Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Bước đầu nghiên cứu đánh giá mức độ bền vững sinh thái tại thị trấn lâm, ý yên nam định bằng phương pháp đánh giá tính bền vững cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.2 KB, 73 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA MÔI TRƯỜNG

Vũ Thị Hồng Nhung

BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ BỀN
VỮNG VỀ KHÍA CẠNH SINH THÁI TẠI THỊ TRẤN
LÂM, HUYỆN Ý YÊN, TỈNH NAM ĐỊNH BẰNG
PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ TÍNH BỀN VỮNG CỘNG
ĐỒNG (CSA)

Khóa luận tốt nghiệp hệ đại học chính quy
Ngành: Khoa học môi trường
(Chương trình đào tạo chuẩn)

Hà Nội - 2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA MÔI TRƯỜNG

Vũ Thị Hồng Nhung

BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ BỀN
VỮNG VỀ KHÍA CẠNH SINH THÁI TẠI THỊ TRẤN
LÂM, HUYỆN Ý YÊN, TỈNH NAM ĐỊNH BẰNG
PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ TÍNH BỀN VỮNG CỘNG


ĐỒNG (CSA)

Khóa luận tốt nghiệp hệ đại học chính quy
Ngành: Khoa học môi trường
(Chương trình đào tạo chuẩn)

Cán bộ hướng dẫn: Th.S Phạm Thị Thu Hà

Hà Nội - 2013

2


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới Th.S Phạm Thị Thu
Hà – Giảng viên Bộ môn Sinh thái Môi trường, Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Cô đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá
trình tìm hiểu và thực hiện khóa luận cũng như giúp đỡ rất nhiều về tài liệu và phương
pháp nghiên cứu.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong khoa Môi trường, đặc
biệt tới các thầy cô trong bộ môn Sinh thái Môi trường – Trường Đại học Khoa học Tự
nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội đã dẫn dắt, truyền thụ cho em những kiến thức và kinh
nghiệm quý báu trong quá trình học tập tại trường.
Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới bà con nhân dân vùng thị trấn
Lâm, huyện Ý Yên, Tỉnh Nam Định, các anh chị trong Phòng Tài nguyên và Môi trường
huyện Ý Yên đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình điều tra, khảo sát thực địa. Em cũng
xin cảm ơn các cô chú trong Viện Nghiên cứu Môi trường và Phát triển bền vững đã
nhiệt tình cung cấp tài liệu liên quan tới vấn đề nghiên cứu để em có thể hoàn thành khóa
luận này.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên và

giúp đỡ em trong suốt thời gian qua, đặc biệt trong quá trình làm khóa luận.

Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2013
Sinh viên

Vũ Thị Hồng Nhung

3


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BVMT:

Bảo vệ môi trường

CSA:

Đánh giá tính bền vững cộng đồng

GDP:

Tổng sản phẩm quốc nội

GNP:

Tổng sản phẩm quốc gia

HDI:

Chỉ số phát triển con người


IUCN:

Hiệp hội Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên

KT-XH:

Kinh tế-Xã hội

LHQ:

Liên Hiệp Quốc

PTBV:

Phát triển bền vững

TT Lâm:

Thị trấn Lâm

UNEP:

Chương trình Môi trường của Liên Hiệp Quốc

4


DANH MỤC BẢNG BIỂU


Bảng1: Các yếu tố để đánh giá độ bền vững theo phương pháp BS
Bảng 2. Các chỉ thị đơn và tỷ trọng theo LSI
Bảng 3. Bộ chỉ thị đánh giá mức độ bền vững của cộng đồng theo CSA
Bảng 4: Điểm số các chỉ thị thành phần trong nhóm các chỉ thị về
ý nghĩa của địa điểm-I1.1
Bảng 5: Điểm số các chỉ thị thành phần trong nhóm chỉ thị về nguồn lương thực, sản xuất
và phân bố thực phẩm-I1.2
Bảng 6: Điểm số các chỉ thị thành phần trong nhóm chỉ thị về cơ sở hạ tầng, xây dựng và
giao thông vận tải, vật liệu sinh thái, phương pháp và thiết kế-I1.3
Bảng 7: Điểm số các chỉ thị thành phần trong nhóm chỉ thị về các kiểu tiêu thụ tài nguyên
& Quản lý chất thải rắn-I1.4
Bảng 8: Điểm số các chỉ thị thành phần của nhóm chỉ thị về nguồn nước, chất lượng và
sử dụng nước-I1.5
Bảng 9: Điểm số các chỉ thị thành phần trong nhóm chỉ thị về nước thải và quản lý ô
nhiễm nước-I1.6
Bảng 10: Điểm số các chỉ thị thành phần của nhóm chỉ thị về nguồn năng lượng và việc
sử dụng năng lượng-I1.7
Bảng 11: Kết quả đánh giá mức độ bền vững về khía cạnh sinh thái vùng TT Lâm, huyện
Ý Yên, tỉnh Nam Định

5


DANH MỤC HÌNH VẼ

Hình 1. Mức đánh giá độ bền vững của phương pháp BS
Hình 2. Mô hình chiếc ghế 3 chân mô phỏng sự bền vững của cộng đồng theo CSA
Hình 3: Biểu đồ thể hiện điểm số của các nhóm chỉ thị so với thang đánh giá của CSA

6



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 – TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1 Tổng quan về phát triển bền vững
1.1.1 Khái niệm về phát triển bền vững
1.1.2 Các tiêu chí đánh giá phát triển bền vững
1.2 Vấn đề phát triển bền vững trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1 Một số nghiên cứu về PTBV nông nghiệp, nông thôn trên thế giới và Việt Nam
1.2.2 Phát triển bền vững ở Việt Nam.
1.2.2.1 Các chính sách nhằm thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam
1.2.2.2 Đánh giá tình hình thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam
1.3

Một số phương pháp đánh giá mức độ bền vững cộng đồng

1.3.1 Thước đo độ bền vững BS (Barometer of Sustainability)
1.3.2 Đánh giá phát triển cộng đồng bằng bằng chỉ số bền vững địa phương – LSI
(Local Sustainability Index)
1.3.3Phương pháp đánh giá mức độ bền vững cộng đồng - CSA (Community
Sustainability Assessment)
1.4

Tổng quan khu vực nghiên cứu

1.4.1 Điều kiện tự nhiên
1.4.1.1 Vị trí địa lý
1.4.1.2 Địa hình, địa mạo

1.4.1.3 Khí hậu
1.4.1.4 Thủy văn
1.4.2 Điều kiện kinh tế xã hội
1.4.2.1 Về phát triển kinh tế.

7


1.4.2.2 Văn hóa – xã hội
1.4.3 Hiện trạng môi trường vùng TT Lâm, Ý Yên, Nam Định
CHƯƠNG 2 – ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Phương pháp thu thập, tổng hợp và phân tích tài liệu, số liệu thứ cấp
2.2.2 Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa
2.2.3 Phương pháp CSA
CHƯƠNG 3 – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Đánh giá mức độ bền vững về khía cạnh sinh thái của vùng TT Lâm, Ý Yên, Nam
Định
3.2.1 Nhóm chỉ thị về ý nghĩa của địa điểm (vị trí, quy mô, mức độ khôi phục và bảo tồn
tự nhiên) – I1.1
3.2.2 Nhóm chỉ thị về nguồn lương thực, sản xuất và phân bố thực phẩm-I 1.2
3.2.3 Nhóm chỉ thị về cơ sở hạ tầng, xây dựng và giao thông vận tải, vật liệu sinh thái,
phương pháp và thiết kế-I1.3
3.2.4 Nhóm chỉ thị về các kiểu tiêu thụ tài nguyên & Quản lý chất thải rắn-I1.4
3.2.5 Nhóm chỉ thị về nguồn nước, chất lượng và sử dụng nước-I 1.5
3.2.6 Nhóm chỉ thị về nước thải và quản lý ô nhiễm nước-I 1.6
3.2.7 Nhóm chỉ thị về nguồn năng lượng và việc sử dụng năng lượng-I 1.7
3.2.8 Kết quả đánh giá
3.2 Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao mức bền vững của cộng đồng

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO

8


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết
Theo quy luật của sự phát triển nhân loại thì dân số phát triển dẫn đến nhu cầu về
vật chất gia tăng làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt. Con người phải đương
đầu với những khó khăn ngày càng lớn đặc biệt là hiện tượng nóng lên của trái đất và sự
dâng cao của mực nước biển. Loài người đã từng có quan niệm rằng sự tăng trưởng về
kinh tế là thước đo cơ bản cho sự phát triển. Những năm gần đây, con người mới nhận
thức được rằng tăng trưởng kinh tế không phản ánh được một cách toàn diện mục tiêu
phát triển của con người. Do vậy, con người cần phải cải thiện mối quan hệ với thiên
nhiên theo hướng sống gần gũi và hoà hợp với thiên nhiên, thân thiện với môi trường.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển (năm
1992) đã thống nhất về quan điểm phát triển bền vững (PTBV), coi đó là trách nhiệm
chung của toàn nhân loại. Mười năm sau, tại Hội nghị thượng đỉnh về PTBV năm 2002
tại Johanesburg (Nam Phi) đã công bố kế hoạch thực hiện PTBV toàn cầu.[11]
PTBV đã trở thành xu thế chung mà toàn nhân loại đang nỗ lực hướng tới. Đó cũng
là mục tiêu chiến lược quan trọng mà Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam quyết tâm
thực hiện. Tuy nhiên, PTBV cấp quốc gia phải được thực hiện dựa trên nền tảng là PTBV
ở quy mô địa phương. Có nhiều phương pháp được tìm ra để đánh giá việc thực hiện các
mục tiêu hướng đến PTBV, trong đó phương pháp đánh giá tính bền vững cộng đồngCSA có khả năng áp dụng rộng rãi và có tính linh hoạt cao, có thể áp dụng đánh giá cơ
bản mức bền vững cho bất cứ cộng đồng nào. [10,12]
Thị trấn Lâm (TT Lâm), huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định xuất phát từ một làng quê
nông nghiệp với nghề đúc đồng truyền thống nổi tiếng. Cùng với sự phát triển kinh tế xã
hội của vùng và cả nước, thị trấn đang ngày càng đi lên với những tiềm năng và lợi thế
sẵn có của mình, tập trung các giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các

hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, đẩy mạnh phát triển công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển đó, hoạt động sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ cũng gây ra những ảnh hưởng không nhỏ
đến môi trường sinh thái của vùng. Vì vậy việc đánh giá mức độ bền vững của thị trấn về
khía cạnh sinh thái là điều cần thiết để có chiến lược phát triển lâu dài theo định hướng
chung của cả nước.

9


Với những xuất phát điểm trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Đánh giá mức độ bền
vững về khía cạnh sinh thái tại thị trấn Lâm, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định bằng phương
pháp đánh giá tính bền vững cộng đồng - CSA”
2.Mục tiêu nghiên cứu
Khóa luận tập trung vào 2 nhiệm vụ chính sau:

- Nghiên cứu đánh giá mức độ bền vững về khía cạnh sinh thái của thị trấn Lâm,
-

huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Đề xuất một số giải pháp nâng cao mức độ bền vững về khía cạnh sinh thái cho
khu vực nghiên cứu.

3.Nội dung nghiên cứu
- Thu thập tài liệu, số liệu trong và ngoài nước liên quan tới nội dung nghiên cứu và
tổng quan tài liệu.
- Điều tra, khảo sát thực địa tại khu vực nghiên cứu để bổ sung số liệu cho nội dung
nghiên cứu.
- Sử dụng phương pháp CSA để tính toán và đánh giá mức độ bền vững về khía cạnh
sinh thái của khu vực nghiên cứu.

- Đề xuất một số giải pháp nâng cao mức độ bền vững về khía cạnh sinh thái cho khu
vực nghiên cứu.

10


CHƯƠNG 1 – TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.2 Tổng quan về phát triển bền vững
1.2.1 Khái niệm về phát triển bền vững
Quan niệm về PTBV được hình thành qua một khoảng thời gian tương đối dài và
có nhiều thay đổi. Trong những năm 50 và 60 của thế kỷ XX, các nước công nghiệp thì
chú trọng vấn đề tăng trưởng kinh tế được thể hiện chủ yếu qua các chỉ tiêu có thể đo
đếm được như GDP, GNP...còn các vấn đề môi trường được xếp vào hàng thứ yếu. Quan
niệm này cũng được coi là kim chỉ nam tại các nước công nghiệp mới và các nước đang
phát triển trước khi các nước này bắt đầu bước vào công nghiệp hóa nhằm mục đích đuổi
kịp các nước phát triển. Sau một thời gian, với các quan niệm sai lầm như trên, các hậu
quả về mặt xã hội và môi trường bắt đầu xuất hiện.[1]
Vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khi môi trường bị hủy hoại với mức độ
ngày càng nghiêm trọng và có nhiều dấu hiệu cho thấy sự xuống cấp của môi trường gây
ra những trở ngại cho quá trình tăng trưởng kinh tế, Hiệp hội Quốc tế về Bảo tồn Thiên
nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN) đã đưa ra “Chiến lược bảo tồn thế giới”. Trong
đó thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của
nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu
cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Trong chiến lược
này lần đầu tiên nội dung PTBV được đề cập chính thức nhưng mới chỉ hiểu PTBV với
nội dung hạn hẹp là PTBV về mặt sinh thái[2]. Tiếp đó, Chương trình Môi trường của
Liên Hiệp Quốc (UNEP) đã đưa ra khái niệm PTBV toàn diện hơn với nội dung gồm 5
điểm sau:


- Giúp đỡ những người nghèo vì chính những người này không có sự lựa chọn nào
-

khác ngoài việc phá hủy môi trường để kiếm sống.
Chứa đựng ý tưởng về phát triển tự lực trong khuôn khổ những ràng buộc về tài
nguyên thiên nhiên.
Chứa đựng ý tưởng về phát triển có hiệu quả so với chi phí nhờ sử dụng các chuẩn
cứ về phát triển truyền thống.
Đề cập những vấn đề lớn về theo dõi sức khỏe, sử dụng công nghệ thích hợp, tự
lực lương thực, nước sạch, nhà ở cho mọi người.

11


- Chứa đựng quan điểm về sự cần thiết của những đề xuất định hướng vào nhân dân.
Nội dung PTBV theo cách tiếp cận của UNEP rộng hơn so với nội dung PTBV
theo cách tiếp cận của IUCN. Nó không chỉ dừng lại ở sự PTBV về sinh thái mà còn đề
cập đến cả PTBV về kinh tế và PTBV về xã hội. [1]
Năm 1987, trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Quốc tế về Môi
trường và Phát triển lần đầu tiên đã đưa ra một định nghĩa tương đối đầy đủ về PTBV là :
“Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Như vậy,
việc làm thỏa mãn các nhu cầu và ước vọng của con người là mục tiêu chính của sự phát
triển. Định nghĩa này nhấn mạnh đến việc đáp ứng nhu cầu của những thế hệ khác nhau,
bất cứ một xã hội nào muốn đạt được mục tiêu PTBV thì cả hai vấn đề công bằng trong
cùng một thế hệ và công bằng giữa các thế hệ phải được đảm bảo.
Nội hàm về PTBV được tái khẳng định ở Hội nghị Rio – 92 và được bổ sung, hoàn
chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về PTBV được tổ chức tại Johanesburg – 2002 :
“Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa
ba mặt của sự phát triển, đó là: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường

nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của con người trong hiện tại nhưng không làm tổn hại
đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Ngoài ba mặt chủ yếu này, có
nhiều người còn đề cập tới những khía cạnh khác của phát triển bền vững như chính trị,
văn hóa, tinh thần, dân tộc... và đòi hỏi phải tính toán và cân đối chúng trong hoạch định
các chiến lược và chính sách phát triển kinh tế-xã hội cho từng quốc gia, từng địa phương
cụ thể. [3]
Quan điểm mới nhất hiện nay về PTBV được thể hiện trong cuốn sách “Không chỉ
là tăng trưởng kinh tế. Nhập môn về phát triển bền vững” của tác giả Tatyana
P.Soubbotina, xuất bản lần thứ hai năm 2005 của Viện Ngân hàng thế giới đã chỉ rõ “Phát
triển bền vững cũng có thể được gọi bằng cách khác là phát triển bình đẳng và cân đối, có
nghĩa là để duy trì sự phát triển mãi mãi cần cân bằng giữa lợi ích của các nhóm người
trong cùng một thế hệ và giữa các thế hệ, và thực hiện điều này trên cả ba lĩnh vực kinh
tế, xã hội và môi trường”.[4]
Tuy có rất nhiều quan niệm khác nhau về PTBV nhưng quan niệm phổ biến nhất
trên thế giới hiện nay là quan niệm do Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển đưa
ra: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu thế hệ hiện tại nhưng
không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Đó là quá
trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo, tôn trọng những quá trình

12


sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc
sống của con người, động vật và thực vật. Qua các bản tuyên bố quan trọng, khái niệm
này tiếp tục mở rộng thêm và nội hàm của nó không chỉ dừng lại ở nhân tố sinh thái mà
còn đi vào các nhân tố xã hội, con người, nó hàm chứa sự bình đẳng giữa các nước giàu
và nghèo và giữa các thế hệ. Như vậy, khái niệm “Phát triển bền vững” nói trên có nội
hàm rộng, nó không chỉ là nỗ lực nhằm hòa giải kinh tế và môi trường, hay thậm chí phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, nội dung khái niệm còn bao hàm những khía
cạnh chính trị xã hội, đặc biệt là bình đẳng xã hội. Với ý nghĩa này, nó được xem là

“tiếng chuông” cảnh báo hành vi của loài người trong thế giới đương đại. Do tính chất
phổ quát, tổng hợp, súc tích cao, đây là quan điểm được biết đến rộng rãi nhất, là mục
tiêu phấn đấu của tất cả các quốc gia trên thế giới cho quá trình phát triển của mình.[1]
1.1.2 Các tiêu chí đánh giá phát triển bền vững.
Để đo lường và đánh giá tính bền vững của sự phát triển, người ta dùng các chỉ số
PTBV. Chỉ số PTBV đo lường khả năng duy trì bền vững hoặc việc thực hiện phát triển
cơ sở bền vững. Các chỉ số có thể đóng vai trò hướng dẫn trong việc ra quyết định theo
nhiều cách khác nhau, giúp đo lường và xác định các tiêu chuẩn định lượng hướng tới các
mục tiêu PTBV. Ngoài ra, chúng có thể cảnh báo để ngăn chặn kịp thời mối nguy hiểm
về kinh tế, xã hội và môi trường.
Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc năm 1992 đã nhận thức
được ý nghĩa quan trọng của các chỉ tiêu phát triển bền vững trong hỗ trợ các quốc gia
đưa ra những quyết định hướng tới PTBV. Chương trình nghị sự 21 cũng đặc biệt kêu gọi
các nước nỗ lực xây dựng các chỉ tiêu phát triển bền vững cấp quốc gia, khu vực và toàn
cầu.
Hưởng ứng lời kêu gọi này, năm 1995, Ủy ban Phát triển bền vững của Liên hợp
quốc đã thông qua Chương trình hành động 5 năm về xây dựng các tiêu chí phát triển
bền vững. Chương trình nhằm xác định các tiêu chí phát triển bền vững, xây dựng
phương pháp luận và tổ chức nâng cao năng lực cho các nhà hoạch định chính sách tầm
quốc gia. Tháng 8 năm 1996, Ủy ban Phát triển bền vững của Liên hợp quốc đã đưa ra
bản “Tiêu chí phát triển bền vững: Khuôn khổ và phương pháp luận”, trong đó giới thiệu
134 tiêu chí phát triển bền vững. Tháng 9 năm 2001, bản “Tiêu chí phát triển bền vững:
Hướng dẫn và phương pháp luận” ra đời và được coi là tổng kết của Chương trình hành
động 5 năm về xây dựng các tiêu chí phát triển bền vững, trong đó giới thiệu bộ 58 tiêu
chí phát triển bền vững được phân chia theo 15 chủ đề và 38 chủ đề nhánh thuộc 4 chủ
điểm: Xã hội, Môi trường, Kinh tế và Thể chế.

13



Trong suốt thập kỷ qua, nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng bộ tiêu chí PTBV
quốc gia của mình dựa trên bộ tiêu chí đề xuất của Ủy ban Phát triển bền vững của Liên
hợp quốc, chúng đã hỗ trợ đắc lực cho quá trình ra quyết định cũng như những hành động
quốc gia nhờ tổng hợp và đơn giản hóa những thông tin liên quan vì mục tiêu PTBV. Đó
còn là công cụ hữu hiệu để truyền tải khái niệm và xu thế phát triển bền vững tới những
nhà ra quyết định, các bên liên quan và cả cộng đồng.[1]
Trong vòng hơn mười năm trở lại đây, nhiều nhà khoa học thuộc các cơ quan khác
nhau của Việt Nam như Cục Môi trường, Bộ Khoa học, Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam...đã nghiên cứu xây dựng bộ chỉ tiêu phát
triển bền vững. Năm 1999 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất bộ chỉ thị phát triển bền vững
của Việt Nam, bao gồm 3 lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường với 23 chỉ thị đơn trong
đó phát triển kinh tế gồm 4 chỉ thị đơn, phát triển xã hội gồm 14 chỉ thị đơn và bảo vệ
môi trường tự nhiên gồm 5 chỉ thị đơn. Nhưng các “chỉ thị” của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
nêu ra thực chất mới chỉ là các tiêu chí.[6].
Gần đây, nhóm chuyên gia của Dự án VIE/01/021 (Dự án Hỗ trợ xây dựng và thực
hiện Chương trình nghị sự 21 quốc gia của Việt nam) - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiến
hành nghiên cứu và đề xuất bộ chỉ tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. Bộ chỉ tiêu này
được xây dựng dựa trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm của các nước trên thế giới, đặc biệt
các nước có thể chế chính trị, điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế-xã hội tương đồng
với nước ta. Bộ chỉ tiêu phát triển bền vững đề xuất của Việt Nam đã phần nào đáp ứng
được nhu cầu cấp bách của công tác lập kế hoạch, đánh giá và báo cáo tiến trình thực
hiện phát triển bền vững của quốc gia và địa phương. Tuy nhiên, hiện nay số liệu thống
kê còn chưa thống nhất từ các nguồn khác nhau (giữa các cơ quan thu thập số liệu và
giữa cấp trung ương và địa phương,...), gây nhiều khó khăn cho công tác xây dựng một
cơ sở dữ liệu chính xác, tin cậy và thực hiện bộ chỉ tiêu phát triển bền vững thống nhất
trên cả nước. Hơn nữa, phát triển bền vững là một quá trình liên tục, vì vậy, cần có hệ
thống cơ quan chuyên trách về xem xét, điều chỉnh và cập nhật bộ chỉ tiêu phát triển bền
vững.
Dự án VIE/01/021 bước đầu kiến nghị Bộ chỉ tiêu khởi đầu VN 0 ở 2 cấp Quốc gia
và các địa phương.[7]

Ở cấp quốc gia, gồm:
- 12 chỉ tiêu về lĩnh vực kinh tế
- 17 chỉ tiêu về lĩnh vực xã hội

14


- 12 chỉ tiêu về lĩnh vực tài nguyên- môi trường
- 3 chỉ tiêu về lĩnh vực thể chế nhằm PTBV
Ở cấp các địa phương, gồm:
- 7 chỉ tiêu về lĩnh vực kinh tế
- 13 chỉ tiêu về lĩnh vực xã hội
- 6 chỉ tiêu về tài nguyên- môi trường
- 2 chỉ tiêu về lĩnh vực thể chế
1.2 Vấn đề phát triển bền vững trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1 Một số nghiên cứu về PTBV nông nghiệp, nông thôn trên thế giới và Việt Nam
a) Thế giới
Trên thế giới đã có khá nhiều nghiên cứu về PTBV nông nghiệp, nông thôn. Hội
nghị toàn cầu về PTBV ở Nam Phi (09/2002) đã ban hành 2 văn kiện quan trọng đó là:
Tuyên bố Johannesburg về PTBV gồm 37 nguyên tắc và bản kế hoạch thực hiện, gồm
141 nội dung đặc biệt quan tâm đến môi trường nông thôn và sự PTBV ở các vùng nông
thôn rộng lớn trên toàn thế giới. Những vấn đề then chốt là: sản xuất nông nghiệp tăng
nguồn lương thực kéo theo sự gia tăng thuốc bảo vệ thực vật và dẫn đến thoái hóa đất;
giải quyết vấn đề nước sạch, nước ngọt, vệ sinh môi trường và sức khỏe cộng đồng; giảm
50% tỉ lệ nghèo đói đến năm 2015; tăng tỉ lệ sử dụng năng lượng tái tạo tới 15% vào năm
2010; phổ cập giáo dục tiểu học năm 2015; cải thiện đời sống, phát triển trang trại tạo
công ăn việc làm và công bằng xã hội cho mọi người. Như vậy, tất cả các vấn đề liên
quan đến PTBV nông thôn đã được hội nghị toàn cầu về PTBV đặc biệt quan tâm.
Gần đây, trong bối cảnh ra đời của khái niệm PTBV của các tổ chức quốc tế như
Tổ chức Nông lương Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á cũng đã nhấn mạnh khái

niệm về nông nghiệp bền vững. Theo đó phải hiểu theo khả năng thích nghi trong không
gian và tính linh động qua thời gian để đáp ứng các nhu cầu về ăn, mặc, ở, nhu cầu về
bảo tồn đất đai và các nguồn tài nguyên nông nghiệp khác. Nhiều hoạt động khoa học
liên quan đến nông nghiệp bền vững đã được thử nghiệm và thực thi trên phạm vi toàn
thế giới. Điển hình là:
Phong trào LEISA (Low External Input Sustainable Agriculture – nông nghiệp bền
vững ít sử dụng vật tư từ bên ngoài hệ thống). Đó là ý tưởng của một nhóm các nhà khoa

15


học châu Âu khi trào lưu của cách mạng xanh đang mạnh mẽ phát triển, đã và đang bỏ
quên những nông dân nghèo thiếu vật tư, tài chính và điều kiện về thủy lợi, làm cho đời
sống của họ ngày càng khó khăn gây sức ép nặng nề đến môi trường nông thôn, dẫn đến
hủy hoại tính đa dạng sinh học trong nông nghiệp. Kĩ thuật LEISA giúp cho nông dân
nghèo chọn lựa phương pháp và kĩ thuật phù hợp trong việc sử dụng các nguồn tài
nguyên địa phương để tăng sản lượng và lợi tức một cách lâu bền mà không phá hoại môi
trường. LEISA tạo nên sức mạnh cho nông dân và cả cộng đồng trong việc xây dựng
cuộc sống ấm no bằng những tri thức, kĩ năng, giá trị văn hóa và thể chế của họ và điều
quan trọng hơn là mọi người dân đều được tham gia và thể hiện sự công bằng về giới và
cộng đồng trong hưởng thụ tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Chương trình SARD ( Sustainable Agriculture Resarch Development – phát triển
nông nghiệp, nông thôn bền vững) do Tổ chức Nông lương Thế gới đề xướng trong cuốn
sổ tay huấn luyện, tập 1, chương trình có nội dung sau: Bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng tối
thiểu về chất và lượng của thế hệ hiện tại và tương lai, đồng thời có thể cung cấp những
nông sản khác; tạo việc làm ổn định, lợi tức vừa đủ và những điều kiện sống, làm việc
thoải mái cho mọi người tham gia sản xuất nông nghiệp; duy trì và nếu có thể cải thiện
tính năng sản xuất của các nguồn tài nguyên nói chung, đặc biệt là những nguồn tài
nguyên tái tạo và cân bằng sinh thái; giảm thiểu các rủi ro do thiên tai hoặc do biến động
thị trường cho khu vực nông nghiệp, giúp họ tự tin vào thực lực của chính mình.

b) Việt Nam
Trong thời gian qua, Việt Nam đã có một số nghiên cứu về PTBV nông nghiệp,
nông thôn. Các nghiên cứu bước đầu đã giúp người đọc hiểu thêm về các khái niệm, vai
trò của nông nghiệp bền vững; các vấn đề đóng góp cho sự PTBV nông nghiệp, nông
thôn nước ta.
“ Phát triển nông thôn bền vững: những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới”
(Trần Ngọc Ngoạn – chủ biên – Nhà xuất bản Khoa học xã hội- Hà Nội, 2008) [25]
Đề tài đã làm rõ khung khổ lý thuyết cơ bản làm cơ sở cho phát triển nông thôn
bền vững. Nêu những bài học kinh nghiệm về phát triển nông thôn bền vững của các
nước trong khu vực và của thế giới; Những gợi mở cho phát triển bền vững nông thôn ở
Việt Nam.
Nghiên cứu cho rằng, sự phát triển nông thôn theo các mô thức cũ dù là truyền
thống hay hiện đại đều bộc lộ những hạn chế nhất định về kinh tế, xã hội và môi trường
đe dọa sự tồn vong của loài người, đòi hỏi cần có một phương thức phát triển mới –
phương thức phát triển bền vững. Phát triển nông thôn là một tổ hợp các hoạt động đa

16


dạng có sự tham gia của các cá nhân, nhóm, tổ chức đảm bảo sự phát triển cho cộng đồng
nông thôn. Phát triển nông thôn bền vững có thể được coi là sự chuyển biến từ cách tiếp
cận công nghiệp sang cách tiếp cận hữu cơ; với phương thức phát triển bền vững thì mục
tiêu lợi nhuận không còn là mục tiêu ưu tiên số một nữa mà nó nằm trong sự chi phối của
các mối quan tâm về an toàn môi trường và ổn định xã hội; từ chỗ độc đoán, chỉ huy tập
trung sang dân chủ, khuyến khích sự tham gia của người dân đối với quan lý sự phát
triển; việc quản lý nguồn lực từ chỗ tập trung tại cơ quan Trung ương chuyển sang cho
các địa phương quản lý, và nhấn mạnh tới sở hữu tài sản chung. Phát triển nông thôn bền
vững đang nhận được sự đồng thuận rất nhiều ở các nước đang phát triển, tuy nhiên nó
cần có sự tham gia ủng hộ rất lớn của các ngân hàng, các tổ chức tài chính, các tổ chức
phi chính phủ, các trung tâm hỗ trợ kux thuật... để góp phần tạo nên một bước nhảy vọt

quan trọng đưa công tác phát triển nông thôn ra khỏi hình thức trợ cấp và giúp người
nông dân được tiếp cận với kỹ thuật và công nghệ mới.
Nghiên cứu này đã góp phần vào việc tổng hợp những vấn đề lý luận và kinh
nghiệm thế giới cho sự định hướng phát triển nông thôn bền vững.
“ Nỗ lực hướng tới PTBV – Những kinh nghiệm thực tiễn từ địa phương Việt Nam”
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2004) [24]
Tài liệu nêu lên những trường hợp điển hình về PTBV liên quan đến nhiều lĩnh
vực, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội, và đang được nhiều tổ chức và cộng đồng khác nhau
thực hiện. Cụ thể, chúng liên quan tới: (i) sản xuất sạch hơn nhằm đảm bảo hạn chế thải
ra các chất thải nguy hại, duy trì môi trường trong sạch và ổn định, bên trong và ngoài
đơn vị sản xuất, thông qua đổi mới công nghệ và quy trình sản xuất; (ii) thay đổi phương
thức tiêu dùng và mô hình sản xuất bằng các công nghệ sạch hơn và thân thiện hơn với
môi trường; (iii) phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản sinh thái
nhằm hài hòa các lợi ích về kinh tế và môi trường; (iv) các phương án xử lý chất thải đô
thị kết hợp với các dịch vụ môi trường và các hoạt động định hướng kinh doanh trong cơ
cấu kinh tế của Việt Nam; (v) sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt động phát triển
bền vững, nhấn mạnh sự cần thiết về sự đồng lòng và tham gia tích cực của cộng đồng
nhằm giúp cho các hoạt động PTBV thực sự có hiệu quả và được duy trì trong một thời
gian dài.
Những trường hợp điển hình trong tài liệu này được nghiên cứu tại các khu vực
khác nhau, trong bối cảnh cơ cấu sinh thái/ kinh tế khác nhau và điển hình cho Việt Nam.
Chúng phản ánh những vấn đề cấp bách khác nhau trong một loạt những khía cạnh cơ
bản của PTBV tại Việt Nam hiện nay. Trong mỗi trường hợp, nghiên cứu nêu lên một

17


cách ngắn gọn những vấn đề cấp bách cần được giải quyết, giải pháp thực hiện, kết quả
và một số nhận định sơ bộ, và bài học rút ra từ đó.
1.2.2 Phát triển bền vững ở Việt Nam.

1.2.2.1 Các chính sách nhằm thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam
Để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam, hàng loạt chính sách đã
được ban hành trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường và thực hiện các cam kết
quốc tế về PTBV mà Việt Nam đã ký kết.
Trong các văn bản này, quan điểm phát triển bền vững của Việt Nam đã được
khẳng định, đặc biệt rõ nét trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 được
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam (Đại hội VII) thông
qua, theo đó chủ trương “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường”. Đại hội VIII tiếp tục khẳng định “Tăng
trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”.
Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/ 6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo
vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nhấn mạnh: “Bảo
vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo
đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”.
Quan điểm PTBV đã được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 2001 - 2010 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi
đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường
nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 cũng đã nhấn mạnh “Phát triển nhanh gắn liền với phát
triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”. Phát triển
bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước.
Trong giai đoạn vừa qua, Việt Nam đã ký những công ước quốc tế có liên quan tới
phát triển bền vững như Nghị định thư Montreal về các chất phá hủy tầng ô - zôn; Công
ước Vienna về Bảo vệ tầng ô - zôn; Công ước của Liên Hiệp Quốc (LHQ) về Luật Biển;
Công ước khung của LHQ về Biến đổi khí hậu; Công ước Đa dạng sinh học (1994); Cam


18


kết thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Các cam kết này đã được Chính phủ
giao cho các Bộ, ngành có liên quan làm đầu mối, chịu trách nhiệm quản lý, phối hợp tổ
chức, lồng ghép trong các kế hoạch và chương trình phát triển ở các cấp để thực hiện.[5]
Năm 2002 dự thảo “Định hướng chiến lược để tiến tới PTBV” Agenda 21 của Việt
Nam được hoàn tất và báo cáo tại Rio+10 ở Nam Phi. Agenda 21 về PTBV của Việt Nam
là một khuôn khổ chung cho các hoạt động nhằm đưa Việt Nam tiến tới sự PTBV. Với
quan niệm phát triển là một quá trình tổng thể của tăng trưởng kinh tế, không ngừng nâng
cao công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Agenda 21 của nước ta cũng nêu lên những
thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt để ra chủ trương, chính sách và những lĩnh
vực hoạt động cần được ưu tiên để có thể PTBV trong thế kỷ 21.
1.2.2.2 Đánh giá tình hình thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam
Trong những năm qua, nhất là sau khi ban hành “Định hướng chiến lược để tiến tới
PTBV”, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong cả ba trụ cột về kinh tế, xã
hội và môi trường của PTBV và đã được tổng kết trong các Hội nghị Phát triển bền vững
toàn quốc lần thứ nhất (12/2004), lần thứ hai (5/2006) và lần thứ ba (1/2011).
Về kinh tế: Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong số các nước
đang phát triển đã đạt được những thành tựu nổi bật trong cải cách kinh tế hướng tới tăng
trưởng và giảm nghèo. Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm đạt 7,85% trong giai đoạn
2000 - 2008. Quy mô của nền kinh tế và năng lực sản xuất các ngành đều tăng. GDP bình
quân đầu người năm 2011 là trên 1200 đô la Mỹ, tăng gấp 3 lần so với năm 2000. Việt
Nam đã từ vị trí nhóm nước nghèo bước sang nhóm nước có mức thu nhập trung bình.
Về xã hội: Công tác xoá đói giảm nghèo, dân số, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
người dân, giáo dục - đào tạo và tạo việc làm cho người lao động đều đạt được những
thành tựu bước đầu đáng khích lệ. An sinh xã hội được chú trọng nhằm đảm bảo ổn định
đời sống và sản xuất của nhân dân, đặc biệt trong tình hình lạm phát cao, nhiều thiên tai.
Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học theo chuẩn phổ cập của quốc
gia vào năm 2000. Tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ 28,9% năm 2002 xuống còn 9,45% năm

2010, bình quân cả nước mỗi năm giảm 2% số hộ nghèo. Chỉ số bình đẳng giới của Việt
Nam khá cao so với các quốc gia có cùng mức độ phát triển và thu nhập. Chỉ số HDI
cũng được cải thiện qua các năm.
Về môi trường: Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) đã
được xây dựng khá đầy đủ và toàn diện. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường từ Trung ương đến địa phương đã từng bước được kiện toàn và đi vào hoạt
động ổn định. Kinh phí cho công tác BVMT đã được tăng cường. Nhiều nội dung về

19


phòngngừa, kiểm soát ô nhiễm và bảo tồn đa dạng sinh học đã đạt được những kết quả
đáng khích lệ. Việc lồng ghép các vấn đề về môi trường từ giai đoạn lập chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch và giai đoạn chuẩn bị đầu tư các dự án đã góp phần hạn chế và giảm
thiểu ô nhiễm môi trường.
Đánh giá một cách tổng thể, những thành tựu phát triển kinh tế thời gian qua đã tạo
nguồn lực cho việc giải quyết thành công hàng loạt các vấn đề xã hội: xoá đói giảm
nghèo, phát triển giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, hoàn thành các Mục tiêu Phát triển Thiên
niên kỷ nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Các hoạt động
phát triển KT - XH trong thời gian qua đã bước đầu gắn kết với BVMT về các mặt thể
chế chính sách, tổ chức - quản lý, xã hội hoá và hợp tác quốc tế. Bằng việc lồng ghép các
mục tiêu PTBV vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển KT XH và của các ngành, tính bền vững của sự phát triển hay nói cách khác là sự kết hợp
chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa 3 mặt: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường bước đầu được xác lập và khẳng định mạnh mẽ trong thực tế.[5]

1.3 Một số phương pháp đánh giá mức độ bền vững cộng đồng
1.3.1 Thước đo độ bền vững BS (Barometer of Sustainability)
Thước đo độ bền vững BS được IUCN đề xuất năm 1994, bao gồm các chỉ thị về
phúc lợi sinh thái và phúc lợi xã hội nhân văn. Sử dụng thước đo độ bền vững có thể
đánh giá mức sung mãn về sinh thái và nhân văn, là một công cụ để tổng hợp và mô tả

sinh động các ảnh hưởng của các phương án phát triển. BS sử dụng 10 mảng vấn đề trong
đó có 5 mảng thuộc phúc lợi sinh thái, 5 mảng thuộc phúc lợi nhân văn.[6]
Bảng1: Các yếu tố để đánh giá độ bền vững theo phương pháp BS
Phúc lợi sinh thái
Đất
Nước
Không khí
Đa dạng sinh học
Sử dụng hợp lý tài nguyên
Tổng tỷ trọng

Tỷ trọng
20
20
20
20
20
100

Phúc lợi xã hội nhân văn
Sức khỏe cộng đồng
Việc làm/thu nhập
Học vấn
Trật tự an toàn xã hội
Bình đẳng xã hội
Tổng tỷ trọng

Tỷ trọng
20
20

20
20
20
100

Trong trường hợp hiệu quả tốt nhất, mức đạt được của mỗi yếu tố là 20. Tác động
môi trường xấu sẽ làm giảm tỷ trọng các tham số môi trường cho đến 0. Tổng tỷ trọng

20


thực tế của 2 lĩnh vực sinh thái và nhân văn dùng để đánh giá mức độ bền vững của cộng
đồng nghiên cứu dựa trên 5 hạng như Hình 1.
Vùng 1: Bền vững
Vùng 2: Bền vững tiềm năng
Vùng 3: Trung bình
Vùng 4: Không bền vững tiềm tàng
Vùng 5: Không bền vững

Hình 1. Mức đánh giá độ bền vững của phương pháp BS
Các chỉ thị đơn của phương pháp BS được xác định theo nguyên tắc sau:
Phân hệ  Mảng vấn đề  Vấn đề cốt lõi  Chỉ thị đơn
Phương pháp BS có thể sử dụng ở cấp độ địa phương (một cộng đồng) hay ở cấp
độ một quốc gia. Sử dụng BS sẽ giúp cho cộng đồng dễ dàng đưa ra các kết luận về điều
kiện sinh thái và nhân văn và biết được cộng đồng của họ đang ở đâu. Phương pháp BS
có ưu điểm là trực quan hóa hệ thống biến hệ thống đa chiều thành hệ thống đơn giản, dễ
nhận thấy (khi kết quả đánh giá được biểu diễn trên biểu đồ). Nhưng BS có nhược điểm
là không đánh giá được sự phát triển trong tương lai, đánh giá quá cao mảng môi trường.
[8]


1.3.2 Đánh giá phát triển cộng đồng bằng bằng chỉ số bền vững địa phương – LSI
(Local Sustainability Index)[6]
Chỉ số bền vững địa phương LSI được hai nhà khoa học Bỉ Nath và Talay đề xuất
năm 1998. Chỉ số LSI gồm 5 chỉ thị đơn được thể hiện theo bảng sau:
Bảng 2. Các chỉ thị đơn và tỷ trọng theo LSI
Ký hiệu

Chỉ thị đơn LSI (Ii)

Trọng số (Ci)

21


I1
I2
I3
I4
I5

Tỷ lệ trẻ vị thành niên không phạm pháp
Tỷ lệ trẻ sơ sinh không tử vong
Tỷ lệ số dân được dùng nước sạch
Tỷ lệ số ngày không bị ô nhiễm khí trong năm
Tỷ lệ diện tích đất không bị ô nhiễm

2
2
4
3

1

Chỉ số LSI được tính theo công thức sau:
5

LSI =

5

∑ I ×C ∑ I ×C
i

i =1

i

5

∑I
i =1

=

i =1

i

i

12


i

Cơ sở để đánh giá độ bền vững theo LSI như sau :
LSI : 0,0 ÷ < 0,20 : Không bền vững
0,20 ÷ < 0,40 : Kém bền vững
0,40 ÷ < 0,60 : Trung bình
0,60 ÷ < 0,80 : Khá bền vững
0,80 ÷ 1,0 : Bền vững
Chỉ số LSI lồng ghép được các yếu tố phúc lợi kinh tế - xã hội và phúc lợi sinh thái,
cách tính đơn giản, nhưng cũng bộc lộ các nhược điểm sau đây :
- Chỉ thị I 4 và I5 không có hoặc rất khó thu thập đối với các nước đang phát triển, vì
ở đó cơ sở dữ liệu về môi trường không sẵn các số liệu này.
- Với những cộng đồng có trình độ phát triển cao, chỉ thị I 2 không nhạy cảm,
thường rất thấp. Cũng như vậy, I1 có thể là không nhạy cảm với một số cộng đồng miền
núi thuần phác.
- Các cộng đồng khác nhau (ví dụ nông thôn, miền núi, vùng ven biển, đô thị, điểm
du lịch) có những đặc trưng khác nhau về môi trường và phát triển. Việc dùng một chỉ số
LSI thống nhất không phản ánh sát hiện trạng của các hệ thống môi trường. Cần phải cải
tiến và bổ sung LSI để có thể tính nhanh độ bền vững của các cộng đồng có các đặc trưng
sinh thái nhân văn khác nhau.

22


1.3.3 Phương pháp đánh giá mức độ bền vững cộng đồng - CSA (Community
Sustainability Assessment)[12]
Phương pháp đánh giá mức độ bền vững của cộng đồng (CSA: Community
Sustainability Assessment) được mạng lưới Làng sinh thái của Mỹ xây dựng và đã được
áp dụng trong mạng lưới Làng sinh thái toàn cầu. CSA tiếp cận sự bền vững theo ba khía

cạnh: sinh thái, xã hội và tinh thần, mô hình chiếc ghế 3 chân minh họa cho cách tiếp cận
này (Hình 2). Sự bền vững tổng thể của một cộng đồng (được coi như mặt ghế) được
nâng lên khi cả 3 chân ghế (tương ứng với 3 lĩnh vực sinh thái, xã hội và tinh thần) cân
bằng và đều được nâng lên.

Hình 2. Mô hình chiếc ghế 3 chân mô phỏng sự bền vững của cộng đồng theo CSA
Bảng 3. Bộ chỉ thị đánh giá mức độ bền vững của cộng đồng theo CSA
Lĩnh vực sinh thái (I1)
I1.1

Ý nghĩa của địa điểm (vị trí, quy mô, mức độ khôi phục và bảo tồn tự nhiên)

I1.2

Nguồn lương thực sản xuất và phân bố

I1.3

Cơ sơ hạ tầng, xây dựng và giao thông

I1.4

Các mô hình tiêu thụ và việc quản lý chất thải rắn

I1.5

Nguồn, chất lượng nước và các mô hình sử dụng nước

23



I1.6

Nước thải và công tác quản lý ô nhiễm nước

I1.7

Nguồn năng lượng và việc sử dụng

Lĩnh vực xã hội (I2)
I2.1

Sự mở cửa, niềm tin và sự an toàn, không gian chung

I2.2

Truyền thông: dòng chảy của ý tưởng và thông tin

I2.3

Mạng lưới môi giới, tư vấn và dịch vụ

I2.4

Sự đa dạng và tính hoà đồng, việc ra quyết định, cách giải quyết các xung
đột

I2.5

Giáo dục


I2.6

Chăm sóc sức khoẻ

I2.7

Kinh tế

Lĩnh vực tinh thần (I3)
I3.1

Văn hóa

I3.2

Nghệ thuật và lúc thư nhàn

I3.3

Các nghi lễ, sự hỗ trợ để phát triển tinh thần, nội tâm và các khuôn phép về
tinh thần

I3.4

Đoàn kết cộng đồng

I3.5

Tính mềm dẻo của cộng đồng


I3.6

Cách nhìn nhận về thế giới của cộng đồng

I3.7

Ý thức toàn cầu và hoà bình

Cách tiếp cận sự bền vững của phương pháp CSA dựa trên 3 lĩnh vực sinh thái, xã
hội và tinh thần, ba lĩnh vực này đã bao quát được các phương diện của một cộng đồng.
CSA được áp dụng rộng rãi và có tính linh hoạt cao, có thể áp dụng đánh giá cơ bản mức
bền vững cho bất cứ cộng đồng nào, vì nếu trong danh mục kiểm tra có những mục
không ứng dụng cho cộng đồnh thì có thể bỏ qua (không tính điểm). Phương pháp này

24


đòi hỏi phải có kiến thức tốt về lối sống, thực tiễn và những nét đặc trưng của cộng đồng,
nó không đòi hỏi phải tính toán và định lượng chi tiết.[13, 14]
Mặc dù vậy, CSA cũng mang tính chủ quan khá cao do người hoàn thành danh
mục kiểm tra đưa ra đánh giá tốt nhất của cá nhân họ, trong một vài trường hợp thì phải
phỏng đoán xem điều gì là đúng với cộng đồng của họ. CSA đòi hỏi phải có sự xem xét ý
nghĩa của những việc cộng đồng đã đạt được và những lĩnh vực cần được cải thiện.
Những mục nào có điểm thấp sẽ được lựa chọn để cộng đồng tập trung ưu tiên và đưa ra
các hành động để nâng cao tính bền vững, đưa ra phương hướng tương lai của cộng đồng.
Điểm của các hạng mục càng cao thì tính bền vững của vấn đề càng lớn, vì vậy muốn bền
vững một cách toàn diện thì cộng đồng cần có những hành động ưu tiên để nâng cao
điểm của các hạng mục có điểm thấp.
Để tính chính xác tới mức tối đa điểm của các hạng mục thì việc đánh giá các hạng

mục này phải dựa vào các hoạt động hiện tại của cộng đồng. Nếu việc đánh giá sự bền
vững của cộng đồng theo định kỳ nhất định thì cộng đồng đó có thể theo dõi được tiến
trình hướng tới bền vững của họ theo thời gian, khi đó có thể dễ dàng đưa ra các giải
pháp thiết thực và kịp thời nhất cho cộng đồng trong tiến trình hướng tới sự bền vững của
mình.

1.4 Tổng quan khu vực nghiên cứu
1.4.1 Điều kiện tự nhiên
1.4.1.1 Vị trí địa lý
Thị trấn Lâm nằm ở trung tâm huyện Ý Yên, vị trí địa lý và tiếp giáp của thị trấn
như sau:
- Phía Bắc giáp xã Yên Khánh, huyện Ý Yên.
- Phía Đông Bắc giáp xã Yên Xá, huyện Ý Yên.
- Phía Đông giáp xã Yên Ninh, huyện Ý Yên
- Phía Nam giáp xã Yên Tiến, xã Yên Hồng, huyện Ý Yên.
- Phía Tây Bắc giáp xã Yên Khánh, huyện Ý Yên.
Thị trấn cách trung tâm tỉnh Nam Định 32 km về phía Nam.
Diện tích tự nhiên: 482 ha.
Với vị trí địa lý như trên, Thị trấn Lâm, huyện Ý Yên có những lợi thế mà các địa
phương khác không có, điều đó tạo điều kiện cho phát triển kinh tế xã hội, giao lưu văn
hoá trao đổi khoa học kỹ thuật với các địa phương trong và ngoài huyện.

25


×