Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Hướng dẫn làm đề cương cơ sở văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.76 KB, 11 trang )

Câu 1: Khài niệm văn hóa, văn minh, văn vật, văn hiến. Lấy ví dụ?
Câu 2: Phân biệt văn hóa và văn minh lấy ví dụ?
Câu 3: - Hãy chứng minh văn hóa Việt Nam là sản phẩm của môi
trường tự nhiên Việt Nam.
- Hãy chứng minh văn hóa Việt Nam vừa mang tính thực vật vừa
mang tính sông nước.
- Hãy chứng minh điều kiện tự nhiên quyết định đời sống văn
hóa thông qua trường hợp của Việt Nam.
Câu 4: Trình bày kết cấu của gia đình Việt Nam?
Câu 5: Hãy trình bày giáo thoa văn hóa: Việt – Hàn, Việt – Pháp, Việt
- Ấn(Cham pa)?
Câu 6: Các thành tố văn hóa? Trình bày hiểu biết của mình về Phật
giáo, Phồn thực, Đạo mẫu?
Bài làm
Câu 1:
- Khái niệm Văn hóa: Văn hóa là tổng thể nói chung các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình
hoạt động thực hiễn trong sự tương tác giữa con người với môi
trường xã hội của mình. VH hiểu theo nghĩa rộng nhất là một
phức thể bao gồm những hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà
con người có được với tư cách là một thành viên trong xã hội.
Ví dụ: văn hóa ẩm thực
- KN Văn minh:
Là trình độ phát triển nhất định của văn hóa về
phương diện vật chất, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời
đại hoặc cả nhân loại.
Ví dụ: nền văn minh tin học, văn minh hậu công nghiệp..
- KN Văn vật:
Là khái niệm hẹp để chỉ những công trình hiện
vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử, khái niệm văn vật cũng thể hiện


sâu sắc tính dân tộc và tính lịch sử.
Ví dụ: Trống đồng Đông Sơn...
- KN Văn hiến:
Văn hiến (hiến = hiền tài) – Văn hiến thiên về
những giá trị tinh thần do những người có tài đức chuyển tải, thể hiện
tính dân tộc, tính lịch sử rõ rệt.
Ví dụ: Văn hiến VN biểu tượng là Văn Miếu.
Câu
2:
Trong
từ
điển
Tiếng
Việt
“ Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”
“Văn minh là trình độ phát triển đạt đến một mức nhất định của xã hội
loài người, có nền văn hoá vật chất và tinh thần với những đặc trưng


riêng

Vậy văn hóa và văn minh giống và khác nhau như thế nào?
Trước hết văn hóa và văn minh giống nhau ở 1 điểm, đó là đều do con
người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử, nhưng khác nhau ở một số
điểm.
- Một là văn hóa là độ dày quá khứ, lịch sử. Văn minh chỉ là một lát
cắt trong lịch sử. Bởi nói đến văn hóa là nói đến năm tháng, nhiều thế
kỉ, thiên nhiên kỉ, nhiều triều đại, trải qua quá trinh tích lũy, sửa đổi bổ
sung chứ không phải chốc lát mà có được. Nhưng văn minh lại thiên

về những phát minh trong tiến trình phát triển của nhân loại, giúp con
người sống tốt hơn, sung sướng hơn, tiện lợi hơn
- Hai, văn hóa gồm cả giá trị vật chất lẫn tinh thần nhưng văn minh
thiên về vật chất, nghiêng sang yếu tố khoa học kỹ thuật nhiều hơn.
- Ba, văn hóa mang tính quốc gia, dân tộc riêng biệt còn văn minh lại
mang tính chất toàn cầu. Văn hóa là đặc trưng cho một dân tộc, một
quốc gia còn văn minh lại đặc trưng cho từng thời kì. Văn minh là
phương tiện, văn hóa thiên về ứng xử. Nói văn minh là phương tiện
bởi văn minh nói đến trình độ phát triển của xã hội loài người, nói đến
những tiến bộ của loài người, nhờ những phát minh, sáng chế mà con
người có thể sống tốt hơn. Văn hóa là ứng xử, không chỉ là giữa con
người với con người mà giữa con người với tự nhiên. Văn hóa không
có tiến bộ hay lạc hậu nhưng văn minh có tiến bộ và ngày càng tiến
bộ.
Câu 3:
. Môi trường tự nhiên tác động đến văn hoá Việt Nam
Có 3 đặc điểm cơ bản của môi trường tự nhiên Việt Nam đã tác động
và ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển nền văn hoá dân
tộc:
- Nước ta nằm ở vị trí địa lý là trung tâm điểm của các trục đường
giao lưu quốc tế. Các nước từ phương Bắc muốn tiến xuống phương
Nam, các nước từ phương Tây sang phương Đông, và ngược lại, đều
đi qua Việt Nam hoặc lấy Việt Nam làm một vị trí trung chuyển đều
rất thuận lợi. Trước đây, nhiều triều đại phong kiến Trung Hoa đã tiến
đánh xâm chiếm Việt Nam, và từ Việt Nam thực hiện ý đồ mở rộng về
phía Nam và Đông Nam á. Từ cuối thế kỷ XVI một số nhà buôn
phương Tây đã đi theo đường biển vào Việt Nam để buôn bán, và từ
Việt Nam, mở rộng buôn bán với các nước khác trong khu vực. Sau
này thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã xâm lược nước ta cũng thực hiện
mưu đồ làm chủ Đông Nam Á... Việt Nam đã trở thành vị trí có ý

nghĩa chiến lược trên bản đồ thế giới. Điều này tạo thuận lợi cho nước


ta có ưu thế giao lưu văn hoá, thương mại, du lịch... Nhưng nó cũng
cắt nghĩa một điều là tại sao Việt Nam trong suốt hàng chục thế kỷ lại
hứng chịu những cơn bão táp ngoại xâm liên tục và khốc liệt đến vậy.
- Nước ta có một hệ sinh thái phồn tạp, nghiêng về phía thực vật, thực
vật ưu trội hơn động vật. Cũng chính vì thế, ngành kinh tế trồng trọt,
nông nghiệp mạnh hơn chăn nuôi. Điều này ảnh hưởng tới việc hình
thành và phát triển của văn hoá Việt Nam rất đậm với những biểu hiện

bản
sau:
+ Việt Nam có một nền văn minh nông nghiệp trồng trọt mà đỉnh cao
là trồng cây lúa nước. Từ đây nó quy định mô hình bữa ăn điển hình
của người Việt là cơm - rau - cá. Hai trong ba thức ăn đó là thực vật.
Cây lúa liên quan rất mật thiết đến văn hoá ẩm thực (các sản phẩm vô
cùng đa dạng làm ra từ hạt gạo, rượu nấu từ gạo...). Cây lúa, hạt gạo
trở thành biểu tượng tinh thần trong tâm thức Việt...
+ Chúng ta có cả một tín ngưỡng thờ cây. Có hai thứ cây quan trọng
nhất được người Việt biến thành cây thiêng liêng: Cây lúa và cây cau.
Xôi, bánh chưng bánh dầy để thờ cúng, cau cũng trở thành đồ thờ
cúng, dẫn cưới... Người dân Bắc bộ có câu: “Thần cây đa, ma cây gạo,
cú cáo cây đề”. Tết Nguyên Đán dân ta có tục hái lộc xuân... Đặc biệt,
ngày Tết mùng Năm tháng Năm được coi là ngày kết tinh tín ngưỡng
thờ cây của người Việt. Vào ngày này, người dân ăn rượu nếp cái, ăn
các thứ hoa quả để “giết sâu bọ”, gọi cây bói quả, hái “lá mùng
Năm”...
+ Cảm quan của con người đối với thiên nhiên đặc biệt gắn bó với cây
cối, hoa cỏ. Người Việt hay ví con người với hoa cỏ, lấy hoa cỏ làm

thước đo để đo vẻ đẹp con người. Ca dao hay ví người phụ nữ với
chẽn lúa đòng đòng, củ ấu gai, cây quế giữa rừng, hoa ngâu, hoa sen...
- Nước ta có một hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt khắp Bắc,
Trung, Nam. Riêng Nam Bộ chẳng hạn, theo GS. Lê Bá Thảo đã có
5.700 km đường kênh rạch. Thêm nữa, lại có trên 3.000 km chiều dài
bờ biển. Đặc điểm sông nước đã để lại dấu ấn rất đậm lên diện mạo
văn hoá Việt Nam. Dưới đây là một vài biểu hiện:
+ Thành phần thứ ba trong cơ cấu bữa ăn điển hình của người Việt là
cá, các loài thuỷ hải sản khác, và các chế phẩm của chúng, tiêu biểu là
nước
mắm.
+ Hình thức cộng cư của người Việt hoặc chọn vị trí gần sông theo
kiểu “Nhất cận thị, nhì cận giang”, hoặc quần tụ trên sông thành các
“vạn chài”. Người Nam Bộ còn có nghề “Thương hồ”- người buôn
bán trên sông nước; hình thức chợ nổi trên sông...
+ Cư dân Bắc và Trung bộ phải thường xuyên đối mặt với nạn lũ lụt.
Ngay từ thời xa xưa, công cuộc chinh phục lũ lụt đã đi vào huyền


thoại “Sơn Tinh Thuỷ Tinh”. Chưa bao giờ các triều đại và người dân
Việt Nam dám coi nhẹ việc đắp đê chống lụt. Công cuộc đắp đê trị
thuỷ

một
kỳ
tích

đại
của
người

Việt.
+ Tín ngưỡng thờ sông nước: Thần sông thần suối, “Đất có thổ công,
sông có Hà Bá”. Nhân dân miền duyên hải còn thờ “cá Ông” như một
con vật thiêng phù trợ cho cuộc sống của những người làm nghề đánh
cá...
+ Từ đặc điểm sông nước này mà nhà học giả Cao Xuân Huy nói tới
“tính thuỷ” trong tính cách người Việt, rộng ra là trong văn hoá Việt.
Ngoài 3 đặc điểm chính trên, có nhà nghiên cứu còn nhắc đến đặc
điểm địa hình của nước ta rất đa dạng bao gồm cả miền núi, đồng
bằng và biển cả, giữa chúng có vùng trung chuyển. Đặc điểm này
khiến cảm thụ về thiên nhiên của người Việt khá phong phú. Trong
các địa hình đó không thể không nhắc đến hang động vùng rừng núi
và cảng vịnh dưới biển. Hệ thống hang động Việt Nam kỳ vĩ, phong
phú trải dài từ Bắc vào Nam, trong đó Phong Nha (Quảng Bình) đã trở
thành Di sản thiên nhiên thế giới. Người Việt đến với hang động
không chỉ để thưởng thức mà con thiêng liêng hoá chúng, biến thành
nơi cầu nguyện, đáp ứng nhu cầu tâm linh. Các cảng vịnh cũng dồi
dào, đa dạng, trải dài từ Móng Cái đến Hà Tiên. Vịnh Hạ Long và Nha
Trang đã mang đẳng cấp quốc tế. Hang động và cảng vịnh thực sự là
những món quà vô giá của tạo hoá ban tặng cho nước Việt chúng ta.
Cũng cần lưu ý, nhìn trên tổng thể thì như vậy, nhưng đi vào mỗi vùng
miền Tổ quốc lại thấy có những điều kiện tự nhiên cụ thể khác nhau,
do đó diện mạo văn hoá ở mỗi vùng cũng có những nét độc đáo khác
biệt. Đến lượt người nghiên cứu văn hoá, trên mẫu số chung đó, phải
chỉ ra được những nét độc đáo khác nhau của mỗi vùng văn hoá.
Câu 4: Kết cấu gia đình việt nam
- Gia đình người việt truyền thống
+ Gia đình thường là gia đình nhỏ hoặc gia đình hạt nhân(gồm bố mẹ
và con trai- gia đình nhỏ)(bố mẹ và con cái chưa trưởng thành – gia
đình hạt nhân).

+ Gia đình hạt nhân của người việt là cơ cấu KT tự cung tự cấptheo
mô hình tiểu nông lúa nước( chồng cầy vợ cấy...)
Trong GĐ người phu nữ đóng vai trò quan trọng trong KT và VH.
+ Mỗi thành viên trong GĐ đều được thừa hưởng một loại di truyền
VH thông qua GD. Truyền thống GĐ góp phần quan trọng trong việc
GD nhân cách 1 đứa trẻ.
- Làng xã Việt Nam (nông thôn Bắc Bộ)


+ làng trong buổi đầu là đơn vị cư ngụ của người nông dân sau đó bị
nhà nước PK biến thành đơn vị hành chính để thực hiện 3 yêu cầu cơ
bản đó là: Thuế - Phu – Lính cho chính quyền.
+ Nông thôn VN được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau:
A, Tổ chức theo khu vực cư trú:
- Làng: Là nơi định cư theo một khu vực cư trú của cộng đồng người.
- Xóm(ấp): là cộng đồng người nhỏ ơn để hợp thành làng.
+ Làng có nhiều tên gọi: Kẻ, trạng, triềng, Viềng...
+ Làng xóm thường được bao bọc bởi 1 lũy tre xanh hoặc dặng cây(để
phân biệt các làng) dự trên cơ sở công điền và công thổ( ruộng công,
đất công).
B, Tổ chức theo quan hệ huyết thống(GĐ, Dtộc)
- làng do nhiều GĐ nhỏ cấu thành. 1 làng có thể chỉ bao gồm 1 dòng
họ hay nhiều dòng họ. Làng thường có tên của người có công khai
phá.
- Huyết thống: GĐ được tổ chức trên cơ sở GĐ phụ hệ trong mỗi gia
tộc đặc điểm nổi bật là tính tôn ti được phân biệt theo chín hệ. Điều
hành gia ttộc là tộc trưởng, gia đình là gia trưởng mỗi gia tộc có 1 nhà
thờ họ(từ đường). Mỗi một gia tộc có ruộng họ cho tộc trưởng làm để
làm việc thờ cúng. Gia tộc có gia phả để ghi lại truyền thống và phát
triển, làm cơ sở cho việc thờ cúng.

+ Sức mạnh của gia tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc đoàn kết.
+ Mặt trái là tính gia trưởng áp đặt, có sự mâu thuẫn giữa các dòng họ
và sự tư hữu.
- Tổ chức theo truyền thống nam giới(Giáp): là hình thức đặc biệt
dàng riêng cho nam giới, chỉ bao gồm dân chính cư ở trong làng.
Tham gia vào giáp thuộc cha truyền con nối không phân biệt địa vị
giàu sang. Nội bộ giáp được chi làm 3 nhóm: 1Ty ấu(mới sinh – 18t);
2Đinh(tráng. từ 18 - 50); 3lão(từ 50 trở lên). => Giáp là môi trường
tiến thân bằng tuổi tác, uy tín. Giáp phát huy được truyền thống dân
chủ trong nếp sống tạo ra một thế bình đẳng giữa mọi người.
- Tổ chức theo đơn vị hành chính(xã- thôn): trong xã có sự phân biệt
rất rõ ràng, gay gắt giữa dân chính cư và dân ngụ cư. thành phần dân
cư gồm 5 thành phần:
+ Chức sắc: Người có học, đỗ đạt, có phẩm hàm vua ban.
+ Chức dịch: Người đang giữ một chức vụ trong bộ máy hành chính
cơ sở(xã trưởng...)(quan viên làng xã)
+ Lão
+ Đinh
+ Ty ấu
Trung tâm sinh hoạt cộng đồng là đình làng


- Tổ chức theo nghề nghiệp và sở thích(phường, hội)
+ Phường: Một đơn vị liên kết người làm cùng một nghề ở nông
thôn(phường gốm, phường chài..)
+ Hội: Là tổ chức liên kết những người có cùng sở thích, thú vui, đẳng
cấp ở nông thôn(phát triển mạnh ở XHVN sau này)(hội tư văn, hội
văn phả, hội võ phả...)
*** Đặc điểm văn hóa làng Việt Nam:
- Tính cộng đồng: Bản chất mang tính hường ngoại đề cao sự đồng

nhất, Chức năng liên kết các thành viên trong cộng đồng, Biểu tượng
là ngôi đình-giếng nước-ao làng-cây đa.
+ Hệ quả tốt: Tinh thần đoàn kết, tương trợ, tính tập thể hòa đồng, nếp
sống dân chủ bình đẳng.
+ Hệ quả xấu: Thủ tiêu vai trò cá nhân, tạo điều kiện cho dựa dẫm vào
tập thể, có tư tưởng cầu an cả nể(an phận thủ thường), thói cào bằng
đố kỵ(không muốn ai hơn mình).
- Tính tự trị: Bản chất hướng nội, sự khác biệt; Chức năng xác định sự
độc lập của một làng; Biểu tượng lũy tre cổng làng.
+ Hệ quả tốt: Tính tự lập cộng đồng cao, tinh thần cần cù chăm chỉ,
nếp sống tự cấp tự túc.
+ Hậu quả xấu: Sự tư hữu ích kỷ(lo quyền lợi mình trước)(ai có thân
người đó lo), sự bè phái và tính địa phương cục bộ, tính gia trưởng áp
đặt theo thứ bậc.
- Tính lưỡng diễn(2 mặt):
+ Bên cạnh sự phân biệt làng này với làng khác còn có xu hướng liên
kết giao lưu giữa các làng(nhiều làng thờ chung một thánh, tục kết
chạ)
+ Tư duy người Việt: Luôn mang tính nước đôi 2 mặt.
Hãy trình bày giao thoa văn hóa: Việt – Hàn, Việt – Pháp, Việt Ấn(Chămpa)?
• Giao thoa văn hóa Việt- Ấn:
Sau khi lập quốc, người Chăm thoát khỏi ách đô hộ của Trung Hoa,
liên hệ với Trung Hoa cũng hầu như không còn. Thay vào đó, người
Ấn Độ đến ngày một nhiều hơn và, khác với Trung Hoa, họ không
mang theo chiến tranh, vì vậy, nền văn hóa Ấn Độ được người Chăm
vui vẻ tiếp nhận.
Ảnh hưởng của Ấn Độ đối với văn hóa Chăm phát huy mạnh mẽ trong
khoảng từ tk.VII đến hết tk. XV, khi Chămpa chấm dứt sự tồn tại với
tư cách quốc gia của mình. Trong từng ấy thế kỷ, ảnh hưởng này để lại
lớn đến mức nhiều người chỉ nhìn thấy những yếu tố Ấn Độ trong văn

hóa Chăm. Do vậy, nói đến ảnh hưởng của Ấn Độ ở Việt Nam thì


trước hết phải nói đến văn hóa Chăm và khu vực phía Nam vì chỉ có ở
đây, ảnh hưởng đó mới bộc lộ mạnh mẽ và trực tiếp hơn cả.
Từ Ấn Độ, người Chăm đã tiếp thu nhiều tôn giáo: Phật giáo,
Bàlamôn giáo và Hồi giáo. Nhưng ở chính quốc thì từ tk.V, Phật giáo
bị Bàlamôn giáo tấn công và dần dần đi đến tàn lụi, còn Hồi giáo thì
tuy đã có những dấu vết từ tk.X, nhưng phải đến cuối tk.XV mới có
nhiều người Chăm theo. Chính vì vậy mà nói đến ảnh hưởng của Ấn
Độ trong việc hình thành văn hóa Chăm thì Bàlamôn giáo là yếu tố
đóng vai trò quan trọng nhất. Bàlamôn giáo (Brahmanism) là tôn giáo
hình thành trên cơ sở kinh Veda do người Aryen từ phía Tây Bắc đưa
vào. Đạo Bàlamôn tôn thờ BRAHMA (nghĩa là "Đại Hồn"), một ý
niệm trừu tượng của kinh Veda. Brahma là chúa tể các thần, nguồn
gốc của vũ trụ, có quyền năng vô biên. Ngài hiện ở ba ngôi như thể
thống nhất của một bộ ba vị thần tượng trưng cho ba giai đoạn của sự
sống: Brahma (Thần Sáng tạo), Visnu (Thần Bảo tồn) và Siva (Thần
Phá hủy).
Ngôi Brahma sáng tạo ra thế giới, tượng hình 4 mặt mà chỉ có ba
thành hình, 4 tay cầm 4 phần kinh Veda, đầu có vòng hoa và râu rậm;
khi thì cưỡi con thiên nga Hamsa, khi thì ngồi trên một bông sen mọc
từ rốn của Visnu đang nằm trên mình con rắn Naga nổi bồng bềnh trên
đại dương nguyên thủy (nghĩa là Brahma sinh ra từ chính mình).
Ngôi Visnu bảo tồn vũ trụ, 4 tay cầm 4 lệnh bài là cái tù và, cái vòng,
cái búa và cánh hoa sen tượng trưng cho bốn chất tạo nên vũ trụ; ngài
khi thì cưỡi con chim thần Garuđa, khi thì có dạng nửa người nửa
chim, khi thì nằm trên mình con rắn Naga.
Ngôi Siva phá hủy thế gian, mang trong mình chức năng của thần
chết, quyền hạn của thần thời gian, có vô vàn tên dữ tợn như Ugra

(người tàn nhẫn), Rudra, Aghora (người khủng khiếp)..., ngài thường
cưỡi con bò thần Nandin.
Sau khi đạo Phật lụi tàn trên đất Ấn Độ, Bàlamôn giáo được cải biên
thành Ấn Độ giáo (Hinduism). Nguồn ảnh hưởng Ấn Độ, tuy đóng
một vai trò quan trọng trong sự hình thành văn hóa Chăm, nhưng nó
không phải là tất cả. Kế thừa di sản phong phú của văn hóa Sa Huỳnh.
Văn hóa Chăm tất yếu còn là sản phẩm tổng hòa của cả nguồn ảnh
hưởng khu vực và nguồn bản địa.
Đặc trưng điển hình của nguồn bản địa là chất dương tính trong tính
cách Chăm. Người Chăm sống trên giải đất hẹp miền Trung, giữa một
bên là dãy Trường Sơn cao vút và bên kia là biển Đông sâu thẳm. Một
bên cực dương và một bên cực âm. Sự đối chọi đó của thiên nhiên đã
tạo ra những sản vật đặc biệt (như trầm hương, vàng,...); nhưng đồng
thời sự thiếu hài hòa đó của tự nhiên cũng tạo nên một miền khí hậu


khắc nghiệt, bao nhiêu nước mưa rơi xuống núi đều trôi tuột ra biển
cả, khiến cho đất đai miền Trung trở nên hết sức khô cằn. Sống trong
khung cảnh đó, con người phải, một mặt, vật lộn với thiên nhiên và
mặt khác, giành giật với các láng giềng xung quanh. Suốt dải đất miền
Trung còn để lại nhiều dấu tích của những công trình trị thủy mang lại
màu xanh cho cây cối như các hệ thống dẫn nước hình kỉ hà, các đập
nước, hồ chứa nước....; người Chăm đã thuần dưỡng được giống lúa
không cần nhiều nước được gọi là "lúa Chiêm" (Chiêm Thành); người
Chăm vươn ra chiếm lĩnh biển khơi với nghề đánh cá. Trong quá trình
tồn tại của vương quốc mình, người Chăm cũng từng nhiều lần cướp
bóc các buôn, sóc Khmer ở phía Nam, đánh lên vùng Tây Nguyên của
người Thượng, và vùng vẫy tiến ra Bắc, lấn chiếm vùng đất phía nam
Đèo Ngang của Giao Châu (sau này là Đại Việt). Chính cuộc sống
như vậy đã rèn luyện cho người Chăm trong lịch sử một tính cách

cứng rắn và cương nghị, thượng võ và có phần hiếu chiến (dương
tính).
Tuy mang bản chất dương tính, nhưng lại sống trong một vùng Đông
Nam Á nông nghiệp, cho nên người Chăm không thể không hấp thụ
những ảnh hưởng của văn hóa khu vực mà đặc trưng điển hình là thiên
về âm tính trong cố gắng đạt đến sự hài hòa âm dương, với triết lí âm
dương trong nhận thức và tục sùng bái sinh thực khí trong tín ngưỡng.
Văn hóa Chăm bao gồm nhiều lĩnh vực, nhưng trong đó nổi bật nhất là
kiến trúc và điêu khắc. Thành tựu nổi bật của điêu khắc và kiến trúc
Chăm là kiến trúc đền tháp và điêu khắc trên đền tháp. Đền tháp ấy là
đền tháp tôn giáo. Tôn giáo đóng vai trò cực kì quan trọng trong đời
sống người Chăm, nó được vật chất hóa qua điêu khắc và kiến trúc.
*Giao lưu văn hóa việt-hàn: Tình hữu nghị và mối tương đồng văn
hóa trong lịch sử quan hệ nhiều mặt giữa hai dân tộc Việt - Hàn, có lẽ
bắt đầu từ thế kỷ XIII, khi hậu duệ của Lý Long Cán (tức Lý Cao
Tông) là Lý Long Tường trôi dạt vào đất Cao Ly trong thời gian vượt
biên tìm đường lánh nạn. Lý Long Tường đã sớm gia nhập vào cộng
đồng Cao Ly và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng Tổ quốc
thứ hai của mình, nên được triều đình Cao Ly ban tặng tước hiệu
“Bạch mã tướng quân”. Đài vọng quốc hiện còn trụ lại trên đỉnh núi
Hoa Sơn ở Hàn Quốc, mà vua Cao Ly cho xây dựng để dòng họ Lý ở
đây vọng tưởng về cội nguồn tổ tiên, mãi mãi là một biểu tượng cao
cả về sự cảm thông, chia sẻ nỗi niềm cố quốc của những người ly
hương vì loạn lạc. Qua đó, còn thể hiện một kiểu dáng tương đồng văn
hóa của những dân tộc sống chung nhau trong khu vực Đông á vốn
chịu ảnh hưởng một nền văn hóa khổng lồ có xuất xứ từ Trung Hoa cổ


đại. Cũng từ mối tương đồng ấy, văn hóa trong thời cận đại Việt Nam
cũng xuất hiện một hiện tượng tương tự. Đó là trường hợp Mạc Cửu,

một chính khách Trung Hoa, không cắt tóc phục nhà Thanh, đã vượt
biển tìm đường đến miền Tây Nam Bộ của đất nước ta, được chúa
Nguyễn tin dùng và giao cho trọng trách Tổng trấn vùng đất Hà Tiên
vừa khai phá. Tao đàn Chiên Anh Các ra đời từ đây, tập họp sĩ phu và
danh sĩ trong vùng xướng họa thi ca, là do Mạc Thiên Tích - con trai
ông - sáng lập.
Mối tương đồng văn hóa là một yếu tố thúc đẩy tạo nên sự gần gũi và
hiểu biết, cùng hợp tác và phát triển giữa các dân tộc vốn có quan hệ
trong thời đoạn lịch sử nhất định, nhưng lại ảnh hưởng lâu dài khi điều
kiện thuận lợi. Cả Hàn Quốc và Việt Nam xưa kia đều bị đế chế Hán
chia cắt đất nước thành các quận huyện để cai trị, cùng chịu cảnh áp
bức và cưỡng chế văn hóa… tuy mức độ, tính chất và thời gian có
khác nhau. Và cũng như Việt Nam, Hàn Quốc chẳng những không bị
đồng hóa bởi sức mạnh văn hóa ngoại bang, trái lại giương cao tinh
thần tự chủ và bản địa hóa những gì thu nhận được từ cái ưu việt của
văn hóa bên ngoài. Sự gặp gỡ và kính phục lẫn nhau giữa sứ thần triều
Lê là Phùng Khắc Khoan và sứ thần Cao Ly là nhà chiêm tinh học Lý
Toái Quang, khi cả hai cùng triều cống nhà Minh (1579), là một minh
chứng cho ý thức văn hóa dân tộc của mỗi nước.
*Giao lưu văn hóa việt- pháp: -Giao lưu văn hóa Việt – Pháp từ 1858
đến 1954 đây là bước khởi đầu cho sự chuyển đổi cấu trúc của văn
hóa việt nam từ truyền thống sang hiện đại, nền văn minh công nghiệp
phương tây thực sự tác động một cách toàn diện sâu sắc trên mọi lĩnh
vực :
+Đời sống vật chất : nhiều con đường trải nhựa, nhà máy mọc lên , đô
thị phát triển mạnh mang dáng dấp tây phương , công nghiệp khai thác
phát triển, các phương tiện giao thông hiện đại xuất hiện , sự thay đổi
về cấu trúc nhà và trang phục truyền thống ngày càng rõ nét.
+Văn hóa xã hội: đô thị và giao thương buôn bán phát triển làm xuất
hiện giai tầng mới trong xã hội và tồn tại song song hai hình thái kinh

tế. Yếu tố cá nhân được khẳng định.
+Tinh thần : tư tưởng nho giáo bị phân hóa và mất dần vai trò lịch sử ,
thay thế bằng các luồng tư tưởng văn hóa tây phương. Chữ quốc ngữ
thay dần chữ hán nôm trong việc ghi chép. Nhiều hình thức thể loại
văn học và giáo dục của tây phương được tiếp thu một cách chọn lọc
Có thể nói trải qua bước ngoặc lịch sử này bản sắc văn hóa dân tộc
không bị mất đi mà nó đã dung hòa các yếu tố mới của văn hóa ngoại
sinh để làm giàu thêm văn hóa truyền thống trong quá trình hội nhập
với văn hóa nhân loại.


* Giao lưu văn hóa Việt – Hán từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ X. Sự du
nhập với rất nhiều yếu tố văn hóa của Trung Hoa nổi trội là tư tưởng
nho giáo trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội về phong tục, nề nếp,
thể chế chính trị và đạo đức. Văn hóa bản địa cùng với sự du nhập của
các yếu tố mới của nền văn hóa ngoại sinh đã định hình cho nền văn
hóa truyền thống.
đấy nhé
Câu 6: Các thành tố cơ bản của văn hóa: Ngôn ngữ; Tín ngưỡng
dân gian; Tôn giáo, Phong tục tập quán lễ hội
- Yếu tố 1: Ngôn ngữ
+ Ngôn ngữ là 1 hệ thống tín hiệu. Theo nghĩa rộng thì ngôn ngữ là
một thành tố văn hoá nhưng là một thành tố chi phối đến các thành tố
văn hoá khác.
+ Nguồn gốc tiếng Việt: Tiếng Việt - Mường chung (do 2 yếu tố chính
tạo nên là Môn – Khơme và Tày - Thái).
+ Cuộc tiếp xúc lớn thứ 1: Với Trung Quốc  chữ Hán Việt.
+ Cuộc tiếp xúc lớn thứ 2: Với Pháp  Chữ Nôm.
+ Cuộc tiếp xúc lớn thứ 3: Chữ Quốc ngữ.
- Yếu tố 2: Tôn giáo

+Tôn giáo: Tồn tại như một thực thể khách quan của lịch sử, tôn giáo
là do con người sáng tạo ra.
+ Tại Việt Nam có tồn tại những tôn giáo như:
1. Nho giáo: Sáng lập là Khổng Tử (người nước Lỗ) và được các nhân
vật sau này kế tục như Mạnh Tử, Tuân Tử, Đổng Trọng Thư, Tư Mã
Thiên, Trình Hạo…
2. Phật giáo: Sáng lập là Bồ đề đạt ma với Tứ Diệu Đế (Khổ đế, Tập
đế, Diệt đế, Đạo đế).
3. Đạo giáo: Lão tử, Trang tử.


4. Kito giáo: Tên gọi chung của tôn giáo thờ chúa Jêsu. Giáo lý là
Kinh thánh gồm hai bộ Cựu ước (46 quyển) và Tân ước (17 quyển).
- Yếu tố 3: Tín ngưỡng
+ Tín ngưỡng phồn thực: Khát vọng cầu mong sự sinh sôi nảy nở của
con người và tạo vật, lấy các biểu tượng về sinh thực khí và hành vi
giao phối làm đối tượng.
+ Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng: Thành Hoàng có nghĩa gốc là hào
bao quanh thành  Thành hoàng làng là vị Thần bảo trợ một thành
quách cụ thể. Tục thờ xuất phát từ Trung Quốc.
+ Tín ngưỡng thờ Mẫu: Ảnh hưởng của chế độ Mẫu hệ  người Việt
có truyền thống thờ Nữ thần.
- Yếu tố 4: Lễ hội
+ Lễ hội sinh ra nhờ đời sống nông nghiệp sống bằng nghề trồng lúa
nước.
+ Lễ hội gắn với một cộng đồng cư dân nhất định.
+ Nhân vật trung tâm được thờ phụng của cộng đồng là nhân vật chính
của ngày lễ hội.
+ Lễ hội chia làm 2 phần: Phần Lễ và phần Hội.
+ Trò diễn trong lễ hội là các lớp văn hoá tín ngưỡng của các thời kỳ

lịch sử khác nhau lắng đọng lại, phản ánh những sinh hoạt của cư dân
nông nghiệp sống với nghề trồng lúa nước, gắn kết nhân vật được
phụng thờ.
+ Thức cúng trong lễ hội chia 2 loại: Thức cúng phổ biến và thức cúng
mang tính nghi lễ.
+ Giá trị lễ hội là giá trị cộng cảm và cộng mệnh.
 Lễ hội là một Bảo tàng văn hoá tuy nhiên vẫn còn có những lễ hội
có yếu tố phi văn hoá như mê tín dị đoan…



×