Header Page 1 of 123.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRẦN THỊ HỒNG NHUNG
KẾT CẤU TRUYỆN NGẮN
SƢƠNG NGUYỆT MINH
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. La Khắc Hòa
HÀ NỘI, 2016
Footer Page 1 of 123.
Header Page 2 of 123.
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình tới
PGS.TS. La Khắc Hòa, người Thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành
Luận văn này.
Tôi xin cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong khoa Ngữ văn, tổ Lý luận văn
học; Phòng Sau đại học; Thư viện trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã nhiệt
tình giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian của
khóa học.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn gia đình, bạn bè thân thiết và đồng
nghiệp đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2016
Tác giả luận văn
Trần Thị Hồng Nhung
Footer Page 2 of 123.
Header Page 3 of 123.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong Luận văn là kết quả
quá trình nghiên cứu của riêng tôi.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có kế thừa thành quả nghiên cứu của các
nhà khoa học khác với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những kết quả nêu
trong Luận văn không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác và
chưa được công bố trong công trình khoa học nào.
Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2016
Học viên
Trần Thị Hồng Nhung
Footer Page 3 of 123.
Header Page 4 of 123.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................6
3. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................9
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................9
6. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................10
7. Đóng góp của luận văn ..........................................................................................10
8. Cấu trúc luận văn ..................................................................................................10
NỘI DUNG ..............................................................................................................11
Chƣơng 1. TRUYỆN NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH TRONG BỐI CẢNH
VĂN XUÔI VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XX ĐẦU THẾ KỶ XXI ....................11
1.1. Vài nét về sự hình thành và phát triển truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975…11
1.1.1. Quan niệm truyện ngắn ..........................................................................11
1.1.2. Truyện ngắn Việt Nam thời kỳ đổi mới .................................................14
1.2. Truyện ngắn Sương Nguyệt Minh trong sự vận động và phát triển truyện ngắn
Việt Nam sau 1975 ....................................................................................................20
1.2.1. Truyện ngắn Sương Nguyệt Minh trên hành trình sáng tạo của nhà
văn………………………………………………………………………………….20
1.2.2. Những đóng góp của truyện ngắn Sương Nguyệt Minh đối với văn xuôi
Việt Nam sau 1975 ....................................................................................................25
Chƣơng 2. KẾT CẤU HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRUYỆN NGẮN SƢƠNG
NGUYỆT MINH .....................................................................................................29
2.1. Nhân vật .............................................................................................................29
2.1.1. Khái niệm nhân vật.................................................................................29
2.1.2. Quan niệm về nhân vật văn học thời kỳ đổi mới ...................................32
2.2. Kết cấu hình tượng nhân vật truyện ngắn Sương Nguyệt Minh ........................34
2.2.1. Hình tượng nhân vật người phụ nữ ........................................................35
Footer Page 4 of 123.
Header Page 5 of 123.
2.2.2. Hình tượng nhân vật người lính .............................................................41
2.2.3. Hình tượng nhân vật cô đơn ...................................................................45
2.2.4. Hình tượng nhân vật dị biệt ....................................................................50
2.2.5. Hình tượng nhân vật giả huyền thoại, lịch sử ........................................56
Chƣơng 3. KẾT CẤU TRUYỆN KỂ VÀ KẾT CẤU TRẦN THUẬT TRUYỆN
NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH .........................................................................62
3.1. Kết cấu truyện kể ...............................................................................................62
3.1.1. Khái niệm truyện kể ...............................................................................62
3.1.2. Kết cấu truyện kể truyện ngắn Sương Nguyệt Minh..............................62
3.1.2.1. Cốt truyện ............................................................................................62
3.1.2.2. Tổ chức xung đột truyện ......................................................................68
3.2. Kết cấu trần thuật ...............................................................................................74
3.2.1. Khái niệm trần thuật ...............................................................................74
3.2.2. Kết cấu trần thuật truyện ngắn Sương Nguyệt Minh .............................77
3.2.2.1. Tổ chức điểm nhìn trần thuật ..............................................................77
3.2.2.2. Ngôn ngữ trần thuật ............................................................................90
3.2.2.3. Giọng điệu trần thuật ..........................................................................97
3.2.2.4. Các thủ pháp trần thuật.....................................................................103
KẾT LUẬN ............................................................................................................108
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................110
Footer Page 5 of 123.
Header Page 6 of 123.
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tác phẩm văn học là một sáng tạo độc đáo, là đứa con tinh thần của nhà
văn và thời đại. Do đặc trưng là một chỉnh thể nghệ thuật độc đáo nên để xây dựng
thành công một tác phẩm văn học tác giả phải suy nghĩ tổ chức, sắp xếp các yếu tố
sao cho thành một chỉnh thể nghệ thuật. Nói cách khác, nhà văn phải tạo cho được
kết cấu nghệ thuật trong tác phẩm. Một kết cấu có giá trị không những làm cho tác
phẩm trở thành chỉnh thể mà còn tăng cường tính nghệ thuật cũng như sẽ góp làm
cho sâu sắc hơn tư tưởng, tình cảm, nội dung được bộc lộ trong tác phẩm, để có thể
làm nổi bật “tư tưởng thẩm mĩ” của tác phẩm một cách hiệu quả nhất. Hơn nữa,“tư
tưởng sống động của nhà văn bao giờ cũng được thể hiện trong kết cấu và thông
qua kết cấu” [4, tr.297] nên khi tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm,
người nghiên cứu sẽ phần nào hiểu được quá trình tư duy cùng dụng ý nghệ thuật
của nhà văn được gửi gắm trong những chân lí nghệ thuật mang tính phổ quát ở
từng tác phẩm.
Kết cấu không đơn giản là sự tương quan bên ngoài của các bộ phận mà quan
trọng là sự liên kết bên trong, là “nghệ thuật kiến trúc nội dung” [11, tr.156] ở từng
tác phẩm cụ thể. Đó là phương diện góp phần quan trọng làm nên tính nghệ thuật,
thể hiện chiều sâu tư tưởng của tác phẩm văn chương, đồng thời in dấu sáng tạo của
người nghệ sĩ. Vì thế, kết cấu là “một phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát
nghệ thuật”, một nhiệm vụ nghệ thuật khó khăn, là thước đo năng lực tổ chức, xây
dựng tác phẩm của nhà văn, đảm nhiệm những chức năng nghệ thuật rất đa dạng.
Trong cuốn Thơ ca Nga hiện đại, R.Jakobson đã nhấn mạnh rằng“muốn làm việc
trong lĩnh vực ngôn ngữ nghệ thuật, phải nắm vững kết cấu” [2, tr.149]. Với loại
hình văn học tự sự, “yêu cầu tìm tòi, sáng tạo kết cấu lại càng trở lên quan trọng”
[2, tr.100] giống như “một thứ kĩ thuật tinh sảo: kĩ thuật viết truyện ngắn” [20,
tr.333].
1.2. Kết cấu là một trong những thành tố quan trọng cấu thành nên tác phẩm
văn học. Tuy chúng ta có thể nắm bắt một số hình thức kết cấu nổi bật đã từng in
Footer Page 6 of 123.
Header Page 7 of 123.
2
dấu trong nhiều tác phẩm có giá trị. Song khi khám phá kết cấu tác phẩm trong sáng
tác của một nhà văn, nhà thơ điều cần thiết là bám sát tác phẩm để nhận diện cách tổ
chức cụ thể, khôn khéo và sinh động của tác giả. Tùy theo quan điểm, góc độ nhìn
nhận mà các nhà lí luận văn học có nhiều cách hiểu và cách định nghĩa khác nhau
về kết cấu.
Ở phương Đông, ngay từ thời cổ đại người ta đã nhận thức được vai trò của
kết cấu trong tác phẩm nghệ thuật. Các nhà lý luận văn học Trung Quốc xưa gọi kết
cấu bằng các thuật ngữ như bố cục, phân bố, chương pháp, bố trí…Còn ở phương
Tây, thuật ngữ này đã được bàn đến trong các công trình nghiên cứu của Platon,
Aristote. Theo Platon thì “Kết cấu của mỗi bài văn phải là một yếu tố có sức sống,
có cái thân thể vốn có của nó, có đầu, có đuôi, có phần thân, có tứ chi, có bộ phận
này và bộ phận khác, có quan hệ bộ phận và toàn thể, tất cả đều phải có vị trí của
nó”. Aristote thì nói “Cái hoàn chỉnh là cái có phần đầu, phần giữa và phần cuối.
Phần đầu là cái không nối tiếp theo cái khác, trái lại, theo quy luật tự nhiên, phải
có cái gì tồn tại hoặc tiếp theo sau nó; phần cuối là cái theo tính tất yếu hay theo lẽ
thường đều phải theo sau cái gì đó và sau nó không còn cái khác phải tiếp theo;
phần giữa là cái phải tiếp theo sau cái khác và cái khác nữa lại đi sau nó. Vậy, giữa
cốt truyện được xây dựng một cách khéo léo phải tuân theo những định nghĩa đó
chứ không được tùy tiện bắt đầu và kết thúc chỗ nào cũng được”.
Ở Việt Nam, khoảng cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, Nhữ Bá Nha đã rất
quan tâm đến kết cấu. Ông cho rằng “Loại văn chương tột bậc của thiên hạ đúng là
không ở trong cái giới hạn đóng mở, kết cấu thì cũng không thành văn chương…có
cấu thì có kết, có gợi thì có thưa, đó là một phép tắc đương nhiên của nhà văn”.
Đến văn học hiện đại thì theo quan điểm của các nhà nghiên cứu Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học thì
“Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm, kết cấu thể hiện
nội dung rộng rãi phức tạp hơn. Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối
bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao
hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Kết
Footer Page 7 of 123.
Header Page 8 of 123.
3
cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật; kết cấu phải đảm
nhiệm chức năng đa dạng bộc lộ tốt chủ đề tư tưởng của tác phẩm; triển khai trình
bày hấp dẫn cốt truyện, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả tạo nên tính toàn
vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mỹ” [8, tr.99].
Theo cuốn 150 Thuật ngữ văn học của Lại Nguyên Ân thì nội hàm của
khái niệm kết cấu chính là“Sự sắp xếp phân bố các thành phần hình thức nghệ
thuật, tức là sự cấu tạo tác phẩm tùy theo nội dung và thể tài. Kết cấu gắn kết các
yếu tố của hình thức và phối thuộc chúng với tư tưởng. Các qui luật của kết cấu là
kết quả của nhận thức thẩm mĩ, phản ánh những liên hệ bề sâu của thực tại. Kết cấu
có tính nội dung độc lập, các phương thức và thủ pháp kết cấu sẽ cải biến và đào
sâu hàm nghĩa của cái được mô tả.” [1, tr.167]. Nội hàm ấy đã qui định ngoại diện
của khái niệm kết cấu “Kết cấu của tác phẩm bao gồm việc phân bố các nhân vật
(tức là hệ thống các hình tượng), các sự kiện và hành động (kết cấu cốt truyện), các
phương thức trần thuật (kết cấu trần thuật như là sự thay đổi các điểm nhìn đối với
cái được miêu tả), chi tiết hóa các khung cảnh, hành vi, cảm xúc (kết cấu chi tiết),
các thủ pháp văn phong (kết cấu ngôn từ), các truyện kể xen kẽ hoặc các đoạn trữ
tình ngoại đề (kết cấu các yếu tố ngoài cốt truyện)” [1, tr.168]. “Phạm vi của kết
cấu còn bao gồm cả sự tương ứng giữa các bình diện khác nhau (các khía cạnh, các
tầng nấc, các cấp độ) của hình thức văn học mà nhờ đó tạo ra được hệ thống các
một đặc trưng cho từng tác phẩm, từng nhà văn, từng thể tài, từng khuynh hướng
văn học” [1, tr.168].
Theo quan điểm của các tác giả Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân
Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa, Thành Thế Thái Bình trong cuốn giáo trình Lý
luận văn học thì “Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm, phục tùng
đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu
tác phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và nội dung tư tưởng trong tác
phẩm” [15, tr.295].
Nếu cốt truyện là "hình thức tổ chức sơ đẳng nhất của truyện" thì kết cấu là
"toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm" tạo ra hiệu quả tư tưởng thẩm
Footer Page 8 of 123.
Header Page 9 of 123.
4
mĩ. Nghĩa là kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác
phẩm, là sự tổ chức sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác
phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định.
Trong bài Tính nghệ thuật, một đối tượng nghiên cứu và một cách tiếp cận riêng,
số tháng 3 và 4 năm 2000, tác giả Nắng Mai đã có một quan niệm cụ thể hơn về kết
cấu:“Kết cấu là việc sắp xếp, lắp ráp chẳng những kiến trúc trong chiều sâu, mà
còn bố cục, bài trí ở bên ngoài, nhằm tổng hợp những tương quan giữa các yếu tố
của tác phẩm gắn kết lại mọi mảnh vụn rời rạc trong số đó sao cho thành chỉnh thể
toàn vẹn. Kết cấu là yếu tố không thể hiện trực tiếp trên câu chữ, mà nó thành chất
liên kết toàn bộ các chi tiết rời rạc thành dòng thống nhất. Trong tác phẩm, kết cấu
có vai trò của người đạo diễn thay mặt tác giả tạo nên hệ thống các hình tượng như
là kết quả của sự thống nhất hoàn thiện các yếu tố hình thức nghệ thuật”.
Có thể nói, bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết
cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm
các chức năng như bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng tác phẩm; triển khai, trình bày hấp
dẫn cốt truyện; cấu trúc hợp lí hệ thống tính cách; tổ chức điểm nhìn trần thuật của
tác giả tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ. Do đó, kết
cấu chính là mảnh đất thử thách tài năng, là khoảng trời tự do để người nghệ sĩ sáng
tạo và người cầm bút có thể lựa chọn cho mình cách diễn đạt riêng để hình thức ấy
hàm chứa nội dung, trở thành tín hiệu nghệ thuật.
1.3. “Nhiệm vụ của nhà văn là nhào nặn vốn sống để xây dựng thành những
sinh mệnh nghệ thuật - tái hiện những bức tranh đời sống giàu tính khái quát, nghĩa
là phải tổ chức lại chất liệu sống, bỏ bớt đi những cái thừa, phát triển thêm cái
chưa có, nối liền cái xa nhau, tạo thành một chỉnh thể mang giá trị nghệ thuật” [11,
tr.295]. Vì vậy, trước khi bắt đầu sáng tác, bao giờ nhà văn cũng quan tâm đến việc
làm thế nào để tác phẩm trở nên hấp dẫn, ấn tượng với người đọc, đồng thời còn
phải chuyển tải được tối đa ý đồ nghệ thuật của mình. Làm được điều đó, bên cạnh
việc chọn đề tài, thể loại, nhân vật ...việc lựa chọn một hình thức kết cấu cho tác
phẩm như là một thao tác tất yếu bởi kết cấu tác phẩm là“toàn bộ tổ chức tác phẩm
Footer Page 9 of 123.
Header Page 10 of 123.
5
phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra
cho mình”, nó không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác
phẩm. Ở mỗi thời kì, mỗi thể loại, mỗi cá nhân nhà văn, cách thức tổ chức tác phẩm
có những đặc thù khác nhau. Vì vậy ở mỗi nhà văn, chúng ta có thể tìm thấy những
nét tiêu biểu trong phong cách bằng những hình thức nghệ thuật trong đó có nghệ
thuật kết cấu tác phẩm. Do đó, người nghệ sĩ muốn tạo dựng được những tác phẩm
hay thì phải tạo dựng được những kết cấu độc đáo. Qua kết cấu có thể đánh giá nhà
văn có phong cách hay không có phong cách.
Sương Nguyệt Minh là người sinh ra và lớn lên tại Yên Mỹ, Yên Mô, Ninh
Bình, hiện tại đang công tác tại Ban Sáng tác - Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Cho đến
nay, bằng sự đam mê và lao động nghệ thuật nghiêm túc, nhà văn đã cho ra đời sáu
tập truyện ngắn, rất nhiều bài báo, bút ký, tùy bút, tản văn và mới đây nhất là tiểu
thuyết Miền hoang…. Với những sáng tác của mình, ông liên tục đạt giải thưởng
cao: giải thưởng cuộc thi truyện ngắn Văn nghệ Quân đội 1996 với tác phẩm Bản
kháng án bằng văn; giải thưởng truyện ngắn cuộc thi Cây bút vàng của tạp chí Văn
hóa – Văn nghệ Công an (1998 -2001) với tác phẩm Lửa cháy trong rừng hoang;
giải Nhì viết truyện ngắn Nhà xuất bản Giáo dục 2004 với tác phẩm Những bước đi
vào đời; giải thưởng cuộc thi bút ký báo Giáo dục thời đại 2004 với tác phẩm Nhọc
nhằn gieo chữ vùng cao; giải thưởng cuộc thi tập truyện ngắn của Nhà xuất bản
Thanh niên 2004 với tập truyện ngắn Đi qua đồng chiều; Giải thưởng cuộc thi bút
ký Đài tiếng nói Việt Nam 2002 -2003 với tác phẩm Đêm Pà Cò; giải thưởng cuộc
thi truyện ngắn báo Văn nghệ 2003-2004 với tác phẩm Mười ba bến nước; giải
thưởng Văn học nghệ thuật Bộ Quốc phòng 5 năm 1999 – 2004 với tập bút kýTrong
cơn đại hồng thủy. Và đến năm 2010, Sương Nguyệt Minh được nhận Giải thưởng
của Hội nhà văn Việt Nam với tập truyện ngắn Dị hương.
Bằng ngòi bút đầy tâm huyết, một trái tim chan chứa yêu thương cùng với
những trải nghiệm cuộc đời con thuyền văn chương của Sương Nguyệt Minh luôn
chở đạo làm người, nhân cách con người, giá trị nhân văn sâu sắc. Điều đó đã làm
nên những trang văn làm rung động tâm hồn độc giả. Đọc văn Sương Nguyệt Minh,
Footer Page 10 of 123.
Header Page 11 of 123.
6
người đọc như bước vào một thế giới nghệ thuật đa chiều, giản dị nhưng không
ngừng đổi mới. Với tất cả những lí do trên, cùng với niềm yêu thích đặc biệt trong
những trang văn của Sương Nguyệt Minh, chúng tôi đã chọn đề tài Kết cấu truyện
ngắn Sương Nguyệt Minh. Với đề tài này chúng tôi mong muốn đem đến cho
người đọc cái nhìn hệ thống hơn về các kiểu mô hình kết cấu tiêu biểu trong truyện
ngắn Sương Nguyệt Minh, từ đó lí giải một cách đầy đủ hơn về tư tưởng, tài năng
phong cách nhà văn.
2. Lịch sử vấn đề
Vào những năm cuối của thế kỷ XX, song song với quá trình hiện đại hóa văn
học, truyện ngắn xuất hiện thực sự có bước chuyển biến mạnh mẽ, đã góp phần tạo
nên diện mạo của văn học dân tộc. Nhắc đến những cây bút truyện ngắn không thể
không có Sương Nguyệt Minh. Dù Sương Nguyệt Minh xuất hiện trên văn đàn với
khoảng thời gian sáng tác chưa thật dài song đến nay đã có rất nhiều bài báo, tạp chí
tập trung đánh giá về truyện ngắn của ông. Điều đó chứng tỏ những sáng tác của
Sương Nguyệt Minh đã được giới độc giả quan tâm, tìm hiểu. Nhận xét về cách viết
văn của Sương Nguyệt Minh, nhà văn Phong Điệp trên tờ Văn nghệ trẻ (2002) đã
khẳng định:“Truyện của anh viết kỹ đến từng câu, từng chi tiết. Đặc biệt anh rất
dụng công trong việc dựng cốt truyện…Anh viết giống như chuẩn bị bước vào một
trận đánh. Lực lượng được chuẩn bị sẵn sàng. Lúc nào cần tung ra, lúc nào đánh
chiến thuật…nhịp nhàng, bài bản không tạo cảm giác cứng nhắc. Người đọc hoàn
toàn bị người viết dẫn dụ, vừa hồi hộp vừa thích thú” [42, tr.34].
Nhìn nhận khái quát về quá trình sáng tác của Sương Nguyệt Minh, các nhà
phê bình đều nhận ra những bước chuyển đáng mừng trong văn phong của nhà văn
quân đội này. Truyện ngắn đầu tay Nỗi đau dòng họ của Sương Nguyệt Minh ngay
khi mới ra đời đã gây ấn tượng mạnh trong dư luận. Nhà văn Hồ Phương đánh giá:
“có mùi có vị, rõ ra tư chất nhà văn” và “Truyện đầu tay, nhưng cảm thấy đã rõ
hình hài cốt cách một người viết chuyên nghiệp”. Các tập truyện ngắn tiếp theo
Người ở bến sông Châu, Đi qua đồng chiều, Đêm làng Trọng Nhân Sương Nguyệt
Minh được đánh giá là:“mang đến cho người đọc một khuôn mặt văn chương theo
Footer Page 11 of 123.
Header Page 12 of 123.
7
lối truyền thống, nhuần nhụy từ giọng văn cho tới tên của các nhân vật trong tác
phẩm” (Thu Phố, Tạp chí tuyên giáo, 10/2009). Nhà văn - nhà phê bình Văn Chinh
trong bài viết Tôi muốn có cái lục lạc ấy bằng đất nung (WWW.vanchinh.net ngày
18/12/2008) đã nhận xét:“Một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công của
Sương Nguyệt Minh là tích tụ các chi tiết và tình huống khác lạ”. Đến các tập
truyện Mười ba bến nước, Chợ tình và đặc biệt chín truyện ngắn trong tập Dị hương
Sương Nguyệt Minh đã tạo được “bước ngoặt lớn” với những tìm tòi, bứt phá mới
khi anh thoát khỏi cách viết với đề tài quen thuộc. Trong các tập truyện thời kỳ này
sáng tác của Sương Nguyệt Minh đã đi từ hiện thực - lãng mạn đến hiện thực - lãng
mạn - kỳ ảo. Nhà văn Di Li trên tờ An ninh thủ đô (Số ngày 18/10/2009) cho rằng:
“Trước nay, cái tên Sương Nguyệt Minh thường gắn liền với những câu chuyện viết
về đề tài chiến tranh và nông thôn bằng ngòi bút dù dữ dội vẫn lung linh, trữ tình,
nên việc ra đời những truyện ngắn ma mị và nhiều tính dục với bút pháp huyền ảo
và giả tưởng trong tập Dị hương khiến nhiều người đọc lạ lẫm, bất ngờ” .
Có thể nói, người đọc đọc văn của Sương Nguyệt Minh đều nhận ra ông là
một nhà văn không ngừng sáng tạo, văn của ông như dòng sông chảy liên tục chở
nặng phù sa tươi tốt bồi đắp cho bờ bãi, ruộng đồng. Nói như nhà lý luận phê bình
Phạm Xuân Nguyên nhân buổi tọa đàm ra mắt tập truyện ngắn Dị hương ở Sương
Nguyệt Minh đã“có những đổi mới về tư duy, dám bước vào phong cách mới”;
“Nhà văn không nhất thiết phải viết hay hơn người khác, nhưng đến một lúc nào
đó, nhà văn phải viết khác mình. Nhà văn Sương Nguyệt Minh đã làm được điều
này” [61]. Còn nhà văn Khuất Quang Thụy trong lời tựa cho tập truyện ngắn Mười
ba bến nước thì phát hiện ra “những cái không thông thường” trong cách viết của
Sương Nguyệt Minh, ngay ở những “bến nước” đầu tiên trên con đường sáng tạo
văn học nghệ thuật, từ việc phá vỡ bút pháp truyền thống của thể loại, đến việc phá
vỡ môtip chủ đề và tạo ra sự đa thanh trong tác phẩm. Tất cả những cái“không
thông thường” ấy thể hiện sự tìm tòi không mệt mỏi của tác giả Sương Nguyệt
Minh trong quá trình sáng tác. Chính nhờ sự tìm tòi ấy mà các tác phẩm của anh
Footer Page 12 of 123.
Header Page 13 of 123.
8
luôn không ngừng đổi mới, mang lại nhiều phong vị khác nhau trong từng giai đoạn
sáng tác.
Bên cạnh những bài báo, bài phê bình kể trên còn có các công trình nghiên
cứu chuyên sâu khi tìm hiểu về truyện ngắn Sương Nguyệt Minh. Đó là luận văn
của Thạc sĩ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội Trần Thị
Phương Loan nghiên cứu Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Sương Nguyêt
Minh. Luận văn đã tập trung vào các phương diện: cảm hứng nghệ thuật, thế giới
nhân vật, và một số phương diện nghệ thuật đặc sắc trong truyện ngắn của Sương
Nguyêt Minh. Luận văn của Giang Thị Hà với đề tài Đặc điểm nghệ thuật truyện
ngắn Sương Nguyệt Minh đã nghiên cứu về tình huống, kết cấu, nghệ thuật xây
dựng nhân vật, yếu tố kì ảo, ngôn ngữ và giọng điệu các truyện ngắn của Sương
Nguyệt Minh. Luận văn của Thạc sĩ Lê Thị Thu Hà, Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2 nghiên cứu Đặc điểm thi pháp truyện ngắn Sương Nguyệt Minh bằng việc
tiếp cận và khảo sát các truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh trên một số bình diện
thi pháp cơ bản và có tính đặc trưng cho đối tượng như: thi pháp kết cấu - tổ chức
cốt truyện; thi pháp nhân vật; thi pháp không gian và thời gian…Những công trình
nghiên cứu trên đã đem đến cho người đọc về cái nhìn đầy đủ hơn về nghệ thuật
viết truyện ngắn đương đại mà Sương Nguyệt Minh là một trường hợp tiêu biểu,
khẳng định vị trí và đóng góp riêng của Sương Nguyệt Minh trong tiến trình đổi
mới văn học nước nhà, … Đây là những nguồn tư liệu hữu ích để chúng tôi tiếp tục
đi sâu nghiên cứu vấn đề.
Sương Nguyệt Minh xuất hiện trên văn đàn ở những năm 90 của thế kỉ XX.
Dù không ồn ào, nhưng cho đến nay anh đã gặt hái được những thành công nhất
định. Trên cơ sở kế thừa các bài báo, tài liệu nghiên cứu - phê bình văn học và các
cuộc trao đổi, tranh luận được đăng tải trên sách báo, tạp chí, trên mạng internet về
truyện ngắn Sương Nguyệt Minh. Chọn đề tài nghiên cứu Kết cấu truyện ngắn
Sương Nguyệt Minh với cái nhìn khách quan, khoa học, hệ thống, đầy đủ luận văn
nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm những giá trị, những đóng góp riêng của nhà văn
Sương Nguyệt Minh đối với nền văn chương Việt Nam đương đại.
Footer Page 13 of 123.
Header Page 14 of 123.
9
3. Mục đích nghiên cứu
Chọn đề tài Kết cấu truyện ngắn Sương Nguyệt Minh để nghiên cứu chúng
tôi hướng tới các mục đích sau:
- Giúp người đọc hiểu hơn về những đóng góp của nhà văn Sương Nguyệt
Minh đối với thể loại truyện ngắn.
- Tìm hiểu một cách hệ thống và đầy đủ những nét đặc sắc trong việc tổ chức
hình tượng nhân vật, tổ chức truyện kể và tổ chức trần thuật truyện ngắn Sương
Nguyệt Minh ở phương diện kết cấu. Từ đó thấy được sự vận động, phát triển cá
tính sáng tạo độc đáo của nhà văn, vị trí và vai trò của Sương Nguyệt Minh trong
nền văn học Việt Nam đương đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Triển khai đề tài Kết cấu truyện ngắn Sương Nguyệt Minh chúng tôi xác
định nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Tìm hiểu sự xuất hiện của Sương Nguyệt Minh trong sự xuất hiện của văn
xuôi Việt Nam cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI.
- Từ những đặc điểm của nội dung và hình thức của tác phẩm người viết sẽ tập
trung đi nghiên cứu một toàn bộ truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh trên phương
diện kết cấu. Khẳng định vị thế và đóng góp của Sương Nguyệt Minh đối với nền
văn xuôi Việt Nam đương đại.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Kết cấu truyện ngắn Sương Nguyệt Minh.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Nhằm khẳng định những nét riêng về kết cấu truyện ngắn Sương Nguyệt
Minh, chúng tôi tiến hành khảo sát các tập truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh:
- Đêm làng Trọng Nhân (1998)
- Người ở bến sông Châu (2002)
- Đi qua đồng chiều (2005)
- Mười ba bến nước (2005)
Footer Page 14 of 123.
Header Page 15 of 123.
10
- Chợ tình (2007)
- Dị hương (2010)
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi đi vào nghiên cứu Kết cấu truyện ngắn Sương Nguyệt Minh, chúng tôi
sử dụng kết hợp các phương pháp cơ bản sau: Phương pháp hệ thống. Phương pháp
phân tích và tổng hợp. Phương pháp thống kê, phân loại. Phương pháp đối chiếu, so
sánh. Phương pháp lịch sử. Phương pháp loại hình.
7. Đóng góp của luận văn
Đề tài Kết cấu truyện ngắn Sương Nguyệt Minh đã nêu bật lên một trong
những đặc trưng riêng biệt trong phong cách nghệ thuật truyện ngắn Sương Nguyệt
Minh.
Bước đầu xác định những đặc điểm truyện ngắn Sương Nguyệt Minh, những
đóng góp nghệ thuật của tác giả về phương diện kết cấu cho sự phát triển của thể
loại truyện ngắn ở Việt Nam.
Khẳng định giá trị và những thành công truyện ngắn Sương Nguyệt Minh
trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai
thành 3 chương:
Chƣơng 1: Truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh trong bối cảnh văn xuôi
Việt Nam cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI
Chƣơng 2: Kết cấu hình tƣợng nhân vật truyện ngắn Sƣơng Nguyệt
Minh.
Chƣơng 3: Kết cấu truyện kể và kết cấu trần thuật truyện ngắn Sƣơng
Nguyệt Minh.
Footer Page 15 of 123.
Header Page 16 of 123.
11
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TRUYỆN NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH TRONG
BỐI CẢNH VĂN XUÔI VIỆT NAM CUỐI THỂ KỶ XX ĐẦU THẾ KỶ XXI
1.1. Vài nét về sự hình thành và phát triển truyện ngắn Việt Nam sau 1975
1.1.1. Quan niệm truyện ngắn
Truyện ngắn ra đời ở phương Tây vào thời Trung thế kỷ. Đó là những truyện
ngụ ngôn đầu tiên của thời Phục hưng và cách mạng tư sản. Về sau các nhà viết
truyện thời Phục Hưng đã mang lại cho các câu chuyện nói trên một hình thức văn
học. Thế kỷ VXII tiếp thêm cho nó sức mạnh trong cuộc sống và nhất là sinh hoạt
chính trị. Khái niệm và thể loại truyện ngắn đạt đến mức hoàn chỉnh vào khoảng
cuối thế kỉ XIX, cùng với báo chí. Trải qua bao thăng trầm trong tiến trình phát
triển văn học và lịch sử thể loại, ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, con
người có thời gian đọc, suy ngẫm cùng nhà văn thì truyện ngắn ngày càng phát triển
chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong mỗi nền văn học dân tộc.
Thực chất truyện ngắn là gì? Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về truyện
ngắn. Nhận diện thể loại truyện ngắn là nỗ lực liên tục của cả người sáng tác và giới
nghiên cứu lý luận. Từ W.Gớt ở thế kỷ XVII cho đến Sê Khốp, từ Lỗ Tấn đến
Môpátxăng, từ Antônốp thế kỷ XIX - XX đến Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Minh
Châu,… họ đưa ra những cách khu biệt khác nhau. Các định nghĩa thường đặt ra
yêu cầu gắt gao đối với thể truyện ngắn là phải có dung lượng tác phẩm, cốt truyện,
nhân vật, chi tiết, ngôn ngữ,… để khái quát thành đặc trưng, khắc họa một hình
tượng cụ thể, phát hiện một nét bản chất và quan hệ nhân sinh, khám phá cái bí ẩn
trong đời sống tâm hồn con người. Trong đó M.B.Khrapchenco - nhà lý luận văn
học nước Nga thế kỷ XX cho rằng:“Truyện ngắn có thể viết co giãn. Cần phải
tránh để độc giả khỏi phải dừng lại lâu ở những chi tiết vụn vặt của cái mà độc giả
đã biết và thậm chí có thể vượt qua bằng trí tưởng tượng” [11, tr.213]. Aimatov
chú ý đến đặc trưng lao động nghệ thuật của thể loại truyện ngắn:“Truyện ngắn
giống như một thứ tranh khắc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ, cô
Footer Page 16 of 123.
Header Page 17 of 123.
12
đúc, các phương tiện phải được tính toán một cách tinh tế, nét vẽ phải chính xác.
Đây là một việc vô cùng tinh tế. Xoay xoả trên một mảnh đất chật hẹp, đó chính là
chỗ để cho truyện ngắn phân biệt với các thể tài khác” [44, tr.146].
Truyện ngắn là thể loại gần gũi với đời sống hàng ngày, dễ đọc, lại thường gắn
liền với hoạt động báo chí, do đó có tư duy ảnh hưởng kịp thời trong đời sống. Vậy
nên truyện ngắn là một trong những thể loại thể hiện trước hết và rõ nét nhất những
biến chuyển của nền văn học, chứng tỏ sự nhạy bén cũng như ưu thế của nó trong
sự định hình và bước chuyển của văn học. Ở Việt Nam quan niệm về truyện ngắn
vô cùng phong phú và đa dạng. Một trong những xác định súc tích về truyện ngắn là
định nghĩa của Lại Nguyên Ân:“Một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng
văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội. Nét nổi
bật của truyện ngắn là dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với việc người
tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền một mạch không nghỉ” [1, tr.1846-1847].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi truyện ngắn được định nghĩa:“Là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội
dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời
tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn” [8, tr.65].
Nhà nghiên cứu Phương Lựu trong giáo trình Lý luận văn học đã phát biểu:
“Truyện ngắn là hình thức ngắn của tự sự. Khuôn khổ ngắn nhiều khi làm cho
truyện ngắn có vẻ gần gũi với các hình thức truyện kể dân gian như truyện cổ, giai
thoại, truyện cười, hoặc gần với những bài ký ngắn. Nhưng thực ra không phải. Nó
gần với tiểu thuyết hơn cả bởi là hình thức tự sự tái hiện cuộc sống đương thời”
[15]. Còn theo nhà văn Nguyễn Minh Châu thì “truyện ngắn như một mặt cắt giữa
một cây cổ thụ, chỉ liếc qua những đường vân trên các khoanh gỗ tròn kia, dù trăm
năm cũng thảy cả cuộc đời thảo mộc” [35, tr.67].
Xuất phát từ những quan niệm tương đối thống nhất về truyện ngắn ở trên
chúng tôi có thể nêu ra một số đặc trưng cơ bản của thể loại này như sau:
Đặc trưng đầu tiên, dễ thấy nhất của truyện ngắn là kích thước, khuôn khổ,
dung lượng nhỏ. Thế nào là nhỏ? Có thể nói, dung lượng thông thường của một
Footer Page 17 of 123.
Header Page 18 of 123.
13
truyện ngắn co dãn khoảng từ 3 đến 50 trang. Dưới con số 3 trang, người ta gọi là
“truyện ngắn mini”, hoặc “truyện ngắn trong lòng bàn tay”; trên con số 50 trang,
người ta gọi truyện vừa, trên 100 trang là tiểu thuyết. Tuy nhiên, tính chất nhỏ của
truyện ngắn không chỉ nằm ở dung lượng, mà quan trọng hơn là những quy luật cấu
tạo đặc thù của truyện ngắn. Truyện ngắn có kết cấu, có cốt truyện, có bút pháp
riêng của nó. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng, nhiều tuyến mà
thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng, đây cũng là
cách để tạo ra một chiều sâu cần thiết cho truyện ngắn. Cốt truyện của truyện ngắn
thường diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói
chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người. Bút pháp của
truyện ngắn thường là chấm phá cho nên viết truyện ngắn cần phải biết“Viết thế
nào cho ngắn”. Tsêkhốp, một bậc thầy về truyện ngắn đã rút kinh nghiệm“gạt thô
lấy tinh, viết ngắn gọn, viết thật khách quan nhưng phải luôn tế nhị và luôn luôn
làm chủ ngòi bút của mình”
Đặc trưng thứ hai của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, hàm súc; lối hành
văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Chi tiết của
truyện ngắn giống như những mắt xích kết nối các yếu tố khác tạo nên tác phẩm. Do
tính chất ngắn gọn, truyện ngắn được tổ chức bằng các phương thức và chất liệu cá
biệt. Sekhov, một bậc thầy truyện ngắn thế giới đã ví truyện ngắn cũng y như trên
boong tàu quân sự, ở đó tất cả phải đâu vào đấy, không có cái gì được thừa, phải là
“một lát cắt gọn ghẽ”,“toàn truyện là một cái vòng khép kín không dài quá, không
ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào” [35, tr.122].
Tính nhanh nhạy, cập nhật là đặc trưng thứ ba của truyện ngắn. Là một thể
loại dân chủ, truyện ngắn trực tiếp tác động đến những điều của cuộc sống hiện đại,
gần gũi với đời sống hằng ngày. Với đặc thù ngắn gọn, súc tích, dễ đọc, truyện ngắn
thường gắn liền với hoạt động báo chí, có tác động mạnh mẽ, kịp thời tới cuộc sống.
Ở truyện ngắn, người viết không được dông dài, độ căng của tác phẩm phải “như
mũi tên mà dây cung đã bật, phải bay vụt về tới đích không thể có một phần nghìn
dây trù trừ” [21, tr.162]. Để đạt được điều này, điều cốt yếu của truyện ngắn là phải
Footer Page 18 of 123.
Header Page 19 of 123.
14
“nhạy bén trước những đổi thay của cuộc sống” [21, tr.146], truyện ngắn cần bắt
nhịp nhanh với cuộc sống thời hiện tại, phải trực tiếp đả động đến điều mọi người
đang suy nghĩ trong cuộc sống ngày hôm nay, cho dù chất liệu sử dụng trong tác
phẩm là những điều xưa cũ.
Đặc trưng thứ tư của truyện ngắn là các tác giả truyện ngắn thường hướng tới
việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh
hay trong đời sống tâm hồn con người“khái quát cuộc sống theo chiều sâu, lấy
điểm nói diện, lấy khoảnh khắc để nói cái vĩnh cửu” [44, tr.149]. Nói như Lỗ Tấn:
truyện ngắn có thể và cần phải trở thành“tòa đại lầu” để chứa đựng cả tinh thần của
thời đại nhờ phương thức biểu hiện qua một con mắt mà truyền đạt được cả tinh
thần con người vốn có của nó.
Nét đặc trưng cuối cùng của truyện ngắn là truyện ngắn tuy bị giới hạn về
dung lượng chữ nhưng có sức chứa lớn xét từ góc độ tư tưởng và trình độ khái quát
hóa. Chỉ cần một ít trang văn xuôi, người viết có thể làm “nổ tung trong tình cảm
và ý nghĩ của người đọc những điều rất sâu xa và da diết của con người, khiến
người đọc phải nhớ mãi, suy nghĩ mãi, đọc, đọc lại mãi không chán” [18, tr.148].
Roymond Carver, một bậc thầy truyện ngắn thế giới ghi nhận:“ngày nay, tác phẩm
hay nhất, tác phẩm hấp dẫn và thỏa mãn nhất về nhiều mặt, thậm chí có lẽ tác
phẩm có cơ hội lớn nhất để trường tồn, chính là tác phẩm được viết dưới dạng
truyện ngắn” [7, tr.75]. Đỗ Chu cũng có cùng ý kiến như vậy, ông cho rằng:“một
truyện ngắn hay có thể làm cho người ta cười lớn hoặc ứa nước mắt” bởi vì “sức
chứa trong truyện có thể rất nhiều, sức nổ rất lớn”.
Với những đặc trưng cơ bản trên, sau nhiều năm chiếm lĩnh trên văn đàn,
trong khi thơ, kịch, tiểu thuyết dường như đang vắt kiệt về khả năng hồi sinh và đổi
mới thể loại thì truyện ngắn vẫn là một mảnh đất tương đối để các cây bút trẻ khẳng
định tài năng. Chính vì thế mà truyện ngắn trở thành một thể loại tiêu biểu của văn
học Việt Nam đương đại.
1.1.2. Truyện ngắn Việt Nam thời kỳ đổi mới
Sau năm 1975 là bước đầu quá trình chúng ta xây dựng cuộc sống mới do đó,
văn học cũng tự tạo cho mình những điều mới mẻ để theo kịp với thời đại. Nhưng
Footer Page 19 of 123.
Header Page 20 of 123.
15
để có được sự đổi mới trong văn học nó phải có sự tác động tổng hợp của các yếu tố
trong hoàn cảnh lịch sử như sau:
1.1.2.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài 30
năm đã kết thúc toàn thắng. Tổ quốc thống nhất, cả đất nước bước vào thời kì xây
dựng và đi lên chủ nghĩa xã hội. Thời cơ và thuận lợi để đưa đất nước phát triển lớn
mạnh đã đến, nhưng thách thức và những khó khăn thì rất nhiều. Hậu quả nặng nề
của hai cuộc chiến tranh ác liệt và lâu dài vào bậc nhất trong lịch sử phát triển dân
tộc, cho đến nay, sau ba mươi năm vẫn chưa thể khắc phục hết.
Những năm đầu thập kỷ 80, đất nước chìm ngập trong những khó khăn nan
giải, nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng bởi chính sách cấm vận, cô lập của các thế
lực đế quốc thù địch, bởi sự khủng hoảng và sụp đổ của các nước trong phe xã hội
chủ nghĩa trên thế giới, thêm vào đó còn là hậu quả của những chủ trương, chính
sách kinh tế - xã hội nặng về duy ý chí, chủ quan nóng vội, gây mất lòng tin ở nhân
dân. Cuộc chiến tranh giải phóng đã kết thúc nhưng súng vẫn nổ ra ở biên giới phía
Bắc và phía Tây Nam, máu vẫn chảy ở chiến trường Campuchia. Tất cả những điều
đó đã tác động đến tình hình chung của nước ta, đẩy đất nước đến cuộc khủng
hoảng nặng nề và trầm trọng.
Nhưng sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của một dân tộc đã có lịch sử hàng nghìn
năm dựng nước và giữ nước lại một lần nữa được khẳng định. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (1986) đã tiến hành đổi mới toàn diện đưa đất nước thoát khỏi cuộc
khủng hoảng để bước vào thời kỳ phát triển mới. Sự suy thoái kinh tế được chặn lại
và nền kinh tế bắt đầu có sự tăng trưởng, phát triển tốc độ ngày càng cao và dần có
sự ổn định, nền kinh tế thị trường dần được hình thành. Đổi mới cũng có nghĩa là
mở cửa tăng cường giao lưu và hội nhập quốc tế trên mọi bình diện chính trị, kinh
tế, văn hóa khiến đất nước có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực, làm biến
đổi sâu sắc, toàn diện hình ảnh đất nước.
Từ chiến tranh chuyển sang cuộc sống hòa bình, từ nền kinh tế tập trung bao
cấp chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ mối quan
Footer Page 20 of 123.
Header Page 21 of 123.
16
hệ về kinh tế, chính trị hầu như chỉ khép kín trong hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây đến việc mở cửa, hội nhập toàn diện với thế giới. Những điều đó đã
kéo theo nhiều đổi thay về mặt xã hội cũng như văn hóa, tư tưởng.
Nếu như trong chiến tranh giữ nước và giải phóng dân tộc, sức mạnh của tinh
thần yêu nước và ý thức cộng đồng đã được phát huy cao độ thì khi hòa bình trở
lại con người trở về với cuộc sống bình thường, với cái đời thường phồn tạp,
muôn vẻ lẫn lộn, tốt - xấu, bi - hài, … con người lúc này được quyền bình đẳng,
văn học trở về với ý thức cá tính. Khi ấy cùng với sự đổi mới của đất nước là sự
mở rộng giao lưu văn hóa đa chiều của văn học.
1.1.2.2. Đổi mới là nhu cầu tất yếu của văn học Việt Nam sau 1975
Từ sau năm 1975 đất nước thoát khỏi cuộc chiến tranh và quay trở về với quỹ
đạo hoà bình, từ trạng thái riêng bất bình thường của thời chiến con người trở về cái
quỹ đạo của cái bình thường. Những nhu cầu sống của con người, thị hiếu nghệ
thuật của con người cũng trên cơ sở đó mà thay đổi.
Những năm đầu thập kỉ 80, đất nước ta chìm trong khó khăn và thử thách. Một
cuộc khủng hoảng toàn diện đã diễn ra. Do đó nhu cầu đổi mới đất nước là vấn đề
cấp thiết và có tính chất sống còn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986)
tiến hành xây dựng đường lối đổi mới toàn diện, mở ra thời kì mới cho đất nước
vượt khó khăn, phát triển mạnh mẽ, vững chắc. Đồng chí Nguyễn Văn Linh gặp đại
diện văn nghệ sĩ trẻ cuối năm 1987 đưa ra nhận định “cởi trói cho nghệ thuật”. Lúc
này trong đời sống xã hội đã diễn ra sự giằng co: cái cũ đã không còn thích hợp và
cái mới còn ở dạng phôi thai. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải dám phủ định cái cũ để
hình thành cái mới và phát triển. Công cuộc đổi mới đất nước ấy đòi hỏi văn học
phải lên tiếng cổ động mà bản thân nó cũng phải cổ động và phải đổi mới.
Quá trình đổi mới trước hết là sự đổi mới về kinh tế: từ nền kinh tế bao cấp
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế, quan
điểm kinh tế thay đổi đã làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo. Sống trong
môi trường kinh tế thị trường mới cảm xúc của con người đã bị kinh tế nhào nặn lại.
Footer Page 21 of 123.
Header Page 22 of 123.
17
Do đó nền văn hóa cũng phải đi từ lĩnh vực phản ánh số phận cộng đồng sang phản
ánh lĩnh vực cá tính cá nhân, điều này làm cho văn học phải đổi mới.
Cùng với đổi mới về kinh tế là sự mở rộng giao lưu văn hoá đa chiều, tạo ra cơ
hội thuận lợi cho văn học. Ngày nay ta có sự nhập ngoại nhiều kênh văn hóa khác
nhau. Trong đó, có cả những kênh thẩm mĩ mà ta chưa được quen, song nó đã góp
phần bùng lên ý thức cá nhân, khát vọng dân chủ. Giao lưu văn hóa đã làm cho nhà
văn có cơ hội tiếp cận với đỉnh cao văn học, đồng thời cũng tự ý thức về phần mình.
Cuối cùng của sự đổi mới nằm trong ý thức của người nghệ sĩ. Đứng trước sự
thay đổi của cuộc sống, sự thay đổi của nhu cầu thẩm mĩ, của con người và chịu sự
tác động của nền văn hóa từ bên ngoài, người nghệ sĩ không thể không thay đổi
cách viết của mình để tác phẩm của mình không khỏi lạc hậu và không bắt kịp thời
đại. Chính người nghệ sĩ là người chịu thực thi cụ thể để cho chúng ta có một nền
văn học đổi mới. Tất cả những điều này như thổi một luồng gió lớn vào đời sống
văn học nghệ thuật Việt Nam, mở ra một thời kì mới của văn học, đổi mới tư duy
nhìn thẳng vào sự thật.
1.1.2.3. Truyện ngắn Việt Nam thời kỳ đổi mới
Văn học Việt Nam kể từ sau 1975 đã bước sang một thời kì mới, với sự bừng
nổ của văn xuôi. Đặc biệt là từ giữa thập kỉ 80, khi ý thức văn hoá mới hình thành,
hệ hình giá trị biến đổi thì văn học đã thực sự chuyển sang một hình thái khác trước
đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử văn học dân tộc. Trước yêu cầu bức
thiết về sự đổi mới một cách toàn diện và sâu sắc của đời sống xã hội sau năm 1975,
đặc biệt từ năm 1986 thì văn học buộc phải đổi mới, phải “trở mình” để làm tốt hơn
thiên chức và sứ mệnh của nó. Nhu cầu đổi mới văn học đã dần trở thành đòi hỏi
chung của cả giới sáng tác lẫn công chúng. Vì thế hơn 40 năm đã trôi qua, quá trình
đổi mới đã giúp văn học đạt được nhiều thành tựu đáng kể mà truyện ngắn là một
trong những thể loại đi đầu.
Trước hết là sự đổi mới văn học trong cái nhìn về hiện thực của nhà văn. Tính
hiện thực là một thuộc tính căn bản, cốt lõi của văn chương, phản ánh mối liên hệ
mật thiết giữa tác phẩm với cuộc đời. Với nguyên lí“văn học phản ánh hiện thực”
Footer Page 22 of 123.
Header Page 23 of 123.
18
nên văn học trở nên gắn bó với đời sống xã hội, theo sát từng biến cố xã hội, từng
bước phát triển của phong trào cách mạng. Văn học trước 1975 gắn liền với cuộc
chiến tranh kéo dài suốt 30 năm cùng với nhiều sự kiện lịch sử: Cách mạng tháng
Tám, hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, cuộc cách mạng dân chủ ở
nông thôn những năm 1958 -1960, công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc. Vì thế hiện thực được nhìn nhận một cách lý tưởng hóa, tích cực và lạc quan.
Đó là hiện thực của mơ ước chứ không phải là hiện thực đang tồn tại. Điều này
khiến cho hiện thực trở lên rộng lớn và phong phú, đời sống văn học được quy
chiếu thành công thức đơn giản, phiến diện. Sau năm 1975 hiện thực được mở rộng
biên độ. Từ hiện thực sự kiện, biến cố lịch sử cho đến hiện thực về con người; từ cái
nhìn một chiều đến cái nhìn nhiều chiều; từ lạc quan đến bi quan, hoài nghi, chán
nản; từ hiện thực đã biết đến hiện thực chưa biết, hiện thực kỳ dị. Sự đổi mới quan
niệm về hiện thực này có lẽ bắt đầu với nhu cầu được“nói thật” như báo cáo chính
trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội VI:“Thái độ của Đảng ta trong
việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật”. Vì vậy, các nhà văn không chỉ dừng lại ở “phản ánh hiện thực” mà còn chủ
động đối với việc lựa chọn hiện thực, thoát ra khỏi sự ràng buộc của “chủ nghĩa đề
tài”, chủ động về tư tưởng để “nghiền ngẫm hiện thực”. Trước đây, hoàn cảnh
chiến tranh không cho phép họ khám phá tận cùng sự phức tạp, bề bộn, ngổn ngang
của đời sống. Giờ đây, do yêu cầu của thời đại, do nhu cầu tự thân của hoạt động
sáng tác, hiện thực đời sống đi vào văn chương vẹn nguyên như những gì nó có,
được soi sáng, cày xới cả những phần khuất lấp, mờ tối. Chính hướng dân chủ hóa
trong quan niệm về hiện thực đã đem lại cho văn học nhiều nội dung phong phú,
mới mẻ, nhiều hình thức biểu đạt uyển chuyển, hiện đại.
Quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn cũng là một thay đổi đáng
ghi nhận của văn học thời kỳ này. Ghi nhận hiện thực về con người chính là thước
đo trình độ chiếm lĩnh hiện thực đời sống của nhà văn. Lịch sử văn học, nhìn theo
một góc độ nào đó là lịch sử của những quan niệm khác nhau về con người, là
“những nguyên tắc cắt nghĩa về thế giới và con người”, “là sự miêu tả hữu hạn của
Footer Page 23 of 123.
Header Page 24 of 123.
19
thế giới vô hạn”, “là hình thức bên trong của sự chiếm lĩnh đời sống” [22, tr.184185]. Vì thế mà con người trong văn học Việt Nam trước 1975 do chịu tác động sâu
sắc từ hoàn cảnh chiến tranh mà nhà văn đã tạo dựng thành công kiểu con người
theo dòng thác cách mạng - con người sử thi, con người cộng đồng. Đó là những
nhân vật được“tắm rửa sạch sẽ và bao bọc trong bầu không khí vô trùng”
(A.Niculin). Nhân vật luôn trùng khít với địa vị xã hội của mình và luôn ở trong
trạng thái đơn trị, nhất phiến. Văn học sau năm 1975 hướng đến khám phá và tạo
dựng con người thế sự - đời tư, con người cá nhân với những phức tạp và bí ẩn của
nó. Nhà văn cắt nghĩa sự tồn tại của con người không phải ở vị thế đạo đức, nhà
tuyên huấn mà là nhà triết học, nhà tư tưởng. Nhà văn đã nỗ lực khám phá và chiếm
lĩnh con người trong những mối quan hệ nhân sinh, đa chiều vừa có “rồng phượng
lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ”, thậm chí nhà văn còn quan tâm đến những khao
khát bản năng rất tự nhiên, rất cháy bỏng của con người, ngay cả những vật vốn
kiêng kị, thấp hèn bị lên án trong quan niệm của nền văn học trước đó thì đến lúc
này nó trở thành đối tượng, vấn đề và trở thành thước đo nhân cách.
Trên cơ sở đổi mới quan niệm về nhà văn, quan niệm về hiện thực, về con
người, văn xuôi Việt Nam nói chung và truyện ngắn sau 1975 nói riêng đã có những
đổi mới đáng kể trên quan niệm nghệ thuật. Sau 1975, truyện ngắn là thể loại gặt
hái được nhiều thành công “được mùa thể loại”, nó phát triển mạnh mẽ về cả số
lượng và chất lượng. Sở dĩ, truyện ngắn có bước đột khởi như vậy là “nhờ vào ngọn
gió lành của công cuộc đổi mới”. Dấu hiệu khởi sắc ấy được thể hiện rất rõ nét ở
phương diện trần thuật. Sự phong phú đa dạng, biến hóa của trần thuật đã đem lại
cho truyện ngắn sau 1975 những biến chuyển mới, sinh động và thực sự hấp dẫn.
Sự đổi mới sâu sắc nhất của ở phương diện trần thuật chính là đa dạng hóa điểm
nhìn trần thuật. Điểm nhìn trần thuật là nơi vị trí đứng của người trần thuật khi quan
sát, đánh giá các sự kiện, tình tiết trong tác phẩm, bao gồm cả khoảng cách giữa chủ
thể và khách thể cả phương diện tâm lý, vật lý, văn hóa, chính trị và xã hội. Thông
qua điểm nhìn người đọc có thể xác định hệ tư tưởng, thế giới quan của nhà văn.
Điều đó giúp cho nhà văn có cái nhìn đúng đắn và đánh giá khách quan chủ đề, tư
tưởng tác phẩm, tạo nên hệ thống các giá trị khác nhau về con người và hiện tượng.
Footer Page 24 of 123.
Header Page 25 of 123.
20
Với tư cách là công cụ của tư duy, là “cái vỏ của tư duy”, sự biến đổi ngôn
ngữ văn học liên quan chặt chẽ đến sự biến đổi của tư duy văn học. Ngôn ngữ văn
xuôi của văn học sau 1975 có những bước thay đổi đáng kể, trở nên dân chủ, cởi
mở hơn. Trong đó các nhà văn có cá tính đều có ý thức là nghệ sĩ ngôn từ. Các từ
ngữ bắt đầu bớt đi vẻ trang trọng, ít du dương, ít rào đón như giai đoạn trước, nó
được giải phóng khỏi sự phân biệt sang với hèn. Đặc biệt lớp ngôn từ hiện thực đời
thường, đậm chất khẩu ngữ được gia tăng tốc độ và lượng thông tin, có khả năng trở
tải hiệu quả sự vận động mãnh liệt, xô bồ của cuộc sống xã hội đã tràn vào văn xuôi.
Do đó ba mươi năm qua, nhìn lại ngôn ngữ của truyện ngắn nói riêng, văn xuôi nói
chung đã hiện diện qua “các cuộc thí nghiệm”, “cùng với thời gian và độ chín của tài
năng, ngôn ngữ của truyện ngắn đã và đang đạt đến độ ngưng kết mới”.
Có thể nói rằng, quá trình đổi mới của văn học trong hơn hai mươi năm qua
chưa phải là dài song nó đã khẳng định sự thay đổi khá toàn diện và sâu sắc của văn
học sau 1975. Trong đó văn xuôi Việt Nam nói chung, truyện ngắn Việt Nam nói
riêng đang biến đổi rõ nét và đạt được nhiều thành tựu nhất định “Đời sống văn học
đang có những chuyển biến mới mang nhiều hứa hẹn và đồng thời cũng đang nảy
lên những vấn đề mới”, “sáng tác văn học trở nên năng động, hấp dẫn, tạo nên một
không khí sôi động thu hút được sự quan tâm rộng rãi của xã hội” (Báo cáo của
Ban Chấp hành Hội nhà văn tại Đại hội lần thứ VI). Những tên tuổi sáng giá thời kì
này là Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị
Hảo, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ, Sương Nguyệt Minh, Phạm
Duy Nghĩa, Y Ban…Những trang viết của họ đã góp phần không nhỏ vào việc thúc
đẩy sự đổi mới và phát triển của truyện ngắn Việt Nam đương đại.
1.2. Truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh trong sự vận động của truyện ngắn Việt
Nam sau 1975
1.2.1. Truyện ngắn Sương Nguyệt Minh trên hành trình sáng tạo của nhà văn
Sương Nguyệt Minh sinh ra trong một gia đình Nho học ở làng cổ Côi Trì
thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Ông nội làm chánh hội, giỏi chữ Nho, biết cả
Footer Page 25 of 123.