Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ, một số vấn đề LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.22 KB, 20 trang )

THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. Một số khái niệm về thương mại, dịch vụ
Trong khuôn khổ của GATT/WTO, tại vòng đàm phán Uruguay diễn ra
từ năm 1986 đến năm 1994, các nước thành viên của GATT đã thông
qua Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (General Agreement on
Trade in Services, viết tắt là GATS). Hiệp định được thiết lập nhằm mở
rộng phạm vi điều chỉnh của hệ thống thương mại đa phương sang lĩnh
vực dịch vụ chứ không điều chỉnh một mình lĩnh vực thương mại hàng
hóa như trước đó. Đối với nước ta, thương mại dịch vụ là một thuật ngữ
còn khá mới mẻ. Trong quan niệm hiện đại, cơ cấu kinh tế quốc dân
được chia ra ba khu vực chính, đó là nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ. Theo Hệ thống kế toán quốc gia (SNA) thì nền kinh tế nước ta có
20 ngành cấp 1, trong đó nông nghiệp có 2 ngành (nông nghiệp và thủy
sản), công nghiệp có 4 ngành (công nghiệp khai thác, công nghiệp chế
biến, sản xuất và cung cấp điện và nước và ngành xây dựng), còn dịch
vụ có tới 14 ngành, có những ngành khá quen thuộc như thương mại,
du lịch, vận tải, ngân hàng, thông tin liên lạc…, nhưng cũng có những
ngành mới xếp vào lĩnh vực dịch vụ như giáo dục, y tế, văn hóa, thể
dục thể thao, hoặc như hoạt động của các đoàn thể xã hội… Dịch vụ là
một khái niệm rất rộng, từ việc đáp ứng nhu cầu cá nhân đến việc phục
vụ cho một ngành sản xuất, là một ngành kinh tế độc lập, hiện nay đang
chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân và không ngừng
được tăng cao.
Như vậy, có thể hiểu dịch vụ là toàn bộ các hoạt động nhằm đáp ứng
nhu cầu nào đó của con người mà sản phẩm của nó tồn tại dưới hình
thái phi vật thể.
Việc coi các ngành sự nghiệp như giáo dục, y tế, văn hóa…thuộc khu
vực dịch vụ và được hạch toán trong hệ thống kinh tế quốc dân có thể
đuợc lý giải dưới bốn góc độ: Thứ nhất, trong nền kinh tế thị trường,



mọi sản phẩm đều là hàng hóa, mọi hoạt động đều là kinh doanh, mà
kinh doanh là bỏ vốn ra để thu được lợi ích nhất định. Các ngành giáo
dục-đào tạo, y tế, văn hóa…muốn hoạt động được cần đầu tư vốn và
kết quả mang lại là sự phát triển toàn diện của con người, lợi ích đó còn
giá trị hơn nhiều so với lợi nhuận mà một nhà kinh doanh hàng hóa vật
thể đem lại. Người làm giáo dục, y tế, văn hóa cũng phải biết tính toán
lỗ lãi, thiệt hơn. Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, tư nhân được
quyền hoạt động giáo dục, khám chữa bệnh, lập các đoàn nghệ thuật,
đoàn làm phim thì mục đích không phải chủ yếu là phục vụ không công
cho xã hội mà mục đích là thu lợi, trực tiếp là lợi nhuận, tức là kinh
doanh, tất nhiên nếu không đạt được mục tiêu xã hội thì cũng không thể
kinh doanh được. Thứ ba, trong các ngành sự nghiệp như giáo dục, y tế,
văn hóa đều có các doanh nghiệp, mà đã là doanh nghiệp tất yếu phải
kinh doanh, như Công ty thiết bị trường học, Công ty dược, Nhà xuất
bản… là các doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh; còn các trường học,
bệnh viện, đoàn nghệ thuật, câu lạc bộ bóng đá cũng có thể coi là doanh
nghiệp. Thứ tư, những người được phục vụ nói chung đều phải trả tiền,
phải tính toán thiệt hơn để thụ hưởng sự phục vụ có hiệu quả nhất.
Thương mại là một ngành kinh tế độc lập mà hoạt động của nó là mua,
bán hàng hóa và dịch vụ. Luật thương mại quốc tế lại coi hoạt động
đầu tư, tín dụng và chuyển giao công nghệ cũng là hoạt động thương
mại. Trong ngành thương mại có ba lĩnh vực chính, đó là thương mại
hàng hóa, thương mại dịch vụ và thương mại đầu tư, trong đó thương
mại dịch vụ là hoạt động mua bán các loại dịch vụ. Trong hoạt động
thương mại lại có các loại hoạt động hỗ trợ như xúc tiến thương mại,
dịch vụ thương mại. Dịch vụ thương mại là các dịch vụ phục vụ cho
việc mua bán hàng hóa và dịch vụ, như maketing chẳng hạn.
II. Nội dung của thương mại dịch vụ
a- Ban Thư ký WTO phân thương mại dịch vụ thành 12 khu vực bao



gồm:
1. Dịch vụ kinh doanh,
2. Dịch vụ thông tin,
3. Dịch vụ xây dựng và kỹ thuật,
4. Dịch vụ kinh tiêu,
5. Dịch vụ đào tạo,
6. Dịch vụ môi trường,
7. Dịch vụ tài chính,
8. Dịch vụ liên quan đến sức khỏe và xã hội,
9. Dịch vụ du lịch và các hoạt động có liên quan,
10.Dịch vụ giải trí, văn hóa, thể thao,
11.Dịch vụ vận tải,
12.Các dịch vụ khác.
Từ 12 khu vực trên đây lại chia thành 155 tiểu khu vực. Theo GATS
thương mại dịch vụ bao gồm các dịch vụ ở bất kỳ khu vực nào trừ dịch
vụ do yêu cầu của chính phủ, là những dịch vụ không dựa trên kinh
doanh hoặc cạnh tranh.
Thương mại dịch vụ là một bộ phận hợp thành của thương mại quốc tế,
nó liên quan đến hoạt động thương mại vượt qua biên giới quốc gia,
theo các phương thức chủ yếu sau đây:
-Phương thức1: Thương mại dịch vụ giữa các nước, tức là mua bán
dịch vụ qua biên giới giữa các nước, có thể bằng viễn thông hoặc
chuyển dịch vụ bằng hiện vật như bản vẽ, băng đĩa…
-Phương thức 2: Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài, tức là khách hàng đi
sang nước khác để tiêu dùng dịch vụ như đi du lịch, học tập; sửa chữa
tàu biển, máy bay ở nước ngoài…
-Phương thức 3: Hiện diện thương mại, tức là đầu tư trực tiếp để thành
lập một chi nhánh, công ty con hay đại lý để cung cấp dịch vụ như cung
cấp thông tin, tư vấn pháp luật, ngân hàng cho nước sở tại…



-Phương thức 4: Hiện diện của thể nhân, tức là sự di chuyển tạm thời
của cá nhân sang nước khác để cung cấp các dịch vụ như tư vấn, xây
dựng, làm nội trợ, chăm sóc sức khỏe…
Trong bốn phương thức trên đây thì phương thức 3 - Hiện diện thương
mại có vị trí quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại dịch
vụ, đây là hình thức hoạt động thông qua liên doanh, chi nhánh hoặc
công ty 100% vốn nước ngoài (FDI) để cung cấp dịch vụ trong nước
(ngoại trừ dịch vụ du lịch và vận chuyển), thứ đến là phương thức 1 Thương mại dịch vụ giữa các nước. Phương thức 2 - Tiêu dùng dịch vụ
ở nước ngoài có vị trí quan trọng trong du lịch quốc tế. Phương thức 4 Hiện diện thể nhân có tỷ trọng không đáng kể trong thương mại dịch
vụ, nhưng đối với các nước đang phát triển như nước ta cũng rất quan
trọng trong việc xuất khẩu lao động và thuê chuyên gia nước ngoài.
b- Thương mại dịch vụ có một số đặc điểm:
Thứ nhất: Dịch vụ là loại sản phẩm vô hình, không sờ mó, nhìn thấy
được nhưng lại được cảm nhận qua tiêu dùng trực tiếp của khách hàng.
Quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm dịch vụ diễn ra đồng thời,
nhưng hiệu quả của dịch vụ đối với người tiêu dùng lại rất khác nhau.
Có loại xẩy ra tức thì, nhưng có loại chỉ đem lại hiệu quả sau nhiều
năm, chẳng hạn dịch vụ giáo dục phải sau 5-10 năm mới có thể đánh
giá đầy đủ. Do đó, việc đánh giá hiệu quả thương mại dịch vụ phức tạp
hơn so với thương mại hàng hóa.
Thứ hai: Thương mại dịch vụ có phạm vi hoạt động rất rộng, từ dịch vụ
cho tiêu dùng cá nhân đến dịch vụ sản xuất, kinh doanh, quản lý trong
tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, thu hút đông đảo người tham
gia với trình độ cũng rất khác nhau, từ lao động đơn giản như giúp việc
gia đình, bán các hàng lưu niệm ở khu du lịch đến lao động chất xám có
trình độ cao như các chuyên gia tư vấn, chuyên gia giáo dục…, do đó
đây là một lĩnh vực có nhiều cơ hội phát triển và tạo được nhiều công
ăn việc làm, rất có ý nghĩa về kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.



Thứ ba: Thương mại dịch vụ hiện nay đang có sự lan tỏa rất lớn, ngoài
tác dụng trực tiếp của bản thân dịch vụ, nó còn có vai trò trung gian đối
với sản xuất và thương mại hàng hóa, nên phát triển thương mại dịch
vụ có ảnh hưởng gián tiếp lên tất cả các ngành của nền kinh tế quốc
dân, do đó tác dụng của thương mại dịch vụ là rất lớn. Người ta tính
rằng, nếu thương mại dịch vụ được tự do hóa thì lợi ích của nó còn cao
hơn thương mại hàng hóa hiện nay và xấp xỉ bằng lợi ích thu được khi
tự do hóa thương mại hàng hóa hoàn toàn cho cả hàng hóa nông nghiệp
và hàng hóa công nghiệp.
Thứ tư: Thương mại dịch vụ khi lưu thông qua biên giới gắn với từng
con người cụ thể, chịu tác động bởi tâm lý, tập quán, truyền thống văn
hóa, ngôn ngữ và cá tính của người cung cấp và người tiêu dùng dịch
vụ, điều này khác với thương mại hàng hóa, sản phẩm là vật vô tri vô
giác, đi qua biên giới có bị kiểm soát nhưng không phức tạp như kiểm
soát con người trong thương mại dịch vụ, vì thế mà thương mại dịch vụ
phải đối mặt nhiều hơn với những hàng rào thương mại so với thương
mại hàng hóa. Các cuộc thương lượng để đạt được tự do hóa thương
mại dịch vụ thường gặp nhiều khó khăn hơn tự do hóa thương mại hàng
hóa, nó còn phụ thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa
của nước cung cấp và nước tiếp nhận dịch vụ đó.
c- Các nguyên tắc của thương mại dịch vụ.
Hoạt động thương mại dịch vụ nói chung phải theo các nguyên tắc cơ
bản của WTO đối với thương mại hàng hóa, nhưng có sự vận dụng linh
hoạt đối với các nước đang phát triển và đặc điểm kinh tế - xã hội của
từng quốc gia. Các nguyên tắc cơ bản của WTO bao gồm:
-Nguyên tắc không phân biệt đối xử, gồm hai quy chế: Đãi ngộ tối huệ
quốc và Đối xử quốc gia.
- Nguyên tắc tiếp cận thị trường, bao gồm hai khía cạnh: Một là, các

nước thành viên mở cửa thị trường cho nhau thông qua việc cắt giảm
từng bước, tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, mở


đường cho thương mại phát triển; hai là, các chính sách, luật lệ thương
mại phải được công bố công khai, kịp thời, minh bạch để có thể dự báo
được môi trường và triển vọng thương mại.
- Nguyên tắc cạnh tranh công bằng, đòi hỏi các nước thành viên WTO
loại bỏ bảo hộ bằng các biện pháp phi thuế, vì nó làm "méo mó thương
mại" như hạn ngạch, giấy phép, hạn chế số lượng nhập khẩu…mà chỉ
sử dụng công cụ duy nhất là thuế, nhưng các biểu thuế phải được giảm
dần trong quá trình hội nhập.
- Nguyên tắc áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần
thiết, cho phép các nước thành viên khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc
có những hành động khẩn cấp, cần thiết, được các nước thành viên
khác thừa nhận để bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước khi bị hàng
nhập khẩu thái quá đe dọa hoặc bị phân biệt đối xử gây phương hại cho
nước đó.
- Nguyên tắc ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và chậm phát
triển, nhằm tạo điều kiện cho các nước này từng bước thích nghi với
các thể chế của WTO như kéo dài thời gian hoặc giảm mức độ thực
hiện các cam kết.
Nói chung, khi đã là thành viên của WTO thì các nguyên tắc cơ bản
trên đây phải được tuân thủ cả trong thương mại hàng hóa và trong
thương mại dịch vụ. Nhưng do những đặc điểm của thương mại dịch vụ
luôn gắn với các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, truyền thống dân
tộc, an ninh quốc gia nên việc thực hiện các nguyên tắc này theo hướng
tự do hóa còn nhiều hạn chế. Do đó, các nước đang phát triển được
hưởng những "ưu tiên" khi thực hiện GATS nhằm khuyến khích các
nước này phát triển kinh tế, từng bước thích nghi với điều kiện và

nguyên tắc của WTO và giúp các nước mới gia nhập WTO cải cách
kinh tế ở nước mình.
III- Tiếp cận thương mại dịch vụ theo hướng hiện đại
Lâu nay, nước ta đã mở quan hệ dịch vụ với nhiều nước như du lịch
quốc tế, xuất khẩu lao động kể cả chuyên gia, thu hút đầu tư nước ngoài


để phát triển dịch vụ, phát triển viễn thông quốc tế… và thu được nhiều
ngoại tệ đáng kể cho nền kinh tế. Theo Tổng cục Thống kê, riêng xuất
khẩu dịch vụ năm 2001 đạt 2,81 tỉ USD, năm 2004 đạt 5,073 tỉ USD,
năm 2005 dự kiến đạt 5,6 tỉ USD và đến năm 2010 dự kiến đạt 8 tỉ
USD. Nghị quyết 07- NQ/TW của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế
quốc tế đã đề ra nhiệm vụ thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng
bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động,
khoa học - công nghệ, vốn, bất động sản…, tức là đã đề cập tới thị
trường dịch vụ. Luật Thương mại được Quốc hội khóa 11 thông qua tại
kỳ họp thứ 7 ngày 14/6/2005 đã có một chương (chương III) nói tới
Cung ứng dịch vụ, trong đó có nhiều điều khoản nói tới cung ứng dịch
vụ trong quan hệ quốc tế, tức là thương mại dịch vụ theo quy định của
WTO.
Nước ta sắp trở thành thành viên chính thức của WTO, việc thực thi các
điều khoản của Tổ chức thương mại thế giới lớn như thế này là điều bắt
buộc, trong đó kể cả GATS. Trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, việc phát triển thương
mại dịch vụ là phù hợp với xu thế chung của thời đại. Hiện nay, tỷ
trọng dịch vụ trong GDP của các nước đã tăng lên đến 60-70%, trong
khi ở nước ta ước đạt 38,5% năm 2005. Nước ta có vị trí địa lý thuận
lợi, tài nguyên phong phú, con người thông minh và năng động, chính
trị ổn định là tiềm năng to lớn cho phát triển thương mại dịch vụ, có
sức cạnh tranh tương đối cao trong khu vực và thế giới. Bên cạnh đó,

những thách thức và khó khăn không nhỏ, chủ yếu là khả năng thích
nghi với nguyên tắc của WTO nói chung và của Hiệp định chung về
Thương mại dịch vụ còn hạn chế, cả trong doanh nghiệp cũng như
trong quản lý nhà nước.
Để phát huy tiềm năng, khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách trong
hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia đầy đủ các điều khoản của GATS


nhằm phát triển mạnh thương mại dịch vụ cần thực hiện một số giải
pháp chính sau đây:
Một là, đổi mới và nâng cao nhận thức về thương mại dịch vụ. Ngày
nay, xu thế chung của thế giới cơ cấu kinh tế đang chuyển mạnh sang
phát triển dịch vụ, giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp, giá trị công
nghiệp. Đối với nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thì nhất thiết phải tăng tỷ trọng công nghiệp cả về giá trị và lao động.
Nhưng phát triển công nghiệp có bốn trở ngại lớn, đó là vốn lớn, lao
động và công nghệ đòi hỏi trình độ cao, quản lý phức tạp, sức cạnh
tranh thấp; trong khi phát triển dịch vụ thì bốn trở ngại đó không đến
nỗi gay gắt như trong công nghiệp. Như vậy, chuyển dịch lao động
nông nghiệp sang ngành dịch vụ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn. Thời
gian qua, nhiều địa phương phát triển công nghiệp nông thôn, đầu tư
khá lớn nhưng sản phẩm hàng hóa làm ra do chất lượng thấp, giá thành
cao, không thể cạnh tranh với sản phẩm do công nghiệp lớn trong nước
sản xuất và hàng ngoại nhập với giá rẻ nên phải chịu lỗ và nhiều nơi bị
thất bại. Trong khi đó, một số địa phương làm tốt công tác xuất khẩu
lao động đã tạo công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho địa phương.
Như vậy, về mặt nhận thức cần nhận rõ vai trò của ngành dịch vụ trong
cơ cấu kinh tế ở nước ta. Thương mại dịch vụ của WTO chủ yếu là
quan hệ thương mại quốc tế, nhưng trong xu thế toàn cầu hóa thì sự
phân biệt trong nước và nước ngoài chỉ có tính tương đối, do đó mọi

hoạt động dịch vụ trong nước cũng phải từng bước tiếp cận và thích
nghi với thương mại dịch vụ trong quan hệ quốc tế.
Hai là, tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để thích nghi với Hiệp định
chung về thương mại dịch vụ. Để từng bước hội nhập kinh tế quốc tế,
cần quan tâm một số chính sách sau đây:
-Về chính sách cơ cấu kinh tế, cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành theo hướng khai thác hợp lý và có hiệu quả tiềm năng và lợi
thế sánh của từng vùng, từng địa phương chú trọng phát triển mạnh


ngành dịch vụ. Phát triển dịch vụ và thương mại dịch vụ góp phần đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời khắc phục tình trạng
phân tán, manh mún, năng suất thấp và thiếu bền vững của nông nghiệp
hiện nay. Cần nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần,
xóa bỏ tình trạng độc quyền trong kinh doanh của một số doanh nghiệp
thuộc kinh tế nhà nước, không phân biệt đối xử giữa các thành phần
kinh tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
- Đối với các chính sách kinh tế khác, đặc biệt là chính sách thương
mại, cần nhanh chóng đổi mới để phù hợp với quy chế của GATS,
trong đó đặc biệt tôn trọng nguyên tắc minh bạch , đảm bảo cho mọi cơ
chế, chính sách của Nhà nước cũng như của doanh nghiệp được công
khai, rõ ràng, kịp thời. Đó không chỉ là nguyên tắc quan trọng trong
quan hệ quốc tế mà còn là quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là
giải pháp hữu hiệu để phòng và chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Ba là, tạo lập môi trường thuận lợi phát triển thương mại dịch vụ. Môi
trường để phát triển kinh tế nói chung và cho thương mại dịch vụ nói
riêng là một hệ thống gồm nhiều loại, bao gồm môi trường: chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội, pháp luật, thông tin, sinh thái…, chúng có
quan hệ tác động lẫn nhau, hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm nhau và phụ
thuộc chủ yếu bởi hệ thống chính sách đã nêu trên đây. Đối với thương

mại dịch vụ, nếu có một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, pháp luật
nghiêm minh phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế thì sẽ khuyến
khích làm giàu hợp pháp đi liền với xóa đói giảm nghèo, giảm bớt bất
công, chống tham nhũng, lãng phí, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát
triển thương mại dịch vụ. Đặc biệt, trong thương mại dịch vụ phải rất
coi trọng xây dựng môi trường văn hóa - xã hội, môi trường sinh thái
để thu hút khách quốc tế đến nước ta.
Bốn là, coi trọng phát huy nhân tố con người trong phát triển thương
mại dịch vụ. Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và ở
bất cứ giai đoạn nào thì nhân tố con người vẫn giữ vai trò quyết định.


Tuy nhiên, khác với thương mại hàng hóa, ở đó, quan hệ giữa người
sản xuất và người tiêu dùng là gián tiếp thông qua hàng hóa vật thể,
trong thương mại dịch vụ, quan hệ giữa người cung ứng dịch vụ và
người tiêu dùng dịch vụ nói chung là trực tiếp, do đó vai trò của nhân tố
con người càng quan trọng hơn. Con người trong thương mại dịch vụ
rất đa dạng về nghề nghiệp và trình độ, nhưng nói chung đều phải có
tâm, có đức, có tài. Một người đi làm ở nước ngoài tuy là lao động giản
đơn nhưng cũng phải biết ngoại ngữ, hiểu biết tâm lý, phong tục tập
quán của nước sở tại, biết cách ứng xử lịch thiệp, giữ đúng quan hệ.
Một chuyên gia đi phục vụ ở nước ngoài cần có trình độ uyên thâm, có
phẩm chất đạo đức trong sáng, là tấm gương để nước ngoài nhìn nhận
và đánh giá trí thức của Việt Nam. Sau khi trở thành thành viên của
WTO và để phát triển thương mại dịch vụ thì con người Việt Nam nói
chung phải có một sự thay đổi lớn về chất để có thể thích nghi với điều
kiện mới.
* GS,TS Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
HOÀN THIỆN THỂ CHẾ THƯƠNG MẠI
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Phạm Quang Thao *
Thể chế thương mại là những luật lệ, hình thức, các định chế và chế tài
quy định luật chơi và cách chơi đối với các chủ thể tham gia trên thị
trường. Nền kinh tế thương mại thế giới hiện nay đang vận động trong
bối cảnh quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa diễn ra rất sâu sắc,
nhanh chóng. Khái niệm về ranh giới giữa thị trường trong nước với thị
trường nước ngoài đã bị thay đổi theo hướng đan cài với nhiều hình
thức quan hệ đa dạng, phức tạp. Các chiến lược phát triển hướng vào
xuất khẩu hay thay thế nhập khẩu không còn giữ nguyên ý nghĩa cổ
điển của nó, bởi vì thị trường của mỗi quốc gia đều phải "mở cửa"


thông qua việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Các cuộc
chiến tranh thương mại nhằm giành giật thị trường giữa hàng nội và
hàng ngoại ngày một trở nên quyết liệt. Vòng đời sản phẩm hàng hóa
được rút ngắn nên việc lựa chọn sản phẩm và tổ chức tốt thị trường là
yếu tố rất quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với quốc gia và doanh
nghiệp.
Do sự phát triển của khoa học, công nghệ và tiến trình hội nhập, hình
thái tổ chức thị trường và phương thức hoạt động thương mại cũng đã
thay đổi. Thương mại điện tử đã ra đời và đang có những bước phát
triển nhanh chóng. Ngày nay, khái niệm buôn bán không còn được hiểu
theo nghĩa đen thuần túy như trước, mà bao gồm một phạm vi rộng lớn
hơn, bao trùm lên mọi hoạt động kinh tế của các quốc gia, với 4 nội
dung cơ bản: hàng hóa - dịch vụ - đầu tư và các yếu tố thương mại liên
quan đến sở hữu trí tuệ.
Đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, không lệ thuộc vào thể
chế chính trị, không thể có kinh tế thị trường nếu không tiến hành tự do
hóa thương mại. Đây là một trong những đặc trưng chủ yếu và cũng là
nội dung quan trọng nhất của việc vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị

trường, có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Với thị trường hóa giá cả và thương mại hóa nền kinh tế, xây
dựng đồng bộ các loại thị trường là khâu trung tâm đột phá, Việt Nam
đã tiến những bước dài trên con đường đổi mới. Gần 20 năm qua, nền
kinh tế nước ta đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Cùng với
quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước, ngành thương mại cũng
không ngừng mở rộng và phát triển. Thương mại và thị trường đã góp
phần tạo nên bức tranh kinh tế với nhiều "gam mầu" tươi sáng trên
nhiều khía cạnh và bình diện khác nhau. Một thị trường thống nhất và
ổn định trong toàn quốc đã hình thành. Thương mại phát triển sôi động,
về cơ bản đã đáp ứng được những nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng.


Đội ngũ thương nhân ngày càng đông đảo và đa dạng. Mạng lưới kinh
doanh thương mại, dịch vụ tiếp tục "phủ sóng" trên cả ba địa bàn: thành
thị, nông thôn và miền núi, góp phần gắn chặt sản xuất với tiêu thụ,
hàng hóa với thị trường, thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
Một số sản phẩm hàng hóa của Việt Nam đã vươn lên chiếm lĩnh
những vị trí quan trọng trên thị trường quốc tế. Có thể nói, chúng ta
đang có thời cơ và vận hội để rút ngắn con đường phát triển của mình
mà lịch sử thế giới đã phải trải qua hàng trăm năm mới có.
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải chấp nhận "luật chơi" và "cách
chơi" của các sân chơi khác nhau như: WTO, ASEAN, APEC, ASEM,
ACFTA..., song cho tới nay cơ chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương
mại của nước ta vẫn còn nhiều bất cập. Chính sách, cơ chế chúng ta
đang áp dụng lại còn có những yếu tố, những điều khoản cần kịp thời
chỉnh sửa cho phù hợp với "luật chơi" của WTO, ASEAN, APEC,
ASEM, trong khi những biện pháp, chính sách mà được các tổ chức
trên thừa nhận tạo lợi thế cho kinh tế và thương mại thì chúng ta lại
chưa có. Đây là một điểm yếu mà Việt Nam cần lưu ý khắc phục.

Việc mở cửa thị trường thông qua các cam kết giảm thuế sẽ chẳng có
một chút giá trị nào nếu như các hàng rào phi thuế quan vẫn được áp
dụng. Chính vì vậy việc loại bỏ hàng rào phi thuế quan luôn là yêu cầu
đồng hành với cắt giảm thuế quan trong mọi hình thức hội nhập kinh tế
quốc tế. Như vậy Việt Nam sẽ không được phép duy trì các biện pháp
phi thuế mà không có lý do chính đáng theo các quy định của WTO,
APEC, ASEAN/ AFTA... Điều này đồng nghĩa với các biện pháp cấm
nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu hay chưa cho phép nhập khẩu... kể cả
các biện pháp mang tính chất hạn ngạch kiểu "chỉ tiêu định hướng" sẽ
sớm phải loại bỏ. Như vậy, nhiều doanh nghiệp đang được bảo hộ sẽ
phải đối mặt với không ít thách thức do nguy cơ gia tăng cạnh tranh của
hàng nhập khẩu.
Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ với 200 nước và vùng lãnh thổ, đã


ký Hiệp định Thương mại với 61 nước và thỏa thuận đối xử tối huệ
quốc với 68 quốc gia. Tuy nhiên, có thể nói chúng ta đã hội nhập sâu
với tư cách là một nước nhỏ trên mọi góc độ về giai đoạn phát triển.
Trong thời gian tới, chúng ta sẽ gặp khó khăn lớn khi phải cạnh tranh
với các nước trong khu vực, trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Các
thị trường truyền thống sẽ gặp hàng loạt những khó khăn, không dễ gì
khắc phục trong "một sớm, một chiều". Bởi vậy, việc hoàn thiện và đổi
mới thể chế thương mại phải đặt trong bối cảnh vừa phải thúc đẩy tăng
trưởng bền vững, giữ gìn và bảo vệ môi trường, vừa phải cạnh tranh
trên thị trường quốc tế, lại chủ động cạnh tranh ở ngay thị trường trong
nước. Bước đầu chúng tôi có thể nêu một số xu hướng chung phát triển
thị trường ở nước ta đến năm 2010 như sau:
Một là, thị trường hàng hóa tiếp tục phát triển nhanh trên cả hai phương
diện cung và cầu. Về phía cung ứng, dưới tác động của hội nhập kinh tế
quốc tế và do ảnh hưởng trực tiếp của lịch trình thực hiện CEPT, khu

vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, dự báo khả năng tăng
trưởng kinh tế trong nước sẽ làm cho quy mô hàng hóa cung ứng trên
thị trường gia tăng nhanh cả từ sản xuất trong nước và nguồn hàng
nhập khẩu. Về phía cầu hàng hóa, trong giai đoạn đến năm 2010, nhu
cầu tiêu dùng của dân cư đối với nhóm hàng phi lương thực - thực
phẩm sẽ tăng nhanh hơn đối với nhóm hàng thực phẩm. Đồng thời, nhu
cầu mua hàng hóa vật tư cho các chương trình, dự án của Chính phủ
cũng gia tăng nhanh, nhất là các hàng hóa vật tư đáp ứng cho nhu cầu
xây dựng kết cấu hạ tầng.
Hai là, thị trường sẽ được thúc đẩy phát triển theo hướng hình thành thị
trường cạnh tranh thực sự do áp lực cả từ phía thực thi các chính sách
của Chính phủ và từ phía hoạt động của các doanh nghiệp. Từ nay đến
năm 2010 là thời kỳ triển khai mạnh mẽ việc hình thành các yếu tố
đồng bộ của thị trường, cộng với việc cắt giảm các hàng rào thuế và phi
thuế, tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng


đẩy mạnh cổ phần hóa, sự phát triển nhanh của khu vực doanh nghiệp
vừa và nhỏ, cũng như của các doanh nghiệp nước ngoài sẽ là các yếu tố
thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường.
Ba là, thị trường sẽ phát triển theo hướng vừa gắn kết chặt chẽ giữa các
thị trường đô thị, nông thôn và miền núi, vừa có sự bứt phá nhanh, vượt
trội của các thị trường đô thị; thị trường vùng, khu vực có lợi thế so
sánh về quy mô sản xuất, khả năng trung chuyển hàng hóa.
Bốn là, thị trường trong nước ngày càng "nhạy cảm" hơn với các biến
động của thị trường khu vực và quốc tế. Trong điều kiện nền kinh tế
mở, sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp (hãng) phân phối hàng
hóa sản xuất ở nước ngoài trên thị trường nội địa sẽ kéo theo những tác
động mạnh mẽ của thị trường ngoài nước đến thị trường nước ta.

Cường độ của những tác động đó tỷ lệ với tỷ trọng của các doanh
nghiệp nước ngoài trong nền kinh tế nói chung và hoạt động thương
mại nói riêng. Trong xu thế này, thị trường các hàng hóa cơ bản, như
xăng, dầu, vốn, các sản phẩm đầu vào trung gian cho các ngành sản
xuất trong nước sẽ có ảnh hưởng lớn đến thị trường hàng hóa khác và
sẽ "nhạy cảm" hơn đối với những tác động của thị trường ngoài nước.
Trong giai đoạn tới, cùng với xu thế phát triển khách quan của các xu
hướng thị trường nêu trên, bối cảnh chính trị trên thế giới và đường lối
phát triển kinh tế của Đảng cũng sẽ tác động tới quản lý nhà nước về
thương mại ở nước ta trên 4 khía cạnh sau:
Thứ nhất: Chính sách và cơ chế quản lý sẽ được đổi mới và hoàn thiện
nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính
sách xuất - nhập khẩu phải tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho đẩy
mạnh xuất khẩu và quản lý tốt nhập khẩu, khuyến khích việc nhập khẩu
công nghệ nguồn, công nghệ hiện đại và công nghệ cao nhằm đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính sách thương mại đối với thị
trường trong nước phải góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và


chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ hai: Chính sách và cơ chế quản lý thương mại sẽ được thể hiện
một cách nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
với nhiều hình thức tổ chức kinh doanh, cùng phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Thứ ba: Quản lý nhà nước về thương mại sẽ góp phần thúc đẩy sự hình
thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường hiện chưa
có hoặc còn sơ khai, như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán,
thị trường bất động sản, thị trường khoa học, công nghệ.
Thứ tư: Quản lý nhà nước về thương mại sẽ chủ yếu dựa trên nền tảng
của sự tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với

nền kinh tế như: đổi mới kế hoạch hóa, cải cách hệ thống thuế và các
cải cách trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ.
Từ những nhận định có tính chất dự báo trên, theo chúng tôi phương
hướng hoàn thiện thể chế thương mại trong những năm tới là:
Đối với thị trường trong nước cần tập trung theo hướng:
+ Chấm dứt mọi hình thức bao cấp qua cấp vốn, tín dụng, trợ giá cho
một số đối tượng, làm méo mó các quan hệ thương mại.
+ Sớm tạo lập một sân chơi cho tất cả các doanh nghiệp, cùng hoạt
động trên cơ sở một hệ thống chính sách và luật pháp thống nhất với
giá, phí đồng nhất trên cơ sở thực thi Luật Doanh nghiệp (năm 2005),
Luật Đầu tư mới...
+ Công tác cải cách hành chính phải tập trung giải quyết việc giảm
thiểu thủ tục hành chính, loại bỏ giấy phép không cần thiết, phục vụ
doanh nghiệp và tạo điều kiện để mọi hoạt động kinh tế diễn ra trôi
chảy, thông thoáng. Trên cơ sở đó, lựa chọn một số hướng đột phá về
đơn giản hóa thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh, thu thuế,
hải quan, kiểm tra, thanh tra hoạt động doanh nghiệp.
Trong hội nhập kinh tế quốc tế cần hướng vào việc đáp ứng các chuẩn
mực quốc tế trong mọi hoạt động kinh tế đối ngoại. Để thực hiện các
cam kết quốc tế của nước ta, như đối với AFTA, APEC, WTO,
ACFTA, Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ cần


tập trung xử lý các vấn đề chủ yếu sau:
+ Đối chiếu pháp luật hiện hành với các cam kết quốc tế để điều chỉnh,
sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống luật pháp vừa bảo đảm tính
đồng bộ vừa phù hợp với các định chế song phương và đa phương.
+ Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại, kiện toàn Ủy ban quốc gia
về hợp tác kinh tế quốc tế để thực sự đảm đương được vai trò "tư lệnh
chiến trường" trong quá trình chủ động và tích cực hội nhập kinh tế

quốc tế.
Trong đổi mới quản lý nhà nước về thương mại cần thực hiện vai trò
thống nhất quản lý nhà nước của Bộ Thương mại đối với toàn bộ lĩnh
vực thương mại trên thị trường. Như vậy mới có thể từng bước thực
hiện sự phân biệt chức năng quản lý nhà nước với chức năng sản xuất
kinh doanh, khắc phục được tình trạng bộ nào, ngành nào cũng làm
chức năng quản lý thương mại dịch vụ, điều hòa lưu thông hàng hóa.
Những mặt hàng quan trọng luôn có sự ách tắc và xuất hiện khá nhiều
những chồng chéo, thiếu phối hợp, sai lệch trong vận dụng cơ chế,
chính sách cũng như xử lý các hậu quả của nó do sự tồn tại dai dẳng
của mô hình quản lý theo kiểu "bộ chủ quản, sở chủ quản".
Cùng với quá trình cải cách nền hành chính quốc gia, tổ chức lại các
bộ, ngành và hệ thống các doanh nghiệp nhà nước, trong điều kiện hệ
thống pháp luật ngày càng đầy đủ, thì việc xóa bỏ mô hình bộ chủ
quản, sở chủ quản đối với lĩnh vực thương mại cũng cần phải được đặt
ra như một tất yếu khách quan.
Đổi mới quản lý theo hướng thống nhất quản lý nhà nước của Bộ
Thương mại đối với hoạt động thương mại đòi hỏi phải tổ chức và hoàn
thiện bộ máy quản lý, hình thành hệ thống quản lý nhà nước về thương
mại thống nhất từ trung ương đến địa phương, làm rõ vai trò, nhiệm vụ
các sở thương mại, định hình cơ quan quản lý hành chính - kinh tế nhà
nước trên địa bàn quận, huyện, xác định giới hạn trách nhiệm và mối
quan hệ giữa các tổ chức quản lý, như: bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh,


thành phố, sở, quận, huyện... pháp quy hóa các mối quan hệ đó thành
luật hoặc nghị định của Chính phủ để bảo đảm tính công khai, minh
bạch trong quá trình thực hiện.
Trước những chuyển biến sâu sắc về tình hình kinh tế, thương mại của
đất nước, đặc biệt là tiến trình hội nhập kinh tế thế giới trong những

năm qua như: việc thực thi các hiệp định thương mại, tham gia khu vực
mậu dịch tự do, các diễn đàn hợp tác kinh tế, quá trình đàm phán gia
nhập WTO, ngoài Luật Thương mại đã được chỉnh sửa, Luật Cạnh
tranh mới được ban hành, rõ ràng còn phải bổ sung nhiều luật khác.
Theo đó cần mở rộng phạm vi của Luật Thương mại, bao gồm các quan
hệ trong hoạt động trao đổi hàng hóa hữu hình và phần lớn hoạt động
thương mại dịch vụ; bổ sung các quy định cơ bản trong thương mại
quốc tế như vấn đề về các biện pháp chống trợ cấp, các biện pháp tự vệ,
đối kháng chống phá giá, xác lập quyền kinh doanh xuất - nhập khẩu về
thương mại dịch vụ trong nước và quốc tế... Hoàn thiện các quy định về
giải quyết tranh chấp thương mại để đáp ứng được quyền lợi chính
đáng của các doanh nghiệp khi phát sinh tranh chấp và phù hợp với các
thông lệ và các định chế quốc tế mà Việt Nam đã có cam kết tham gia.
Việc xây dựng một cơ chế giám sát thương mại và thực thi bảo hộ kịp
thời là một yêu cầu khách quan trong giai đoạn hiện nay. Kinh nghiệm
của các nước đi trước đều cho thấy sự cần thiết của cơ chế bảo hộ "tạm
thời". WTO xây dựng khung khổ chung nhất về các nguyên tắc xử sự
của một quốc gia liên quan cơ chế đó. Mỗi quốc gia, thành viên đó sẽ
vận dụng và xây dựng các cơ chế cụ thể theo cách riêng tùy thuộc vào
điều kiện và nhu cầu của mình.
Năm 2002, Việt Nam bước đầu đã phải đối mặt với những vấn đề còn
rất mới mẻ. Đó là các rào cản thương mại mới của nước ngoài đối với
những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Cùng với sự dỡ bỏ
các hàng rào thương mại truyền thống, các nước đang lạm dụng các
hàng rào thương mại mới nhằm ngăn chặn hàng hóa xuất khẩu của


nước ta. Nếu cơ chế giám sát có thể cho phép chúng ta xem xét vấn đề
và xử lý một cách linh hoạt hơn thì có thể tránh được những tình huống
theo kiểu như vụ kiện bán phá giá cá basa của Hoa Kỳ. Cho đến nay,

tuy Bộ Thương mại đã xây dựng cơ chế theo dõi về tình hình xuất
khẩu, nhưng tính chuyên trách chưa cao, sự gắn bó giữa doanh nghiệp
và các cơ quan còn thiếu chặt chẽ. Vì thế, trước tình huống các mặt
hàng xuất khẩu gặp khó khăn, cả các cơ quan quản lý chức năng và
doanh nghiệp nước ta tỏ ra hết sức lúng túng về phương pháp giải
quyết, thậm chí khi sự việc đã trở thành một vụ kiện thì đã quá muộn để
có thể tìm giải pháp tốt hơn, mà không ảnh hưởng đến quyền lợi của
hai bên. Bởi vậy, bước đầu chúng tôi xin đề xuất một số phương hướng
điều chỉnh và hoàn thiện chính sách thương mại hàng hóa của Việt
Nam trong từng lĩnh vực, như sau:
- Đối với những sắc thuế nội địa như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sử dụng đất... cần phải cải
cách từng bước, tiến tới xóa bỏ những điểm phân biệt đối xử giữa hàng
hóa sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, giữa các doanh nghiệp
trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Tiếp tục ban hành, bổ sung, hoàn thiện và cơ cấu lại các sắc thuế nội
địa, để bảo đảm phần nào bù đắp được tình trạng sụt giảm thu ngân
sách nhà nước khi chúng ta thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu. Việt
Nam cũng cần tiếp tục hoàn thiện danh mục biểu thuế nhập khẩu theo
hướng phù hợp hoàn toàn với danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu của
Tổ chức Hải quan thế giới (HS) và danh mục biểu thuế thống nhất của
ASEAN/AFTA, ACFTA. Với cách sửa đổi theo các danh mục này, số
dòng thuế sẽ được chi tiết cụ thể hơn nên sẽ thuận lợi hơn cho việc kê
khai áp mã số, cũng như xác định mức thuế phải nộp.
Bên cạnh đó, để bảo hộ hợp lý thị trường và sản xuất nội địa trong quá
trình hội nhập quốc tế, đồng thời vẫn phù hợp với các quy định của
WTO, Việt Nam cũng nên nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện những


quy định, chính sách mang tính pháp lý chặt chẽ hơn trong việc sử dụng

các công cụ điều tiết mới, như:
- Thuế tuyệt đối: Khi áp dụng nó, thuế sẽ được thu theo một số tiền nhất
định cho một đơn vị hàng hóa, không căn cứ trên giá và thuế suất của
mặt hàng như thuế thu theo tỷ lệ phần trăm hiện đang áp dụng.
- Thuế bảo vệ môi trường: Là loại thuế nhằm ngăn ngừa và khắc phục
hậu quả mà hàng nhập khẩu gây ra đối với môi trường sống, đồng thời
tạo điều kiện cho việc bảo hộ hợp lý sản xuất và thị trường trong nước
khi các biện pháp hạn chế định lượng hàng hóa nhập khẩu được bãi bỏ.
- Các chính sách trong lĩnh vực phi thuế quan: Gắn với tình hình thực
tiễn, kết hợp với các cam kết đã và sẽ có hệ thống phi thuế quan của
Việt Nam có thể được xây dựng thành 3 nhóm lớn sau: Loại 1 là những
biện pháp phi thuế quan phổ thông trong khuôn khổ của WTO; loại 2 là
những biện pháp kỹ thuật; loại 3 là những chính sách vĩ mô khác có tác
động điều tiết gián tiếp xuất nhập khẩu: cơ chế tỷ giá hối đoái, thanh
toán, lãi suất, tín dụng ngân hàng, chính sách đầu tư...
- Hàng rào kỹ thuật thương mại và các biện pháp vệ sinh dịch tễ: Việt
Nam cần khẩn trương rà soát điều chỉnh, bổ sung, xây dựng mới các
tiêu chuẩn về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật, yêu cầu về nhãn mác, bao
bì sản phẩm, tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, các biện pháp
kiểm dịch động thực vật phù hợp với các yêu cầu của WTO và thông lệ
quốc tế. Đồng thời, Việt Nam cũng nên khẩn trương sửa đổi bổ sung
Pháp lệnh về chất lượng hàng hóa, Pháp lệnh Đo lường và ban hành các
văn bản hướng dẫn thực hiện các Pháp lệnh đó.
- Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại: Trước mắt, tiếp tục
duy trì yêu cầu nội địa hóa như là một trong các điều kiện của đầu tư
nhưng giảm bớt số ngành, số sản phẩm thuộc đối tượng của chính sách
này, chỉ tập trung vào một số ít những sản phẩm quan trọng, thật cần
thiết để kích thích sự phát triển của ngành có liên quan, tạo ra những
sản phẩm có thương hiệu Việt Nam. Về lâu dài, chúng ta phải đưa ra lộ



trình bãi bỏ những quy định về nội địa hóa đối với tất cả các sản phẩm.



×