Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Luận giải quan điểm đại hội XII của Đảng về phát huy nhân tố con người trông sự nghiệp XD và BVTQ trong tình hình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.06 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xuyên suốt chiều dài lịch sử nhân loại con người luôn được đặt ở vị trí
tring tâm và có vai trò quyết định đến sự tồn vong và phát triển của xã hội. Con
người được xem là chủ thể lịch sử xã hội, là người sáng tạo ra lịch sử. Vì vậy
con người phải được tôn trọng, được sống tự do, hạnh phúc và phát triển toàn
diện. Song ngày nay, con người vẫn đang trong tình trạng bất công, đòi hỏi xã
hội phải quan tâm đến sự phát triển toàn diện của con người.
Con người là mục tiêu cơ bản của sự phát triển xã hội. Để đảm bảo cho xã
hội phát triển vấn đề xây dựng con người giữ một vai trò hết sức quan trọng và
luôn thường trực. Đặc biệt là quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng
hiện nay, vai trò của con người ngày càng khẳng định rõ nét.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt
Nam là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, xây dựng
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, được phát triển toàn diện.
Trong tình hình cách mạng hiện nay, cùng với quá trình đổi mới, hội nhập
quốc tế và phát triển sâu rộng, nó đã mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội phát triển
kinh tế, xã hội để xây dựng tiền đề vật chất cho xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, quá
trình hội nhập đó nó cũng đặt ra cho đất nước nhiều nguy cơ và thách thức lớn,
một trong những thách thức đó có vấn đề tụt hậu về kinh tế và chệch hướng xã
hội chủ nghĩa; sự suy thoái về phẩm chất đạo đức, xa rời thuần phong mỹ tục,
truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam. Để khắc phục những nguy cơ đó
thì vấn đề xây dựng con người, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây
dựng và bảo Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là yếu tố tiên quyết, là vấn đề có ý nghĩa
sống còn để chúng ta vượt qua khó khăn, thách thức xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
1


Nghiên cứu chủ đề con người và phát huy nhân tố con người trong sự


nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều công
trình khoa học. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào tiếp cận dưới góc
độ vận dụng lý luận về con người trong triết học Mác – Lênin để luận giải quan
điểm Đại hội XII của Đảng ta về phát huy nhân tố con người trong tình hình
mới. Chính vì vậy, bằng nhận thức thông qua nghiên cứu chủ nghĩa duy vật lịch
sử, bản thân mạnh dạn chọn chủ đề của tiểu luận là: “Luận giải quan điểm Đại
hội XII của Đảng về phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay ”.

NỘI DUNG
2


I. LÝ LUẬN VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN, TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Lý luận về còn người của triết học Mác - Lênin
Những vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử triết
học nhân loại. Đó là những vấn đề: Con người là gì? Bản tính, bản chất con
người? Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con người có thể làm gì để giải
phóng mình, đạt tới tự do?.... Đây cũng chính là nội dung cơ bản của nhân sinh
quan – một nội dung cấu thành thế giới quan triết học.
Tuỳ theo điều kiện lịch sử của mỗi thời đại mà nổi trội lên vấn đề này hay
vấn đề kia. Đồng thời, tuỳ theo giác độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái
triết học, các nhà triết học trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau
trong việc lý giải về con người. Mặt khác trong khi giải quyết những vấn đề trên,
mỗi nhà triết học, mỗi trường phái triết học có thể lại đứng trên lập trường thế
giới quan, phương pháp luận khác nhau: Duy vật hoặc duy tâm, biện chứng hoặc
siêu hình...
Khi quan niệm về con người các nhà triết học phương Đông đã có những

quan niệm khác nhau. Phật giáo cho rằng con người được cấu tạo nên tư danh và
sắc còn nho giáo cho rằng muôn vật do trời đất sinh ra và con người cũng vậy,
trời đất sinh ra con người.
Triết học phương Tây có nhiều điểm khác với nền triết học phương Đông.
Nhìn chung, các nhà triết học theo lập trường triết học duy vật đã lựa chọn giác
độ khoa học tự nhiên để lý giải về bản chất con người và các vấn đề khác có liên
quan. Ngay từ thời Cổ đại, các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về
bản chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong
giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất. Tiêu biểu là
quan niệm của Đêmôcrit về bản tính vật chất nguyên tử cấu tạo nên thể xác và
linh hồn của con người. Đây cũng là tiền đề phương pháp luận của quan điểm
nhân sinh theo đường lối Êpiquya... Những quan niệm duy vật như vậy đã được
3


tiếp tục phát triển trong nền triết học thời Phục hưng và Cận đại mà tiêu biểu là
các nhà duy vật nước Anh và Pháp thế kỷ XVIII; nó cũng là một trong những
tiền đề lý luận cho chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Trong một phạm
vi nhất định, đó cũng là một trong những tiền đề lý luận của quan niệm duy vật
về con người trong triết học Mác.
Đối lập với các nhà triết học duy vật, các nhà triết học duy tâm trong lịch
sử triết học phương Tây lại chú trọng giác độ hoạt động lý tính của con người.
Tiêu biểu cho giác độ tiếp cận này là quan điểm của Platôn thời Cổ đại Hy Lạp,
Đêcáctơ trong nền triết học Pháp thời Cận đại và Hêghen trong nền triết học Cổ
điển Đức. Do không đứng trên lập trường duy vật, các nhà triết học này đã lý
giải bản chất lý tính của con người từ giác độ siêu tự nhiên. Với Platôn, đó là
bản chất bất tử của linh hồn thuộc thế giới ý niệm tuyệt đối, với Đêcáctơ, đó là
bản tính phi kinh nghiệm (apriori) của lý tính, còn đối với Hêghen, thì đó chính
là bản chất lý tính tuyệt đối...
Trong nền triết học phương Tây hiện đại, nhiều trào lưu triết học vẫn coi

những vấn đề triết học về con người là vấn đề trung tâm của những suy tư triết
học mà tiêu biểu là chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Phơrớt.
Nhìn chung, các quan điểm triết học trước Mác và ngoài mácxít còn có một
hạn chế cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết
học về con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm
trừu tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải
nhân sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con
người. Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật
biện chứng của triết học Mác-Lênin về con người.
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, con người là thực thể thống
nhất giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội, là thực thể sinh vật – xã hội
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên.
Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính
4


sinh học, tính loài của nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên
quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là "thân thể
vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá
trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố
duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con
người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có
những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là
động vật sử dụng công cụ lao động, là "một động vật có tính xã hội", hoặc con
người động vật có tư duy... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn
mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu
lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể,
trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra

của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn
giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng
sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy
định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián
tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình"1.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến
giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản
xuất ra toàn bộ giới tự nhiên"2.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt
động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người.
1

Mác và Ăngghen, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 t.20 tr 146

2

Mác và Ăngghen, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994 t.20 tr 637
5


Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất
và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư
duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành
bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong
cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau,
nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự
phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến

dị, tiến hóa... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy
luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người
như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã
hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh
trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ
sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu
cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản
xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa
mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong
mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con
người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật.
Nhu cầu sinh học phải được "nhân hóa" để mang giá trị văn minh con người, và
đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học.
Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người
viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi
tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không phải
6


là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"3.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống
trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều
kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá
trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ
trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại;

quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới
bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là
phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự
nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những
nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng
đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể
của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa
cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái
học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản
thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục" 4. Trong tác phẩm Biện
chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: "Thú vật cũng có một lịch sử,
chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng
3

Mác và Ăngghen, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995 t.3 tr 11

4

Mác và Ăngghen, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 t.40 tr 17-18
7


cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng
làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì
điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng.

Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao
nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức
bấy nhiêu"5.
Cùng với quan điểm về con người và bản chất con người , Mác còn đưa ra
lý luận về giải phóng con người, khi Mác – Ăngghen cho rằng “Giải phóng con
người là giải phóng lao động thoát khỏi lao động bị tha hóa” vì “Bất kỳ sự giải
phóng nào cũng bao hàm ở chổ nó trả thế giới con người về với bản thân nó”.
Lao động bị tha hóa làm cho chính con người đánh mất mình trong hoạt động
người nhưng tìm thấy mình trong hoạt động vật; lao động bị tha hóa không phải
thỏa mãn nhu cầu mà chí để duy trì sự sinh tồn thể xác và mang tính cưỡng bức,
họ chỉ thấy tự do khi thỏa mãn ăn uống, sinh con đẻ cái. Chính vì vậy khi thực
hiện chức năng con người , con người thấy mất tự do, thấy mình như con vật.
Nguyên nhân của lao động tha hóa đó chính là chếc độ tư hữu về tư liệu sản xuất
làm cho người lao động trở thành vô sản, họ tự nguyện chịu cảnh cưỡng bức trở
thành người làm thuê, từ đó làm cho lao động bị tha hóa diễn ra.
Đồng thời quá trình chỉ ra sự tha hóa lao động và nguyên nhân của sự tha
hóa, Mác – Ăngghen đã chỉ ra phương thức và lực lượng thực hiện giải phóng
con người. Phương thức đó là xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất căn nguyên sâu xa của chế độ người bóc lột người; lực lượng để thực hiện
sứ mệnh lịch sử đó chính là giai cấp vô sản.
2. Quan niệm về con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Mặc dù Hồ Chí Minh không đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về con
người, nhưng trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng,
Người đã đưa ra một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về con
5

Mác và Ăngghen, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.21 tr 11-12
8



người. Quan niệm về con người của Hồ Chí Minh có thể khái quát lại như sau:
Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội; con
người chủ thể của các mối quan hệ xã hội - lịch sử, là chủ thể sáng tạo và hưởng
thụ các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người là một thực thể mang tính xã hội.
Tính xã hội đó được hình thành trong tổng hoà các quan hệ xã hội với nhiều cấp
độ khác nhau. Người viết: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng,
bầu bạn, nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người” 6 Con người
trong quan niệm của Người vừa là mỗi thành viên cụ thể, vừa là những cộng
đồng người trong xã hội. Trong cộng đồng con người Việt Nam, rõ ràng quan
hệ gia đình, anh em, họ hàng là rất quan trọng. Hơn nữa, nét độc đáo trong cộng
đồng người Việt Nam là quan hệ "đồng bào"; cộng đồng đó có cùng một nguồn
gốc "con Rồng, cháu Tiên". Điều đó cắt nghĩa vì sao Hồ Chí Minh rất coi trọng
sức mạnh cộng đồng người Việt Nam, tìm mọi cách để bồi dưỡng và phát huy
sức mạnh đó trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Đó là một
trong những cơ sở lý luận, thực tiễn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã dựa vào đó
để đề ra chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam và trong thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay.
Khi nghiên cứu nguồn gốc, bản chất con người, triết học Mác - Lênin đặt
con người trong lịch sử sản xuất vật chất để xem xét và từ quan điểm duy vật
lịch sử đã khẳng định, lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành và
phát triển của con người, làm biến đổi điều kiện tồn tại tự nhiên của con người,
biến đổi bản chất tự nhiên của con người, đồng thời hình thành nên và phát triển
bản chất xã hội của con người. Nhờ lao động mà con người khẳng định mình là
chủ thể sáng tạo mọi giá trị vật chất, tinh thần. Lao động sáng tạo là giá trị nhân
văn, giá trị cao nhất của con người. Tiếp thu quan điểm đó của chủ nghĩa Mác Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng, con người trước hết là người lao động, là nhân
6

Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.644.
9



dân lao động. Ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đề cập đến công nhân, nông dân, trí
thức, bộ đội,... và coi họ chính là chủ thể sáng tạo xã hội mới.
Chính vì xem xét con người trong sản xuất vật chất, nhìn thấy bản chất
sáng tạo, vai trò chủ thể lịch sử và giá trị chân chính của con người mà Hồ Chí
Minh cho rằng, "trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân". Người dạy cán
bộ phải biết ơn những người dân lao động bình thường, vì cơm chúng ta ăn, áo
chúng ta mặc, phương tiện chúng ta sử dụng là do công sức lao động của nhân
dân sáng tạo ra.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân lao động với tư cách là chủ thể sáng
tạo lịch sử xã hội là một trong những cơ sở lý luận để Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với đặc trưng cơ bản hàng đầu là
"một xã hội do nhân dân lao động làm chủ". Trong hoạch định đường lối, chính
sách, Đảng và Nhà nước đã luôn xuất phát từ lợi ích của nhân dân lao động. Mọi
chủ trương, chính sách nếu không còn phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của
nhân dân đều được Đảng và Nhà nước ta bổ sung, sửa đổi hoặc bãi bỏ.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự thống nhất giữa con
người cá nhân và con người xã hội. Con người vừa là một chỉnh thể đơn nhất
mang những phẩm chất riêng, vừa là một thực thể xã hội mang những phẩm chất
của một hệ thống các quan hệ xã hội trong sự thống nhất biện chứng giữa cái
chung với cái đặc thù và cái riêng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định
chủ nghĩa xã hội không hề phủ nhận cá nhân, chà đạp lên lợi ích cá nhân, mà
ngược lại, hơn hẳn bất kỳ một chế độ xã hội nào trong lịch sử, chủ nghĩa xã hội
luôn tôn trọng lợi ích cá nhân, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển tự do và
toàn diện của cá nhân.
Trong khi luôn nhấn mạnh và coi trọng con người tập thể, con người xã
hội, Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến con người cá nhân. Không chỉ trong tư
tưởng, lý luận, mà cả trong hoạt động thực tiễn, Người thường quan tâm đến
mỗi con người cụ thể. Người sâu sát, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, chia sẻ niềm

10


vui và thấu hiểu nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp nhân dân từ nông dân, công
nhân, bộ đội, phụ nữ, thanh niên đến các cụ phụ lão, các cháu nhi đồng. Trong
chỉ đạo thực tiễn, Hồ Chí Minh không chỉ động viên, phát huy tinh thần tập thể,
chủ nghĩa anh hùng cách mạng, mà còn biết khơi dậy những phẩm chất tốt đẹp
trong mỗi con người cụ thể, làm cho những đức tính tốt đẹp đó "nảy nở như hoa
mùa xuân".
Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người cá nhân và con người
xã hội, Hồ Chí Minh quan tâm giải quyết mối quan hệ lợi ích. Người đã biết kết
hợp hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích vật
chất và lợi ích tinh thần... tạo nên động lực nhằm tích cực hoá nhân tố con
người. Lấy tư tưởng này của Người làm cơ sở nền tảng, trong quá trình đổi mới
đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn quan tâm đến các chính sách xã hội
vì lợi ích con người. Đây cũng chính là một cơ sở khoa học để trong thời kỳ mới
của cách mạng, Đảng coi trọng việc tập hợp, tổ chức, đoàn kết rộng rãi mọi tầng
lớp nhân dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất, tạo sức mạnh tổng hợp để đẩy
nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa con người
giai cấp, dân tộc và nhân loại. Khi đề cập đến con người, Hồ Chí Minh không
chỉ đề cập đến "người phương Đông", "người châu Á", "người châu Âu"..., mà
còn đề cập một cách cụ thể hơn "người da vàng", "người da trắng", "người da
đen", "người Đông Dương", "người Pháp", "người Việt Nam", v.v.. Như vậy,
với Người, con người bao giờ cũng thuộc về một dân tộc, chủng tộc, sắc tộc,
thuộc về một quốc gia nhất định. Hồ Chí Minh khẳng định mọi người dù khác
nhau như thế nào thì vẫn có điểm chung là sinh ra phải được tự do, bình đẳng và
mưu cầu hạnh phúc. Bên cạnh việc nói đến con người dân tộc, Người còn đặc
biệt chú ý đến con người giai cấp. Hồ Chí Minh thường nói "người bị áp bức",
"người bị bóc lột", "tên tư sản", "nhà độc tài", "công nhân", "nông dân", "thợ

thuyền", v.v.. Người khẳng định trên thế giới này chỉ có hai giống người: giống
11


người bóc lột và giống người lao động và luôn nhấn mạnh tình hữu ái giai cấp.
Chính vì vậy, khi tham gia sáng lập tờ báo "Người cùng khổ", Người đã tự đặt
mình về phía các giai cấp lao động đang nói lên tiếng nói phản đối áp bức, bóc
lột, đấu tranh để giải phóng con người khỏi mọi sự tha hoá. Đối với Hồ Chí
Minh, một nhà tư tưởng mác xít chân chính, đấu tranh giai cấp là phương tiện
để giải phóng con người. Hồ Chí Minh không hề tuyệt đối hoá đấu tranh giai
cấp, mà tuỳ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để có thể đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi
ích giai cấp. Người phê phán những ai áp dụng quan điểm giai cấp một cách
giáo điều, máy móc vào điều kiện Việt Nam, nhưng Người rất coi trọng đấu
tranh giai cấp. Ngay từ đầu, Người đã xác định cách mạng Việt Nam phải đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa và lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng. Đó chính là mục tiêu và hệ tư tưởng mang tính giai cấp của giai cấp công
nhân. Đối với Hồ Chí Minh, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột,
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa - một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh... luôn là mục tiêu cao nhất, xuyên suốt, trở thành hoài
bão phấn đấu suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
Sự nghiệp cách mạng Việt Nam mà Hồ Chí Minh phấn đấu hy sinh là giành
độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng của nhân dân thế giới. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn mục tiêu giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và nhân loại.
Ngay cả lúc Hồ Chí Minh nhấn mạnh sức mạnh dân tộc, coi "chủ nghĩa dân
tộc" là một động lực lớn thì Người vẫn không hề coi nhẹ vấn đề giai cấp. Cần
phải hiểu một cách đầy đủ, có hệ thống và sâu sắc tư tưởng của Người về mối
quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại. Chính là xuất phát từ quan điểm coi
cách mạng Việt Nam là một bộ phận không tách rời của cách mạng thế giới và
luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tức là kết hợp sức

mạnh giai cấp - dân tộc - thời đại, mà Hồ Chí Minh đã cùng Đảng Cộng sản Việt
Nam đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
12


Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất con người và vấn đề phát huy vai trò
nhân tố con người là cơ sở khoa học cho đường lối, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người và phát huy
nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng.
Trên lập trường của chủ nghĩa Mác- Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và vai trò của nhân tố con người, Đảng ta đã xây dựng một hệ thống
quan điểm về phát huy nhân tố con người qua các thời kỳ. Trong văn kiện Đại
hội lần thứ XI, quan điểm chỉ đạo chung của Đảng về xây dựng con người đã
được tiếp thu và phát triển đầy đủ hơn, phù hợp với yêu cầu của cách mạng và
thời đại đó: “Chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý
thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có trí thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống
có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính.
Đây là vấn đề trọng tâm của sự phát triển đất nước và cũng là chiến lược
lâu dài xây dựng con người mới ở Việt Nam. Đó là những con người có tinh
thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, trung thành vô hạn với Tổ quốc, nhân dân,
với Đảng; có đạo đức trong sáng, lành mạnh, có lòng nhân ái bao dung, hiếu
thảo, khiêm tốn, trung thực, giản dị, đoàn kết cộng đồng, dễ thích nghi, dũng
cảm, mưu trí sáng tạo, yêu lao động, có ý thức tổ chức kỷ luật; ham học hỏi,cầu
tiến bộ, có năng lực chuyên môn tốt, có tri thức hiện đại; có đời sống văn hóa- tư
tưởng lành mạnh và phong phú. Tầm quan trọng của nhân tố con người được thể
hiện rõ ở Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 tại Hội nghị Trung ương 9
khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước” vai trò của nhân tố con người tiếp tục được
Đảng ta quan tâm nhấn mạnh với mục tiêu lớn lao “Xây dựng nền văn hóa và

con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng
13


bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”7.
II. LUẬN GIẢI QUAN ĐIỂM ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT HUY
NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC HIỆN NAY

1. Quan điểm Đại hội XII của Đảng về phát huy nhân tố con người
trong tình hình mới.
* Thực trạng vấn đề xây dựng và phát triển con người theo đánh giá
của Đảng ta trong văn kiện Đại hội XII
Sự nghiệp xây dựng và phát triển con người đã được Đảng, Nhà nước quan
tâm trong các chính sách kinh tế - xã hội từ Trung ương đến địa phương. Thực
hiện nhiệm vụ xây dựng con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế có bước chuyển biến quan trọng. Gắn xây dựng con
người với với nhiệm vụ xây dựng phát triển đất nước; gắn xây dựng con người
với xây dựng mội trường văn hoá, bước đầu hình thành những giá trị mới về con
người với các phẩm chất và trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ
động, sáng tạo có khát vọng vươn lên.
Tuy nhiên, việc xây dựng con người vẫn còn những hạn chế như đạo đức
lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại; tình trạng suy thoái về chính trị, đạo
đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên . Đời sống văn hóa
tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, lạc hậu… chưa làm tốt chức năng định
hướng dư luận và xây dựng con người.
* Phương hướng, nhiệm vụ:

Trên cơ sở thực trạng mà báo cáo chính trị khóa XI trình Đại hội XII, Đảng
ta đã xác định phương hướng, nhiệm vụ trong xây dựng con người nhiệm kỳ tới
cụ thể như sau:
7

Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 ,Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
14


“Các cấp các, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có hiệu quả
mục tiêu: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học…”
“Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một
mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ
giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân
cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội,
nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về
nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu
sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Khẳng định, tôn vinh cái đúng,
cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu
tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm,
hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa
con người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội,
khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam”8
2. Luận giải quan điểm Đại hội XII của Đảng về phát huy nhân tố con
người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện
nay.

Hội nhập, giao lưu quốc tế một mặt mang lại điều kiện, cơ hội thuận lợi
cho sự phát triển, nhưng cũng khiến con người Việt Nam phải đối diện với
không ít khó khăn, thách thức. Đó là:
Thứ nhất, sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả những cán bộ giữ vị trí cấp cao trong bộ
máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đến thanh thiếu niên và người dân lao động.
Tệ nạn tham nhũng, chạy chức chạy quyền diễn biến phức tạp, ngày càng tinh
8

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII – Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, Tr126 - 127
15


vi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng và sự trong sạch, nghiêm minh
của bộ máy công quyền. Đây là một trong những nguy cơ mà trong nhiều văn
kiện, chỉ thị, nghị quyết Đảng ta đã đề cập, cảnh báo.
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, “Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI)
năm 2014 của Việt Nam đạt 31/100 điểm, đứng thứ 119 trên bảng xếp hạng toàn
cầu (175 quốc gia) và thứ 18 trên tổng số 28 quốc gia và vùng lãnh thổ được
đánh giá trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Một điều đáng chú ý là
điểm số CPI của Việt Nam không thay đổi trong 3 năm liên tiếp (2012- 2014) và
tham nhũng trong khu vực công vẫn là một vấn đề nghiêm trọng của quốc gia”.
Những năm gần đây đã khởi tố, điều tra nhiều vụ án tham nhũng làm thất thoát
tiền của của Nhà nước.
Tệ nạn xã hội ở tầng lớp thanh thiếu niên có chiều hướng gia tăng. Theo số
liệu của Cục Phòng chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao động, thương binh và xã hội),
số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý là 204.377 người tính đến tháng 92014. Tỷ lệ người nghiện ma túy không ngừng tăng qua các năm, đặc biệt là các
tỉnh thành phía Nam, như Bà Rịa - Vũng Tàu, Đà Nẵng... trong 20 năm từ 19942014 đã có 583.900 lượt người được cai nghiện. Trung bình mỗi năm cai nghiện
cho 29.000 người, tương đương với 26% số người nghiện có hồ sơ quản lý trung
bình hàng năm”. Bên cạnh đó, những vụ án giết người hàng loạt xảy ra ở trẻ vị

thành niên, thanh niên với mức độ và tính chất đặc biệt nghiêm trọng đã dấy lên
hồi chuông cảnh báo về sự “tha hóa nhân cách” con người.
Đây là một hiện tượng nhức nhối trong xã hội, có nhiều nguyên nhân: sự
buông lỏng quản lý, giáo dục của gia đình, xã hội; sự thực thi pháp luật thiếu
nghiêm minh; sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân,…
Thứ hai, sự đứt gãy hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa giữa các thế hệ. Đây là
một hạn chế trong công tác chăm lo, phát triển con người mà Đại hội XII cho
rằng một trong những nguyên nhân là “tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu
dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến
16


đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ”, “Một số cơ quan
truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích, chưa làm
tốt chức năng định hướng dư luận và xây dựng con người”9.
Trong thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin, sự phát triển nhanh như vũ bão
của internet, mạng xã hội; báo điện tử; kênh truyền hình giải trí… mang lại
những thông tin bổ ích, tạo điều kiện cho con người tiếp cận thông tin thuận tiện
dễ dàng; khả năng chia sẻ, kết nối cao… Bên cạnh đó cũng để lại nhiều hệ lụy
như: nạn nghiện game online; sự gia tăng ngôn ngữ tiếng lóng, ngôn từ ký hiệu
làm méo mó và mất đi sự trong sáng của tiếng Việt; nhiều bạn trẻ lệ thuộc vào
không gian ảo đã đánh mất đi những giá trị thực... khiến mỗi cá nhân là một
không gian kép kín thiếu sự gắn kết, chia sẻ giữa các thành viên, thiếu sự quan
tâm đến các vấn đề xã hội và làm giảm trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng.
Hiện tượng sống thử trước hôn nhân; nạn nạo phá thai tuổi vị thành niên,
tình trạng ly hôn trong các gia đình trẻ gia tăng. Những rạn nứt trong cung cách
ứng xử, lối sống giữa các thế hệ trong cùng một gia đình diễn biến phức tạp,
nhiều mâu thuẫn khó có thể điều hòa. Bạo hành gia đình giữa vợ - chồng, cha
mẹ - con cái; tranh giành tài sản đất đai… tạo ra những rào cản, xung đột ngầm
giữa các thế hệ trong bối cảnh chuyển đổi, tìm kiếm và thiết lập những mô hình

gia đình phù hợp.
Thứ ba, sự trỗi dậy của những thói quen xấu. Đi lên CNXH từ một nước
nông nghiệp lậc hậu, từng là thuộc địa của thực dân, đế quốc, con người Việt
Nam bên cạnh những đức tính, phẩm chất tốt vẫn còn nhiều thói quen xấu: chủ
nghĩa cơ hội, bè phái; hám danh; thiếu ý thức tuân thủ pháp luật; lãng phí; khả
năng làm việc tập thể chưa cao… Con người là chủ thể sáng tạo ra văn hóa và
văn hóa làm cho con người trở nên Người hơn, nhưng thực tế trong những năm
qua, việc tạo dựng môi trường văn hóa chưa được quan tâm đúng mức khiến cho
việc giáo dục, hình thành những giá trị nhân cách tốt đẹp trong con người chưa
hiệu quả. Con người vẫn phải sống trong những môi trường thiếu lành mạnh,
9

Nguồn: />17


trong sạch, bị những sản phẩm, hiện tượng phi văn hóa cám dỗ. Điều này đã
được Văn kiện Đại hội XII thẳng thắn nhìn nhận: “Đời sống văn hóa tinh thần ở
nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền
núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút
ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại
lai, trái với thuần phong mỹ tục”10.
Để tạo dựng hình ảnh Việt Nam với tình hình chính trị ổn định; con người
thân thiện, lịch sự, mến khách; có bề dày truyền thống lịch sử - văn hóa lâu
đời… thì việc quan tâm chăm lo xây dựng những con người mới - những chủ
nhân của đất nước phải được tiến hành đồng bộ với chương trình, mục tiêu cụ
thể, lâu dài, bảo đảm cho sự phát triển bền vững.
Để phát huy những điểm mạnh, những nhân tố tích cực, đồng thời hạn chế,
khắc phục những yếu kém của con người Việt Nam, dưới quan điểm của Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng, cần thực hiện tốt một số giải pháp căn bản là:
Thứ nhất, về xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống.Chăm lo xây dựng con

người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước,
lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ
về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu
sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Xây dựng con người có thế giới
quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức
với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nâng
cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và
xã hội học tập. Mặt khác, cần đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con
người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Xây dựng và phát huy
lối sống "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người"; hình thành lối sống
có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ
10

Văn kiện Hội nghị lần thứ chín, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 2014, tr.12
18


môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao
trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Mặt khác, cần khẳng
định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị
cao đẹp, nhân văn.
Thứ hai, chú trọng tăng cường các biện pháp “miễn dịch” với văn hóa xấu
độc, cần làm tốt những nhiệm vụ cụ thể như: Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái
xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh
hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp ngăn
chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế
của con người Việt Nam. Đồng thời, phải quan tâm xây dựng môi trường văn

hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế. Xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa
lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng
làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia
đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống.
Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống
tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng mỗi
trường học thật sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người. Xây
dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ
hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa". Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa
thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội. Phát huy
các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng.
Thứ ba, bồi dưỡng, giáo dục những giá trị nhân văn cho con người, thông
qua việc tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ
cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm
quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng đồng.
19


Thứ tư, nâng cao thể lực, sức khỏe, tuổi thọ cho con người, gắn với việc
giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng phát triển con người là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành
công CNXH ở Việt Nam. Bởi “muốn xây dựng CNXH thì trước hết phải có
những con người xã hội chủ nghĩa” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn. Vì
thế, việc xây dựng, hình thành nên những người Việt Nam có phẩm chất, năng
lực, “vừa hồng vừa chuyên” là nhiệm vụ trọng tâm trong các chương trình, kế
hoạch của các cấp, các ngành.
3. Trách nhiệm của quân đội trong quá trình thực hiện quan điểm của

Đảng về xây dựng con người mới Việt Nam.
Trong suốt quá trình xây dựng chiến đấu và trưởng thành, Quân đội ta luôn
là lực lượng trung thành và tin cậy của Đảng và Nhà nước ta, luôn luôn chiến
đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội
chủ nghĩa và nhân dân, quân đội ta luôn đi đầu trong mọi nhiệm vụ. Trong quá
trình xây dựng con người mới Việt Nam đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, lực lượng quân đội chính là đại diện tiêu
biểu nhất cho xã hội về một thế hệ con người Việt Nam. Chính vì thế, Quân đội
phải quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, nhất là quan
điểm về chiến lược xây dựng và phát triển con người Việt Nam trong tình hình
mới. Cụ thể hóa thành các chủ trương, biện pháp cụ thể trong xây dựng nhân
cách người quân nhân cách mạng, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; tạo môi trường
văn hóa lành mạnh cho quân nhân trong đơn vị học tập, rèn luyện. Thường
xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng, xây dựng phẩm
chất cho quân nhân, chú trong bồi dưỡng toàn diện cả phẩm chất, trình độ, năng
lực, kiến thức, nhất là thường xuyên tiếp cận tri thức của nhân loại để trang bị tri
thức cần thiết cho quân nhân. Cùng với đó phải đẩy mạnh học tập và làm theo
tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tích cực đấu tranh với mọi âm
20


mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch nhằm vào sự nghiệp đổi mới
đất nước của Đảng, Nhà nước, và nhân dân ta đang tiến hành, đấu tranh với tư
tưởng, hành động sai trái, những tệ nạn xã hội, xây dựng môi trường quân đội
trở thành hình mẫu cho mọi người học tập và làm theo.
Là người học viên sau đại học – “con người chất lượng cao” của xã hội,
chính vì vậy, trong quá trình học tập, rèn luyện và hoạt động nghiên cứu khoa
học tại trường củng như sau khi ra công tác tại các đơn vị trong toàn quân,
những học viên cao học phải là những hình mẫu lý tưởng về con người mới
Việt Nam. Biết vận dụng những tri thức, kinh nghiệm trong quá trình học tập và

thực tiễn của đơn vị để bồi dưỡng, giáo dục phẩm chất, nhân cách người quân
nhân cách mạng tại đơn vị. Tích cực trong hoạt động nghiên cứu khoa học, nhất
là biết vận dụng lý luận triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm, chính sách của Đảng, kinh nghiệm thực tiễn, tạo ra bước đột phá,
có nhiều biện pháp đúng, cách làm hay trong xây dựng phẩm chất nhân cách
người quân nhân nói chung và xây dựng phẩm chất, trình độ năng lực của người
cán bộ quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, xây dựng quân
đội nhân dân Việt Nam ngày càng vững mạnh, sẵn sàng chiến thắng mọi kẻ thù
xâm lược.

21


KẾT LUẬN

Tóm lại, quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và phát huy nhân
tố con người là toàn diện, phong phú và sâu sắc. Toàn bộ mục đích cao nhất và
bao trùm nhất của chủ nghĩa Mác – Lênin là giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc, và giải phóng con người. Tư tưởng về con người và phát huy nhân tố con
người đã được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển lên
một tầm cao mới phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Quan điểm triết
học Mác - Lênin vì con người và phát huy nhân tố con người có ý nghĩa khoa
học và cách mạng to lớn trong sự nghiệp đổi mới đất nước và trong xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, xây dựng và phát huy
nhân tố con người là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, là
điều kiện tiên quyết, là nhân tố quyết định cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

22



TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Mác và Ăngghen, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994
2. Mác và Ăngghen, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
3. Mác và Ăngghen, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
4. Mác và Ăngghen, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
5. Mác và Ăngghen, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
6. Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995
7. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 ,Hội nghị Trung ương 9 khóa
XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước.
8. Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP): Báo cáo phát triển
con người Việt Nam năm 2015, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2016
9. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014.
10. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII – Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội, 2016

23



×