Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

BẢO vệ QUYỀN lợi của NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI CHỦ sở hữu KIỆN đòi lại tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.29 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------

ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Đề tài:
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI THỨ BA
NGAY TÌNH KHI CHỦ SỞ HỮU KIỆN ĐÒI LẠI TÀI SẢN

Giáo viên hướng dẫn

: Lê Thị Thu Hằng

Sinh viên thực hiện

: Võ Thị Thanh Thảo

Lớp

: 39K19

Đà nẵng, tháng 11 năm 2015


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng
MỤC LỤC

...............................................................................................................................................................1
Giáo viên hướng dẫn : Lê Thị Thu Hằng.................................................................................................1


Sinh viên thực hiện : Võ Thị Thanh Thảo................................................................................................1
Lớp : 39K19............................................................................................................................................1

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 1


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng
LỜI CẢM ƠN

Được sự giúp đỡ nhiệt tình của giảng viên hướng dẫn cùng với thầy cô giáo trong
khoa, em đã hoàn thiện được đề án môn học luật dân sự với đề tài: “bảo vệ quyền lợi
của người thứ ba ngay tình khi chủ sở hữu kiện đòi tài sản”.
Để hoàn thành được đề án môn học này, đầu tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành tới cô giáo hướng dẫn: Thạc sĩ Lê Thị Thu Hằng đã tận tình hướng dẫn em
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Luật cũng như các
thầy cô giáo trong trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng, đã trang bị cho em những kiến
thức và kinh nghiệm quý giá trong quá trình học tập tại trường và nhiệt tình giúp đỡ
em khi em thực hiện đề tài này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do thời gian, trình độ, kiến thức, kĩ năng bản
thân còn nhiều hạn chế nên đề án môn học của em còn nhiều hạn chế và thiếu xót. Em
rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo, bổ sung của thầy cô giáo để em có thêm
nhiều kinh nghiệm hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo


Trang 2


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng
LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan rằng đây là đề án môn học của em. Các nội dung nghiên cứu và
kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công
trình nghiên cứu nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc
phân tích, nhận xét, đánh giá được chính em thu thập từ các nguồn khác nhau có chỉ ra
trong phân tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá
cũng như số liệu của một số tác giả, cơ quan tổ chức khác và cũng được thể hiện trong
phần tài liệu tham khảo.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm và chịu
sự xử lý theo quy chế của Đại học Đà Nẵng và quy chế của Trường đại học Kinh tế Đà
Nẵng.
Ký tên

Võ Thị Thanh Thảo

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 3


Đề án môn học


GVHD: Lê Thị Thu Hằng

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TAND

: Tòa án nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 4


Đề án môn học


GVHD: Lê Thị Thu Hằng

A – PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.

Hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện mục tiêu đi lên Chủ nghĩa xã
hội, nâng cao đời sống của nhân dân, công bằng cho xã hội. Để phát triển kinh tế gắn
với công bằng xã hội và hơn nữa việc Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế
giới (WTO) và gần đây nhất Việt Nam cũng đã trở thành thành viên của TPP chứng tỏ
Việt Nam đang từng bước gia nhập với nền kinh tế toàn cầu. Vì vậy, việc thực hiện
các giao dịch trên tất cả các mặt đặc biệt giao dịch dân sự là một phần không thể thiếu
trong nền kinh tế của nước ta.
Nhưng thực tế hiện nay, về giao dịch của các bên thực hiện trong giao dịch dân sự
còn rất nhiều vấn đề cần phải tìm ra cách giải quyết hợp lý. Để bảo vệ quyền lợi cho
các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Từ đó tạo được lòng tin và sự an
tâm cho các bên tham gia giao dịch. Các tranh chấp về hợp đồng dân sự hay quyền lợi
của các bên trong giao dịch và đặc biệt là quyền lợi của người thứ ba tham gia vào các
quan hệ pháp luật này. Họ rất thiện chí và ngay tình nhưng khi có tranh chấp xảy ra thì
họ luôn là bên chịu thiệt hại nhiều nhất. Trên thực tế những giao dịch được thực hiện
với người thứ ba rất nhiều.
Vì vậy, việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự là
việc mà các nhà làm luật cần phải chú ý và hoàn thiện các quy định pháp luật để đưa
kinh tế nước ta vươn ra biển lớn mà không phải gặp những trục trặc về vấn đề pháp lý.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba
ngay tình khi bị chủ sở hữu kiện đòi tài sản để hiểu rõ hơn.
Đưa ra một số thực trạng và thông qua đó đánh giá hiệu quả của các quy định

pháp luật khi được áp dụng vào thực tế.
Đưa ra một vài đề xuất để góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề
bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi chủ sở hữu kiện đòi tài sản
3. Đồi tượng và phạm vi nghiên cứu

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 5


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là các quy định của pháp luật về bảo vệ
quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi chủ sở hữu kiện đòi tài sản trong hệ thống
pháp luật Việt Nam hiện nay.
Đề tài tập trung nghiên cứu vào các vấn đề về lý luận về quyền lợi của người thứ
ba ngay tình trong các trường hợp khi chủ sở hữu kiện đồi lại tài sản và chỉ ra những
bất cập khi các quy định này được áp dụng vào thực tiễn cuộc sống. Cuối cùng là đưa
ra những giải pháp và kiến nghị để góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề án phương pháp nghiên cứu đã được sử dụng là
phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, tổng hợp.
5. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của đề tài gồm có 3 chương:
-

Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay
tình khi chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản.


-

Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ
ba ngay tình khi chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản.

-

Chương 3: Kiến nghị phương hướng, giải pháp hoàn thiện những quy định của
pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi chủ sở hữu kiện
đòi lại tài sản.

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 6


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

B – PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI CHỦ SỞ HỮU KIỆN ĐÒI LẠI TÀI SẢN
1.1. Quyền chiếm hữu tài sản.
Theo điều 182, Bộ luật dân sự 2005: Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý
tài sản. Đây là quyền năng của chủ sở hữu tài sản, được tự mình nắm giữ, quản lý tài
sản thuộc sở hữu của mình. Hơn nữa, quyền chiếm hữu còn là quyền kiểm soát, làm
chủ và chi phối tài sản đó theo ý định của mình mà không bị hạn chế hay gián đoạn về
thời gian (điều 184). Ví dụ trong trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, thất lạc, chôn

giấu chưa tìm thấy,… thì chủ sở hữu vẫn có quyền chiếm hữu pháp lý đối với tài sản
đó. Pháp luật luôn công nhận quyền chiếm hữu của chủ sở hữu, dù rằng người đó trực
tiếp hay không trực tiếp nắm giữ tài sản.
Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu chỉ chấm dứt hoàn toàn khi chủ sở hữu từ bỏ
quyền sở hữu của mình; quyết định bán, trao đổi, tặng cho,…
1.1.1. Chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật.
Chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật là chiếm hữu tài sản một cách hợp pháp.
Theo quy đinh tại điều 183, Bộ luật dân sự, các chủ thể của quyền chiếm hữu tài sản
có căn cứ pháp luật bao gồm:
• Đầu tiên là sự chiếm hữu tài sản của chủ sở hữu. Đây là quy định thể hiện rõ
ràng quyền của chủ sở hữu đối với tài sản của mình.
• Chủ thể thứ hai là những người không phải là chủ sở hữu nhưng vẫn được
chiếm hữu tài sản:
1. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản. Những người được chủ sở
hữu ủy quyền quản lý tài sản sẽ có quyền thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó trong
phạm vi, theo cách thức, thời hạn do chủ sở hữu xác định (theo khoản 2, điều 185, Bộ
luật dân sự).
2. Người được chuyển giao quyền sở hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp
với quy định của pháp luật. Việc phù hợp với quy định của pháp luật chính là phù hợp
với ý chí của chủ sở hữu được quy định cụ thể tại khoản 1, điều 186, BLDS. Cũng
theo khoản 1 điều này người được giao tài sản có quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản đó
cho người khác, nếu được chủ sở hữu đồng ý.
3. Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ
sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chiếm đắm phù hợp với các
điều kiện do pháp luật quy định. Đây là những chủ thể được chiếm hữu các tài sản đó
SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 7



Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

từ thời điểm phát hiện đến thời điểm trả lại cho chủ sở hữu hoặc đến thời điểm giao
nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
4. Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù
hợp với các điều kiện do pháp luật quy định. Theo điều 188, BLDS 2005, những chủ
thể này được chiếm hữu tài sản đó từ thời điểm được phát hiện đến thời điểm trả lại
cho chủ sở hữu.
5. Các trường hợp khác do pháp luật quy định như: chiếm hữu dựa trên quyết
định của cơ quan nhà nước thẩm quyền hoặc do pháp luật quy định có quyền đương
nhiên chiếm hữu vật. Ví dụ: các cơ quan công an, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân
dân, theo chức năng và thẩm quyền có quyền thu giữ và chiếm hữu tang vật trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử.
1.1.2. Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật.
Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu không phù hợp với quy
định tại điều 183 – BLDS 2005. Cụ thể là những trường hợp mà người chiếm hữu một
tài sản không phải là chủ sở hữu hoặc không chiếm hữu theo những căn cứ do Bộ luật
dân sự đã quy định. Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật có hai trường hợp xãy ra:
chiếm hữu không có pháp luật nhưng ngay tình và chiếm hữu không có căn cứ pháp
luật không ngay tình.
1.1.3. Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình.
Theo ý 2, điều 189, BLDS, người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết hoặc không thể biết việc chiếm
hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.
Vì pháp luật không bắt buộc người chiếm hữu phải biết về tính bất hợp pháp
trong việc chiếm hữu tài sản của mình nên khi thực hiện giao dịch hoặc nhận được tài
sản thì người chiếm hữu không đặt trách nhiệm trong việc tìm ra ai là người có quyền
sở hữu tài sản.

Ví dụ: Nguyễn Văn An ăn trộm một chiếc xe đạp và nhờ Nguyễn Văn Bình giữ
hộ. Như vậy việc Bình giữ hộ cho An chiếc xe đạp là chiếm hữu không có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình, vì khi nhận giữ hộ cho An chiếc xe đạp Bình không hề biết chiếc
xe đó là do An trộm về và hoàn toàn không thuộc quyền sở hữu của An. Đây là việc
“không biết và không thể biết” việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.
1.2. Khái niệm người thứ ba ngay tình.
Mặc dù trong luật dân sự không quy định về khái niệm người thứ ba ngay tình
nhưng căn cứ theo điều 189, BLDS thì người thứ ba ngay tình được hiểu là người

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 8


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

chiếm hữu không có căn cứ pháp lý đối với tài sản nhưng không biết và không thể biết
việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.
Người thứ ba ngay tình là những chủ thể xác lập, thực hiện một giao dịch dân sự
nhưng lại không đạt được lợi ích mà mình mong muốn mặc dù họ hoàn toàn thiện chí
và ngay thẳng khi tham gia vào giao dịch đó. Trong giao dịch dân sự họ chính là người
xác lập giao dịch với chủ thể đã tham gia vào một giao dịch trước đó nhưng giao dịch
đó bị vô hiệu và họ hoàn toàn không biết về vấn đề này. Vì vậy, mặc dù họ hoàn toàn
thiện chí và ngay tình nhưng họ vẫn bị thiệt hại nếu bị chủ sở hữu đòi lại tài sản.
Trường hợp người thứ ba ngay tình bị chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản chủ yếu là những
tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu như: dây chuyền, điện thoại di
động, xe đạp, đồng hồ...
1.3. Quyền đòi lại tài sản.

Theo điều 256, BLDS 2005, quyền đòi lại tài sản chính là việc chủ sở hữu yêu cầu
người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lời về tài sản không có căn cứ
pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của
mình trả lại tài sản.
- Không phải lúc nào chủ sở hữu cũng có quyền đòi lại tài sản, theo điều này thì
chủ sở hữu không được đòi lại tài sản trong các trường hợp được quy định tài điều
247, BLDS năm 2005. Đó là trường hợp người chiếm hữu, người được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai, trong thời hạn mười
năm đối với động sản và ba mươi năm đối với bất động sản thì khi đó họ trở thành chủ
sở hữu đối với tài sản đó trừ tài sản thuộc quyền chiếm hữu của nhà nước. Và trường
hợp đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình được quy định tài điều 257 và 258 Bộ
luật dân sự năm 2005.
- Kiện đòi tài sản là một trong các phương thức để bảo vệ quyền của chủ sở hữu
tài sản. Bảo đảm tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Tôn trọng quyền lợi của
chủ sở hữu. Tạo được niềm tin cho các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật
dân sự.
- Theo quy định tại các điều 259, 260, của Bộ luật dân sự, ngoài việc kiện đòi tài
sản thì chủ sở hữu vẫn có thể áp dụng hai phương thức khác là kiện yêu cầu chấm dứt
hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu
(điều 259) và kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (điều 260). Nhưng phương thức kiện
đòi lại tài sản vẫn là phương thức được đa số chủ thể áp dụng, vì đây là phương thức

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 9


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng


thiết thực và hiệu quả hơn so với hai phương thức còn lại. Người đòi lại tài sản không
phải chịu rủi ro khi người phải thực hiện nghĩa vụ không đủ khả năng tài chính hoặc
một số lý do khác.
- Chủ sở hữu muốn đòi lại tài sản phải đáp ứng được các điều kiện sau:
• Phải chứng minh được tư cách chủ sở hữu đích thực đối với tài sản;
• Tài sản đó hiện đang còn tồn tại;
• Người đang chiếm giữ tài sản là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
- Như vậy, sự ghi nhận của pháp luật đối với phương thức bảo vệ quyền sở hữu
này đã thể hiện thái độ tôn trọng và bảo vệ tuyệt đối của Nhà nước đối với các quan hệ
sở hữu hợp pháp.
1.3.1. Quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình.
Quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình được quy định trong điều 257
và 258, BLDS 2005, đó là:
• Theo điều 257, BLDS, đòi lại tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở
hữu từ người chiếm hữu ngay tình. Mặc dù là người chiếm hữu ngay tình nhưng chủ
sở hữu vẫn có quyền đòi lại động sản từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp
người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền
bù với người không có quyền định đoạt tài sản. Đây là trường hợp người chiếm hữu
ngay tình nhận được tài sản qua hợp đồng tặng cho động sản đối với người đang chiếm
hữu động sản của chủ sở hữu. Khi chủ sở hữu chuyển giao cho người chiếm hữu hợp
pháp, người chiếm hữu đó cho tặng người thứ ba, thì khi chủ sở hữu kiện đòi người
thứ ba phải trả lại động sản đó. Theo nguyên tắc, chủ sở hữu đã chuyển giao cho người
chiếm hữu bằng một giao dịch, cho nên nguời muợn, thuê phải chịu trách nhiệm theo
hợp đồng với chủ sở hữu khi chuyển dịch động sản cho người thứ ba. Tuy nhiên
trường hợp này, người thứ ba có động sản thông qua giao dịch không đền bù, vì thế
nếu phải trả lại cho chủ sở hữu thì cũng không bị thiệt hại về động sản, cho nên luật
dân sự cho phép chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản. Trường hợp thứ hai là hợp đồng có
đền bù thì chủ sở hữu được đòi lại động sản trong trường hợp động sản rời khỏi ngoài
ý chí của chủ sở hữu. Những động sản rời khỏi ngoài ý chí của chủ sở hữu là những

động sản bị chiếm đoạt trái pháp luật như bị trộm cắp, cướp giật, lừa đảo và những
động sản của chủ sở hữu mà người khác có được từ việc vô tình nhặt được, chủ sở
hữu để quên... nhưng không thông báo để chủ sở hữu biết về tài sản hoặc không báo
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền như luật định. Vì vậy chủ sở hữu được đòi lại tài

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 10


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

sản trong trường hợp này là chính đáng do người đang chiếm hữu tài sản đã có động
cơ bất hợp pháp để chếm hữu tài sản.
• Theo điều 258, BLDS 2005, đây là trường hợp chủ sở hữu được đòi lại động
sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản. Nhưng trừ trường hợp người thứ ba
chiếm hữu ngay tình có được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với
người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu
tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định
bị hủy, sửa. Điều này thể hiện nội dung: chủ tài sản có quyền đòi lại tài sản có đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình. Có nghĩa là tài sản đã được chủ đăng ký
quyền sở hữu thì dù cho người thứ ba chiếm giữ có căn cứ pháp luật cũng vẫn phải trả
lại tài sản cho chủ sở hữu. Vì tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì khi chuyển giao có
người khác cần phải làm thủ tục sang tên, đổi chủ tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Vì thế nếu chủ sở hữu không chuyển quyền sở hữu thì người ngay tình không
thể có quyền sở hữu đối với tài sản mình đang chiếm hữu.
1.4. Quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản.
Song song với việc các quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu

tài sản thì Bộ luật dân sự cũng có những quy định bảo vệ quyền lợi của người thứ ba
ngay tình khi chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản.
Quyền lợi của người thứ ba ngay tình sẽ được bảo vệ trong các trường hợp được
quy định tại điều 257, 258 và 247 của BLDS 2005. Cụ thể:
- Trong điều 257, người thứ ba ngay tình chiếm hữu tài sản trong trường hợp là
hợp đồng có đền bù và không thuộc các trường hợp tài sản bị lấy cắp, bị mất hoặc
trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu. Hơn nữa nếu trường hợp
người thứ ba ngay tình đã bị chủ sở hữu đòi lại tài sản thì họ vẫn có quyền yêu cầu đòi
người đã trực tiếp xác lập với họ bồi thường thiệt hại. Giá trị khi bồi thường thiệt hại
là giá trị tương ứng với tài sản mà họ đã xác lập giao dịch và các thiệt hại khác nếu có
như hệ số trượt giá của tài sản. Đây là quy định hoàn toàn hợp lý vì khi người thứ ba
ngay tình xác lập giao dịch này đã trên sự tự nguyện, chân thành và mong muốn thực
hiện giao dịch nhưng họ đã bị lừa dối và mục đích của họ không xác lập được, họ
muốn có tài sản nhưng tài sản đã trả về cho chủ sở hữu vì thế họ có quyền đòi lại
những thứ họ đã xác lập trong giao dịch.
- Trong điều 258 BLDS 2005, nếu chủ sở hữu đòi lại tài sản là động sản phải
đăng ký quyền sở hữu và bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình nhưng những tài

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 11


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

sản này người chiếm hữu ngay tình có được thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với
người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu
mà sau đó bản án hoặc quyết định bị hủy, thì người chiếm hữu ngay tình có quyền sở

hữu đối với tài sản. Những người sở hữu tài sản trong trường hợp này hoàn toàn hợp
pháp và không có lỗi. Thực chất khi họ thực hiện giao dịch thì họ biết được tài sản đã
có căn cứ và hơn nữa khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã quyết định trao quyền
sở hữu cho người thứ ba ngay tình thì quyền sở hữu của họ được đảm bảo dù cho
quyết định, bản án có bị sửa đổi.
- Quyền lợi của người thứ ba ngay tình còn được bảo vệ trong điều 247, BLDS
2005, cụ thể: nếu người chiếm hữu ngay tình tài sản được xác lập theo thời hiệu thì
chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản. Quyền lợi của người thứ ba ngay tình vẫn
sẽ được bảo vệ.

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 12


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ

QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI CHỦ SỞ
HỮU KIỆN ĐÒI LẠI TÀI SẢN.
2.1. Những bất trong các quy định pháp lý về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba

ngay tình khi chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản.
-

Điều 258, BLDS năm 2005 quy định: ”Chủ sở hữu được đòi lại bất động sản


trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản thông qua bán đấu
giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu
tài sản đó do bản án, quyết định bị huỷ, sửa”.
- Theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự năm 2004(BLTTDS 2004), bản án,
quyết định của tòa án bị hủy, sửa trong những trường hợp sau đây:
- Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án
cho tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại trong hai trường hợp là:
1. Việc chứng minh thu thập chứng cứ không đúng theo quy định tại chương VII
của BLTTDS 2004 hoặc chưa thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể
thực hiện bổ sung được;
2. Thành phần của HĐXX sơ thẩm không đúng theo quy định của BLTTDS
hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng (Điều 277).
- HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong
quá trình giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp
quy định tại Điều 192 của BLTTDS 2004 (Điều 278).
- Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm lại trong các trường
hợp:
1. Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa thực hiện đầy đủ hoặc không theo
quy định tại chương VII của BLTTDS 2004;
2. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách
quan của vụ án hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật;
3. Thành phần của HĐXX sơ thẩm hoặc phúc thẩm không đúng theo quy định
của BLTTDS hoặc có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng (Điều 299).

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 13



Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

- Hội đồng quyết định hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình
chỉ giải quyết vụ án, nếu các vụ án đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại
Điều 192 của BLTTDS 2004.
- Hội đồng tái thẩm có quyền: Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
để xét sử sơ thẩm lại; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải
quyết vụ án (Điều 309).
- HĐXX phúc thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu tòa án cấp
sơ thẩm quyết định không đúng pháp luật trong các trường hợp:
1. Việc chứng minh và chứng cứ đã thực hiện chưa đầy đủ và không đúng theo
quy định tại chương VII của BLTTDS 2004;
2. Việc chứng minh và thu thập chứng cứ chưa thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm
nhưng tại phiên tòa phúc thẩm đã được bổ sung đầy đủ (Điều 276).
- Theo quy định như vậy của điều luật thì người đọc sẽ hiểu như thế nào về
“quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ở đây là cơ quan nhà nước cụ thể nào có trách nhiệm trong trường hợp này và thẩm
quyền của họ là gì?
Vậy có thể hiểu theo cách tất cả quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
liên quan đến việc xác định ai là chủ sở hữu tài sản đều được xác định là đối tượng tại
điều luật này. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước thì rất
nhiều nếu không quy định rõ ràng sẽ trở thành vấn đề rắc rối trong việc giải quyết các
vụ án về tranh chấp quyền sở hữu và đòi lại tài sản từ người thứ ba chiếm hữu ngay
tình. Và hơn nữa nếu trong trường hợp cả hai cơ quan nhà nước đều có thẩm quyền
cũng ra một quyết định vậy thì phải áp dụng quyết định của cơ quan nào? Ở đây sẽ
không có căn cứ cụ thể để áp dụng. Nếu trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cao hơn ra quyết định công nhận quyền sở hữu tài sản của chủ thể này nhưng cơ quan

nhà nước có thẩm quyền cấp thấp hơn lại đưa ra quyết định đối lập thì lúc này sẽ áp
lấy quyết định của cơ quan nào? Nếu lấy quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cao hơn thì có chắc là quyết định đó đã đúng, đã phù hợp và đã công bằng cho
tất cả các bên chủ thể trong quan hệ pháp luật đó... Hơn nữa sẽ không tránh khỏi các
trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để công

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 14


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

nhận quyền sở hữu tài sản cho một chủ thể mà thực chất họ không phải là chủ sở hữu
tài sản.
- Một vấn đề đặt ra nữa là cho dù các cơ quan nhà nước ra quyết định sai thì chủ
sở hữu vẫn không đòi lại được tài sản. Vậy thì ai là người phải đền bù cho chủ sở hữu
về những thiệt hại họ đã phải chịu khi tốn thời gian cho việc kiện tụng mà vẫn không
lấy lại được tài sản. BLDS 2005 vẫn quy định trường hợp nếu cơ quan nhà nước quyết
định sai hoặc tóa án quyết định bị sai thì phải chịu trách nhiệm dân sự quy định tại
điều 619 và 620 của BLDS 2005. Nhưng thật sự việc quy định trách nhiệm cho các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và tòa án nhưng thật sự cũng chỉ mang tính hình thức và
ở mức độ nhẹ. Vì thật sự nếu trường hợp giá trị tài sản rất lớn thì cơ quan nhà nước
hay tòa án có khả năng để thực hiện nghĩa vụ không và khi đó người chịu thiệt thòi
vẫn là chủ sở hữu tài sản.
-

Bảo vệ quyền đòi lại tài sản được người thứ ba ngay tình xác lập theo thời


hiệu được quy định tài điều 247, BLDS 2005.
“1. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm
đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm
hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ
pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng
không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó.”
- Theo quy định tại điều luật 247, BLDS 2005 thì người chiếm hữu tài sản không
có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình được quyền xác lập sở hữu đối với một tài sản khi
đáp ứng được những điều kiện nhất định theo khoản 1 điều này. Khi quyền sở hữu của
người chiếm hữu được xác lập thì cũng đồng nghĩa với việc chấm dứt quyền sở hữu
đối với người có tài sản bị chiếm hữu.
- Nhưng trên thực tế quy định này còn có nhiều vấn đề. Nếu thời hiệu để người
chếm hữu ngay tình được xác lập quyền sở hữu là 10 năm đối với động sản và 30 năm
đối với bất động sản mà không quy định gì thêm thì đã thật sự hợp lý và có hiệu quả?
- Có rất nhiều câu hỏi đặt ra cho vấn đề này. Thứ nhất nếu trường hợp tài sản là
bất động sản mà một người đã xác lập quyền sở hữu nhưng họ không có lý do để dùng

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 15


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

đến tài sản, không ở tại nơi có tài sản đó trong thời gian dài vượt khỏi thời gian quy

định là 30 năm. Hoặc một người đã thật sự bỏ đi tài sản đó nhưng sau này khi tài sản
đã có giá trị người đó trở lại xác lập quyền sở hữu thì thật sự đã bảo vệ quyền lợi của
người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp này.
- Hơn nữa, điều luật quy định không chặt chẽ và không cụ thể nên tạo điều kiện
cho những người có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách bất hợp pháp.
Bộ luật dân sự 2005 không có điều nào quy định là chủ sở hữu chỉ được chiếm hữu tài
sản trong thời hạn là 30 năm. Do vậy khi chủ sở hữu quay về kiện đòi tài sản từ người
chiếm hữu ngay tình thì họ có thể lấy lý do này và cho rằng mình vẫn là chủ sở hữu
hợp pháp của tài sản đó.
2.2.

Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi chủ sở hữu kiện đòi lại tài
sản_Một số vấn đề thực tiễn.
Một văn bản quy phạm pháp luật muốn đánh giá được hiệu quả của các điều luật

chỉ khi nó được áp dụng vào thực tiễn. Chỉ có thực tiễn mới chứng minh được những
quy định của pháp luật có thật sự gần với thực tế hay chỉ trên lý thuyết. Thực tiễn áp
dụng những quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi chủ sở hữu
kiện đòi lại tài sản của BLDS 2005 vào thực tế còn rất nhiều vấn đề để bàn luận.
Quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình lần đầu tiên được quy
định trong BLDS 2005 đã đánh dấu bước tiến bộ đáng kể, tuy nhiên vẫn tồn tại bất cập
nhất định. Sau đây là những vụ việc xảy ra trong thực tế và cách giải quyết của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
• Vụ kiện thứ nhất:
Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Quyên
Bị đơn: ông Lê Hùng Sơn
Nội dung vụ kiện:
- Ngày 01/11/1994, vợ chồng Ông Lê Hùng Sơn đã làm thủ tục kê khai và được
UBND huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với
tổng diện tích được công nhận là 26.450 m2.

- Ngày 14/03/2002 vợ chồng ông Lê Hùng Sơn đã chuyển nhượng lại một phần
quyền sử dụng đất nêu trên cho bà Trương Mỹ Hoa (diện tích chuyển nhượng là
21.110 m2). Việc chuyển nhượng được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 16


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

Ngày 21/07/2003, UBND huyện Quế Sơn đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho bà Trương Mỹ Hoa đối với toàn bộ diện tích bà nhận chuyển nhượng này.
- Tháng 11/2006 bà Nguyễn Thị Quyên (mẹ ông Sơn) khởi kiện ông Lê Hùng
Sơn và bà Trương Mỹ Hoa đến Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn yêu cầu Tòa án buộc
ông Sơn và bà Hoa phải trả lại toàn bộ phần diện tích mà bà Hoa đã nhận chuyển
nhượng từ ông Sơn. Vì theo bà Nguyễn Thị Quyên trình bày thì phần diện tích đất này
vợ chồng bà được chế độ cũ cấp từ năm 1958. Năm 1978 chồng bà mất không để lại di
chúc. Năm 1987 ông Sơn lấy vợ và ở chung với bà. Đến năm 1995 vợ chồng ông Sơn
và bà Quyên làm chung một căn nhà xây cấp 4, diện tích xây dựng là 186m 2, năm
2001 xây thêm căn nhà kho diện tích 97m 2 để làm ăn buôn bán. Năm 2006, vợ chồng
ông Sơn đi làm ăn nơi khác và giao cho bà Quyên quản lý và sử dụng toàn bộ tài sản
nêu trên. Tháng 10/2006 do bà Hoa giao bán toàn bộ diện tích đất nói trên nên bà
Quyên mới phát hiện ông Sơn đã tự ý kê khai đất của bà và chuyển nhượng cho người
khác. Bà Quyên đã làm đơn khiếu nại đến UBND xã Quế An, trong quá trình hòa giải
tại UBND xã Quế An, bà Quyên đã đề nghị bà Hoa chuyển nhượng lại cho bà Quyên
một phần diện tích đất nêu trên. Tuy nhiên sau đó bà Quyên yêu cầu hủy bỏ biên bản
hòa giải này và khởi kiện ông Sơn, bà Hoa ra tòa.

- Ông Sơn công nhận tài sản trên là của vợ chồng bà Quyên, năm 1993 bà Quyên
đã cho ông toàn bộ diện tích này và ông đã đi kê khai để được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Do là quan hệ mẹ con nên việc tặng cho tài sản giữa ông Sơn và bà
Quyên không lập thành văn bản.
Quyết định:
- Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn đã hai lần xét xử sơ thẩm nhưng cả hai lần đều
tuyên buộc bà Hoa phải trả lại quyền sử dụng diện tích đất nêu trên cho bà Quyên,
đồng thời bà Hoa được quyền khởi kiện ông Sơn bằng một vụ kiện khác khi có yêu
cầu. Bà Hoa đã kháng cáo không chấp nhận nội dung bản án trên, ngày 15/02/2012
TAND tỉnh Quảng Nam đã xét xử lại vụ án trên theo thủ tục phúc thẩm tuyên hủy bản
án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho Tòa án huyện Quế Sơn giải quyết lại theo quy định của
pháp luật.
Bình luận:

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 17


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

- Vụ việc trên đề cập đến vấn đề kiện đòi tài sản từ người thứ ba ngay tình. Cụ
thể trường hợp này là tài sản đang thuộc quyền sở hữu của bà Hoa nhưng bị bà Quyên
kiện đòi lại tài sản. Vậy việc kiện đòi lại tài sản của bà Quyên có đúng với quy định
của pháp luật không và nếu bà Quyên đòi lại tài sản thì quyền lợi của bà Hoa sẽ được
bảo vệ như thế nào?
- Quyết đinh của tòa án nhân dân huyện Quế Sơn đã xét xử và buộc bà Hoa trả lại
quyền sử dụng diện tích đất mà bà đang sử dụng lại cho bà Quyên, đồng thời bà Hoa

được quyền kiện đòi ông Sơn bồi thường thiệt hại cho bà. Xét theo quy định của
BLDS 2005, bà Quyên đã chứng minh được quyền sử dụng đất của mình đối với mãnh
đất do ông Sơn đang đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên tòa án
quyết định như trên đối với vụ việc này thì đây là quyết định phù hợp theo quy định
của pháp luật.
- Nhưng ở đây nếu xét theo điều 258, BLDS 2005 thì vụ việc này có thuộc trường
hợp theo quy định của điều luật này hay không? Trong trường hợp này, việc UBND
huyện Quế Sơn đã cấp giấy chứng nhận cho bà Hoa là có hợp lý hay là sai theo quy
định của BLDS 2005? Theo quy định của luật đất đai thời kỳ này thì không bắt buộc
bà Quyên phải đi đăng ký quyền sử dụng đất và việc bà Quyên chứng minh được lô
đất này là do vợ chồng bà tạo lập từ năm 1958 nên mãnh đất này thuộc quyền sử dụng
của bà. Nhưng khi ông Sơn đến làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cơ quan có
thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất đã không tìm hiểu rõ về quyền sử dụng đất của
ông Sơn mà đã cấp giấy chứng nhận quyên sử dụng mãnh đất của bà Quyên cho ông
Sơn. Ở đây, quyết định của UBND huyện Quế Sơn đã sai và không phù hợp với quy
định trong trường hợp này. Vậy việc tòa án nhân dân huyện Quế Sơn quyết định như
vậy là đang vô tình làm trái theo quy định tại điều 258, bộ luật này.
- Trong trường hợp này, TAND huyện Quế Sơn đã không xem xét lại hiệu lực
trong quyết định của UBND huyện Quế Sơn về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Sơn nên dẫn đến việc ra quyết định có lợi cho bà Quyên. Nhưng xét
theo điều 258 thì tòa án nên giải quyết theo quy định bảo vệ quyền lợi cho người thứ
ba ngay tình là bà Hoa. Vì khi bà Hoa xác lập giao dịch với người đang sở hữu tài sản
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hợp lý theo quy định của pháp
luật. Bà Hoa hoàn toàn không biết và không thể biết việc cơ quan nhà nước đã sai

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 18



Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

trong việc cấp giấy chứng nhận cho ông Sơn. Vì thế bà Hoa không có lỗi trong trường
hợp này. Vậy theo quy định tại điều 258 bà Hoa sẽ được công nhận quyền sử dụng đối
với mãnh đất bà đã mua và tòa không công nhận việc kiện đòi lại tài sản của bà
Quyên. Còn việc UBND huyện Quế Sơn đã quyết định sai thì phải chịu trách nhiệm
theo điều 619, BLDS 2005.
- Trường hợp này nếu thật sự làm theo quy định tại điều 258, BLDS 2005 thì bà
Hoa được bảo vệ quyền lợi. Nhưng trên thực tế từ vụ án cho thấy, TAND có thẩm
quyền đã không xét đến quy định của điều này. Quyết định cuối cùng của tòa án đã
không bảo vệ được quyền lợi thật sự của người thứ ba ngay tình. Thực tiễn cho thấy
việc luật quy định là thế nhưng khi áp dụng vào thực tế thì khó có được sự công bằng
cho người thứ ba ngay tình trong những trường hợp chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản. Vì
những trường hợp liên quan đến các quyết định của cơ quan nhà nước và việc nếu
quyết định của các cơ quan này sai thì cũng rất khó khăn trong việc các cơ quan chấp
nhận lỗi sai thuộc về mình và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Hơn nữa, việc không
quy định cụ thể về cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quy định tại điều 258,
BLDS 2005 nên dẫn đến việc khi TAND xét xử sẽ không tìm hiểu hoặc không xét đến
các quyết định của cơ quan nhà nước trước đó liên quan đến quyền sở hữu tài sản của
chủ sở hữu.
• Vụ kiện thứ hai:
Nguyên đơn: Nguyễn Văn An
Bị đơn: Châu Văn Hòa
Nội dung vụ kiện:
- Ngày 11/1/2014, anh Nguyễn Văn An gởi đơn lên TAND quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng kiện đòi lại tài sản là một chiếc máy tính hiệu HP 1254, màu đen
đang được anh Châu Văn Hòa sở hữu. Với lý do, anh An cho rằng anh Hòa chiếm hữu
không hợp pháp tài sản của anh. Anh An đã bị mất chiếc máy tính vào ngày 10/5/2013 và

anh đã đến báo tại cơ quan Công an quận Ngũ Hành Sơn. Tại TAND quận Ngũ Hành
Sơn, anh An đã cung cấp những giấy tờ lúc mua tài sản bao gồm: hóa đơn tính tiền mang
tên anh và chiếc máy tính được đăng ký dưới tên của anh. Như vậy anh An đã chứng
minh được quyền sở hữu của mình với chiếc máy tính mà anh Hòa đang sử dụng.

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 19


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

Về phía người đang chiếm hữu tài sản là anh Hòa thì anh công nhận răng chiếc máy
tính là do anh Hòa mua lại từ một người thanh niên vào ngày 25/7/2013. Nhưng vì giá trị
của chiếc máy tính không lớn và không xác lập quyền sở hữu nên anh Hòa đã mua chiếc
máy tính này. Và anh Hòa không có bất cứ giấy tờ nào chứng minh quyền sở hữu đối với
chiếc máy tính.
Quyết định:
- Sau khi xem xét tất cả chứng cứ và giấy tờ liên quan cũng như lời khai của các
bên ngày 30/1/2014, TAND quận Ngũ Hành Sơn ra quyết định anh Hòa phải trả lại tài sản
là chiếc máy tính HP 1254 do anh đang sử dụng lại cho anh An_người chứng minh được
là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc máy tính.
Bình luận:
- Theo quy định tại điều 257, BLDS 2005, đây là trường hợp chủ sở hữu được
quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình khi tài sản bị lấy cắp. Anh Hòa là
người mua lại chiếc máy tính đã bị lấy cắp, mặc dù hợp đồng anh Hòa xác lập là hợp
đồng có đền bù nhưng vẫn không được bảo vệ vì tài sản là chiếc máy tính đã rời khỏi
ngoài ý chỉ của chủ sở hữu tài sản là anh An. Vậy việc tòa án ra quyết định trả lại tài sản

cho anh An là hoàn toàn đúng với quy định của pháp luật hiện hành. Nhưng quyết định
này đã không bảo vệ được quyền lợi của người chiếm hữu ngay tình là anh Hòa. Vì trong
trường hợp này anh Hòa xác lập giao dịch hoàn toàn chân thành và không có sự gian dối
nhưng anh vẫn không được pháp luật bảo vệ. Pháp luật dân sự có quy định anh Hòa sẽ
yêu cầu người xác lập giao dịch với anh trả lại giá trị tài sản và bồi thường thiệt hại nhưng
trong thực tế việc này rất khó thực hiện được.
- Thứ nhất: vì người xác lập giao dịch với anh Hòa là người đã trộm cắp tài sản, rất
khó để tìm thấy họ để yêu cầu bồi thường. Thứ hai nếu thật sự có tìm được người đó thì
họ có đủ khả năng tài chính để bồi thường cho anh. Và vì vậy sẽ rất khó khăn trong việc
bảo vệ quyền cho người thứ ba ngay tình. Việc đòi lại được giá trị tài sản đã rất khó còn
nếu cứ tiến hành kiện tụng thì lại tốn thời gian, chi phí và có đòi lại được tiền cũng rất lâu.
Dẫn đến hậu quả dù người thứ ba ngay tình xác lập giao dịch đúng pháp luật vẫn bị “tiền
mất tật mang”.

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 20


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI CHỦ SỞ HỮU KIỆN ĐÒI LẠI TÀI SẢN.
Để phát triển được đất nước về tất cả các phương diện. Tạo điều kiện thuận lợi
cho việc mở cửa trong nền kinh tế thị trường, phát triển kinh tế, đưa đất nước ta ngày
càng giàu mạnh và mục tiêu cao cả là nâng cao đời sống cho nhân dân, đảm bảo quyền
con người, quyền và lợi ích của nhân dân theo quy định của Hiến Pháp hiện hành nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đòi hỏi pháp luật của Nhà nước cần phải chặt
chẽ, công bằng, bảo vệ được những chủ thể trong các quan hệ xã hội và phù hợp với
tình hình đất nước.
Qua phân tích từ các chương trên, dưới góc độ nghiên cứu của đề án, sau đây là
một số kiến nghị mang tính chủ quan để góp phần hoàn thiện hơn chế định về bảo vệ
quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản.
3.1.

Kiến nghị phương hướng.
3.1.1. Cần có biện pháp bảo vệ người thứ ba ngay tình mạnh mẽ hơn.
- Pháp luật mà cụ thể là Bộ luật dân sự cần có những quy định chặt chẽ về quyền
lợi của người thứ ba ngay tình nhằm đảm bảo sự ổn định của các quan hệ dân sự tránh
gây nhiều xáo trộn, đồng thời nhằm thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển trong điều kiện
kinh tế thị trường.
- BLDS 2005 đã không bảo vệ được quyền lợi hợp pháp, chính đáng triệt để cho
người mua tài sản trong trường hợp họ là người thứ ba ngay tình. Điều 138 BLDS
2005 chỉ bảo vệ được người thứ ba ngay tình trong hai trường hợp: Thứ nhất, khi giao
dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở
hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao
dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực. Thứ hai, khi người thứ ba ngay tình nhận được
bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu thông qua bán đấu giá hoặc
giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản
án, quyết định bị hủy, sửa.
- Tuy nhiên, quá trình thực thi cho thấy quy định hiện hành chưa bảo vệ một cách
triệt để quyền lợi của người thứ ba khi mà việc giao dịch của họ là thiện chí, ngay tình và
trong một số trường hợp chưa bảo đảm được tính ổn định của các giao dịch dân sự.

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo


Trang 21


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

- Bộ luật dân sự nên tạo cơ sở pháp lý để công nhận quyền của người thứ ba đối
với tài sản khi xác lập giao dịch với người đang chiếm hữu tài sản đó.
- Đất nước càng phát triển thì kéo theo sự phát triển của nên kinh tế. Mà kinh tế
lớn mạnh thì buôn bán, kinh doanh sẽ không ngừng phát triển những giao dịch trong
tất cả lĩnh vực từ dân sự, thương mại đến dịch vụ. Nếu quy định pháp luật chặt chẽ thì
những người tham gia giao dịch sẽ không phải e dè về việc bị thiệt hại do sự thiết
chính xác và chặt chẽ của pháp luật. Thay vào đó, những chủ thể trong giao dịch dân
sự, thương mại sẽ mạnh dạn trong các giao dịch, mạnh dạn đưa tài sản của mình vào
lưu thông kinh tế, những người làm kinh doanh sẽ mạnh dạn đầu tư, buôn bán, trao
đổi, giao dịch vì họ tin rằng quyền lợi của họ sẽ được pháp luật bảo vệ một các chính
đáng. Điều đó, còn thúc đẩy mạnh việc các nhà đầu tư nước ngoài sẽ vào Việt Nam để
kinh doanh, buôn bán nhiều hơn và phổ biến hơn.
3.1.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về thiết chế đăng ký tài sản.
- Đối với các giao dịch dân sự mà đối tượng giao dịch là tài sản đã được đăng ký
quyền sở hữu và người thứ ba căn cứ vào tình trạng đã đăng ký của tài sản để thực
hiện việc giao dịch, thì về nguyên tắc cần phải đảm bảo quyền lợi cho họ mới đảm bảo
được tính công bằng, khách quan.
- Việc đăng ký quyền sở hữu đối vời tài sản là việc vô cùng cần thiết. Nó không
những bảo vệ được quyền lợi của chủ sở hữu mà còn bảo vệ được quyền lợi cho
người thứ ba ngay tình trong những trường hợp khi có tranh chấp và khi người thứ ba
ngay tình thực hiện các giao dịch với người đã thực hiện giao dịch với chủ sở hữu
trước đó. Tránh tình trạng lạm dụng làm giấy tờ giả. Vì thực tế cho thấy, có những
trường hợp người thứ ba ngay tình thực hiện những giao dịch đối với tài sản có đăng

ký quyền sở hữu nhưng bị những đối tượng lừa đảo làm giấy tờ giả thì những người
ngay tình hoàn toàn không biết được và khi bị đòi tài sản thì họ chịu thiệt thòi nặng nề.
- Hơn nữa, quy định việc đăng ký quyền sở hữu rõ ràng còn giúp cho Tòa án có
căn cứ xác thực để giải quyết tranh chấp và đưa ra quyết định hợp lý bảo vệ quyền lợi
của các bên chủ thể.
3.2. Giải pháp hoàn thiện.

3.2.1. Quy định cụ thể hơn quy định tại điều 258 Bộ luật dân sự 2005.
- Điều 258 BLDS 2005 quy định:

“Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản,
trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua
SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 22


Đề án môn học

GVHD: Lê Thị Thu Hằng

bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ
sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.”.
- Cần quy định vấn đề “người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản
thông qua bán đấu giá thì chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản” cụ thể hơn về
các trường hợp nhận được tài sản thông qua bán đấu giá. Trường hợp thực tế xảy ra từ
quy định trên:
+ Nếu người tham gia bán đấu giá tài sản và nhận được tài sản trong trường hợp
tài sản bị chiếm hữu trái pháp luật và làm giả giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu sau đó

đem ra đấu giá. Trình tự, thủ tục đúng với quy định bán đấu giá tài sản tại Nghị định
05/2005/NĐ-CP của Chính phủ, sau đó giao dịch lại với người thứ ba ngay tình. Trong
trường hợp này người tham gia đấu giá và người thứ ba ngay tình hoàn toàn không biết
và không thể biết về nguồn gốc của tài sản.
- Theo quy định tại Điều 32 Nghị định 05/2005/NĐ-CP của Chính Phủ về bán
đấu giá tài sản và điểm 7, Thông tư 03/2005/TT-BTP ngày 4/5/2005 của Bộ Tư pháp
hướng dẫn Nghị định 05/2005/NĐ-CP thì trường hợp trên kết quả bán đấu giá bị hủy.
Nhưng theo quy định của BLDS 2005 thì chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ
người chiếm hữu ngay tình. Vậy đã có sự mâu thuẫn giữa hai điều luật. Trong trường
hợp này quy định của pháp luật cho phép áp dụng quy định của BLDS 2005, nghĩa là
chủ sở hữu không được quyền đòi lại tài sản. Vậy thì quy định này có thật sự đã công
bằng chưa khi giao dịch là tài sản vi phạm pháp luật vẫn được công nhận và chủ sở
hữu không được đòi lại tài sản.
- Nhận thấy được những thiếu xót trong các quy định pháp luật nên văn bản sửa
đổi Bộ luật dân sự năm 2005 đã có những quy định chặt chẽ hơn. Cụ thể: BLDS sửa
đổi đã quy định cụ thể hai trường hợp bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình
trong trường hợp tài sản phải đăng ký quyền sở hữu:
1. Nếu tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó đã được đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình và
người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì việc chiếm
hữu của người thứ ba ngay tình được chấp nhận và chủ sở hữu không thể đòi lại tài
sản.

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 23


Đề án môn học


GVHD: Lê Thị Thu Hằng

2. Nếu tài sản phải đăng ký quyền sở hữu nhưng tài sản đó chưa được đăng ký tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác
với người thứ ba ngay tình thì việc chiếm hữu của người thứ ba không được chấp nhận
và chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản, trừ trường hợp người này nhận được tài sản
thông qua bán đấu giá nhưng phù hợp với quy định của pháp luật về bán đấu giá.
- Bên cạnh việc mâu thuẫn trong quy định về bán đấu giá và nên hoàn thiện thì
quy định chưa rõ ràng về trường hợp: “người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được
tài sản này thông qua giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là
chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.”.
- Cần quy định cụ thể về chủ thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết
định, các bản án đối với việc quyết định người đã thực hiện giao dịch với người thứ ba
ngay tình là chủ sở hữu tài sản. Thẩm quyền ra quyết định, bản án của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong trường hợp chủ sở hữu kiện đòi tài sản
có đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình. Cụ thể:
“Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản trừ
trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản thông qua giao dịch
với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đã xác định là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là
chủ sở hữu tài sản đó do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.”.

3.2.2. Tham khảo, so sánh để hoàn thiện những quy định pháp luật từ những
quy định pháp luật tiến bộ của các nước trên thế giới quy định về cùng vấn đề
trong luật Việt Nam.
- Việc tham khảo những quy định trong pháp luật của các nước trên thế giới là
điều kiện phương thức hiệu quả để hoàn thiện pháp luật trong nước. Những nhà làm
luật Việt Nam nên tham khảo những quy định của pháp luật các nước trên thế giới,
ứng dụng vào thực tiễn Việt Nam và sau đó phát triển thành những quy phạm pháp

luật phù hợp với tình hình hiện tại của đất nước.

C – PHẦN KẾT LUẬN

SVTH: Võ Thị Thanh Thảo

Trang 24


×