Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN mô HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH tế TẠI TÒA án TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ hội CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.48 KB, 18 trang )

“Phương hướng hoàn thiện mô hình giải quyết
tranh chấp kinh tế tại toà án trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta, các tranh
chấp kinh tế nảy sinh nhiều với quy mô lớn và tính chất ngày càng phức tạp.
Những tranh chấp kinh tế phát sinh đòi hỏi phải được giải quyết thoả đáng
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đảm bảo trật tự
kinh doanh và kỷ cương xã hội.
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới thì hiện nay tranh chấp
kinh tế được giải quyết theo hai hình thức chủ yếu bằng con đường toà án
hoặc thông qua các tổ chức trọng tài.
Ở nước ta kỳ họp thứ tư, Quốc hội khoá IX đã thông qua luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Toà án nhân dân trong đó đã quy định
việc thành lập Toà án kinh tế nằm trong hệ thống toà án nhân dân. Việc
thành lập toà án kinh tế ở nước ta nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của việc
giải quyết tranh chấp kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Đây là một mô
hình mới trong hệ thống cơ quan tài phán ở Việt Nam, các vấn đề về chức
năng nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của toàn án kinh tế được
nhiều người quan tâm và nghiên cứu nhằm mục đích góp phần hoàn thiện
pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án.
Vấn đề “Phương hướng hoàn thiện mô hình giải quyết tranh chấp kinh
tế tại toà án trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
nghiên cứu tập trung vào những vấn đề như: khái niệm tranh chấp kinh tế,
các mô hình giải quyết tranh chấp kinh tế; phương hướng hoàn thiện mô hình
giải quyết tranh chấp kinh tế tại toà án.

1


1. Khái niệm tranh chấp kinh tế và các mô hình giải quyết tranh
chấp kinh tế.


1.1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp kinh tế
1.1.1. Khái niệm.
Sự hình thành nền kinh tế thị trường (KTTT) ở nước ta trong những
năm cuối của thế kỷ XX được diễn ra trong bối cảnh có sự phát triển theo
chiều rộng và chiều sâu của các quan hệ kinh tế với một tốc độ nhanh chóng
chưa từng thấy để nhằm tiến tới khẳng định nó là một bộ phận không thể
thiếu được của thị trường thế giới. Tranh chấp trong kinh tế nói chung và
trong kinh doanh nói riêng với tính cách là hệ quả tất yếu của quá trình này
cũng trở lên phong phú hơn về chủng loại, gay gắt, phức tạp hơn về tính chất
và quy mô. Bởi vậy, yêu cầu phải áp dụng các hình thức và phương thức giải
quyết tranh chấp phù hợp, có hiệu quả là một đòi hỏi khách quan để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế, bảo đảm nguyên tắc pháp
chế.
Giữa hai khái niệm tranh chấp kinh tế và tranh chấp kinh doanh là
những khái niệm có nội hàm rộng hẹp khác nhau, cho dù chúng đều được
hiểu là sự bất đồng chính kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột lợi ích về quyền
và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào các quá trình kinh tế.
Hiện nay, tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, tôi cũng đồng ý với các ý
kiến khác cho rằng: Tranh chấp kinh tế được hiểu là sự bất đồng chính kiến
về một sự kiện pháp lý, là sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và
nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế ở các cấp độ
khác nhau.
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp-kinh tế:
Mỗi loại tranh chấp đều mang những đặc điểm riêng, phụ thuộc vào
tính chất của mối quan hệ pháp luật vào chủ thể của các mối quan hệ đó cũng
như lợi ích mà mối quan hệ đó tác động đến.
2


Tranh chấp kinh tế, dù là tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa các chủ

thể kinh doanh, tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty, giữa các
thành viên công ty với nhau hay bất cứ tranh chấp kinh tế nào khác đều có
những điểm chung sau:
Thứ nhất: Các bên tranh chấp là pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh
doanh, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được pháp luật thừa nhận quyền
kinh doanh. Tính đa dạng của chủ thể, của các chủ sở hữu quyết định tính
phức tạp, đa dạng và quyết liệt của tranh chấp. ?
Thứ hai: Tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh với hoạt
động phong phú, đa dạng và các chu trình khép kín, với những mối liên hệ
hữu cơ, phụ thuộc lẫn nhau, chỉ một vi phạm, một trục trặc ở khâu nào đó dễ
dàng gây những phản ứng dây chuyền.
Thứ ba: Tranh chấp kinh tế thường có giá trị lớn, nhiều trường hợp giá trị vụ tranh chấp có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn, tồn tại; phát
triển hoặc phá sản một doanh nghiệp - có thể gây ra hậu quả xã hội lớn.
Cuối cùng, tuy các chủ thể kinh doanh có những bất đồng mâu thuẫn
về quyền lợi song họ biết giữ gìn tốt các mối quan hệ, thiết lập uy tín của
mình và các bạn hàng và muốn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
khi bị vi phạm.
1.2. Các mô hình giải quyết tranh chấp kinh tế
1.2.1. Giải quyết tranh chấp kinh tế tại trọng tài.
Trong kinh doanh nói riêng và trong dân sự nói chung nguyên tắc tự
định đoạt của các chủ thể luôn luôn được pháp luật bảo vệ. Các tranh chấp
kinh tế phát sinh thì sự thương lượng, hoà giải giữa các chủ thể được pháp
luật khuyến khích thực hiện và ngay bản thân những chủ thể tham gia quan
hệ cũng mong muốn có thể giải quyết với nhau nhanh chóng, thuận lợi,
không ảnh hưởng tới uy tín của nhau, vì thế mà các tổ chức trọng tài phi
chính phủ ra đời để giải quyết các tranh chấp kinh tế ngày nay trở lên phổ
biến và phù hợp với thực tế khách quan.
3



Lý do cơ bản là việc giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài có
những ưu điểm mà các hình thức khác không có được. Cụ thể là: trong tố
tụng trọng tài các bên tham gia được bảo đảm tối đa về quyền tự do định
đoạt về nhiều phương diện như lưa chọn trọng tài viên, địa điểm, thủ tục
phương thức giải quyết tranh chấp... Mặt khác, hình thức trọng tài thường
nhanh gọn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, tránh được sự lãng phí về mặt thời
gian và đảm bảo tính bí mật trong kinh doanh.
Ở một số nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì mô hình trọng
tài kinh tế phi chính phủ rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, nói chung các
trung tâm trọng tài thương mại và quốc tế ở các nước được tổ chức dưới hai
hình thức chủ yếu:
- Cả trung tâm trọng tài bên cạnh phòng thương mại: Thuỵ Điển,
Trung Quốc, Thái Lan).
- Các trung tâm trọng tài thương mại được tổ chức dưới dạng các công
ty (theo Luật công ty) hoặc các hiệp hội: ví dụ ở Singapore có trung tâm
trọng tài quốc tế Singapore hoặc ở Autralia có Trung tâm trọng tài thương
mại Autralia (ACICA).
Ngoài ra, ở hầu khắp các nước ngoài các tnmg tâm trọng tài thường
trực có đội ngũ trọng tài viên và quy tắc tố tụng trọng tài riêng còn tồn tại
hình thức trọng tài vụ việc (adhoc) - chỉ thành lập khi có yêu cầu, không có
quy tắc tố tụng riêng và tự giải thể khi giải quyết xong vụ việc.
Ở Việt Nam, theo Quyết định số 204/QĐ - TTG ngày 28/4/1993 của
Thủ tướng Chính phủ thì Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) được
thành lập trên cơ sở sáp nhập Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng
trọng tài hàng hải Việt Nam. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam với tính
chất là một tồ chức trọng tài phi chính phủ nằm bên cạnh Phòng thương mại
và công nghiệp Việt Nam.
Việc hình thành tổ chức trọng tài phi chính phủ chẳng những là đòi
hỏi khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn đời sống kinh tế mà còn
4



làm cho hoạt động giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta phù hợp với thông
lệ quốc tế giảm một phần gánh nặng giải quyết tranh chấp kinh tế'rong khi
việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại Toà án vẫn đang ở trong tình trạng cần
hoàn thiện. Chính vì vậy mà nó còn là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình
hội nhập quốc tế cải thiện môi trường đầu tư từng bước hoàn thiện khung
pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
1.2.2. Giải quyết tranh chấp kinh tế tại Toà án.
* Sơ lược lịch sử tài phán kinh tê ở Việt Nam.
Để hiểu rõ hơn thực trạng của tổ chức và hoạt động của hệ thống toà
kinh tế, chúng ta cần xem xét thiết chế này theo phương diện lịch sử. Một
điều không thể phủ nhận rằng, sự xuất hiện và hoạt động của Tòa kinh tế là
bước phát triển và thay đổi về chất của hệ thống tài phán truyền thống ở Việt
Nam.
Nhìn lại lịch sử phát triển.của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh
tế ở nước ta, chúng ta có thể thấy một số giai đoạn đáng chú ý sau:
Thời kỳ 1945 - 1956: Pháp luật Việt Nam 'chưa có sự phân biệt giữa
tranh chấp kinh tế và các loại tranh chấp tài sản khác, vì vậy chưa có một cơ
chế chuyên biệt về mặt pháp lý để điều chỉnh.
Thời kỳ 1956 - 1960: Với Điều lệ tạm thời số 735 - TTG về hợp đồng
kinh doanh do Thủ tướng chính phủ ban hành ngày 10/4/1956 thì ở Việt
Nam mới có sự phân biệt giữa tranh chấp trong kinh doanh và các loại tranh
chấp tài sản khác việc giải quyết tranh chấp được quy định tại Điều 20 của
Bản điều lệ này như sau:
+ Nếu là tranh chấp giữa tư doanh với nhau, giữa tư doanh với quốc
doanh hay hợp tác xã thì đưa ra cơ quan đăng ký hay thị thực hợp đồng để
giải quyết.
+ Nếu xét thấy cần truy tố trước Toà án Nhân đần; cơ quan đăng ký sẽ
đứng ra khởi tố trước Toà án Nhân dân sở tại.


5


+ Nếu tranh chấp giữa các tổ chức hợp tác xã hay tổ chức quốc doanh
với nhau thì đưa lên cơ quan cấp trên giải quyết.
Việc đăng ký và thị thực được quy định tại Điều 8 như sau:
“ Trong thời hạn 05 ngày sau khi ký kết giữa tư doanh với nhau, giữa
tư doanh với quốc doanh hay hợp tác xã phải đem đăng ký tại cơ quan công
thương tỉnh thành phố hay Uỷ ban hành chính huyện (được uỷ nhiệm) ở nơi
hai bên ký kết hợp đồng.
Nhưng hợp đồng nhỏ ký kết giữa quốc doanh, hợp tác xã với tập thể
nông dân thì phải được uỷ ban hành chính xã thi thực.
Như vậy, các cơ quan giải quyết tranh chấp đầu tiên ở việt Nam gồm
có cơ quan công thương tỉnh, thành phố, Uỷ ban hành chính huyện, uỷ ban
hành chính xã, cơ quan cấp trên của tổ chức hợp tác xã, cơ quan cấp trên của
tổ chức quốc doanh và toà án nhân dân.
Thời kỳ 1960 - 1994: Việc xây dựng nền kinh tế theo cơ chế tập trung
- kế hoạch hoá trong giai đoạn này đã tạo tiền đề cho sự ra đời của một cơ
quan giải quyết tranh chấp thuộc hệ thống cơ quan hành pháp là trọng tài
kinh tế nhà nước. Với một loạt các văn bản pháp luật được ban hành như:
Nghị định số 20/TTg ngày 14/01/1960; Nghị định số 94/NĐ - CP ngày
10/6/1965; Nghị định số 75/CP ngày 14/4/1975; Nghị định số 24/HĐBT
ngày 01/81/1984 và đặc biệt là Pháp lệnh trọng tài kinh tế ngày 10/01/1990,
Trọng tài kinh tế nhà nước đã được tổ chức thành một hệ thống nằm trong hệ
thống cơ quan hành pháp. Trọng tài kinh tế được tổ chức ở ba cấp là Trung
ương tỉnh và cấp huyện.
Bên cạnh sự tồn tại của trọng tài kinh tế nhà nước, thực tiễn hoạt động
kinh tế của Việt Nam từ những năm 1960 đã đòi hỏi phải thành lập các tổ
chức trọng tài phi chính phủ để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt

động kinh tế quốc tế. Xuất phát từ yêu cầu này "Hội đồng trọng tài ngoại
thương” đã được thành lập theo Nghị định số 59/NĐ - CP ngày 30/4/1963 và

6


"Hội đồng trọng tài hàng hải" được thành lập theo Nghị định 153/NĐ - CP
ngày 05/10/1964.
Từ năm 1964 đến nay: Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang
nền kinh tế thị trường đang chứng kiến sự phát triển đa dạng của các thành
phần kinh tế, chế độ sở hữu khác nhau trong các hoạt động kinh doanh và
điều này đã dẫn đến sự thay đổi về hình thức và nội dung của các tranh chấp
trong kinh doanh. Sự thay đổi đó đòi hỏi phải đổi mới phương thức giải
quyết tranh chấp kinh tế. Chính vì lẽ đó, ngày 28/12/1993 tại kỳ họp thứ tư,
Quốc hội khoá IX đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
tổ chức Toà án nhân dân. Theo đó, Toà kinh tế với tư cách là một toà chuyên
trách trong hệ thống Toà án nhân dân được thành lập có chức năng xét xử
các tranh chấp kinh tế và bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 01/7/1 994. Đây
cũng là ngày hệ thống trọng tài kinh tế Nhà nước chấm dút sự hiện diện của
mình trong đời sống kinh tế của Việt Nam.
Cùng với sự xuất hiện của Tòa kinh tế, một số trung tâm trọng tài kinh
tế phi chính phủ cũng ra đời và là một phần quan trọng trong giải quyết tranh
chấp kinh tế tại Việt Nam.
* Sự cần thiết phải hành lập Tòa kinh tế.
Với tư cách là cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp kinh tế trong
kinh doanh giữa các chủ thể kinh tế nảy sinh các quan hệ kinh tế mà nội
dung chính là thực hiện các quyền và nghĩa vụ các bên tham gia. Trên thực
tế không phải lúc nào các bên cũng thực hiện nghiêm chỉnh những nghĩa vụ
phát sinh.
Vì vậy tranh chấp kinh tế xảy ra là một điều khó tránh khỏi. Nhằm bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thông qua pháp luật từn những giải
pháp hữu liệu để giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh. Tuy nhiên, việc
xây dựng một hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế không phụ thuộc vào ý
chí các bên hay bản thân nhà nước mà phải phù hợp với các điều kiện kinh tế
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
7


Ở Việt Nam, khi chuyển đổi rờ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã đặt ra yêu cầu
khách quan là phải đổi mới hệ thống tư pháp và các cơ quan tài phán nói
chung trong đó có việc thay đổi cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp trong
kinh doanh.
Khi nền kinh tế thị trường hình thành và phát triển thì các quan hệ
kinh tế không chỉ là những quan hệ hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch,
cũng như quan hệ lãnh đạo hoạt động sản xuất kinh doanh có sự thay đổi căn
bản. Việc xác lập các hợp đồng có tính kế hoạch trực tiếp giữa các doanh
nghiệp đã được thay thế bằng những hợp đồng mang tính chủ động thoả
thuận giữa các bên. Hơn nữa trong cơ chế mới nhiều loại hình doanh nghiệp
mới dựa trên nhiều hình thức sở hữu khác nhau như: doanh nghiệp nhà nước,
công ty, hợp tác xã hoạt động theo nguyên tắc bình đẳng, tự do kinh doanh
theo pháp luật tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình, do đó
tranh chấp xảy ra không còn là những mâu thuẫn, bất đồng trong nội bộ
doanh nghiệp Nhà nước mà là tranh chấp giữa các chủ sở hữu khác nhau.
Các tranh chấp về kinh tế ngày càng có nhiều loại và ngày càng trở lên phức
tạp hơn. Việc giải quyết tranh chấp này không thể giao cho Trọng tài kinh tế
với tư cách là cơ quan quản lý hành chính nhà nước mà phải giao cho cơ
quan tư pháp giải quyết để có tính độc lập với các cơ quan quản lý nhà nước.
Mặt khác, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần các tranh chấp
không chỉ bó hẹp trong các tranh chấp về hợp đồng kinh tế. Trên cơ sở thực

hiện các quy định pháp luật mới như Luật công ty, Luật thương mại, Luật
doanh nghiệp, Luật phá sản….thực tế hoạt động kinh doanh đã phát sinh các
tranh chấp mới nhưng trọng tài kinh tế nhà nước không có thẩm quyền giải
quyết như tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty, giữa các thành
viên công ty với nhau, tranh chấp liên quan đến mua bán cổ phiếu, quảng
cáo, phá sản....Việc giải quyết các tranh chấp này về nguyên tắc phải được
thực hiện trên cơ sở tôn trọng quyền định đoạt của các bên. Các bên có thể
8


lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp, không nhất thiết yêu cầu nhà nước
giải quyết. Nhưng khi tranh chấp đã được các bên yêu cầu nhà nước giải
quyết thì phải do một cơ quan tư pháp đảm nhiệm giải quyết theo trình tự thủ
tục bắt buộc để đảm bảo sự bình đẳng của các bên trước pháp luật.
Giải quyết tranh chấp kinh tế về mặt bản chất là tố tụng tư pháp. Vì
vậy nên giao cho hệ thống cơ quan tư pháp tiến hành. Chính vì vậy mà Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 4 khoá IX để
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của "Luật tổ chức Toà án nhân
dân" với nội dung chính là thành lập Tòa kinh tế ở Việt Nam - với tư cách là
một toà chuyên trách thuộc Toà án nhân dân.
2. Phương hướng hoàn thiện mô hình qiải quyết tranh chấp kinh
tế tại Toà án.
2.1.Những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết các tranh chấp
kinh tế.
Những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế là
những tư tưởng chỉ đạo mang tính chất hướng dẫn đối với việc giải quyết các
tranh chấp kinh tế tại một số cơ quan toà án có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật. Toà án kinh tế với tư cách là một bộ phận của Toà án nhân
dân trong hoạt động của mình phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của hệ thống Toà án nhân dân nói chung được quy định trong Hiến

pháp năm 1992 và trong Luật tổ chức Toà án nhân dân. Bên cạnh đó, với tư
cách là một Toà án chuyên trách độc lập trong hệ thống Toà án nhân dân thì
trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế, Toà kinh tế còn phải tuân thủ
các nguyên tắc đặc trưng riêng như:
* Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt.
Nguyên tắc này được quy định tại điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự. Có
thể nói đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong tố tụng nhằm đảo bảo
quyền tự do kinh doanh, tự do thoả thuận theo pháp luật, nhà nước không
can thiệp vào các hoạt động kinh doanh hợp pháp của chủ thể kinh doanh.
9


Khi có tranh chấp xảy ra Toà án chỉ đứng ra giải quyết khi có yêu cầu. Nhà
nước không tự đưa các tranh chấp kinh tế ra toà để phán quyết. Có yêu cầu
Toà án giải quyết hay không là quyền của các chủ thể kinh doanh. Việc giải
quyết tranh chấp kinh tế tại toà án chỉ là một biện pháp trong khi đó các bên
có thể lựa chọn hoặc thương lượng, hoà giải bằng con đường trọng tài hoặc
là từ bỏ quyền lợi. Quyền tự định đoạt còn được thể hiện ở chỗ trong quá
trình toà án giải quyết các bên vẫn có quyền hoà giải, quyền rút đơn khởi
kiện, quyền thay đổi nội dung đơn khởi kiện, có thể uỷ quyền cho người
khác hoặc nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình.
* Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng.
Nguyên tắc này được quy định tại điều 8 Bộ luật tố tụng dân sự. Nó là
sự cụ thể hoá điều 52 Hiến pháp năm 1992 “ Mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật”
Quyền này được cụ thể hoá trong nhiều văn bản pháp luật. Việc cụ thể
hoá này có ý nghĩa rất quan trọng trong tố tụng kinh tế bởi nó thể hiện các
chủ thể kinh doanh không phân biệt hình thức sở hữu: nhà nước, tập thể, cá
nhân khi tham gia giải quyết các vụ án kinh tế tại toà án đều có quyền bình
đẳng như nhau.

* Nguyên tắc toà án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu
thập chứng cứ.
Nguyên tắc này được quy định trong điều 6, điều 7 Bộ luật tố tụng
dân sự. Toà án khi giải quyết tranh chấp kinh tế không có nghĩa vụ phải điều
tra vụ việc mà chỉ căn cứ vao các chứng cứ mà đương sự đưa ra. Các đưong
sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh các chứng cứ. Toà án
không xét hỏi như tố tụng hình sự. Các bên có quyền và nghĩa vụ trình bày
những gì mà họ cho là cần thiết, Toà án chỉ tiến hành thu thập, xác minh
chứng cứ khi thấy cần thiết để rõ thêm yêu cầu của các bên giải quyết để giải
quyết vụ kiện được chính xác.
* Nguyên tắc hoà giải trong tố tụng.
10


Điều 10 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Toà án có trách nhiệm tiến
hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau
về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.
Theo nguyên tắc này, khi có tranh chấp kinh tế xảy ra thì các bên phải
gặp gỡ nhau thương lượng, hoà giải trước, nếu thương lương, hoà giải không
thành thì mới yêu cầu toà ná giải quyết. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì
toà án cũng có nghĩa vụ tạo điều kiện để các bên tiếp tục hoà giải ngay cả khi
vụ việc đưa ra xét xử thì các thẩm phán cũng tạo mọi điều kiện có thể giúp
cho hai bên hoà giải. Bởi lẽ, nếu đạt được thoả thuận cho vấn đề tranh chấp
trở nên đơn giản hơn rất nhiều, không chậm chễ trong mặt thời gian, tiết
kiệm được chi phí.
Để khuyến khích đương sự hoà giải, tại Khoản 3 Điều 131 Bộ luật tố
tụng dân sự quy định: “ … trước khi mở phiên toà, Toà án tiến hành hoà giải
nếu các bên đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì
họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2
điều này.”

* Nguyên tắc xét xử công khai.
Xét xử công khai là nguyên tắc hiến định trong hoạt động của toà án
được ghi nhận tại điều 31 Hiến pháp 1992 và được cụ thể hoá tại điều 15 Bộ
luật tố tụng dân sự. Theo đó các vụ kiện kinh tế được xét xử công khai, trừ
trườn hợp cần giữ bí mật nhà nước, hoặc theo yêu cầu chính đáng của các
đương sự nhằm bảo vệ bí mật. Bí mật đương sự trong tranh chấp kinh tế
thường là bí quyết về kinh doanh như phát minh, sáng chế….. có liên quan
trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh. Toà án là người có thẩm quyền
trong việc quyết định đưa vụ án ra xét xử công khai hay xét xử kín.
2.2. Những phương hướng cơ bản nhằm hoàn thiện mô hình giải
quyết tranh chấp kinh tế tại Toà án.
2.2.1. Quan điểm chỉ đạo về tổ chức Toà án kinh tế.

11


- Việc tổ chức Toà án kinh tế phải xuất phát từ tính chất, đặc trưng và
yêu cầu giải quyết các tranh chấp kinh tế
Với một nền kinh tế thì trường luôn có sự phát triển năng động của các
hoạt động kinh doanh thì cần thiết phải có sự giải quyết nhanh chóng kịp
thời các tranh chấp kinh tế xảy ra. Đây là một yêu cầu hết sức chính đáng
chủ thể kinh doanh. Quan điểm này được đặt vị trí hàng đầu vì Tòa kinh tế
được thành lập chính là nhằm tạo ra được một cơ chế giải quyết các tranh
chấp kinh tế nhanh gọn hơn so với cơ chế giải quyết các tranh chấp dân sự.
- Việc giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các tranh chấp kinh tế phát
sinh là những yêu cầu có quan hệ khăng khít và luôn tồn tại song song với
nhau, bởi vì : khi có tranh chấp kinh tế xảy ra cho dù được giải quyết đúng
đắn theo pháp luật nhưng thủ tục phức tạp, thời hạn giải quyết kéo dài gây
ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh, gây thiệt hại cho các bên tranh
chấp thì không thể chấp nhận. Hoặc ngược lại, nếu việc giải quyết các tranh

chấp kinh tế nhanh gọn nhưng thiếu chính xác về mặt pháp luật thì cách giải
quyết này cũng không thể tồn tại. Vì vậy, việc tổ chức một cơ quan tài phán
hợp lý thích ứng với hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm giải quyết đúng và
nhanh chóng các tranh chấp kinh tế sẽ tạo động lực thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế.
- Việc tổ chức Toà án kinh tế phải tính đến thực tế phát triển của nền
kinh tế nước ta hiện nay và trong những năm tới.
Do đặc thù nền kinh tế nước ta mới chuyển sang kinh tế thị trường nên
còn nhiều điểm trong cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
hệ thống tài phán nói chung và tài phán kinh tế nói riêng còn nhiều hạn chế
cần tính đến sự phát triển trong thời gian tới để đảm bảo giải quyết tốt các
tranh chấp kinh tế đang và sẽ phát sinh.
- Việc tổ chức Tòa kinh tế xuất phát từ chức năng, thẩm quyền giải
quyết các vụ án kinh tế.

12


- Việc thành lập Tòa kinh tế quán triệt quan điểm mới của các cơ quan
tài phán, chủ trương cải cách tư pháp, đồng thời có sự kế thừa những thành
quả và kinh nghiệm giải quyết tranh chấp trong những năm qua.
2.2.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa kinh tế.
Trên cơ sở những quan điểm chỉ đạo nói ở trên, Tòa kinh tế được tổ
chức với tính cách là các Toà chuyên cách nằm trong hệ thống Toà án nhân
dân từ cấp tỉnh trở lên.
Theo quy định của luật tổ chức Toà án nhân dân thì cơ cấu tổ chức toà
án Kinh tế gồm:
- Trong Toà án nhân dân tối cao, Bên cạnh Toà án quan sự trung
ương. các toà phúc thẩm, toà hình sự, toà dân sự, có thêm toà kinh tế.
- Trong các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có các thẩm phán

kinh tế chuyên trách
- Trong Toà án nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương, bên
cạnh Toà hình sự, Toà dân sự có Toà kinh tế.
Nhìn chung, mô hình tổ chức Tòa kinh tế theo quy định nói trên đảm
bảo tính thống nhất về tổ chức cơ quan xét xử, tổ chức bộ máy Nhà nước gọn
nhẹ, tránh thêm đáu mối, không gây ra tranh chấp về thẩm quyền giữa các
toà án.
2.2.3.Về chức năng nhiệm vụ của Toà án
- Chức năng của Tòa kinh tế.
Chức năng của Toàn kinh tế là mặt hoạt động chủ yếu của Tòa kinh tế
được pháp luật ghi nhận, nó xác định bản chất của Toà kinh tế là một trong
những cơ quan xét xử của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, là cơ quan nhân
danh Nhà nước đứng ra giải quyết các tranh chấp kinh tế, xử lý các vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh.
Theo quy định của pháp luật, Tòa kinh tế có những chức năng cơ bản
sau:
+ Chức năng xét xử các vụ án kinh tế.
13


Với tư cách là cơ quan tài phán lĩnh vực kinh tế của Toà án nhân dân,
Tòa kinh tế căn cứ vào các quy định của pháp luật, cả pháp luật nội dung và
pháp luật tố tụng để ra các bản án, quyết định nhằm giải quyết các tranh chấp
kinh tế. Các bản án, quyết định của Tòa kinh tế đã có hiệu lực pháp luật phải
được các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan nghiêm chỉnh
chấp hành.
+ Chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Nhoài chức năng xét xử như các toà chuyên trách khác trong hệ thống
Toà án nhân dân, Tòa kinh tế còn có một chức năng đặc trưng: tuyên bố một
doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp bị

phá sản. Thực hiện chức năng này Tòa kinh tế bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cả chủ nợ, doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác trong nền
kinh tế đồng thời phải tuân thủ nghiêm túc những quy định của pháp luật phá
sản nói riêng và các quy định khác của pháp luật về quản lý kinh tế nói
chung.
- Nhiệm vụ của Tòa kinh tế.
Theo quy định của pháp luật "trong phạm vi chức năng của mình, Toà
án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, tập thể,
bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân" (Điều
1 Luật tổ chức Toà án nhân dân).
Như vậy, có thể nói rằng pháp luật đã quy định một cách cụ thể và rõ
ràng nhiệm vụ chính của Toà án nhân dân nói chung và Toà kinh tế nói riêng
trong khi thực hiện chức năng của mình. Là một trong những cơ quan tố
tụng, Toà án phải đảm bảo cho mọi hoạt động tố tụng của mình được tiến
hành theo quy định của pháp luật tố tụng, các cá nhân, tổ chức theo quy định
của pháp luật,có quyền khởi kiện vụ án kinh tế để yêu cầu Toà kinh tế bảo vệ
các lợi ích hợp pháp của mình. Trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế, Toà

14


án phải tiến hành các biện pháp để các đương sự thoả thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án nhằm thoả mãn được lợi ích của các bên có tranh chấp.
Bằng hoạt động của mình, Toà án góp phần giáo dục các doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những
quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh chống các vi phạm pháp luật.
2.2.4. Vấn đề tăng thẩm quyền cho toà án nhân dân cấp huyện trong
giải quyết các tranh chấp kinh tế.
- Theo báo cáo tổng kết ngành toà án năm 2004 thì tất cả các toà án

nhân dân địa phương đã thụ lý 959 vụ số vụ án cũ còn lại 105 vụ tổng số vụ
án phải giải quyết trong năm là 1060 vụ, chiếm 89,4%. So với năm 2003 số
vụ án thị lý mới giảm 368 vụ. Trong đó các toàn án nhân dân cấp huyện chỉ
thụ lý 84 vụ. Cũng theo báo cáo tổng kết ngành toà án năm 2005 thì trong
năm 2005, các toà án nhân dân địa phương đã thụ lý 675 vụ, số vụ án cũ còn
lại là 215 vụ, tổng số vụ án phải giải quyết là 790 vụ, đã giải quyết được 675
vụ chiếm 83.3%. So với năm 2004, số vụ án kinh tế mới thụ lý giảm 384 vụ,
giảm 29,5%. Các toà án nhân dân các huyện trong cả nước chỉ thụ lý và giải
quyết 45/53 vụ.
Dựa trên các báo cáo tổng kết ngành toà án các năm 2003, 2004 và
2005 ta nhận thấy việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại toà án còn nhiều
khiêm tốn, bởi thực tế các chủ thể kinh doanh còn e ngại nhiều về tính khả
thi của bản án, quyết định của toà án, thủ tục tiến hành còn mất nhiều thời
gian. Dựa trên số liệu chúng ta có thể nhận thấy việc thụ lý vụ án kinh tế để
xét sử sơ thẩm tại toà án nhân dân cấp huyện thời gian qua là quá ít ỏi. Trong
thời gian tới cần nghiên cứu mở rộng thẩm quyền hơn nữa cho toà án nhân
dân cấp huyện.
2.2.5. Vấn đề đào tạo bồi dưỡng nâng cao chất lượng chuyên môn
nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán làm công tác xét xử
tranh chấp kinh tế.
Theo báo cáo của ngành toà án năm 2005 thì cả nước hiện đang thiếu:
“ số lượng thẩm phán toà án nhân dân các cấp còn chưa được bổ nhiệm đủ là
1210 người trong đó toà án nhân dân tối cao thiếu 23 người, toà án nhân dân
cấp tỉnh thiếu 186 người, toà án nhân dân cấp huyện thiếu 1001 người”.
15


Đặc biệt còn một số toà án nhân dân cấp huyện chưa có thẩm phán
kinh tế chuyên trách. Đây là những vấn đề hết sức cấp bách của ngành toà án
đòi hỏi trong thời gian tới chúng ta phải tăng cường về số lượng thẩm phán

tránh tình trạng thiếu thẩm phán dẫn đến một số thẩm phán phải xử quá
nhiều vụ việc trong tuần, trong tháng, trong năm. Đồng thời nâng cao trình
độ nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức chính trị của thẩm phán trong tình hình
mới. Trong công tác xét xử các vụ án kinh tế đòi hỏi đội ngũ thẩm phán phải
có những kiến thức về kinh tế và thị trường, có sự hiểu biết pháp luật thì mới
có khả năng xử đúng đắn vụ việc. Hiện nay tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá của nước ta diễn ra nhanh chóng, các hoạt động kinh doanh cũng đa
dạng và phức tạp và có tính chất quốc tế nên tình hình các tranh chấp kinh tế
cũng diễn ra hết sức đa dạng, phức tạp đòi hỏi cần được giải quyết nhanh
chóng chính xác và bằng một cơ chế hữu hiệu có tác dụng xác định lại trật tự
quản lý kinh tế của Nhà nước, bên cạnh đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp cho các chủ thể kinh doanh.

16


KẾT LUẬN
Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án là một mảng
pháp luật mang tính liên hoàn bao gồm nhiều quy định pháp luật thuộc các
lĩnh vực hay ngành luật khác nhau, thể hiện tập trung trong lĩnh vực pháp
luật kinh tế thương mại, trong lĩnh vực này, pháp luật giải quyết tranh chấp
kinh tế bằng toà án nói riêng (bao gồm cả luật nội dung và luật hình thức)
mang tính chất và biểu hiện những nguyên tắc đặc trưng của pháp luật kinh
tế.
Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh tế tại Toà án trong những năm
qua là một bức tranh khá ảm đạm về tài phán kinh tế. Việc số lượng các vụ
kiện không đáng kể được thụ lý và được xét xử tại toà án trong những năm
qua hoàn toàn không phản ánh một thực trạng về số lượng và chất lượng các
tranh chấp kinh tế trên thực tế. Đây là một mối lo ngại thực sự của chính
bản thân hệ thống toà án khi lòng tin của các chủ thể kinh doanh vào toà án

bị giảm sút. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên đây chính là
sự bất cập của cơ chế pháp lý giải quyết tranh chấp kinh tế bằng toà án. Sự
bất cập thể hiện trên các phương diện: Xác định thẩm quyền của toà án; thiết
lập một trình tự thủ tục tố tụng rõ ràng, hợp lý và thống nhất theo các nguyên
tắc, các yêu cầu căn bản của các quan hệ kinh tế thương mại; quy định một
cách toàn diện, chặt chẽ về những vấn đề thuộc pháp luật nội dung và pháp
luật tố tụng.
Trong bối cảnh Việt Nam đã và đang tham gia ngày càng sâu, rộng
vào các quá trình kinh tế, khu vực và trên thế giới. Đặc biệt việc nước ta
chuẩn bị ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việc hoàn thiện khung
pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế là một nhu cầu bức xúc, nhằm đảm
bảo việc giải quyết các tranh chấp một cách nhanh chóng, kịp thời và hiệu
quả bảo vệ một cách hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đáp
ứng được những đòi hỏi đặt ra trong tình hình mới.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 1992
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân
(1994, 2002)
3. Bộ luật tố tụng dân sự
4. Giáo trình luật kinh tế – Trường Đại học Luật Hà Nội
5. Báo cáo tổng kết ngành toà án năm 2003, 2004, 2005

18




×