển cao; nền tảng kinh tế thì tư liệu sản
xuất đều là của chung, không có giai cấp áp bức bóc lột. Hai giai đoạn ấy khác
nhau ở nơi: chủ nghĩa xã hội vẫn còn chút ít vết tích của xã hội cũ; xã hội cộng
sản thì hoàn toàn không còn vết tích của xã hội cũ'' (T7, Tr. 244).
Về bản chất của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh có các đặc trưng sau:
Một là, nhân dân lao động là những người làm chủ tập thể tất cả những
của cải vật chất và văn hoá, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, không
còn áp bức bóc lột. Mục đích là không ngừng nâng cao mãi đời sống vật chất,
văn hoá của nhân dân, mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và hưởng
một đời hạnh phúc.
Hai là, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có nền văn hoá và khoa
học, kỹ thuật tiên tiến; thành phần kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo
của nền kinh tế quốc dân.
Ba là, nguyên tắc phân phối lợi ích là: ''làm nhiều hưởng nhiều làm ít
hưởng ít và ai không làm thì không hưởng'', người già yếu tàn tật được Nhà
nước chăm lo.
Bốn là, kinh tế có kế hoạch. Cả nước có một kế hoạch chung, mỗi ngành
theo kế hoạch chung đó mà đặt kế hoạch riêng.
Năm là, không có sự đối lập giữa thành thị và thôn quê, giữa lao động
chân tay và lao động trí óc. Vì vậy nông thôn ngày càng văn minh, công nông
ngày càng thông thái'' (T7, Tr. 243 - 245 ).
Những quan điểm trên đây của Bác đã được Đảng và nhân dân ta nhận
thức và vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta những năm qua. Điều đó đã được thể hiện rất rõ trong các văn kiện của
Đảng, đặc biệt là văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII.
3. Những vấn đề kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Cũng giống như nhiều vấn đề khác, tư tưởng của Bác về những vấn đề
kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không được trình bày tập trung
thành một tác phẩm chuyên khảo, mà được đề cập rải rác ở nhiều bài nói và
viết trong các hoàn cảnh khác nhau. Tập hợp lại, chúng ta có thể thấy tư tưởng
của Hồ Chí Minh về những vấn đề kinh tế của thời kỳ quá độ toát lên một số
vấn đề sau:
* Về đặc điểm, nhiệm vụ và độ dài của thời kỳ quá độ của nước ta.
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định việc
phải trải qua thời kỳ quá độ là bước đi tất yếu của con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Người viết:'' Con đường của chúng ta ngày nay ở miền Bắc là qua thời
kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội…chỉ có đi theo con đường ấy, miền Bắc
nước ta mới vĩnh viễn thoát khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu và xây dựng cơ sở
vững chắc cho sự nghiệp thống nhất tổ quốc'' (T10, Tr. 79). Trên thực tế, ngay
sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng thì chúng ta đã bước vào thời kỳ
quá độ tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.
Về đặc điểm của thời kỳ quá độ ở nước ta, Bác chỉ rõ đặc điểm lớn nhất
của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là chúng ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Bác viết: ''Đặc
điểm to lớn nhất của thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa'' ( T10, Tr. 3).
Xuất phát từ tính chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và từ đặc
điểm của thời kỳ quá độ ở nước ta, Hồ Chí Minh đã nêu lên những nhiệm vụ
kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ. Bác viết:'' Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng
một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta.
Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen… có gốc rễ từ ngàn
năm, chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xoá bỏ giai cấp bóc lột, xây
dựng quan hệ sản xuất mới không có áp bức bóc lột'' và ''phải xây dựng nền
tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội'' (T8, Tr. 493 ; T10, Tr. 3). Như
vậy, theo Hồ Chí Minh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có hai nhiệm
vụ kinh tế cơ bản, một là xây dựng quan hệ sản xuất mới; hai là xây dựng nền
tảng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Quan điểm trên đây của Bác là tư
tưởng xuyên suốt chỉ đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và
đã được Đảng ta quán triệt ngay từ văn kiện Đại hội Đảng III với nội dung tiến
hành đồng thời ba cuộc cách mạng .
Về độ dài của thời kỳ quá độ, theo Bác đó là một thời kỳ lịch sử lâu dài,
song dài bao nhiêu là phụ thuộc vào nỗ lực chủ quan của chính chúng ta. Bác
viết : ''Việt Nam ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, công cuộc đổi mới xã hội
cũ thành xã hội mới gian nan, phức tạp hơn việc đánh giặc. Thời kỳ quá độ
của ta chắc chắn sẽ đòi hỏi ba, bốn kế hoạch dài hạn. Nếu nhân dân ta mọi
người cố gắng, phấn đấu thi đua xây dựng thì thời kỳ quá độ có thể rút ngắn
hơn'' (T9, Tr. 175).
* Về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Trước hết, về sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế.
Về sở hữu, Hồ Chí Minh cho rằng, trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn tồn
tại đa dạng các hình thức sở hữu, cụ thể là các hình thức sở hữu sau: sở hữu
của nhà nước tức sở hữu toàn dân; sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể
của nhân dân lao động; sở hữu của người lao động riêng lẻ; và một ít tư liệu
sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản (T9, Tr. 588).
Theo Bác cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ là cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Bác viết : '' Hiện nay kinh tế
nước ta có những thành phần kinh tế sau: kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô;
kinh tế quốc doanh có tính chất chủ nghĩa xã hội; các HTX tiêu thụ và HTX cung
cấp có tính chất nửa XHCN; kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ; kinh
tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước. Trong đó kinh tế quốc doanh là công, là
nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức
phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó'' ( T7, Tr, 221).
Về cơ cấu ngành, theo Bác việc phát triển kinh tế cần phải chú ý đến sự
phát triển đồng bộ của cả ba ngành: công nghiệp, nông nghiệp và thương
nghiệp. Bác viết: '' Về nhiệm vụ thì phải hiểu rõ trong nền kinh tế quốc dân có
ba mặt quan trọng: công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công tác
quan hệ mật thiết với nhau. công nghiệp và nông nghiệp như hai cái chân của
con người. Hai chân có mạnh thì đi mới vững chắc, nông nghiệp không phát
triển thì công nghiệp cũng không phát triển được. Ngược lại không có công
nghiệp thì nông nghiệp cũng khó khăn. Công nghiệp và nông nghiệp quan hệ
với nhau rất khăng khít. Thương nghiệp là cái khâu giữa công nghiệp và nông
nghiệp. Thương nghiệp đưa hàng đến nông thôn phục vụ nông dân, thương
nghiệp lại đưa nông sản, nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng. Nếu khâu thương
nghiệp bị đứt thì không liên kết được nông nghiệp với công nghiệp, không củng
cố được liên minh công nông''(T8, Tr.174 và T10, Tr.619).
Đồng thời, do đặc điểm nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
nông nghiệp nên theo Bác trong thời kỳ quá độ, cần phải đặc biệt quan tâm đến
sự phát triển của nông nghiệp để lấy đó làm tiền đề cho công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa. Bác viết:'' Chúng ta phải ra sức tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc
trong công cuộc phát triển nông nghiệp vì: ''có thực mới vực được đạo'', phải làm
cho nhân dân ta ngày càng thêm ấm no. Nông nghiệp phải cung cấp đủ lương
thực và nguyên liệu để phát triển công nghiệp để bảo đảm công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa. Nông nghiệp tốt, công nghiệp tốt thì xây dựng tốt chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc'' (T10, Tr. 379).
* Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
Xuất phát từ đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa
xã hội của nước ta là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa cho nên, Hồ
Chí Minh khẳng định nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng
nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Tức là phải tiến hành công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Chỉ có như vậy thì mục đích của chủ nghĩa xã
hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân mới được thực hiện. Bác
viết: '' Muốn có nhiều nhà máy thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm
ra máy, ra gang, thép, than, dầu…đó là con đường phải đi của chúng ta. Con
đường công nghiệp hoá nước nhà''.
Một vấn đề khác, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn hết sức to lớn
trong tư tưởng của Bác về công nghiệp hoá là việc xác định bước đi của quá
trình công nghiệp hoá. Xuất phát từ hoàn cảnh nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội từ một nền nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn mà Bác cho rằng, nước ta chưa
có đủ điều kiện để tiến hành công nghiệp hoá một cách mạnh mẽ ngay được,
cần phải thực hiện từng bước. Trong đó, bước đi đầu tiên là phải tập trung sức
cho phát triển nông nghiệp. Hồ Chí Minh viết: ''Hiện nay chúng ta lấy sản xuất
nông nghiệp làm chính là vì muốn mở mang công nghiệp phải có đủ lương
thực và nguyên liệu. Nhưng công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu
phấn đấu chung, là con đường ấm no thực sự của nhân dân ta'' (T10, Tr. 41).
* Vấn đề hợp tác xã
Đây là vấn đề thu hút nhiều sự quan tâm của Bác và được Bác trình bày
trong nhiều bài nói và viết dưới các khía cạnh khác nhau. Thông qua các bài nói
và viết của Bác về vấn đề hợp tác xã, chúng tôi thấy nổi lên một số vấn đề cơ bản
sau đây:
- Trước hết, Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm và lập luận về sự cần thiết
phải có hợp tác xã. Hồ Chí Minh cho rằng vì nước ta là một nước nông
nghiệp, nên sản xuất nông nghiệp và nông dân giữ vai trò hết sức quan trọng,
to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Do vậy, cần phải làm cho nông
nghiệp phát triển và con đường phát triển của nông nghiệp là con đường hợp
tác hoá, tức xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp. Người viết: '' Việt Nam là
một nước nông nghiệp, nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công
cuộc xây dựng nước nhà, chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào
nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta
thịnh thì nước ta thịnh. Nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh thì cần
phải có hợp tác xã.'' (T4, Tr.215).
Bằng lối trình bày mộc mạc, dễ hiểu Hồ Chí Minh không chỉ đã đưa ra khái
niệm rất súc tích về hợp tác xã mà còn phân tích ích lợi của hợp tác xã. Người
viết: ''Hợp tác xã là hợp vốn, hợp sức lại với nhau. Vốn nhiều, sức mạnh, thì khó
nhọc ít mà ích lợi nhiều. Vì vậy hợp tác xã là một tổ chức có lợi cho nhà nông,
giúp nhà nông đạt đến mục đích, đã ích quốc lại lợi dân''. Bác chỉ rõ mục đích
của việc thành lập các hợp tác xã là nhằm'' cải thiện đời sống của nông dân, làm
cho nông dân được ấm no, mạnh khoẻ, được học tập, làm cho dân giàu, nước
mạnh'' (T9, Tr. 537).
- Về phương châm tổ chức hợp tác xã, là cần phải phát triển nhiều hợp
tác xã mà hình thức đầu tiên là thành lập các tổ đổi công.
- Về nguyên tắc xây dựng hợp tác xã, theo Bác việc xây dựng hợp tác xã
mà trước hết là tổ đổi công cần phải thực hiện các nguyên tắc sau:
+ Không được cưỡng ép. Tức là phải để cho nông dân tự nguyện vào HTX.
+ Đều có lợi ''làm sao cho những gia đình tổ đổi công đều có lợi''.
+ Quản lý dân chủ '' Tổ đổi công thì phải có tổ trưởng hoặc ban quản trị,
quản trị phải dân chủ''.
- Về phương pháp tổ chức hợp tác xã, Bác chỉ đạo :
Một là, không được làm mau, làm ẩu, phải đi bước nào vững vàng, chắc
chắn bước ấy, cứ tiến tới dần dần.
Hai là, phải thiết thực. Bác viết:'' đã tổ chức là phải làm việc thiết thực,
chứ không phải tổ chức cho có tên mà không có thực tế''.
Ba là, phải làm từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao. Bác huấn thị: '' phong
trào hợp tác hoá phải đi từ thấp đến cao… phát triển tổ đổi công, đưa tổ đổi
công từng vụ, từng việc lên thường xuyên, rộng khắp và có nền nếp rồi, mới
tiến lên làm hợp tác xã, chớ vội tổ chức hợp tác xã ngay.'' ( T7, Tr. 538 - 542)
Để quá trình thực hiện phong trào hợp tác hoá có kết quả tốt, Bác còn căn
dặn: Cán bộ phải chí công vô tư; lãnh đạo phải dân chủ; quản lý phải chặt chẽ,
toàn diện; phân phối phải công bằng. Các hợp tác xã phải học hỏi, giúp đỡ lẫn
nhau, trao đổi sáng kiến và kinh nghiệm cho nhau; phải cải tiến công tác quản
lý HTX; chống tham ô, lãng phí, quan liêu.
* Về quản lý kinh tế trong thời kỳ quá độ
Đây là lĩnh vực mà Bác coi đó là ''cái chìa khoá'' để phát triển nền kinh tế
quốc dân. Vì vậy, Bác rất quan tâm và nêu lên nhiều quan điểm mà đến nay
vẫn còn có ý nghĩa rất lớn đối với việc quản lý nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về
quản lý kinh tế cả ở tầm vi mô và vĩ mô nổi lên mấy vấn đề sau:
- Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định, quản lý kinh tế là một công việc
có vai trò cực kỳ quan trọng, nếu làm không tốt thì kinh tế không thể phát
triển được. Hồ Chí Minh viết: ''Trong công cuộc xây dựng nước nhà, việc
quản lý kinh tế tài chính là cực kỳ quan trọng. Nếu quản lý không chặt chẽ,
thì cái gì thiếu không biết, cái gì thừa không hay, công việc sẽ bị bế tắc''.
Và ''muốn phát triển sức sản xuất thì trước hết phải nâng cao năng suất lao
động và muốn nâng cao năng suất lao động thì phải tổ chức quản lý lao
động cho tốt'' (T10, Tr. 310).
- Về nội dung quản lý, theo Hồ Chí Minh phải toàn diện cả đầu vào, đầu
ra, ở mọi khâu của quá trình lao động, ở tất cả các cấp từ trung ương đến cơ sở
và tất cả mọi thứ đều phải được tính toán cẩn thận. Người viết:'' Tăng cường
và củng cố các việc quản lý: quản lý sản xuất, quản lý vật tư, quản lý lao động,
quản lý kỹ thuật, quản lý tiền bạc… phải tăng cường quản lý từ trung ương
đến địa phương, các xí nghiệp, công trường, nông trường… đều phải thực hiện
công việc quản lý một cách nghiêm chỉnh''. Bác còn chỉ rõ: ''Quản lý một nước
cũng như quản lý doanh nghiệp phải có lãi, cái gì ra cái gì vào, việc gì phải
làm ngay, việc gì chờ, hoãn, huỷ bỏ, món gì đáng tiền, người nào đáng dùng,
tất cả mọi thứ đều phải được tính toán cho cẩn thận'' ( T11, Tr. 110).
- Khi đề cập đến công cụ quản lý kinh tế, mà cụ thể là công tác kế hoạch
hoá. Bác cho rằng, việc xây dựng kế hoạch cần phải chú ý các yêu cầu sau:
+ Một là, kế hoạch phải cân đối, nhìn xa, trông rộng.
Bác viết: ''khi đặt kế hoạch phải nhìn xa, có nhìn xa mới quyết định đúng
thời kỳ nào phải làm công việc quản lý là chính. Phải thấy rộng, có thấy rộng
mới sắp đặt các ngành hoạt động có hiệu quả một cách cân đối''.
+ Hai là, phải bảo đảm nguyên tắc dân chủ.
+ Ba là, phải thiết thực, tính toán các điều kiện cụ thể. Bác viết: ''Kế hoạch
sản xuất không định theo cách quan liêu, mà phải liên hệ chặt chẽ với tình hình
kinh tế, với nguồn của cải, với sự tính toán rõ rệt sức hậu bị của ta, kế hoạch
không nên sụt lại sau, nhưng cũng không nên chạy quá trước sự phát triển của
công nghệ, không nên xa rời nông nghiệp, không nên quên lãng sức tiết kiệm
của ta'' ( T6, Tr. 498).
+ Bốn là, phải có biện pháp cụ thể vững chắc, có tinh thần cố gắng cao.
Trong công tác kế hoạch hoá, từ khâu lập kế hoạch đến khâu tổ chức thực
hiện, khâu nào cũng quan trọng. Nhưng theo Hồ Chí Minh, khâu đề ra các
biện pháp thực hiện là quan trọng nhất. Người viết: ''Đặt ra kế hoạch thật tốt,
thật sát là rất cần, nhưng đó chỉ là bước đầu. Kế hoạch 10 phần thì biện pháp
cụ thể phải 20 phần. Chỉ đạo thực hiện sát sao phải 30 phần, có như thế mới
chắc chắn hoàn thành được kế hoạch'' (T10, Tr. 266).
Trong công tác quản lý kinh tế ở tầm vi mô, để quản lý tốt xí nghiệp, Bác
cho rằng cần phải thực hiện tốt ba điều: ''Tất cả cán bộ lãnh đạo phải thật sự
tham gia lao động chân tay. Tất cả công nhân phải tham gia công việc quản lý
các tổ sản xuất, dưới sự lãnh đạo của cán bộ các phân xưởng. Sửa đổi chế độ
và qui tắc không hợp lý'' (T9,Tr. 230).
Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, trong công tác quản lý kinh
tế cán bộ cũng là vấn đề được Bác rất quan tâm. Để công tác quản lý kinh tế
đạt được kết quả tốt theo Bác, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế cần có các phẩm
chất sau : ''phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính; phải thật sự chống quan liêu,
tham ô, lãng phí; phải nâng cao cảnh giác bảo vệ xí nghiệp; phải khéo đoàn
kết và lãnh đạo công nhân; mọi việc đều phải dựa vào năng lực dồi dào sáng
tạo của công nhân; dùng phương pháp dân chủ mà đẩy mạnh phong trào thi
đua; phải thật sự săn sóc đến đời sống vật chất và tinh thần của công nhân;
phải cố gắng nghiên cứu và học tập để tiến bộ'' (T8, Tr. 84).
4. Về sử dụng các chính sách và các đòn bảy kinh tế.
Để tạo động lực kích thích người lao động tích cực hăng say lao động sản