Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.98 KB, 27 trang )

Header Page 1 of 89.

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

HONG MINH HI

hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân
đối với cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam

Chuyờn ngnh : Lý lun v lch s Nh nc v phỏp lut
Mó s
: 62 38 01 01

TểM TT LUN N TIN S LUT HC

H NI - 2014
Footer Page 1 of 89.


Header Page 2 of 89.

Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Trịnh Đức Thảo

Phản biện 1:.........................................................
.........................................................

Phản biện 2:.........................................................
.........................................................



Phản biện 3:.........................................................
.........................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2014

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và
Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Footer Page 2 of 89.


Header Page 3 of 89.

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bộ máy nhà nước, hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước
(CQHCNN) có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng. Hoạt động của hệ thống cơ
quan này diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, tác động trực tiếp và thường
xuyên đến quyền, lợi ích của tổ chức và cá nhân ở mọi thành phần xã hội. Do vậy,
hoạt động kiểm tra, giám sát đối với cơ quan hành chính là yêu cầu khách quan,
cần thiết và không chỉ đơn thuần từ phía các cơ quan nhà nước mà quan trọng hơn
là cần phải thiết lập cơ chế giám sát bên ngoài, trước hết là cơ chế giám sát thường
xuyên và có hiệu quả từ phía nhân dân đối với cán bộ, công chức, viên chức,
CQHCNN để bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân.
Từ yêu cầu trên, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách và
văn bản pháp luật nhằm không ngừng tăng cường hoạt động giám sát của nhân

dân đối với CQHCNN. Chính vì vậy, hoạt động giám sát của nhân dân đối với
CQHCNN ngày càng được hoàn thiện hơn, mở ra nhiều phương thức, cách thức
để nhân dân thực hiện quyền giám sát, phát huy tính tích cực chính trị, quyền làm
chủ của nhân dân, hướng tới bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành
chính, bảo vệ quyền, lợi ích của nhà nước, xã hội, cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên,
nhìn một cách tổng quát, hoạt động giám sát của nhân dân đối với CQHCNN còn
mang tính hình thức, chưa hiệu quả. Do đó, tình trạng quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền xâm phạm đến quyền, lợi ích của nhân dân
đang diễn ra ở một số cơ quan hành chính và chưa được khắc phục. Có nhiều
nguyên nhân của tình trạng này nhưng cơ bản là pháp luật về giám sát của nhân
dân đối với CQHCNN còn nhiều bất cập, tản mạn trong nhiều văn bản pháp luật,
có những quy định pháp luật dưới dạng quy chế nên giá trị pháp lý thấp, có
những quy định chồng chéo, mâu thuẫn hoặc đã lỗi thời và thiếu ổn định; đồng
thời, tồn tại một số quy định chỉ dừng ở những nguyên tắc chính trị - pháp lý
chung, mang tính luật khung, thiếu các quy định cụ thể. Trong khi hậu quả pháp
lý của hoạt động giám sát nhân dân đối với CQHCNN chỉ mang tính kiến nghị,
không có tính bắt buộc cưỡng chế của Nhà nước, pháp luật lại chưa có quy định
về các biện pháp theo dõi, kiểm tra việc thực hiện kiến nghị, đề nghị đối với cơ
quan hành chính. Cũng vậy, cơ chế pháp lý về hoạt động giám sát quyền lực nhà
nước chưa có sự phối hợp giữa giám sát nhà nước với giám sát nhân dân. Hoạt
động giám sát trực tiếp của công dân đối với cơ quan hành chính đang thiếu
những văn bản pháp lý quy định về thẩm quyền, thủ tục, trình tự thực hiện bảo
đảm hiệu quả giám sát.
Footer Page 3 of 89.


Header Page 4 of 89.

2


Trên phương diện nghiên cứu, chủ đề giám sát của nhân dân và pháp luật về
giám sát của nhân dân đối CQHCNN không phải hoàn toàn mới. Tuy nhiên,
những vấn đề lý luận căn bản của pháp luật trong lĩnh vực này đều chưa được nhìn
nhận một cách toàn diện và giải quyết thấu đáo; do đó, một mô hình lý thuyết cho
pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN chưa được nhận diện thật rõ
nét. Trên thực tiễn, lộ trình và các bước đi của hoạt động lập pháp chưa thật sự tích
cực, đồng bộ để có thể hiện thực hóa kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng và
Nhà nước tiến đến hoàn thiện cơ chế giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành
chính, góp phần bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Từ những lập luận trên đây và trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân, việc tăng cường, nâng
cấp và hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan nhà nước
nói chung và CQHCNN nói riêng ở Việt Nam lại càng có ý nghĩa hết sức cấp
thiết cả về lý luận và thực tiễn. Góp phần bảo đảm, nâng cao chất lượng hoạt
động giám sát của nhân dân đối với CQHCNN tôi chọn đề tài “Hoàn thiện
pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước ở
Việt Nam” làm luận án tiến sỹ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà
nước và pháp luật.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về giám
sát của nhân dân đối với CQHCNN, luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp
hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN ở Việt Nam
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên đây, luận án thực hiện nhiệm vụ sau đây:
Phân tích và làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh của pháp
luật và xác định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về giám sát
của nhân dân đối với CQHCNN cũng như vai trò, các yếu tố ảnh hưởng; đồng
thời, nghiên cứu pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành pháp ở

một số nước và chỉ ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và phân tích, đánh giá thực
trạng pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN ở Việt Nam.
Phân tích và đề xuất những quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
giám sát của nhân dân đối với CQHCNN ở Việt Nam hiện nay.
Footer Page 4 of 89.


Header Page 5 of 89.

3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Luận án nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật và hoàn thiện pháp luật về giám
sát của nhân dân đối với CQHCNN. Từ đó, luận án luận chứng cơ sở khoa học và
đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân
đối với CQHCNN ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận án chỉ tập trung phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật
về giám sát của nhân dân đối với hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam (thông qua
Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận là Công
đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản (TNCS) Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
(LHPN) Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh (CCB) Việt Nam;
Ban Thanh tra nhân dân (TTND), Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng (GSĐTCCĐ)
giám sát trực tiếp của cá nhân).
Về thời gian: Luận án nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN; đặc biệt nghiên cứu, phân
tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN từ

năm 1992 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài luận án dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức quyền lực nhà nước, về vai trò của nhân dân
đối với nhà nước; về củng cố kiện toàn hệ thống chính trị, xây dựng bộ máy nhà
nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật; về giám sát của nhân dân đối với cơ quan cơ
nhà nước nhà nước nói chung và CQHCNN nói riêng đáp ứng yêu cầu xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng phương pháp
phân tích, tổng hợp, hệ thống, phương pháp quy nạp-diễn dịch, thống kê, so
sánh…để nghiên cứu, phân tích, luận giải các khái niệm, phạm trù có tính lý luận
của hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN; phân tích
quá trình hình thành, phát triển và đánh giá thực trạng và nguyên nhân; luận giải
và đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân
đối với CQHCNN ở Việt Nam hiện nay.
Footer Page 5 of 89.


Header Page 6 of 89.

4

5. Những điểm mới của luận án
Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu toàn diện và hệ thống
cơ sở lý luận và thực tiễn của hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối
với CQHCNN ở Việt Nam; vì vậy, luận án có một số điểm mới về mặt khoa
học như sau:

Luận án đã xây dựng khái niệm, phân tích đặc điểm và nội dung điều chỉnh
của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN.
Luận án xây dựng được các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp
luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN, bao gồm các tiêu chí về nội
dung điều chỉnh pháp luật, hình thức pháp luật và tiêu chí về tổ chức thực hiện
pháp luật.
Luận án rút ra được những giá trị có thể tham khảo cho Việt Nam trong quá
trình hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN qua việc
nghiên cứu pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN ở một số nước
trên thế giới.
Luận án phân tích, chỉ ra được những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của
thực trạng pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN.
Luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám
sát của nhân dân đối với CQHCNN ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận: kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú thêm
lý luận về hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN.
Về thực tiễn: Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ
thống và toàn diện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN. Kết quả
luận án là tài liệu tham khảo có giá trị đối với các nhà hoạch địch chính sách, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật về giám
sát của nhân dân đối với CQHCNN; có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan nghiên cứu, sinh viên, học viên sau đại học chuyên ngành lý luận và lịch sử
nhà nước và pháp luật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu thảm khảo, luận án bao gồm
4 chương, 10 tiết.

Footer Page 6 of 89.



Header Page 7 of 89.

5
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Các công trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài luận án được
chia thành hai nhóm: 1) Các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật và
hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan nhà nước; 2)
Các công trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp luật về giám sát của
nhân dân đối với CQHCNN. Qua nghiên cứu cho thấy, nhìn chung các công
trình đã công bố ở trong nước có những đóng góp quan trọng trên những khía
cạnh nhất định trong việc giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoàn
thiện pháp luật giám sát của nhân dân đối với CQHCNN, có thể tham khảo, kế
thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu luận án.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Các công trình nghiên cứu ở ngoài nước liên quan đến đề tài luận án đã
cung cấp thêm cơ sở để nghiên cứu, hoàn thiện các quy phạm pháp luật về chủ
thể, phạm vi, hình thức, trình tự, thủ tục về giám sát của nhân dân đối với
CQHCNN; kinh nghiệm trong việc đa dạng hóa các chủ thể giám sát của nhân
dân; chế định hóa và phát huy quyền giám sát của nhân dân thông qua các
quyền tự do báo chí, tiếp cận thông tin…
1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trên cơ sở nghiên cứu những công trình khoa học đã được công bố ở trong
và ngoài nước liên quan đến đề tài, luận án nhận định ở các mức độ khác nhau,
các công trình khoa học đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn của
giám sát và pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan nhà nước,
CQHCNN. Tuy nhiên, đến nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu đầy đủ, toàn
diện và có hệ thống về hoàn thiện pháp luật giám sát của nhân dân đối với
CQHCNN. Cụ thể, những vấn đề lý luận của hoàn thiện pháp luật về giám sát
của nhân dân đối CQHCNN chưa được làm sáng tỏ; chưa nghiên cứu sâu cấu
trúc về nội dung lẫn hình thức của pháp luật để có thể đánh giá đầy đủ chỉ ra
những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập của hoàn
thiện pháp luật trong lĩnh vực này; cũng vậy, chưa có một tổng thể các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN trước yêu cầu
của hoạt động kiểm soát quyền hành pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu trong đề tài luận án
Về mặt lý luận: các vấn đề tiếp tục nghiên cứu, giải quyết gồm: xây dựng
khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh của pháp luật, vai trò, phân tích các tiêu
Footer Page 7 of 89.


Header Page 8 of 89.

6

chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp
luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN; nghiên cứu có chọn lọc pháp
luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành pháp ở một số nước và chỉ ra
những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, các vấn đề tiếp tục nghiên cứu, giải quyết gồm: phân
tích, đánh giá toàn diện, có hệ thống quá trình hình thành, phát triển của pháp
luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN; phân tích, đách giá những ưu

điểm, hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân hạn chế của pháp luật về giám sát
của nhân dân đối với CQHCNN ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích toàn diện những vấn đề lý luận, thực
trạng pháp luật và thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về giám sát của nhân dân
đối với CQHCNN thời gian qua, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm hoàn thiện
pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN ở một số nước trên thế
giới, luận án đề xuất các quan điểm và các nhóm giải pháp đồng bộ nhằm hoàn
thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN ở nước ta hiện nay.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT
CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
2.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT
VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung giám sát của nhân dân đối với
cơ quan hành chính nhà nước

2.1.1.1. Khái niệm giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính
nhà nước
Từ việc phân tích khái niệm giám sát và giám sát của nhân dân đối với cơ
quan nhà nước, luận án xây dựng khái niệm giám sát nhân dân đối với CQHCNN:
là hoạt động theo dõi, quan sát, xem xét của các cá nhân hay cộng đồng trực tiếp
hoặc thông qua MTTQ Việt Nam các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức xã hội, các tập thể lao động đối với hoạt động của Chính phủ, Bộ, cơ quan
ngang bộ, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp, các sở, phòng, ban nhằm thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao, bảo đảm sự thông suốt,
trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả của hoạt động hành chính.

2.1.1.2. Đặc điểm giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính
nhà nước

Ngoài những đặc điểm chung của giám sát nhân dân đối với cơ quan nhà
nước, giám sát của nhân dân đối với CQHCNN còn có những đặc điểm riêng. Đó
Footer Page 8 of 89.


Header Page 9 of 89.

7

là, đối tượng giám sát là CQHCNN ở trung ương và địa phương, bao gồm Chính
phủ, các Bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các cấp, các sở, phòng, ban. Phạm vi giám
sát là hoạt động chấp hành và điều hành, hoạt động hành chính của CQHCNN trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh,
quốc phòng… Các hình thức và phương pháp giám sát được thực hiện một cách
thường xuyên, liên tục, linh hoạt, được tiến hành với quy trình và thủ tục riêng,
bảo đảm tính công khai, khánh quan đối với đối tượng bị giám sát. Hoạt động
giám sát của nhân dân đối với CQHCNN có tính độc lập; đồng thời, có sự phối,
kết hợp với hoạt động thanh tra, kiểm tra của nhà nước, gắn với các hình thức thực
hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn, CQHCNN.
2.1.1.3. Nội dung giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính
nhà nước

Hoạt động của CQHCNN diễn ra thường xuyên, liên tục nhằm thực hiện
chức năng quản lý hành chính trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan trực
tiếp đến mọi cá nhân, tổ chức. Do vậy, giám sát của nhân dân bao trùm lên hoạt
động của CQHCNN. Theo đó, nội dung giám sát của nhân dân đối với CQHCNN
là: hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của
các CQHCNN; hoạt động chấp hành - điều hành của CQHCNN trong việc triển
khai thực hiện các quy định của Hiến pháp, pháp luật, chủ trương, chính sách trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội; các quyết định hành chính, hành vi hành chính

của CQHCNN, người có thẩm quyền bảo đảm chúng được thực hiện trên cơ sở
pháp luật, không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức;
giám sát việc sử dụng các nguồn lực về tài chính, tài sản và tài nguyên quốc gia;
việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức hành chính; việc tiếp
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của CQHCNN và việc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của nhân dân...
2.1.2. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về giám sát của nhân dân
đối với cơ quan hành chính nhà nước

2.1.2.1. Khái niệm pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan
hành chính nhà nước
Để hoạt động giám sát nhân dân có hiệu quả, Nhà nước ban hành các quy
phạm pháp luật quy định quyền, nghĩa vụ của chủ thể giám sát và trách nhiệm của
đối tượng chịu sự giám sát với những hình thức, phương pháp cụ thể tùy thuộc chủ
thể giám sát, theo trình tự, thủ tục luật định. Tổng thể các quy phạm pháp luật đó
có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt
Footer Page 9 of 89.


Header Page 10 of 89.

8

động giám sát của các chủ thể giám sát nhân dân đối với CQHCNN theo luật định,
tạo ra trật tự pháp luật, bảo đảm lợi ích nhà nước, xã hội và công dân. Như vậy, có
thể hiểu: pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN là tổng thể các
quy phạm pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong hoạt động giám sát của các cá nhân hay cộng đồng trực
tiếp hoặc thông qua MTTQ Việt Nam các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội, các
tổ chức xã hội, các tập thể lao động đối với Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ,

UBND các cấp, các sở, ban ngành địa phương, được thể hiện trong các
VBQPPL do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những trình tự,
thủ tục và hình thức nhất định.
Khái niệm trên đây cho thấy, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với
CQHCNN có cấu trúc chặt chẽ, vừa bảo đảm tính liên kết nội tại, tính hệ thống
vừa bảo đảm tính xác định chặt chẽ về nội dung điều chỉnh và hình thức hiểu hiện.
2.1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan
hành chính nhà nước
Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN là một bộ phận của
hệ thống pháp luật do vậy có đầy đủ các đặc trưng và dấu hiệu của pháp luật.
Ngoài ra, pháp luật trong lĩnh vực này có đặc điểm riêng: giữa các nhóm quy
phạm pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất, có những quy định về nội
dung nhưng đồng thời có những quy định về hình thức và trình tự thực hiện giám
sát; vừa quy định địa vị pháp lý của các chủ thể giám sát đồng thời quy định trách
nhiệm và nghĩa vụ của đối tượng chịu sự giám sát là CQHCNN, cán bộ, chức
chức, viên chức hành chính. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN
điều chỉnh quan hệ giám sát phát sinh giữa chủ thể thực hiện quyền giám sát của
nhân dân với đối tượng giám sát là CQHCNN, thực hiện hoạt động chấp hành điều
hành diễn ra trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Pháp luật về giám sát của
nhân dân đối với CQHCNN là một bộ phận của pháp luật về giám sát quyền lực
nhà nước. Xuất phát từ đặc điểm chủ thể giám sát của nhân dân phong phú, đa
dạng và đối tượng giám sát là hoạt động của CQHCNN nên hệ thống VBQPPL
được thể hiện ở nhiều cấp độ với các hiệu lực pháp lý khác nhau và được thể hiện
trong nhiều ngành luật.
2.1.3. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về giám sát của nhân dân đối
với cơ quan hành chính nhà nước
Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN là tổng thể các quy phạm
pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất, điều chỉnh các nhóm quan hệ sau:
Footer Page 10 of 89.



Header Page 11 of 89.

9

Một là, nhóm các quy phạm pháp luật xác định địa vị pháp lý của chủ thể
giám sát và đối tượng giám sát.
Hai là, nhóm các quy phạm pháp luật xác định phạm vi giám sát.
Ba là, nhóm các quy phạm pháp luật quy định các hình thức giám sát,
phương pháp giám sát.
Bốn là, nhóm các quy phạm pháp luật quy định trình tự, thủ tục thực hiện
hoạt động giám sát.
Năm là, nhóm các quy phạm pháp luật quy định hậu quả pháp lý của hoạt
động giám sát.
2.1.4. Vai trò của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan
hành chính nhà nước
Qua phân tích khái niệm, đặc điểm của pháp luật về giám sát của nhân dân
đối với CQHCNN, luận án nhận định vai trò của pháp luật về giám sát của nhân
dân đối với CQHCNN là: pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN
thể chế hóa quan điểm của Đảng về quyền làm chủ của nhân dân đối với Nhà
nước nói chung và hoạt động giám sát của nhân dân đối với CQHCNN nói riêng;
góp phần củng cố tổ chức, là cơ sở pháp lý góp phần bảo đảm hiệu lực và hiệu quả
trong hoạt động quản lý hành chính; góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, góp phần đấu tranh phòng chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí và các hành vi tiêu cực khác trong CQHCNN. Đặc biệt,
pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong quản lý nhà nước và xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của
nhân dân, lợi ích của Nhà nước, xã hội.
2.2. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THIỆN VÀ CÁC YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA

NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

2.2.1. Tiêu chí hoàn thiện
Từ những tiêu chí chung của hệ thống pháp luật, luận án chia các tiêu chí
đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với
CQHCNN thành 3 nhóm: nhóm tiêu chí về nội dung pháp luật, nhóm tiêu chí về
hình thức pháp luật và nhóm tiêu chí về tổ chức thực hiện pháp luật.
2.2.1.1. Tiêu chí về nội dung
Thứ nhất, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN phải phù
hợp với các quan điểm, chủ trưởng của Đảng về giám sát của nhân dân đối với bộ
máy nhà nước nói chung CQHCNN nói riêng.
Footer Page 11 of 89.


Header Page 12 of 89.

10

Thứ hai, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN phải bảo
đảm tính phù hợp với thực tế và ổn định.
Thứ ba, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN phải bảo đảm
và tôn trọng thực hiện quyền con người.
Thứ tư, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN phải phù hợp
với nguyên tắc tổ chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền XHCN.
2.2.1.2. Tiêu chí về hình thức
Thứ nhất, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN phải bảo
đảm tính toàn diện.
Thứ hai, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN phải bảo
đảm tính thống nhất.
Thứ ba, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN phải bảo đảm

tính đồng bộ.
Thứ tư, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN phải bảo đảm
tính minh bạch và khả thi.
Thứ năm, về hình thức văn bản, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với
CQHCNN được thể hiện chủ yếu và cơ bản nhất là các VBQPPL, phải bảo đảm
kỹ thuật lập pháp hiện đại.
2.2.1.3. Tiêu chí về tổ chức thực hiện
Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN sẽ trở thành pháp luật
“trên giấy” nếu như không được tổ chức thực hiện trong cuộc sống, hoặc không
đạt được mục đích của việc điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Do
đó, ngoài việc định ra những tiêu chí về nội dung và hình thức pháp luật, luận án
còn đưa ra các tiêu chí về tổ chức thực hiện pháp luật. Các tiêu chí đó là:
Thứ nhất, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về giám sát của nhân
dân đối với CQHCNN.
Thứ hai, đào tạo đội ngũ cán bộ của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội thực hiện nhiệm vụ giám sát đối với CQHCNN.
Thứ ba, thanh tra, kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật và xử lý hành
vi vi phạm pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN.
2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về giám sát
của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước
Yếu tố về chính trị - tư tưởng. Đó là chủ trương, chính sách của Đảng về bảo
đảm quyền giám sát của nhân dân đối với CQHCNN là điều kiện tiên quyết để
hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Ngoài ra, cần có môi trường chính trị ổn
Footer Page 12 of 89.


Header Page 13 of 89.

11


định để thực hành dân chủ trong các tầng lớp nhân dân. Ý thức và văn hóa chính
trị của các tầng lớp nhân dân, cán bộ, công chức, trách nhiệm của Nhà nước có vai
trò to lớn đến việc hoàn thiện các nội dung của pháp luật về giám sát của nhân dân
đối với CQHCNN.
Yếu tố về kinh tế - xã hội. Đó là những điều kiện, phương tiện vật chất, môi
trường xã hội trong đó tồn tại các thiết chế như gia đình, cộng đồng, tổ chức xã
hội, các hiệp hội, tập thể lao động, những giá trị truyền thống, đạo đức, ý thức
chấp hành pháp luật của chủ thể pháp luật, trách nhiệm của cá nhân với cộng
đồng, với xã hội… là những bảo đảm xã hội rất cần thiết để tạo ra “dư luận xã
hội”, có vai trò gây “ảnh hưởng” đến quá trình thực hiện kết quả giám sát của nhân
dân đối với CQHCNN.
Một số yếu tố về pháp lý khác. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp
giữa giám sát nhà nước, giám sát của Đảng với giám sát của nhân dân. Có cơ chế
xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của hệ thống các cơ quan trong bộ máy nhà nước,
người có thẩm quyền trong việc tiếp nhận và xử lý những kiến nghị giám sát của
nhân dân đúng luật định. Ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ, công
chức, của các tầng lớp nhân dân có tác động tích cực đến việc hoàn thiện các nội
dung của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN.
2.3. PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG
GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM

2.3.1. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính
nhà nước ở một số nước trên thế giới
Nghiên cứu pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN ở một số
nước cho thấy, cấu trúc của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này cũng có những
nhóm quy phạm như sau: nhóm các quy phạm xác định chủ thể, nhóm quy phạm
về phạm vi, trình tự, thủ tục và hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát của nhân
dân đối với CQHCNN. Qua nghiên cứu, luận án chỉ ra rằng ngoài những sự khác
biệt còn có những điểm tương đồng trong pháp luật về giám sát của nhân dân đối

với CQHCNN. Chính vì vậy, có thể tham khảo và học tập những giá trị trong pháp
luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN ở một số nước trong quá trình
hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này ở Việt Nam hiện nay.
2.3.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện
pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước
Qua việc nghiên cứu kinh nghiệm về hoàn thiện pháp luật về giám sát của
nhân dân đối với CQHCNN ở một nước có thể tham khảo những kinh nghiệm sau
đây: hoàn thiện các quy phạm pháp luật về chủ thể giám sát nhân dân đối với
CQHCNN phải tạo điều kiện và phát huy tính chủ động, tích cực, đa dạng của các
Footer Page 13 of 89.


Header Page 14 of 89.

12

chủ thể giám sát; tạo ra cơ chế phối kết hợp giữa giám sát của Nhà nước với giám
sát của nhân dân; đồng thời, hoàn thiện các quy phạm pháp luật về quyền tiếp cận
thông tin của công dân bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với CQHCNN.
Việc hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN bảo đảm
tính đồng bộ, thống nhất giữa các hình thức giám sát, chú ý hoàn thiện các quy
định về trình tự, thủ tục và sử dụng công nghệ thông tin tạo ra sự thuận tiện cho
nhân dân trong hoạt động giám sát đối với CQHCNN.
Chương 3
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG
PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
3.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM


3.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1991
Về nội dung điều chỉnh của pháp luật. từ năm 1945 đến trước năm 1975
pháp luật quy định các chủ thể giám sát của nhân dân đối CQHCNN chủ yếu là
công dân. Từ năm 1975 đến năm 1991, pháp luật ghi nhận MTTQ Việt Nam,
Tổng Công đoàn Việt Nam, tổ chức liên hiệp Nông dân Việt Nam, Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh, Hội LHPN Việt Nam và Ban TTND có quyền giám sát đối với
Chính phủ, Bộ, UBND các cấp, cán bộ, viên chức, công chức hành chính. Pháp
luật đã có những quy định mang tính nguyên tắc, xác định phạm vi giám sát của
nhân dân đối với CQHCNN là hoạt động quản lý hành chính trên các lĩnh vực của
đời sống. Tuy nhiên, do đất nước có chiến tranh nên chưa có đủ những văn bản
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ giám sát phát sinh hoạt động của CQHCNN.
Mặc dầu vậy, pháp luật đã mở ra nhiều phương thức để nhân dân thực hiện quyền
giám sát đối với CQHCNN và tùy thuộc vào các chủ thể giám sát mà pháp luật có
những quy định hình thức và phương pháp giám sát phù hợp. Nhóm các quy phạm
về trình tự, thủ tục giám sát quy định cụ thể cho từng chủ thể, bảo đảm sự linh
hoạt, tiện lợi để nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với CQHCNN. Cùng với
những quy định trên, pháp luật có những quy định về hậu quả pháp lý đối với các
kiến nghị giám sát như trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
phải tiếp nhận, xử lý, trả lời kiến nghị giám sát.
Về hình thức của pháp luật. Do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, lúc đầu
có những quy định của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN tồn
tại dưới dạng Sắc lệnh. Về sau quyền giám sát của cá nhân công dân đối với cơ
quan nhà nước nói chung, CQHCNN nói riêng được quy định trong Hiến pháp tuy
nhiên cũng chưa được cụ thể hóa thành luật. Trên cơ sở những văn bản pháp luật
Footer Page 14 of 89.


Header Page 15 of 89.


13

này, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN được bổ sung, hoàn
thiện sau khi ban hành Hiến pháp năm 1992.
3.1.2. Quá trình phát triển của pháp luật về giám sát của nhân dân đối
với cơ quan hành chính nhà nước từ năm 1992 đến nay
Về nội dung điều chỉnh của pháp luật: So với trước đây, từ năm 1992 đến nay,
pháp luật quy định có nhiều chủ thể nhân dân tham gia giám sát CQHCNN. Ngoài
các giám sát nhân dân đối với CQHCNN như trước đây, có thêm các tổ chức xã hội
như Ban GSĐTCCĐ. Giám sát của cá nhân công dân được thực hiện quyền giám sát
đối với CQHCNN thông qua quyền tiếp cận thông tin, thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở, ở CQHCNN. Bên cạnh đó, pháp luật quy định trách nhiệm của Chính phủ, Bộ,
cơ quan ngang bộ, UBND các cấp cung cấp thông tin, có trách nhiệm trả lời kiến
nghị giám sát của nhân dân. Phạm vi giám sát của nhân dân đối với CQHCNN được
pháp luật quy định là giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức
theo quy định của pháp luật. Tùy thuộc vào các chủ thể giám sát mà pháp luật quy
định hình thức giám sát phù hợp. Tương tự, trình tự, thủ tục, phương pháp giám sát
được pháp luật quy định linh hoạt, có thể bằng đối thoại, gửi kiến nghị, hay tọa đàm,
thảo luận giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát đề làm rõ những nội dung giám
sát. Các văn bản pháp luật hiện hành ghi nhận các chủ thể giám sát nhân dân có
quyền gửi kiến nghị giám sát đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết.
Bên cạnh đó, pháp luật quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền phải trả lời kiến nghị giám sát trong thời gian luật định.
Về hình thức của pháp luật: Đặc điểm pháp luật giai đoạn này là, với khoảng
thời gian dài hơn hai thập kỷ, trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, nhiều văn bản pháp
luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN được ban hành trong đó có nhiều
văn bản đã hết hiệu lực thi hành, được thay thế bằng văn bản pháp luật mới. Hiến
pháp năm 2013 có nhiều quy định mới liên quan đến quyền giám sát của nhân dân
đối với bộ máy nhà nước nói chung, CQHCNN nói riêng. Do vậy, từ những quy
định đó, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN đứng trước nhu cầu

đổi mới và hoàn thiện một cách căn bản. Việc đánh giá thực trạng pháp luật về giám
sát của nhân dân đối với CQHCNN hiện nay là nhiệm vụ cần thiết.
3.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI
VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN HÀNH

3.2.1. Thực tiễn nội dung quy định của pháp luật về giám sát của nhân
dân đối với cơ quan hành chính nhà nước
3.2.1.1. Nhóm các quy phạm pháp luật xác định địa vị pháp lý của chủ thể
giám sát nhân dân và đối tượng giám sát
Pháp luật hiện hành quy định có nhiều chủ thể thực hiện nhiệm vụ giám sát
đối với hoạt động của CQHCNN. Đó là MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt
Footer Page 15 of 89.


Header Page 16 of 89.

14

trận như Công đoàn, Đoàn NTCS Hồ Chí Minh, Hội LHPN Việt Nam, Hội Nông
dân Việt Nam, Hội CCB Việt Nam; Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ; cá nhân công
dân. Đồng thời pháp luật có những quy định tạo ra có chế phối hợp giữa giám sát
của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận với giám sát của Quốc
hội, giám sát của Hội đồng nhân dân (HĐND). Nhóm các quy phạm này còn có quy
định xác định trách nhiệm của đối tượng giám sát là Chính phủ và UBND, cán bộ,
công chức, viên chức hành chính các cấp bảo đảm để MTTQ và các tổ chức thành
viên, các tổ chức xã hội, công dân giám sát các hoạt động của CQHCNN.
Bên cạnh những kết quả đạt được, nhóm quy phạm pháp luật xác định địa vị
pháp lý của chủ thể giám sát nhân dân và đối tượng giám sát bộc lộ một số bất cập
như chưa tạo ra sự độc lập của các chủ thể nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ
giám sát hoạt động CQHCNN; chưa xây dựng được cơ chế phối hợp hiệu quả giữa

hai loại hình giám sát của nhân dân (giám sát của MTTQ và các tổ chức thành
viên, Ban TTND, Ban GSTĐCCĐ) với giám sát của Nhà nước (Quốc hội,
HĐND) đối với hoạt động của CQHCNN. Tiêu chí về tính đồng bộ trong các quy
định về địa vị chủ thể giám sát cũng chưa đáp ứng. Cụ thể là, pháp luật mới chỉ tập
trung ở những quy định xác định vai trò giám sát của MTTQ, trong khi đó các quy
định về vai trò giám sát của các tổ chức thành viên của Mặt trận đối với CQHCNN
rất mờ nhạt, chủ yếu là một số quy định về trách nhiệm của các tổ chức này trong
việc động hội viên và nhân dân tham gia giám sát. Mặt khác, một số quy định về
nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể của đối tượng bị giám sát chưa thật rõ ràng, cụ thể,
minh bạch do vậy hiệu quả hoạt động giám sát đối với CQHCNN chưa cao.
3.2.1.2. Nhóm quy phạm pháp luật xác định phạm vi giám sát của nhân
dân đối với cơ quan hành chính nhà nước
Hiến pháp năm 2013 và Luật MTTQ Việt Nam năm 1999, Luật Tổ chức
Chính phủ năm 2001, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và các văn bản
pháp luật có liên quan đã xác định phạm vi giám sát của MTTQ và các tổ chức
thành viên, GSĐTCCĐ và công dân bao trùm cả hoạt động của CQHCNN, việc
thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức hành chính nhà nước. Đồng
thời, nhiều văn bản pháp luật cũng ghi nhận phạm vi giám sát của nhân dân đối
với các lĩnh vực của hoạt động quản lý hành chính, gắn với chức năng và nhiệm
vụ của từng chủ thể, mục đích là phát huy lợi thế của các chủ thể, bảo đảm “tính
chuyên sâu” trong hoạt động giám sát đối với CQHCNN. Tuy nhiên, có những
lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước cần giám sát nhưng lại chưa được giám sát,
hoặc hiệu quả giám sát chưa đạt yêu cầu. Chẳng hạn, nhiều quan hệ giám sát phát
sinh trong quản lý nhà nước về dịch vụ y tế tư nhân, hay về thực hiện chính sách
an ninh, quốc phòng đang còn bỏ ngỏ… Những quy định về phạm vi giám sát của
cá nhân công dân đối với CQHCNN cũng chưa đầy đủ, đồng bộ đáp ứng được yêu
cầu hiện nay. Ví dụ luật quy định công dân có quyền tố cáo các hành vi vi phạm
Footer Page 16 of 89.



Header Page 17 of 89.

15

pháp luật của cán bộ, công chức thì luật khiếu nại chỉ quy định quyền khiếu nại
của công dân đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính.

3.2.1.3. Nhóm quy phạm pháp luật quy định hình thức và phương pháp
giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước
Pháp luật đã có nhiều quy định bảo đảm các hình thức, phương pháp giám
sát nhân dân đối với CQHCNN đa dạng, phong phú, tạo ra sự thuận lợi cho các
chủ thể thực hiện quyền giám sát đối với CQHCNN. Thực hiện các quy định pháp
luật đã tạo ra bầu không khí cởi mở, đối thoại và tạo ra sự đồng thuận giữa chủ thể
giám sát và các đối tượng giám sát trong việc kiếm tìm giải pháp để giải quyết
những kiến nghị về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN.
Tuy vậy, nhóm quy pháp luật về hình thức và phương pháp giám sát của các
chủ thể giám sát nhân dân đối với CQHCNN có những bất cập: một số quy định
về hình thức giám sát chưa cụ thể, rõ ràng, chưa bảo đảm tính khả thi; do vậy,
pháp luật chưa khẳng định được vai trò giám sát của MTTQ và các tổ chức thành
viên. Nhóm quy phạm pháp luật về quyền chính trị, dân sự bảo đảm quyền giám
sát nhân dân mới chỉ tồn tại ở những quy định có tính nguyên tắc, tuyên ngôn như:
quyền tham gia quản lý nhà nước, quyền tiếp cận thông tin.
3.2.1.4. Nhóm quy phạm quy định về trình tự, thủ tục giám sát của nhân
dân đối với cơ quan hành chính nhà nước
Pháp luật đã tạo ra quy trình khách quan, bảo đảm tính kịp thời, thuận tiện,
đại chúng của hoạt động giám sát của nhân dân đối với CQHCNN cho từng loại
chủ thể: trình tự, thủ tục thực hiện nhiệm vụ giám sát của MTTQ Việt Nam và các
tổ chức thành viên của Mặt trận; trình tự, thủ tục giám sát của Ban TTND, Ban
GSĐTCCĐ; trình tự, thủ tục của cá nhân công dân qua việc thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo, thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở…Tuy nhiên, pháp luật chưa tạo

ra cơ chế công khai, cung cấp thông tin trong hoạt động giám sát, xác định rõ
trình tự, thủ tục và trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tiếp
nhận giải quyết kiến nghị giám sát. Do vậy, một số kiến nghị, phản ánh về kết
quả hoạt động giám sát của nhân dân gửi đến CQHCNN chưa kịp thời xử lý,
hoặc chưa được giải quyết thấu đáo. Việc giải quyết, trả lời ý kiến của một số bộ,
ngành, các cơ quan chức năng còn hình thức.
3.2.1.5. Nhóm quy phạm xác định hậu quả pháp lý của hoạt động giám
sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước
Pháp luật có nhiều quy định xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền khi nhận được kiến nghị của Mặt trận thì người đứng đầu cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm xem xét, trả lời trong thời hạn theo quy định của
pháp luật; đồng thời, pháp luật quy định trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu
phục vụ hoạt động giám sát, trách nhiệm giải trình của đối tượng giám sát. Mặc
dầu vậy, pháp luật chưa có quy định bắt buộc, hoặc chưa có biện pháp chế tài thích
Footer Page 17 of 89.


Header Page 18 of 89.

16

hợp với các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền trong việc không hoặc
chậm tiếp nhận và xử lý kết quả giám sát do MTTQ kiến nghị. Do vậy, dẫn đến
tình trạng có trường hợp cơ quan chức năng không xử lý, không giải quyết kết quả
giám sát của MTTQ theo kiến nghị cũng không phải chịu trách nhiệm, thậm chí
nếu có giải quyết thì chỉ mang tính chiếu lệ.
3.2.2. Những kết quả và bất cập, hạn chế về hình thức của pháp luật về
giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước
Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN bao gồm tổng thể các
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ giám sát phát sinh giữa các chủ thể giám

sát nhân dân (như MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã
hội như Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ, cá nhân) đối với đối tượng giám sát là
CQHCNN, được thể hiện trong các VBQPPL có cấp độ hiệu lực pháp lý khác
nhau. Tuy nhiên, đi vào những chế định cụ thể, có thể thấy, về mặt hình thức, pháp
luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN còn những hạn chế, bất cập như
chưa bảo đảm tính toàn diện, nhiều quy định chưa bảo đảm tính thống nhất và
đồng bộ; tồn tại những quy định thiếu tính khả thi, hình thức. Thực tế còn nhiều
quy định pháp luật dưới dạng quy chế nên giá trị pháp lý thấp, nhiều quy định
chồng chéo, mâu thuẫn hoặc đã lỗi thời và thiếu ổn định. Trong khi đó một số quy
định chỉ dừng ở những nguyên tắc chính trị - pháp lý chung, mang tính luật khung,
thiếu các quy định cụ thể, chưa có quy định về các biện pháp để theo dõi, kiểm tra
việc thực hiện kiến nghị, đề nghị giám sát CQHCNN. Về kỹ thuật lập pháp, một
số quy định trong văn bản pháp luật chưa rõ ràng, chưa bảo đảm tính hiện đại.
3.2.3. Những kết quả đạt được và bất cập của việc tổ chức thực hiện
pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước
3.2.3.1. Những kết quả đạt được
MTTQ các cấp tuyên truyền, phổ biến nhiều văn bản pháp luật, những quy
định của Hiến pháp năm 2013 liên quan đến vai trò của MTTQ trong việc thực
hiện chức năng giám sát đối với hoạt động của CQHCNN. Các hình thức tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật (GDPL) là MTTQ và các tổ chức thành viên
của Mặt trận các cấp tổ chức tuyên truyền, phổ biến; phối hợp chặt chẽ với các
cấp, các ngành của chính quyền, với Hội đồng phối hợp phổ biến GDPL địa
phương; lồng ghép với các cuộc vận động do MTTQ Việt Nam các cấp tổ chức,
gắn việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật với việc giám sát công tác cải cách hành
chính, công tác giải quyết khiếu nại - tố cáo của công dân, Hội thi tìm hiểu pháp
luật, kết hợp với báo cáo chuyên đề cho cán bộ - công chức, đoàn viên, hội viên và
nhân dân tại xã - phường - thị trấn, phối kết hợp tổ chức tập huấn cho cán bộ làm
công tác giám sát đối với CQHCNN.
Quán triệt quan điểm quả Đảng về nhiệm vụ giám sát của MTTQ và các tổ
chức thành viên của Mặt trận, Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ, phát huy quyền giám

sát của công dân, gần đây các cấp ủy đảng, MTTQ Việt Nam các cấp, chính quyền
Footer Page 18 of 89.


Header Page 19 of 89.

17

đã chú trọng xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác giám sát
của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội.
Tiến hành kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về giám sát của nhân
dân đối với CQHCNN cho thấy, các chủ thể giám sát nhân dân, đối tượng giám sát
đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ giám sát của mình đối với hoạt động của
CQHCNN. Hoạt động kiểm tra, rà soát những quy định pháp luật mâu thuẫn, bất
cập liên quan đến hoạt động giám sát của nhân dân đối với CQHCNN cũng được
tiến hành thường xuyên.
3.2.3.2. Một số bất cập
Hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về giám sát của nhân dân đối
với CQHCNN diễn ra chưa đồng đều, chưa đi sâu vào từng nội dung của giám sát
hoạt động các CQHCNN, một số nơi còn hình thức, chủ yếu tập trung vào các
hoạt động bề nổi. Sự phối hợp giữa các cấp ủy Đảng, chính quyền và MTTQ và
các tổ chức thành viên ở các cấp chưa toàn diện, thiếu tính thống nhất. Các hình
thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCN
nhưng tiến hành chưa thường xuyên, thiếu kinh phí hoạt động.
Trong khi đó, nội dung công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ
giám sát chưa chưa sát thực tế, vẫn chỉ dừng lại ở mức chung chung, chưa đi vào
từng vấn đề cụ thể của hoạt động quản lý hành chính của CQHCNN. Nhiều vấn đề
nóng như giám sát việc quản lý vệ sinh, an toàn thực phẩm, quản lý nhà nước đối
với hành nghề y tế tư nhân, quản lý nhà nước về môi trường ở cơ sở, giám sát
quản lý vốn trong đầu tư, xây dựng cơ bản… hầu như còn bỏ ngỏ. Đội ngũ cán bộ

MTTQ và các tổ chức thành viên thực hiện nhiệm vụ giám sát còn thiếu, chưa
được đào tạo bài bản, nhất là ở cấp huyện và ở cơ sở; vì vậy, một số cán bộ thiếu
kỹ năng tác nghiệp, năng lực nhìn nhận, phân tích, đánh giá và kết luận vấn đề
trong quá trình giám sát còn bất cập. Hình thức, cách thức tổ chức, đào tạo, bồi
dưỡng còn thiếu tính ổn định và chưa khoa học.
Công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về
giám sát của nhân dân đối với CQHCNN chưa được tiến hành thường xuyên và
đồng bộ giữa các cấp, các ngành. Tồn tại tình trạng một số cơ quan đùn đẩy, né
tránh việc trả lời kiến nghị giám sát của nhân dân, hoặc chưa quan tâm giải quyết,
trả lời theo quy định pháp luật đối với đơn, thư của công dân và kiến nghị của Mặt
trận. Trách nhiệm của CQHCNN trong việc xử lý hậu quả hoạt động giám sát của
nhân dân chưa xác định cụ thể, rõ ràng.
3.2.4. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế
3.2.4.1. Nguyên nhân khách quan
Là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng, pháp luật về giám sát của nhân
dân đối với CQHCNN mặc dù được quan tâm sửa đổi, bổ sung nhưng chưa theo
Footer Page 19 of 89.


Header Page 20 of 89.

18

kịp với những biến đổi nhanh chóng của cuộc sống. Trong khi đó, quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, những vấn đề lý luận về kiểm soát, giám sát
quyền lực của nhân dân đối với bộ máy nhà nước nói chung, CQHCNN nói riêng
là vấn đề mới và khó; do vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết và làm sáng tỏ.
3.2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Một bộ phận cán bộ và nhân dân chưa quan tâm đầy đủ, đúng đắn hoặc coi
nhẹ vai trò của giám sát của nhân dân đối với CQHCNN. Hoạt động nghiên cứu

lý luận và tổng kết thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này
chưa được tiến hành thường xuyên, chưa hiệu quả. Giám sát nhân dân đối với
việc thực hiện quyền lực nhà nước chưa được coi là một kênh giám sát độc lập.
Do vậy, nhu cầu hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với
CQHCNN thời gian qua chưa thực sự chưa thực sự trở thành một nhiệm vụ cấp
thiết. Từ đó dẫn đến những yếu kém, hạn chế trong pháp luật về giám sát của
nhân dân đối với CQHCNN.
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN
DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Nhiệm vụ hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân
cần phải quán triệt các nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo sau đây:
1) Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN góp
phần thực hiện các mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
2) Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN phải
bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ với hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống
pháp luật về giám sát nói riêng.
3) Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN phải bảo
đảm và phát huy tối đa quyền của các chủ thể tham gia giám sát đối với CQHCNN.
4) Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN tiếp tục
thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát huy vai trò giám sát của nhân dân, phải
bảo đảm tính kế thừa của pháp luật về giám sát của nhân dân hiện hành, tiếp thu
có chọn lọc những giá trị của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với
CQHCNN ở một số nước.
Footer Page 20 of 89.



Header Page 21 of 89.

19

4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN
DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về nội dung
Một là, đối với nhóm các quy phạm pháp luật xác định địa vị pháp lý của
chủ thể giám sát nhân dân và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Sửa đổi, bổ
sung các quy định pháp luật phải bảo đảm tính độc lập của MTTQ Việt Nam và
các tổ chức thành viên của Mặt trận; Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ trong hoạt động
giám sát CQHCNN. Tính độc lập còn bảo đảm trong mỗi tổ chức thành viên của
Mặt trận khi thực hiện nhiệm vụ giám sát đối với CQHCNN; trách sự lệ thuộc của
các chủ thể giám sát nhân dân đối với đối tượng giám sát là CQHCNN; bảo đảm
sự phối hợp giữa giám sát của nhân dân và Quốc hội, HĐND, hoạt động thanh tra
của nhà nước đối với CQHCNN.
Hai là, đối với nhóm quy phạm pháp luật xác định phạm vi giám sát của
nhân dân đối với CQHCNN. Về mặt nguyên tắc, phạm vi giám sát của nhân dân
phải bao trùm hoạt động của CQHCNN, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội theo quy định của pháp luật. Do vậy, phải tiếp tục rà soát, sửa đổi
những quy phạm mâu thuẫn với nhau, quy phạm lạc hậu và bổ sung những quy
phạm mới liên quan đến hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và năm tổ chức
thành viên của Mặt trận, Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ, của cá nhân công dân và
các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động giám sát trong các lĩnh vực tương
ứng với hoạt động của CQHCNN.
Ba là, đối với nhóm quy phạm pháp luật về hình thức và phương pháp giám
sát của nhân dân đối với CQHCNN. Mỗi chủ thể giám sát có những yêu cầu về

hình thức và phương pháp nhất định. Do vậy, nhóm quy phạm này hoàn thiện theo
hướng bám sát yêu cầu và đặc điểm của hoạt động giám sát của các chủ thể đối
với CQHCNN. Theo đó, luận án đề ra những giải pháp để hoàn thiện các quy định
về hình thức và phương pháp giám sát đối với MTTQ và các tổ chức thành viên
của Mặt trận; Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ; cá nhân công dân đối với CQHCNN.
Bốn là, đối với nhóm quy phạm quy định về trình tự, thủ tục giám sát của
nhân dân đối với CQHCNN. Tùy theo chủ thể giám sát và đối tượng giám sát cần
có những quy định pháp luật phù hợp về trật tự, các bước tiến hành và thời gian
bảo đảm tương thích với nội dung, phạm vi và hình thức giám sát; quy định về
thời gian trình tự, thủ tục công bố công khai rộng rãi việc nhận và tiếp nhận thông
tin về kiến nghị giám sát; quy định về thời gian, trình tự, thủ tục xác định trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, CQHCNN trong việc chập
tiếp nhận thông tin, hoặc trả lời kiến nghị giám sát không đúng thời gian quy định.
Năm là, đối với nhóm quy phạm xác định hậu quả pháp lý của giám sát
nhân dân đối với CQHCNN. Cần bổ sung các quy định xác định trách nhiệm thực
Footer Page 21 of 89.


Header Page 22 of 89.

20

thi kiến nghị về giám sát đối với cán bộ, công chức, viên chức hành chính và
CQHCNN. Có cơ chế công khai về việc tiếp thu, điều chỉnh, sửa đổi bổ sung của
cơ quan và người có thẩm quyền đối với các kiến nghị giám sát nhân dân; bổ sung
các chế tài đối với trường hợp không tiếp nhận, hoặc tiếp nhận nhưng trả lời không
đúng thời gian luật định của cơ quan, người có thẩm quyền; bổ sung các biện pháp
theo dõi quá trình tiếp nhận, xử lý và trả lời việc tiếp nhận kiến nghị của cơ quan,
tổ chức, người có thẩm quyền đối với các kiến nghị giám sát của nhân dân.
4.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện hình thức pháp luật

Nhằm bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, toàn diện, khả thi và hiệu lực,
hiệu quả của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN ở Việt Nam
trong thời gian tới, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Thứ nhất, bổ sung mới chế định về hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức thành viên trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện hành
Dự thảo Luật MTTQ Việt Nam năm 1999 (sửa đổi) đã được nghiên cứu,
xây dựng. Dự luật đã bổ sung Mục 3 (trong Chương 3) về Hoạt động giám sát
(gồm 4 điều, từ Điều 22 đến Điều 25); trong đó quy định về mục đích, nguyên tắc,
đối tượng, nội dung, hình thức giám sát, quyền và trách nhiệm của các bên trong
hoạt động giám sát. Hoàn thiện dự thảo luật này phải trên cơ sở những quan điểm
và chủ trương của Đảng, được thể hiện trong Quy chế giám sát và phản biện xã
hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (ban hành kèm theo
Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị) và Hiến pháp 2013
về chức năng giám sát của MTTQ Việt Nam; cần bổ sung “chế tài” trong phần
quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức cá nhân chịu giám sát. Sửa đổi, bổ
sung quy định về giám sát của Công đoàn, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội LHPN
Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội CCB Việt Nam đối với CQHCNN.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các quy định về Thanh tra nhân dân trong Luật
Thanh tra hiện hành, Giám sát đầu tư của cộng đồng trong Quy chế giám sát
đầu tư của cộng đồng nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và khả thi trong
việc thực hiện nhiệm vụ giám sát
Sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra hiện hành, bảo đảm Ban TTND có địa vị
pháp lý độc lập, chủ động thực hiện nhiệm vụ giám sát đối với cán bộ, công chức,
viên chức trong đó có CQHCNN. Tiến hành tổng kết, đánh giá việc thực hiện các
quy định của pháp luật về GSĐTCCĐ, bổ sung thêm các quy định cụ thể hóa
phương thức giám sát do chính người dân thực hiện, quy định trách nhiệm của đối
tượng giám sát, CQHCNN, và cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin
cho Ban GSĐTCCĐ thực hiện nhiệm vụ giám sát; đồng thời, phải có chế tài đối
với các chủ thể có liên quan, đối tượng giám sát từ chối, hoặc không hợp tác cung
cấp thông tin cho Ban GSĐTCCĐ làm nhiệm vụ giám sát.

Footer Page 22 of 89.


Header Page 23 of 89.

21

Thứ ba, hoàn thiện các quy định pháp luật về giám sát trực tiếp của nhân
dân đối với CQHCNN
Nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung những quy định về pháp luật thực hiện
dân chủ ở cơ sở cấp xã, và cơ quan nhà nước. Tiến tới, pháp điển hóa nâng cấp các
văn bản pháp luật về dân chủ ở cơ sở hiện hành thành Luật về thực hiện dân chủ ở
cơ sở trong đó bổ sung những quy định về quyền giám sát của cá nhân công dân
qua việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Triển khai đồng bộ thực hiện
Luật khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011 và Luật Tiếp công dân năm
2013, nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo đảm
quyền giám sát của nhân dân đối với CQHCNN. Sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí
hiện hành, bổ sung quyền giám sát và phản biện xã hội của báo chí. Sớm xây dựng
dự luật Tiếp cận thông tin bảo đảm công dân có điều kiện thuận lợi trong việc thực
thi quyền giám sát của mình đối với CQHCNN. Về ý tưởng, đã đến lúc cần có
Luật Giám sát của nhân dân. Luật này ra đời sẽ bảo đảm có hiệu quả quyền giám
sát của nhân dân với hình thức giám sát trực tiếp hay giám sát thông qua các tổ
chức của nhân dân như MTTQ Việt Nam các cấp và các tổ chức chính trị - xã
hội, các tổ chức xã hội, tập thể lao động; đồng thời Luật sẽ xác định cơ chế phối
hợp giữa các hình thức giám sát khác với giám sát của nhân dân.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung một số quy định mới bảo đảm sự phối hợp giữa
giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với hoạt động giám sát của cá
nhân đối với CQHCNN
Sửa đổi, bổ sung Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003, Luật Ban
hành VBQPPL năm 2008, sửa đổi Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Ngân sách nhà

nước hiện hành và các văn bản pháp luật có liên quan, giao Quốc hội xem xét và
quyết định ngân sách cho hoạt động của MTTQ và các tổ chức thành viên; HĐND
xem xét quyết định ngân sách hoạt động cho Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ. Về lâu
dài, nghiên cứu xây dựng cơ chế tự chủ tài chính cho MTTQ và các tổ chức thành
viên và tiến tới đa dạng hóa nguồn ngân sách nhằm bảo đảm tính độc lập, khách
quan trong hoạt động giám sát đối với CQHCNN.
Thứ năm, sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ hiện hành; xây dựng Luật Tổ
chức chính quyền địa phương bảo đảm hiệu quả hoạt động giám sát của nhân
dân đối với CQHCNN
Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến nhiệm vụ giám sát của MTTQ
Việt Nam và năm tổ chức thành viên của Mặt trận trong Luật Tổ chức Chính phủ
năm 2001, Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND năm 2004, xây dựng
Luật Tổ chức chính quyền địa phương nhằm bảo đảm tính chủ động, hiệu quả
trong hoạt động giám sát; đồng thời xác định rõ trách nhiệm của đối tượng giám
sát là Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các cấp, các sở ban, ngành địa
phương trong hoạt động giám sát của nhân dân.
Footer Page 23 of 89.


Header Page 24 of 89.

22

Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật khác liên quan đến
nhiệm vụ giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
Cần sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 theo hướng
đề cao vai trò, trách nhiệm của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên trong
công tác đấu tranh và giám sát hoạt động phòng, chống tham nhũng. Sớm ban
hành Nghị định hướng dẫn Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013
trong đó quy định cụ thể về hình thức, trình tự, thủ tục và hậu quả pháp lý của hoạt

động giám sát của nhân dân đối với việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong
CQHCNN. Ngoài ra, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật
liên quan đến nhiệm vụ giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên,
Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ, cá nhân công dân trong các lĩnh vực hoạt động quản
lý hành chính nhà nước của CQHCNN như các văn bản pháp luật về bảo vệ môi
trường, đầu tư công, quản lý ngân sách nhà nước, quản lý đất đai, quản lý nhà ở,
xây dựng, quản lý an toàn vệ sinh thực thẩm…
4.2.3. Nhóm các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về giám sát của
nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước
Một là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp
luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN
Nâng cao năng lực xây dựng pháp luật của Quốc hội, các cơ quan thuộc
Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, các cơ quan nhà nước khác trong quá trình tham
gia góp ý, thẩm định các dự án luật, văn bản pháp luật liên quan đến chức năng
giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên, Ban TTND, Ban
GSĐTCCĐ, cá nhân công dân. Ngoài ra, cần phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên để họ tham gia vào hoạt
động xây dựng pháp luật trong lĩnh vực này. Cần có cơ chế huy động, tập hợp
các nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia hoạt động xây dựng pháp luật về
giám sát của nhân dân đối với CQHCNN ở Việt Nam hiện nay.
Hai là, nâng cao chất lượng tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về
giám sát của nhân dân đối với CQHCNN
Đối với MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên cần xây dựng quy chế phối
hợp trong việc tổ chức thông tin, tuyên truyền về nhiệm vụ giám sát đối với
CQHCNN; đổi mới công tác tập huấn, bồi dưỡng cán bộ một cách căn bản trước yêu
cầu và nhiệm vụ mới. Các cấp ủy Đảng, cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp qua
các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật chú trọng nâng cao nhận thức cho đảng
viên, cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò, chức
năng nhiệm vụ của MTTQ Việt Nam, trong đó có nhiệm vụ giám sát hoạt động của
CQHCNN. Xây dựng Quy chế phối hợp giữa Ủy Ban MTTQ và các tổ chức thành

viên của Mặt trận với chính quyền, Hội đồng phối hợp phổ biến, GDPL ở địa phương
Footer Page 24 of 89.


Header Page 25 of 89.

23

đề tuyên truyền cho đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân về các văn bản pháp
luật có nội dung liên quan đến nhiệm vụ giám sát của nhân dân đối với CQHCNN.
Ba là, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của MTTQ Việt Nam và các tổ
chức thành viên của Mặt trận, Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ thực hiện nhiệm vụ
giám sát đối với CQHCNN
Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cho cán bộ làm nhiệm vụ giám sát
đối với CQHCNN, gắn lý luận với thực tiễn, kết hợp kiến thức nghiệp vụ về
giám sát với nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và kỹ năng thực hành nhằm
đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ giám sát đối với CQHCNN các cấp. Kết hợp các
hình thức đào tạo tập trung chính quy dài hạn với các khóa đào tạo, bồi dưỡng
ngắn hạn được tổ chức định kỳ, mở các lớp tập huấn có các chuyên gia giàu kinh
nghiệm về lĩnh vực hoạt động giám sát. Tổ chức các hội thảo, tọa đàm khoa học
để trao đổi kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác giám
sát. Có cơ chế, chính sách thu hút những cán bộ có năng lực, phẩm chất về công
tác tại MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, Ban TTND, Ban
GSĐTCCĐ, đồng thời tập hợp các cán bộ chuyên môn giỏi thuộc các lĩnh vực,
xây dựng thành đội ngũ cộng tác viên, tư vấn về giám sát.
Bốn là, thanh tra, kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật và xử lý hành
vi vi phạm pháp luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các cấp ủy Đảng, HĐND các cấp phải
xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch và tổ chức kiểm tra, theo dõi các chủ
thể thực hiện nhiệm vụ giám sát và các đối tượng chịu sự giám sát là CQHCNN,

cán bộ, công chức, viên chức hành chính thực hiện nhiệm vụ được giao và các cơ
quan, cá nhân có liên quan. MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt
trận phải xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp
luật về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN trong hệ thống, đối với Ban
TTND, Ban GSĐTCCĐ. Có biện pháp cơ chế để huy động cán bộ, đảng viên,
công chức, các tầng lớp nhân dân nâng cao tinh thần, trách nhiệm kịp thời phát
hiện hành vi vi phạm pháp luật, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi
phạm về giám sát của nhân dân đối với CQHCNN.
Năm là, tăng cường sự phối hợp giữa hoạt động giám sát của nhân dân đối
với hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND và hoạt động kiểm tra của các cấp
ủy Đảng đối với CQHCNN
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan Đảng
và MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên, Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ trong
việc cung cấp thông tin, bảo đảm cho các chủ thể giám sát nhân dân có đầy đủ
thông tin kịp thời, chính xác làm căn cứ để giám sát. Quốc hội, HĐND các cấp và
MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy
chế phối hợp giữa các bên trong hoạt động giám sát của mình.
Footer Page 25 of 89.


×