Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của bệnh giun đũa ở bê, nghé và biện pháp phòng trị tại ba huyện của tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC THÁIs NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN THU HÀ

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ
BỆNH GIUN ĐŨA Ở BÊ, NGHÉ VÀ BIỆN
PHÁP PHÒNG TRỊ TẠI BA HUYỆN THUỘC
TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ THÚ Y

Thái Nguyên- 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN THU HÀ

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ
BỆNH GIUN ĐŨA Ở BÊ, NGHÉ VÀ BIỆN
PHÁP PHÒNG TRỊ TẠI BA HUYỆN THUỘC
TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Thú y
Mã số ngành: 60.64.01.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ THÚ Y

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. TS. HOÀNG VĂN DŨNG
2. TS. NGUYỄN THỊ NGÂN

Thái Nguyên - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là của chúng
tôi (học viên và ngƣời hƣớng dẫn khoa học). Các số liệu, kết quả trong luận
văn này là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố, sử dụng để bảo vệ một
học vị nào.
Tôi xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đƣợc chỉ rõ
nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Thu Hà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận
tình của:
Thầy cô giáo hƣớng dẫn khoa học: 1. TS. Hoàng Văn Dũng
2. TS. Nguyễn Thị Ngân
Ban Giám hiệu trƣờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Khoa sau đại
học, Khoa Chăn nuôi – Thú y, Các thầy, cô giáo đã tận tình giúp đỡ, tạo điều
kiện để tôi học tập, tiếp thu kiến thức của chƣơng trình học.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Trạm Thú y, nhân dân địa phƣơng của các
huyện Phú Lƣơng, Phú Bình, Đồng Hỷ (tỉnh Thái Nguyên) đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Đƣợc sự động viên, giúp đỡ của gia đình, bạn bè, tôi đã vƣợt qua mọi
khó khăn trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn, cảm ơn chân thành tới những tập thể
và cá nhân đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành chƣơng trình học tập.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Thu Hà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




iii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI ................................................................. 1

2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI ............................................................................. 3
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ............................ 3
3.1. Ý nghĩa khoa học ........................................................................................ 3
3.2. Ý nghĩa thực tiễn ......................................................................................... 3
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................. 4
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI ........................................................ 4
1.1.1. Đặc điểm sinh học của giun đũa ký sinh ở bê, nghé ................................ 4
1.1.2. Dịch tễ học của bệnh giun đũa bê, nghé .................................................. 9
1.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh giun đũa bê, nghé .................. 11
1.1.4. Chẩn đoán bệnh giun đũa bê, nghé ........................................................ 14
1.1.5. Biện pháp phòng trị bệnh. ...................................................................... 15
1.2.

TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC................. 17

1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc .......................................................... 17
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài ....................................................... 19
Chƣơng 2. NỘI DUNG, VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU.. ............................................................................................................... 22
2.1. ĐỐI TƢỢNG VÀ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU ........................................ 22
2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu: .......................................................................... 22
2.1.2. Vật liệu nghiên cứu: ............................................................................... 22
2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU .......................................... 22
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu .............................................................................. 22
2.2.2. Thời gian nghiên cứu: ............................................................................ 23
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ..................................................................... 23
2.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................................................. 24
2.4.1. Bố trí điều tra và nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun đũa bê,
nghé ở 3 huyện của tỉnh Thái Nguyên. ............................................................ 24


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




iv
2.4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu đặc điểm lâm sàng của bệnh giun đũa bê,
nghé..................................................................................................................27
2.4.3. Nghiên cứu đề xuất biện pháp phòng, trị bệnh giun đũa cho bê, nghé .. 28
2.5. PHƢƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU ......................................................... 29
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ......................... 30
3.1. NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH GIUN ĐŨA BÊ,
NGHÉ Ở 3 HUYỆN THUỘC TỈNH THÁI NGUYÊN. .................................. 30
3.1.1. Nghiên cứu tình hình nhiễm giun đũa bê, nghé ..................................... 30
3.1.2. Nghiên cứu sự phát triển của trứng giun đũa bê, nghé và sự tồn tại của
trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh................................................................41
3.2. NGHIÊN CỨU BỆNH LÝ LÂM SÀNG CỦA BỆNH GIUN ĐŨA BÊ,
NGHÉ..............................................................................................................49
3.2.1. Những biểu hiện lâm sàng của bê, nghé bị bệnh giun đũa ở một số huyện
thành của tỉnh Thái Nguyên ............................................................................. 49
3.2.2. Bệnh tích đại thể ở cơ quan tiêu hoá bê, nghé do giun đũa gây ra.............51
3.2.3. Sự thay đổi một số chỉ số máu của bê, nghé khỏe và bê, nghé bị bệnh
giun đũa............................................................................................................52
3.2.4. So sánh công thức bạch cầu của bê, nghé bị bệnh giun đũa và bê, nghé
khỏe mạnh........................................................................................................54
3.3. NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ BỆNH GIUN
ĐŨA CHO BÊ, NGHÉ....................................................................................57
3.3.1. Phƣơng pháp ủ phân nhiệt sinh học để diệt trứng giun đũa bê,
nghé..................................................................................................................57
3.3.2. Phƣơng pháp điều trị bệnh giun đũa cho bê, nghé.................................58

3.3.3. Một số chỉ tiêu sinh lý của bê, nghé trƣớc và sau khi dùng thuốc.........60
3.4. ĐỀ XUẤT QUY TRÌNH PHÒNG, TRỊ BỆNH GIUN ĐŨA BÊ,
NGHÉ..............................................................................................................61
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ............................................................................64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 66
PHỤ LỤC........................................................................................................73

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




v
DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 3.1. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm giun đũa bê, nghé tại 3 huyện Phú Lƣơng,
Đồng Hỷ, Phú Bình...........................................................................31
Bảng 3.2. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm giun đũa bê, nghé theo mùa....................34
Bảng 3.3. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm giun đũa bê, nghé theo tuổi ....................37
Bảng 3.4. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm giun đũa ở bê và nghé.............................39
Bảng 3.5. Tình trạng ô nhiễm trứng giun đũa bê, nghé ở chuồng trại và khu
vực xung quanh chuồng nuôi trâu, bò ..............................................41
Bảng 3.6. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm trứng giun đũa bê, nghé ở khu vực bãi
chăn nuôi trâu, bò .............................................................................43
Bảng 3.7. Sự phát triển của trứng giun đũa bê, nghé trong phân thành trứng có
sức gây bệnh .....................................................................................46
Bảng 3.8. Khả năng tồn tại của trứng giun đũa bê, nghé có sức gây bệnh trong
phân ở điều kiện tự nhiên .................................................................48
Bảng 3.9. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu của bê, nghé bị bệnh giun đũa ............50

Bảng 3.10. Sự thay đổi một số chỉ số máu của bê, nghé khỏe và bê, nghé bị
bệnh giun đũa ....................................................................................52
Bảng 3.11. Sự thay đổi công thức bạch cầu của bê, nghé bị bệnh giun đũa và
bê, nghé khỏe mạnh ..........................................................................55
Bảng 3.12. Kết quả theo dõi ủ phân và tác dụng diệt trứng giun đũa ..............57
Bảng 3.13. Hiệu lực thuốc điều trị bệnh giun đũa cho bê, nghé ......................59
Bảng 3.14. Một số chỉ tiêu sinh lý của bê, nghé trƣớc và sau khi dùng thuốc 60

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




vi
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun đũa bê, nghé ở các huyện ........................ 32
Hình 3.2. Biểu đồ cƣờng độ nhiễm giun đũa bê, nghé ở các huyện ................ 32
Hình 3.3. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun đũa bê, nghé theo mùa ở các huyện ........ 34
Hình 3.4. Biểu đồ cƣờng độ nhiễm giun đũa bê, nghé theo mùa ..................... 35
Hình 3.5. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun đũa bê, nghé theo lứa tuổi ....................... 38
Hình 3.6. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun đũa ở bê và nghé ...................................... 40
Hình 3.7. Biểu đồ tỷ lệ ô nhiễm trứng giun đũa bê, nghé ở nền chuồng
và khu vực xung quanh chuồng ........................................................ 42
Hình 3.8. Biểu đồ tỷ lệ ô nhiễm trứng giun đũa bê, nghé ở khu vực bãi
chăn thả ............................................................................................................ 44
Hình 3.9. Biểu đồ sự thay đổi một số chỉ số máu của bê, nghé khỏe và
bê, nghé bị bệnh giun đũa ................................................................. 53
Hình 3.10. Biểu đồ sự thay đổi công thức bạch cầu của bê, nghé khỏe
và bê, nghé bị bệnh giun đũa ............................................................ 55


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




vii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
cs:

Cộng sự

g:

gam

Nxb:

Nhà xuất bản

PTNT:

Phát triển nông thôn

TN:

Thí nghiệm

TT:


Thể trọng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




1
MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Chăn nuôi trâu, bò ở nƣớc ta trƣớc đây chủ yếu để cung cấp sức kéo cho
nông nghiệp và lâm nghiệp. Những năm gần đây, ngành chăn nuôi của nƣớc ta
phát triển khá mạnh, theo hƣớng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, sản xuất sản phẩm
hàng hóa tập trung. Chăn nuôi góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao thu nhập của ngƣời nông dân. Ngành chăn nuôi trâu bò cung cấp cho con
ngƣời hai loại thực phẩm có giá trị cao và hoàn chỉnh về dinh dƣỡng là thịt và
sữa. Thịt trâu, bò đƣợc xếp vào loại thịt đỏ có giá trị dinh dƣỡng cao, hàng năm
thế giới tiêu thụ khoảng 40 - 50 triệu tấn thịt, giá 1kg thịt dao động từ 6- 7
USD/kg. Sữa bò đƣợc xếp vào loại thực phẩm cao cấp vì đây là loại thực phẩm
hoàn chỉnh về dinh dƣỡng và giúp tiêu hóa tốt. Trâu bò có khả năng chuyển hóa
thức ăn rẻ tiền nhƣ cây cỏ, rơm rạ thành sản phẩm có chất lƣợng cao là thịt, sữa.
Tuy nhiên, các bệnh xảy ra ở lứa tuổi bê, nghé đã gây ảnh hƣởng rất lớn đến hiệu
quả kinh tế trong công tác phát triển chăn nuôi trâu bò, trong đó phải kể đến
bệnh giun đũa bê, nghé.
Bệnh giun đũa bê, nghé nói riêng và bệnh ký sinh trùng nói chung không
gây thành ổ dịch lớn nhƣ các bệnh do vi khuẩn và virus, nhƣng nó thƣờng kéo
dài âm ỉ, làm giảm năng suất chăn nuôi, ảnh hƣởng đến khả năng sinh trƣởng và
phát triển của bê, nghé.
Bệnh giun đũa là bệnh khá phổ biến ở bê, nghé của nƣớc ta. Bệnh thƣờng

phát vào vụ đông – xuân, ở bê, nghé dƣới 3 tháng tuổi. Bê, nghé ở miền núi
nhiễm giun đũa cao hơn trung du và đồng bằng.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [12], Phan Địch Lân và cs (2005)
[22], bệnh do giun Neoascaris vitulorum gây ra, chúng ký sinh trong ruột non
của bê, nghé và gây ra các tác hại nhƣ: gây tổn thƣơng ruột non, một số cơ quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




2
(gan, phổi...) do ấu trùng di hành, giun lấy chất dinh dƣỡng làm cho bê, nghé gầy
còm, chậm lớn. Ngoài ra, giun đũa còn tiết độc tố làm cho bê, nghé bị trúng độc,
sốt cao, ỉa chảy, gầy sút và dễ chết nếu không đƣợc điều trị kịp thời.
Thái Nguyên là tỉnh trung du có nhiều đồi núi, bãi chăn thả rộng nên có
điều kiện thuận lợi để phát triển chăn nuôi trâu bò thịt. Theo kết quả điều tra
thống kê báo cáo của Sở Nông nghiệp và PTNT Thái Nguyên số lƣợng trâu,
bò tại thời điểm 01/4/2014, tổng đàn trâu, bò trên toàn tỉnh Thái Nguyên, cụ
thể nhƣ sau: Đàn trâu là 71.158 con, đàn bò là 34.033 con. Định hƣớng chung
của tỉnh là phát triển chăn nuôi trâu bò thịt theo hƣớng sản xuất sản phẩm
hàng hóa, tập trung nâng cao chất lƣợng, giá trị, sức cạnh tranh sản phẩm
chăn nuôi; đa dạng loại hình chăn nuôi phù hợp với điều kiện của từng địa
phƣơng quy mô nông hộ, trang trại, chăn nuôi công nghiệp, bán chăn thả.
Trong những năm gần đẩy tỉnh Thái Nguyên rất quan tâm đến công tác phòng
chống dịch bệnh đàn gia súc, gia cầm nói chung, đàn trâu, bò nói riêng. Tuy
vậy mới chỉ tập trung vào nghiên cứu, đề ra các giải pháp phòng chống các
bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhƣ bệnh lở mồm long móng, tụ huyết trùng
trâu, bò... Bệnh ký sinh trùng nói chung, bệnh giun đũa ở bê, nghé mặc dù tỷ
lệ nhiễm cao, gây hại đáng kể nhƣng chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Vì vậy,
bê, nghé ở các địa phƣơng của tỉnh còn bị bệnh phân trắng nhiều, gây thiệt hại

kinh tế đáng kể. Mặt khác, điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu, tổng đàn gia
súc, phƣơng thức chăn thả, điều kiện chăn nuôi ở nƣớc ta nói chung và các
tỉnh miền núi nói riêng có nhiều thay đổi. Điều đó có thể ảnh hƣởng và làm
thay đổi đặc điểm dịch tễ của bệnh giun đũa ở bê, nghé.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của thực tiễn chăn nuôi trâu bò ở Thái
Nguyên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ
của bệnh giun đũa ở bê, nghé và biện pháp phòng trị tại ba huyện của
tỉnh Thái Nguyên”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




3
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
- Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học của bệnh giun đũa bê, nghé
trong điều kiện chăn nuôi hiện nay.
- Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý lâm sàng của bệnh giun đũa bê,
nghé và xây dựng đƣợc biện pháp phòng chống bệnh giun đũa bê, nghé hiệu
quả, phù hợp với điều kiện chăn nuôi trâu bò ở Thái Nguyên.
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ,
bệnh lý, lâm sàng và biện pháp phòng chống bệnh giun đũa bê, nghé; đồng
thời có thêm một số đóng góp mới cho khoa học.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo ngƣời chăn nuôi áp
dụng biện pháp phòng, trị bệnh giun đũa, nhằm hạn chế tỷ lệ và cƣờng độ
nhiễm giun đũa ở bê, nghé; hạn chế thiệt hại do giun đũa gây ra, góp phần

nâng cao năng suất chăn nuôi, thúc đẩy ngành chăn nuôi trâu, bò phát triển.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Đặc điểm sinh học của giun đũa ký sinh ở bê, nghé
1.1.1.1. Vị trí của giun đũa bê, nghé trong hệ thống phân loại động vật.
Bệnh giun đũa do loài giun Neoascaris vitulorum (Goeze, 1782), hay
còn có tên gọi khác là Toxocara vitulorum thuộc họ Anikidae gây ra.
Theo Phan Thế Việt và cs (1977) [40], giun đũa bê, nghé có vị trí trong
hệ thống phân loại động vật học nhƣ sau:
Ngành Nemathelminthes Schneider, 1873
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân Lớp Rhabditia Pearse, 1942
Bộ Ascaridida Skrjabin et Schulz, 1940
Phân bộ Ascaridina Skrjabin, 1915
Họ Anisakidae Skrjabin et Karokhin, 1945
Giống Neoascaris Travassos, 1927
Loài Neoascaris vitulorum Goeze, 1782.
1.1.1.2. Đặc điểm hình thái của Neoascaris vitulorum.
Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996) [11]; Nguyễn Thị Kim Lan và cs
(1999) [12], giun tròn Neoascaris vitulorum có thân màu vàng nhạt, đầu có ba
lá môi, rìa của những môi này có răng cƣa, thực quản dài 3 - 4,5 mm, chỗ nối

tiếp với ruột phình thành dạ dày nhỏ, vòng thần kinh và lỗ bài tiết ở ngang nhau
phần đầu. Giun đực không có cánh đuôi, dài 13 - 15 cm, rộng nhất 0,35 cm,
đuôi dài 0,21 - 0,46 mm, thon tròn, trƣớc và sau hậu môn ở phía bụng có 20 27 gai, có một đôi gai giao hợp dài 0,95 - 1,20 mm. Giun cái dài 19 – 23 cm,
chỗ rộng nhất là 0,5 cm, âm hộ ở khoảng 1/8 trƣớc thân, đuôi hình nón dài 0,37
- 0,42 mm, đuôi có nhiều gai bao phủ. Trứng giun hơi tròn, có vỏ với nhiều chỗ
lõm nhỏ, dài 0,080 - 0,090 mm, rộng 0,070- 0,075 mm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




5
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [22], giun đũa Neoascaris vitulorum
(Goeze, 1782) ký sinh ở bê nghé có kích thƣớc: Giun đực ở nghé dài 13 -15
cm, đƣờng kính 0,3 cm; ở bê dài 14 -16 cm. Giun cái ở nghé dài 19-23 cm,
đƣờng kính 0,5 cm, trứng 70-75 x 80-90 µm; giun cái ở bê dài 20-26 cm,
trứng 75-85 x 90-100 µm. Vị trí âm hộ của giun cái là 1/8 phần trƣớc thân.
Phan Lục (2005) [26] cho biết, giun đũa cỏ kích thƣớc to, vàng nhạt,
dài 13-22 cm, trên đầu cò 3 môi. Thực quản hình ống dài, phần cuối có chỗ
phình to ra gọi là dạ dầy giả. Xung quanh lỗ hậu môn của giun đực có nhiều
gai chồi, có hai gai giao hợp to bằng nhau. Trứng có 4 lớp vỏ màu nhạt, lớp
ngoài cùng lỗ chỗ nhƣ tổ ong, trứng dài 0,08 - 0,09 mm, rộng 0,07 - 0,75mm.
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [23] đã mô tả cấu tạo của giun đũa: giun
đực dài 110 - 189 mm, rộng nhất 3,52 - 4,81mm; đuôi dài 0,21 - 0,46 mm,
thon dần về cuối mút; thực quản dài 4,49 mm; gai sinh dục dài 0,57 - 1,19
mm, có màng mỏng bao bọc; ở phía trƣớc hậu môn có 20 - 27 nhú xếp thành
2 hàng, sau hậu môn có 5 đôi nhú, đôi nhú thứ nhất kép. Giun cái dài 151 –
200 mm, rộng 4,0 - 5,7 mm; đuôi hình nón, phủ nhiều gai, dài 0,37 - 0,42
mm; gần mút đuôi có 2 nhú bên; lỗ sinh dục nằm ở phần trƣớc cơ thể, cách

mút đầu khoảng 1/10 - 2/10 chiều dài cơ thể; trứng hình cầu kích thƣớc
0,076 - 0,095 x 0,065 - 0,080 mm.
Theo những nghiên cứu của Taira N. và Fujita J. (1991) [63]: Từ năm
1982 - 1988 giun tròn đã đƣợc tìm thấy và nghiên cứu ở hai huyện Kyushu và
Okinawa, Nhật bản. Hai tác giả đã nghiên cứu 7 giun đũa đực và 21 giun đũa
cái về hình thái học, cho thấy độ dài trung bình của giun đực là 15,64 cm (1418cm) giun cái 25,75 cm (16,5 – 34 cm). Thân trắng đục và mềm, trứng giun
dài 81,6 µm và rộng 71,8 µm, bề mặt vỏ trứng trơn nhẵn, không nhăn nheo.
Prokopic J. và Sterba J. (1989) [56] đã quan sát giun đũa Neoascaris
vitulorum trên kính hiển vi điện tử, thấy cấu trúc bề mặt của giun gồm môi,
răng, gai nhỏ và phần đuôi; ở giun non răng hình nón và nhọn chúng dài hơn
khi tuổi giun tăng lên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




6
Theo mô tả của Urquhart G.M. và cs (1996) [64] thì giun đũa T.
viturlorum là ký sinh trùng đƣờng ruột lớn nhất ở bê nghé, giun cái dài có thể
đến 30,00 cm. Giun đũa có thân dày, màu hơi hồng khi còn sống, và lớp biểu
bì khá trong suốt nên có thể nhìn thấy đƣợc các cơ quan nội tạng. Trứng giun
đũa có một lớp vỏ dày và trong suốt.
1.1.1.3. Đặc điểm vòng đời của Neoascaris vitulorum.
Vòng đời của giun đũa bê, nghé là vòng đời trực tiếp không qua ký chủ
trung gian. Dactian (1934-1937) làm thí nghiệm: cho bê nuốt trứng giun đũa
có sức gây bệnh thì sau 43 ngày có thể thấy giun đũa trƣởng thành và con non
ở cơ thể bê. Ngoài ra, nếu cho bò mẹ trƣớc khi đẻ 124 - 192 ngày nuốt trứng
giun có sức gây bệnh thì bê đẻ ra 20 - 31 ngày trong phân đã có trứng giun
đũa. Điều đó chứng tỏ giun đũa bê, nghé có thể qua máu truyền vào bào thai.
Ở trâu mẹ thời kỳ chửa đầu nuốt trứng giun cảm nhiễm thì tất cả nghé đẻ ra

đều bị nhiễm giun qua nhau thai. Giun đũa bê, nghé nhiễm vào cơ thể bằng 2
con đƣờng: nhiễm trực tiếp và nhiễm qua bào thai (Nguyễn Hùng Nguyệt và
cs 2008 [28]).
Chẩn đoán bằng cách xét nghiệm phân tìm trứng giun Neoascaris
vitulorum hoặc trên cơ sở phát hiện thấy giun tự thải ra ở trong phân.
Phạm Sỹ Lăng (2005) [19] cũng cho biết, bệnh giun đũa bê nghé lây
nhiễm qua 2 con đƣờng:
- Qua đƣờng tiêu hóa do bê, nghé ăn phải trứng giun đũa cảm nhiễm.
- Ấu trùng từ máu trâu, bò mang thai xâm nhập vào bào thai.

Vichitr Sukhapesna (1982) [66] đã nghiên cứu 10 trâu, bò mẹ nhiễm
Strongyloides papillosus và Neoascaris vitulorum cùng với bê nghé kể từ
khi bê nghé đƣợc sinh ra. Tác giả cho rằng trâu, bò mẹ là nơi chứa mầm
bệnh chính làm cho bê nghé con bị nhiễm S. papillosus và N. vitulorum. Bê
nghé đã bị nhiễm S. papillosus qua bú sữa từ trâu, bò mẹ và nhiễm N.
vitulorum qua nhau thai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




7
Nghé đẻ ra sau 14 ngày đã có trứng giun trong phân (tức là có giun
trƣởng thành trong ruột) chứng tỏ nghé bị nhiễm bệnh từ trong bào thai.
Giun đũa có chu kỳ phát triển trực tiếp, không qua ký chủ trung gian.
Giun trƣởng thành sống trong ruột non của bê nghé đẻ trứng, trứng theo phân
ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi thì phát triển thành phôi thai trong trứng.
Trứng có phôi thai là trứng đã có sức gây bệnh. Sau đó trứng này lại vào cơ
thể con vật theo thức ăn, nƣớc uống. Khi mới theo phân ra ngoài trứng
không phân chia. Tuỳ theo điều kiện nhiệt độ và độ ẩm bên ngoài, thời gian

trứng phát triển thành trứng cảm nhiễm có khác nhau.
Galila A. B. và cs (1990) [49] cho biết, ở 250C trứng giun đũa phát
triển thành trứng ấu trùng sau 7 ngày.
Trứng giun cảm nhiễm có sức đề kháng cao với một số hoá chất cũng
nhƣ yếu tố vật lý. Khi trứng ở trong phân thì trứng có sức đề kháng cao đối
với một số chất sát trùng.
Đối với một số chất sát trùng thông thƣờng nhƣ Lysol 2%, Zyphen 4 5%, sau 17 - 20 giây phôi bị huỷ hoàn toàn, nhƣng ở trong phân thì phôi
không bị diệt. Phạm Chức (1980) [4] cũng cho biết, Lysol 5% diệt trứng
giun đũa trong một giờ; Axit phênic 5% diệt trứng trong thời gian 45 phút
đến một giờ. Theo Đỗ Dƣơng Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [31], trứng
giun đũa phát dục thành phôi thai trong khoảng 20 ngày ở nhiệt độ 19 22°C, nhƣng phải cần 38 ngày ở nhiệt độ 15 - 17°c.
Dƣơng Công Thuận và cs (1986) [38] đã lấy phân của bê, nghé bị
nhiễm giun đũa có nhiều trứng, trộn với nƣớc để giữ ẩm, cho vào đĩa Pettri,
để ở nhiệt độ trong phòng khoảng 15 - 22°C (tháng 10 - 11), thấy trứng phát
triển thành phôi thai sau 20 ngày, ở nhiệt độ 15 - 17°C phôi hình thành sau
38 ngày.
Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1999) [22] cho biết, con cái đẻ trứng
ở ruột non, theo phân ra ngoài, gặp nhiệt độ thích hợp trứng phát triển thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




8
trứng có khả năng gây bệnh (nhiệt độ 15 - 17°C cần 38 ngày, 19 - 22°C cần
20 ngày, 25°C cần 10 - 12 ngày, 28 - 30°C cần 65 ngày, nhƣng khi nhiệt độ
đến 34 - 35°C thì trứng không phát triển.
Theo Nguyễn Hùng Nguyệt và cs (2008) [28], trứng giun đũa bê,
nghé có sức đề kháng với điều kiện ngoại cảnh, chỉ bị diệt ở nhiệt độ 45°C
trở lên và ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp.

Sau khi trứng giun cảm nhiễm vào cơ thể trâu bò mẹ, dƣới tác dụng
của dịch vị và ruột non, ấu trùng nở ra và vào từ ruột non theo mạch máu
vào gan, qua tim lên phổi, ấu trùng đến tim và từ đó vào đại tuần hoàn. Phần
lớn ấu trùng đều theo mạch máu đến các mô và phủ tạng, ở đó nó đóng kén
và có thể sống từ 5 đến 6 tháng hoặc lâu hơn. Trƣờng hợp trâu bò cái nhiễm
phải trứng giun trong giai đoạn có chửa thì ấu trùng có thể qua hệ tuần hoàn
của nhau thai đến bào thai, hoặc có thể trâu, bò cái nhiễm trong thời gian
không chửa, ấu trùng đóng kén ở mô và phủ tạng, khi trâu bò chửa, ấu trùng
thoát ra khỏi kén theo mạch máu đến nhau thai và vào bào thai.
Kén của ấu trùng có thể thấy ở nhiều mô và phủ tạng của trâu, bò mẹ
nhƣ: cơ, thận, não, gan, phổi. Ấu trùng có thể sống ở đó 6 tháng. Ở con vật
không chửa, quá thời gian 6 tháng ấu trùng chết. Ở con vật chửa trong vòng
6 tháng, ấu trùng chui ra khỏi kén đi vào nhau thai. Ở bào thai ấu trùng sống
trong gan. Nhƣng kết quả nghiên cứu đều cho thấy: chỉ sau khi bê nghé đƣợc
đẻ ra, ấu trùng mới tiếp tục biến thái sau khi hoàn thành một đợt di hành qua
phổi, khí quản, ruột giống nhƣ sự di hành của giun đũa lợn, xuống ruột, giun
lớn lên nhanh chóng và phát triển thành giun trƣởng thành đẻ trứng. Trong
điều kiện tự nhiên, ở bê nghé từ 17 ngày tuổi trở lên đã cỏ thể tìm thấy trứng
giun đũa trong phân. Đối với một số giun đũa khác nhƣ Ascaris của lợn,
ngƣời, Parascaris của ngựa, thời gian từ khi con vật bắt đầu cảm nhiễm trứng
giun đũa cho đến khi thành giun trƣởng thành có khả năng đẻ trứng phải tối
thiểu trên một tháng. Tuổi mắc bệnh quá sớm của bê nghé làm ngƣời ta nghĩ
đến bê nghé có thể mắc bệnh từ khi còn trong bào thai.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




9

1.1.2. Dịch tễ học của bệnh giun đũa bê, nghé

Bệnh giun đũa bê nghé do Neoascaris vitulorum gây ra, thƣờng xảy
ra hầu khắp các nơi trên thế giới.
Swain G. D. (1987) [62] cho biết, đã kiểm tra 12 nghé ở Ấn Độ, thấy
4 con có Neoascaris vitulorum, có con có tới 400 giun trong ruột. Tripathi J.
C. (1967) cũng cho biết, bê nghé ở Ấn Độ thƣờng bị giun đũa ký sinh.
Theo Vichitr Sukhapesna (1981) [65], bê, nghé nhiễm giun đũa
Neoascaris vitulorum chủ yếu qua bào thai và sữa.
Muangyai M. (1989) [53] thông báo rằng, giun đũa bê, nghé
Neoascaris vitulorum là một trong những ký sinh trùng chủ yếu gây bệnh
cho bê, nghé.
Theo Panday V. S và cs (1990) [55], kiểm tra phân của 20 bê, nghé
trong giai đoạn 15 - 20 ngày tuổi ở đồng cỏ Zimbabwe, thấy trứng giun có
trong phân, số trứng đếm đƣợc từ 257 - 19821 trứng/gam phân.
Akyol C. V (1993) [45] cho biết, bê ở khu vực Barsa (Thổ Nhĩ Kỳ) bị
nhiễm Neoascaris vitulorum phổ biến qua việc kiểm tra trứng trong phân. Ấu
trùng cũng đƣợc tìm thấy trong mẫu sữa. Đồng cỏ là nơi có nhiều trứng giun
nên làm bê, nghé bị nhiễm bệnh nhanh. Tỷ lệ nhiễm bệnh giữa các vùng sinh
thái khác nhau là khác nhau.
Một thông báo khác cho biết, ở Braxin nghé bị nhiễm giun đũa với tỷ
lệ 58% ở tuần tuổi thứ nhất; 87,5% ở tuần tuổi thứ 2; 96% ở tuần tuổi thứ 3
và 100% ở tuần tuổi thứ 4. Hầu hết bị nhiễm qua bào thai, một số ít trƣờng
hợp nhiễm qua sữa. Bê, nghé phát bệnh trong độ tuổi 3 – 17 tuần tuổi
(Barbosa và Correa, 1989 [45]).
Starke W. A., Machado R. Z., Becchara G. H. và Zocollier M. C
(1996) [60] đã kiểm tra 75 mẫu phân bê nghé từ 9 – 115 ngày tuổi, thấy có
86,7% bê nghé nhiễm giun đũa. Số lƣợng trứng cao nhất khi 45 ngày tuổi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





10
Theo Roberts J. A. (1990) [58], tỷ lệ chết của nghé trong 6 tháng đầu
sau khi sinh ở vùng Đông Nam Á tới 30% do giun Neoascaris vitulorum và
S. papillosus.
Ở Việt Nam, bệnh giun đũa bê nghé là một bệnh rất phổ biến. Nghé có
triệu chứng đặc trƣng là phân có màu trắng, nên nhân dân thƣờng gọi là bệnh
"Nghé ỉa cứt trắng". Năm 1923, Phạm Văn Long đã thông báo về một ca
bệnh trên nghé. Nhƣng đến đầu năm 50, bệnh này mới thực sự đƣợc chú ý vì
nó gây thiệt hại lớn cho đàn trâu sinh sản ở miền núi.
Đỗ Dƣơng Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [31] cho biết, do ảnh
hƣờng của khí hậu thời tiết nên mầm bệnh lƣu truyền từ mùa này sang mùa
khác. Trứng giun đũa có phôi thai có thể tồn tại từ mùa đông này qua mùa
đông năm sau, gặp đợt nghé đẻ ra chúng sẽ nhiễm vào nghé, gây bệnh tạo
thành vùng "nghé ỉa cứt trắng".
Do tập tính sinh sản của trâu bò miền núi phía bắc nƣớc ta là đẻ vào
mùa đông khô lạnh, thiếu cỏ, thiếu nƣớc nên bệnh giun đũa bê nghé gây tác
hại nhiều đối với nghé sơ sinh.
Theo Lê Đăng Đảnh và cs (2004) [7] thì bệnh giun đũa bê là bệnh phổ
biến ở nƣớc ta, tuổi bê dễ mắc bệnh là 20 - 35 ngày sau khi đẻ, chƣa thấy bò
trƣởng thành mắc bệnh. Ở nghé nếu mắc phải giun đũa thì mẫn cảm hơn là ở
bê và có thề bị chết do tiêu chảy.
Phùng Quốc Quảng và cs (2006) [30] cho biết, bệnh giun đũa ở bê phổ
biến ở lứa tuổi 20 - 25 ngày sau khi đẻ. Bệnh phân bố khắp nơi trên thế giới.
Ở nƣớc ta, bệnh thƣờng phát vào mùa rét, tại các vùng nuôi bò thuộc đồng
bằng, trung du, miền núi. Bệnh phổ biến hơn ở miền núi vì bê thƣờng thả
rông đi theo mẹ đi ăn.
Tô Du (2005) [6] cho biết, bệnh giun đua ở bê, nghé hay mắc từ 15 –

60 ngày tuổi vì trong đất nền chuồng, hoặc ngoài bãi cỏ cỏ dính trứng giun
đũa, bê nghé khi gặm cỏ liếm phải rồi mắc bệnh. Bệnh thƣờng gặp nhiều ở
nghé đẻ vào vụ Đông – Xuân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




11
Bệnh giun đũa bê nghé thƣờng thấy ở bê, nghé dƣới 3 tháng tuổi ở các
vùng chăn nuôi trâu, bò thuộc miền núi, trung du, đông bằng và ở các cơ sở
chăn nuôi trâu bò sữa (Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân, 1999 [22]).
Nguyễn Hùng Nguyệt và cs (2008) [28] cho biết: bê, nghé nuôi ở vùng
núi bị bệnh giun đũa nhiều hơn so với vùng trung du và đồng bằng. Ở nƣớc
ta bê nghé thƣờng bị bệnh vào tháng 12, 1, 2 hàng năm (vụ Đông - Xuân), do
trâu bò thƣờng đẻ vào các tháng 11, 12, 1. Bê nghé mắc bệnh giun đũa sớm
nhất là 14 ngày tuổi, nhiều nhất ở lứa tuổi 30 - 45 ngày tuổi và muộn nhất ở
65 ngày tuổi, trâu bò không mắc bệnh.
1.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh giun đũa bê, nghé
1.1.3.1. Cơ chế sinh bệnh.

Khi bê nghé nuốt phải trứng giun đũa có sức gây bệnh, sau 43 ngày có
thể thấy giun đũa trƣởng thành ở ruột non bê, nghé. Trong thời kỳ ấu trùng
giun đũa di hành đến một số khí quan nhƣ phổi, gan. Khi giun trƣởng thành ở
ruột non số lƣợng nhiều, vít chặt làm tắc ruột non, có khi làm thủng ruột hoặc
chui vào ống dẫn mật, gan.
Giun còn tiết chất độc làm cho bê, nghé bị trúng độc, gây ỉa chảy, gầy
sút nhanh. Giun lấy chất dinh dƣỡng làm bê, nghé gầy yếu (Phạm Văn Khuê
và Phan Lục, 1996 [11]) Giun đũa Neoascaris viíulorum cũng nhƣ các loài
giun sán khác, ngoài tác động chiếm đoạt chất dinh dƣỡng của vật chủ, còn

gây tổn thƣơng niêm mạc ruột, tạo điều kiện cho các vi khuẩn có trong
đƣờng tiêu hoá (E.coli, Salmonela, Proteus...) xâm nhập gây rối loạn quá
trình phân tiết, viêm ruột và tiêu chảy cấp tính hoặc mãn tính.
Ngoài ra, giun đũa còn gây viêm ruột cata, một số ít bị biến đổi hoại tử
ở gan. Giun ở trong ống dẫn mật gây viêm có mủ, viêm do tổn thƣơng ở phổi
cũng đƣợc phát hiện. Gia súc non mắc bệnh giun đũa bị viêm ruột thứ phát
có thể chết đến 80%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




12
Đặc điểm chủ yếu của bệnh là gây tiêu chảy song không liên tục, có sự
xen kẽ giữa tiêu chảy và bình thƣờng, cơ thể thiếu máu, da nhợt nhạt, bê
nghé có biểu hiện nôn từng cơn, kém ăn, thể trạng sa sút. Nếu không phát
hiện sớm và điều trị kịp thời bê, nghé chết rất nhanh.
Theo Chu Thị Thơm và cs (2006) [33], ấu trùng sau khi xâm nhập vào
cơ thể bê nghé, ấu trùng di hành gây tổn thƣơng nhiều cơ quan. Chúng đem
theo nhiều vi khuẩn, virus gây các bệnh truyền nhiễm kế phát. Giun chiếm
đoạt nhiều chất dinh dƣỡng, tiết độc tố đầu độc vật chủ làm bê nghé gầy yếu,
ỉa chảy, ỉa phân trắng. Do giun có kích thƣớc lớn, khi ký sinh với số lƣợng
lớn thƣờng gây tắc ruột, thủng ruột, tắc ống mật.
Nguyễn Hùng Nguyệt và cs (2008) [28] cho biết giun đũa ký sinh trong
ruột non bê nghé sẽ gây ra các tác động:
- Tác động cơ giới: Ấu trùng di hành làm tổn thƣơng gan, phổi. Giun
trƣởng thành dùng các lá môi bám vào niêm mạc ruột và gây tổn thƣơng
niêm mạc ruột, viêm cata, ảnh hƣởng đến tiêu hóa, sữa không tiêu hóa bị vón
lại. Sữa này bị vi khuẩn lên men phân hủy, sinh ra nhiều sản phẩm của quá
trình phân hủy protit. Vì vậy, khi phân ra ngoài có màu trắng sữa, lỏng và có

mùi thối khắm. Số lƣợng giun đũa nhiều sẽ gây tắc, thủng ruột, gây viêm
phúc mạc.
- Tác động do độc tố: giun đũa ký sinh ở bê, nghé sẽ tiết độc tố làm cho
con vật trúng độc.
- Tác động chiếm đoạt chất dinh dƣỡng: giun đũa lấy dinh dƣỡng làm
cho bê con gầy còm.
1.1.3.2. Biểu hiện lâm sàng và bệnh tích
Bệnh tiến triển ngắn nhất là 5 ngày, dài nhất là 48 ngày, phổ biến là 1130 ngày. Nghé thƣờng chết vào 7 - 16 ngày sau khi phát bệnh. Thời gian tiến
triển cùa bệnh dài hay ngắn phụ thuộc vào tuổi, sức khỏe của gia súc, cách
nuôi dƣỡng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




13
Theo Nguyễn Văn Thiện và cs (1977) [35], bê nghé bị bệnh giun đũa
có dáng đi lù đù, đầu cúi, lƣng cong đuôi cụp, bụng ỏng, có khi con vật
không theo mẹ. Bệnh nặng bê nghé gầy rạc, xù lông, mắt lờ đờ, chảy
nƣớc mắt có nhử, mũi khô, thân nhiệt khoảng 40 - 41°C. Con vật mệt mỏi,
đứng lên nằm xuống, ỉa phân lúc đầu táo hoặc lổn nhổn, màu đen, dần dần
chuyển thành màu trắng, lỏng.
Theo Đỗ Dƣơng Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [31], con vật ăn kém,
ỉa chảy, đôi khi táo bón, chƣớng hơi, đi lại không yên, đau bụng, ho, co giật.
Trƣờng hợp tự thải giun hay đƣợc điều trị thì các triệu chứng sẽ mất đi, ở thể
mãn tính bệnh kéo dài 2 - 3 tháng.
Phan Địch Lân (1986) [19] đã thông báo bê Zê bu mắc bệnh giun đũa
ở Nông trƣờng Phú Man (tỉnh Hà Sơn Bình nay là tỉnh Hà Tây và Hòa Bình)
có triệu chứng ỉa chảy, ủ rũ, nằm liệt tại chỗ và có con chết.
Dƣơng Công Thuận và Nguyễn Văn Lốc (1986) [38], Phạm Sỹ và cs

(2002) [14] cho biết, bê nghé mắc bệnh thƣờng lù đù, chậm chạp, đầu cúi,
lƣng cong, bụng to, lông xù lên, khoeo và đuôi dính phân bẩn, phân có mùi
tanh khắm, màu trắng ngà.
Chu Thị Thơm và cs (2006) [32] cho biết về lâm sàng của bệnh giun
đũa bê nghé: bệnh xảy ra phổ biến ở bê nghé từ 11 – 30 ngày tuổi. Bê nghé ủ
rũ, lù xù, chậm chạp đầu cúi, lƣng cong, đuôi cụp thƣờng chết vào ngày thứ 7
- 16. Lúc đầu còn theo mẹ, khi bệnh nặng bỏ bú, không theo mẹ nằm một
chỗ, thở yếu, đau bụng, nằm ngửa dãy dụa, đạp chân lên phía trƣớc bụng. Có
khi nghe rõ tiếng sôi bụng. Bê, nghé gầy sút nhanh chóng, da khô, lông dựng,
mắt lờ đờ, niêm mạc nhợt nhạt, mủi khỏ, hơi thờ thối.
Phân màu trắng, mùi rất thối, con vật ỉa chảy nặng, ỉa vọt cần câu, phân
dính ở khuỷu chân và xung quanh hậu môn. Có thể xem đây là một triệu
chứng điển hình giúp cho việc chẩn đoán xác định bệnh giun đũa bê nghé.
Aumont và cs (1991) cho biết, giun đũa Neoascaris vitulorum là ký
sinh trùng chính của bê trong 2 tháng tuổi và làm giảm khối lƣợng từ sơ sinh
đến giai đoạn cai sữa khoảng l0,5 kg.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




14
Theo Srivastava A. K., Sharma D. N. (1981), ở Muthura - Ấn Độ, 16
trong 90 nghé 1 tháng tuổi đã có 500 - 700 trứng giun đũa trong 1 gam phân,
có những triệu chứng biếng ăn, gầy còm, xù lông, táo bón, ỉa chảy, phân hôi
thối, lƣng cong, đau bụng và dáng đi cứng nhắc.
Mổ khám thấy ruột non viêm cata, có nhiều giun đũa ký sinh, có thể
tạo thành búi làm tắc ruột. Sữa bị vón cục, màu trắng, có mùi khó chịu, gạt
lớp sữa, chất chứa và giun đũa ra thấy niêm mạc có nhiều vết loét. Có trƣờng
hợp bị thủng ruột, chất chứa lọt ra xoang bụng gây viêm phúc mạc. Ngoài

một non, có thể thấy giun đũa ở các bộ phận: dạ cỏ, dạ múi khế. Biến đổi
hoại tử ở gan, thấy giun ở trong ống dẫn mật, viêm có mủ ở vỏ thận và viêm
do tổn thƣơng ở phổi.
1.14. Chẩn đoán bệnh giun đũa bê, nghé
Chẩn đoán bệnh giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé dựa vào
triệu chứng lâm sàng, các thông tin về dịch tễ học, xét nghiệm mẫu phân bê
nghé bằng phƣơng pháp Fulleborn để tìm trứng giun đũa, kết hợp mổ khám
kiểm tra bệnh tích ở ruột non cho phép chẩn đoán chính xác bệnh.
*Đối với bê, nghé sống:
Theo nhiều tác giả, việc chẩn đoán bệnh giun đũa Neoascaris vitulorum
ở bê nghé có thể căn cứ vào những đặc điểm dịch tễ học: vùng và mùa phát
bệnh, tỷ lệ nhiễm bệnh, tuổi mắc bệnh.
Phạm Văn Khuê và cs (1996) [11], Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999)
[12] cho biết, bệnh giun đũa bê nghé thƣờng mắc nhiều nhất ở miền núi,
bệnh thƣờng phát nhiều vào tháng 12, 1, 2. Tuổi mắc bệnh sớm nhất là 14
ngày, tuổi càng cao thì tỷ lệ nhiễm càng giảm, tới 3 - 4 tháng tuổi thì không
bị nhiễm. Trâu bò không mắc bệnh này. Đây chính là những điều tra cơ bản
để sơ bộ chẩn đoán bệnh. Triệu chứng lâm sàng đáng chú ý nhƣ: phân màu
trắng rất thối, nếu bệnh nặng bê nghé ỉa vọt cần câu, phân dính ở xung quang
hậu môn và khuỷu chân...là những dấu hiệu hết sức quan trọng để chẩn đoán
bệnh giun đũa bê nghé.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




15
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng, đặc điểm dịch tễ học
của bệnh thì chƣa chẩn đoán chính xác đƣợc bệnh gì, vì có rất nhiều bệnh ký
sinh trùng có biểu hiện giống nhau. Chính vì vậy, xét nghiệm phân tìm trứng

trứng giun đũa Neoascaris vitulorum là căn cứ quyết định kết quả chẩn đoán
bệnh. Các phƣơng pháp thƣờng dùng là phƣơng pháp Fullerborn, Darling, có
thể dùng phƣơng pháp đếm trứng giun trong 1 gam phân bằng buồng đếm
Mc. Master để xác định mức độ nhiễm giun đũa nặng hay nhẹ.
*Đối với bê, nghé chết:
Mổ khám, quan sát những biến đổi bệnh tích trong đƣờng tiêu hoá của
bê, nghé, tìm giun đũa trƣởng thành ở ruột non.
Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [11], áp dụng phƣơng pháp
mổ khám toàn diện của Skriabin K. I. (1982). Phƣơng pháp mổ khám có thể
phát hiện tất cả các loài giun sán ký sinh trong cơ thể bê nghé. Phƣơng pháp
này đƣợc đánh giá là phƣơng pháp chẩn đoán bệnh chính xác nhất, không
những xác định đƣợc tỷ lệ nhiễm, cƣờng độ nhiễm, mà còn quan sát đƣợc
những tổn thƣơng ở đƣờng tiêu hoá do giun sán gây ra.
1.1.5. Biện pháp phòng trị bệnh.
Phùng Quốc Quảng và cs (2006) [30] đã đƣa ra phƣơng pháp phòng
bệnh giun đũa cho bê, nghé nhƣ sau:
- Để chủ động phòng bệnh, sau khi đẻ 7 - 10 ngày, cần cho bê nghé
uống một trong số các thuốc tẩy giun nhƣ: Piperazin, Hexachloretan,
Mebenvet... uống một lần trong một buổi sáng. Khi uống bắt bê, nghé nhịn đói.
- Cho trâu, bò mẹ ăn uống tốt để có đủ sữa cho con bú, kết hợp vệ sinh
chuồng trại, môi trƣờng, cho uống nƣớc sạch. Giữ chuồng nuôi ấm và khô
ráo. Tập trung phân ủ để diệt trứng giun.
Theo Phạm Sỹ Lăng và Lê Thị Tài (1997) [15], Piperazin,
Mebendazol, Tetramisol, Thiabendazol có tác dụng rất tốt khi sử dụng để tẩy
giun đũa cho bê nghé.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





16
Nguyễn Văn Thiện và cs (1977) [35] đã dùng 8 hạt cau tƣơi giã nhỏ,
trộn với 20 gam bột diêm sinh, hoà với 1/3 lít nƣớc hơi ấm, cho uống vào
buổi sáng trong 3 ngày liền; hoặc một nắm vỏ xoan (50 gam) giã nhỏ, trộn
với 2 gam muối hoà với 13 lít nƣớc ấm, để lắng, gạn lấy nƣớc cho uống vào
buổi sáng, 3 ngày liền; hoặc 2 đến 3 lá đu đủ non giã nhỏ hoà với 1/3 lít
nƣớc, cho uống vào buổi sáng ba ngày liền. Có thể cho uống 3 ml tinh dầu
giun trộn với 60ml dầu đu đủ, cho uống 1 lần vào buổi sáng. Cũng có thể
cho uống Phenothiazine 1,5 - 2,0 gam/ngày trong ba ngày, hoặc Piperazin
0,2 - 20,3 gam/kg TT.
Lê Đăng Đảnh và cs (2004) [7] cho biết, để chủ động phòng trị bệnh
giun đũa bê, nghé ngay sau khi sinh, chúng ta dùng một số loại thuốc đặc trị
bệnh giun đũa bê, nghé, có thể dùng: Polystrongle với liều 1 ml/50kg TT.
Vichitr Sukhapesna (1981) [65] đã dùng Pyrantel Tartrate các liều
khác nhau 5, 10 và 20 mg/kg tẩy cho 28 bê nghé bị nhiễm giun đũa thì thấy
với các liều lƣợng trên thì đều có hiệu quả cao (100%). Số lƣợng trứng giun
đũa thải ra theo phân giảm nhiều sau 1 tuần điều trị.
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [34]: Piperazin 0,3 – 0,5 gam/kg
TT, Silicofluorat natri liều 0,035 g/kg TT chia hai lần trong ngày, tinh dầu
giun 30 - 60 ml, cho uống, kết hợp giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, ủ phân, chăm sóc
chu đáo cho trâu bò mẹ. Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [11] cũng sử
dụng những hoá dƣợc nhƣ trên tẩy giun đũa bê nghé cho kết quả tốt.
Theo Cao Tuyết Lan (1996) [13], dùng Mebenvet liều 120 mg/kg TT
tẩy cho nghé nhiễm giun đũa ở thị xã Lai Châu có hiệu quả tốt.
Vƣơng Đức Chất (1995) [3] đã tẩy giun đũa cho bê nghé bằng thuốc
Piperazin 0,25 g/kg TT, Mebendazole 10 mg/kg TT đạt kết quả tốt.
Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [11] đã thử nghiệm dùng
Benzimidazole liều 7,6 - 9 mg/kg TT, tẩy cho 73 bê nhiễm Neoascaris
vitulorum, kết quả đạt 100% ở Mê Linh, Phong Châu (Vĩnh Phú), Kim Bảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





×