Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO NHẬN DIỆN CHỦ NGHĨA cơ hội TRONG QUỐC tế II VÀ và đấu TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA cơ hội ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.96 KB, 28 trang )

1

NHẬN DIỆN CHỦ NGHĨA CƠ HỘI TRONG QUỐC TẾ II VÀ ĐẤU
TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

MỞ ĐẦU
Đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội đã trở thành một quy luật vận động
và phát triển của phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, đó là cuộc đấu
tranh tất yếu để bảo vệ sự trong sáng, tính cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa
Mác và để hiện thực hóa trong cuộc sống, trong thực tiễn vận động cách mạng
của giai cấp công nhân. Những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã
đấu tranh không khoan nhượng trước quan điểm của chủ nghĩa cơ hội. Thắng
lợi của cuộc đấu tranh ấy có ý nghĩa to lớn đối với phong trào công nhân quốc
tế và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa cơ hội hiện nay.
Những kẻ cơ hội chủ nghĩa rất tinh vi và xảo quyệt, bằng trực quan
chúng ta khơng thể xét đốn được bộ phận nào trong giai cấp cơng nhân có
chủ nghĩa cơ hội. Vì vậy muốn loại trừ chủ nghĩa cơ hội, vừa phải đấu tranh
mạnh mẽ, vừa phải đi sâu, sát quần chúng, vào phong trào công nhân để hiểu
rõ, hiểu đúng từng loại chủ nghĩa cơ hội. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa Mác
là lịch sử của đấu tranh chống lại chủ nghĩa cơ hội xét lại, do đó nhận diện chủ
nghĩa cơ hội trong từng giai đoạn lịch sử có ý nghĩa hết sức quan trọng để
những người cộng sản chủ động đấu tranh giữ vững sự trong sạch của đội ngũ,
tính khoa học cách mạng của học thuyết Mác- Lênin đảm bảo luôn là kim chỉ
nam dẫn dắt hoạt động thực tiễn trong sự nghiệp giải phóng con người khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.


2


I. BẢN CHẤT VÀ NGUỒN GỐC CỦA CHỦ NGHĨA CƠ HỘI
TRONG QUỐC TẾ II.
1. Sự ra đời của Quốc tế II và bản chất, nguồn gốc của chủ nghĩa cơ
hội trong quốc tế II
Chủ nghĩa cơ hội xuất hiện ở trong hàng ngũ những người Dân chủxã hội vào năm 1875, việc sát nhập hai tổ chức “Tổng hội liên hiệp công nhân
Đức” của Látsan vào Đảng “Dân chủ - xã hội Đức” do Liếpnếch lãnh đạo
thành Đảng “Công nhân dân chủ-xã hội Đức” tại Gô ta với cương lĩnh sai lầm
về đường lối thỏa hiệp hữu khuynh, nhượng bộ phái Lát san, đã làm xuất hiện
mầm mống chủ nghĩa cơ hội. Đối với Látsan cương lĩnh về chính trị là đấu
tranh cho quyền phổ thông đầu phiếu, cương lĩnh về kinh tế là địi thành lập
các nghiệp đồn do nhà nước tự cấp. Phái Latsan là tiền thân của chủ nghĩa cơ
hội trong Đảng công nhân xã hội dân chủ Đức và tư tưởng của phái này là một
trong những nguồn gốc của chủ nghĩa cơ hội.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp tư bản sau năm 1870 đã là cho
giai cấp vô sản các nước tăng nhanh về số lượng và chất lượng. Sau công xã
Pari 1871 quốc tế I giải tán. Phong trào công nhân bắt đầu thời kỳ mới tập hợp
lực lượng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh tương lai chống chủ nghĩa tư bản.
Đảng của giai cấp công nhân Đức thành lập năm 1869- Đảng xã hội dân chủ
Đức- trở thành chính Đảng đầu tiên và có vai trị to lớn trong phong trào cơng
nhân quốc tế. Cùng với đó là sự thành lập các đảng công nhân ở các nước Hà
Lan (1870), Đan Mạch (1871), Mĩ (1876), Pháp (1879), Tây Ba Nha (1879),
Nhóm giải phóng lao động ở Nga (1883), Bỉ (1885), Na Uy( 1887). Sự ra đời
của các chính Đảng cơng nhân dù còn nhiều mặt hạn chế cũng đánh dấu việc
lớn lên của phong trào công nhân các nước.
Phong trào công nhân quốc tế so với thời kỳ trước công xã đã phát triển
rộng rãi hơn, hoạt động trên phạm vi lớn hơn ở nhiều nước tạo nên mảnh đất


3


tốt cho chủ nghĩa Mác thâm nhập. Nhưng nhiều người lãnh đạo phong trào
cơng nhân cịn mang tư tưởng cơ hội chủ nghĩa nặng nề. Những người theo
chủ nghĩa Mác như Bêben, Liếpnech, Ghenxơ, Laphácgơ….dưới sự lãnh đạo
của Ănghen đã vạch ra kế hoặch tổ chức một quốc tế mới mang tính tổ chức
và tính nguyên tắc cao. Ănghen đã nhắc các lãnh tụ quốc tế phải đề phòng bọn
cơ hội ở Anh, Pháp. Như vậy là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa cơ hội và
những người Mác xít đã diễn ra quyết liệt ngay từ đầu.
Ngày 14-7-1889 ngày kỷ niệm 100 năm phá ngục Baxti, hai hội nghị
quốc tế, một của phái Mácxit, một của phái “có thể” đều khai mạc ở Pari. Đại
hội của phái “có thể” tuy có 606 đại biểu nhưng 524 đại biểu là người Pháp.
Do đó đại hội do họ triệu tập khơng thể trở thành lực lượng lãnh đạo phong
trào công nhân quốc tế.
Quốc tế II được thành lập tại đại hội do những người Mácxit triệu tập.
Đại hội gồm 395 đại biểu, đại diện cho hầu hết phong trào công nhân Châu
Âu, có cả đại biểu Mĩ, Achentina tham dự.
Đại hội Pari 1889 có ý nghĩa lịch sử đặc biệt. Nó khơi phục tổ chức
quốc tế của phong trào công nhân, tiếp tục sự nghiệp đấu tranh cho thắng lợi
của chủ nghĩa Mác.
Trong thời kỳ đầu của Quốc tế II, Ănghen trực tiếp lãnh đạo, cuộc đấu
tranh về tư tưởng trong Quốc tế II. Đấu tranh chống phái vơ chính phủ trở
thành đấu tranh tư tưởng chính từ đại hội I Pari (1889) qua đại hội II ở
Bruyxen, đại hội III ở Xuyrich, và kết thúc căn bản ở đại hội IV ở Luân Đôn
(1896).
Năm 1895 Ăngghen mất, gây nên một tổn thất to lớn cho phong trào
công nhân. Bọn cơ hội xét lại dần chiếm ưu thế trong Quốc tế II. Chủ nghĩa
Đế quốc đã tạo những tiền đề xã hội cho chủ nghĩa cơ hội tồn tại và phát triển.
Cuối thế kỷ XIX, các đảng trong Quốc tế II dần dần thành các đảng cải lương.


4


Trong những năm đầu thế kỷ XX, cuộc đấu tranh tư tưởng trong Quốc
tế II diễn ra găy gắt và phức tạp. Những vấn đề chính được thảo luận trong các
đại hội tập trung: phương pháp giành chính quyền, vấn đề thuộc địa, vấn đề
thái độ với cách mạng Nga 1905, về chủ nghĩa quân phiệt và nguy cơ chiến
tranh. Một trong những vấn đề quan trọng thuộc về chiến lược và sách lược
của các Đảng xã hội là vấn đề thái độ của công nhân đối với nghị viện và
chính phủ tư sản, vấn đề chính quyền của giai cấp công nhân.
Vấn đề đấu tranh nghị trường, vấn đề giành chính quyền về tay giai cấp
vơ sản, các lãnh tụ Quốc tế II say sưa với chiến thắng đạt được trong các cuộc
bầu cử ở các nước tư bản, tuyên truyền con đường hòa hợp cải lương, chỉ chủ
trương đấu tranh hợp pháp, họ coi đấu tranh nghị trường, tham gia chính phủ
tư sản là biện pháp duy nhất và chủ yếu đem lại khả năng giàng chính quyền
thống trị cho giai cấp công nhân. Về cơ bản họ chỉ tiến hành đấu tranh đòi cải
cách vụn vặt mà hy sinh quyền lợi lâu dài của giai cấp công nhân, lừa dối giai
cấp công nhân. Giai đoạn này đa số các lãnh tụ Quốc tế II đã lộ rõ lập trường
đầu hàng, khơng dám đề ra những hình thức đấu tranh cách mạng giành chính
quyền, thiết lập chuyên chính vô sản. Quốc tế II đã bị lũng đoạn bởi chủ nghĩa
cơ hội do Bécstanh và Cauxky đứng đầu.
Bécstanh (1850-1932) cơng khai địi xét lại chủ nghĩa Mác một cách
tồn diện. Bécstanh xuất bản cuốn sách có tên “Tiền đề của chủ nghĩa xã hội
và nhiệm vụ của đảng xã hội dân chủ”. Trong cuốn sách đó Bécstanh tuyên bố
học thuyết Mác đã lỗi thời, chứng minh mâu thuẫn giữa tư sản và vơ sản có
chiều hướng hịa hỗn, lên tiếng bênh vực chủ nghĩa đế quốc, chứng minh
rằng các tổ chức lũng đoạn xuất hiện sẽ làm cho chủ nghĩa tư bản có thể tránh
được khủng hoảng.
Đối với phong trào công nhân, Bécstanh chủ trương “Phong trào là tất
cả, mục đích cuối cùng là khơng đáng kể”, phủ nhận quan điểm giai cấp công



5

nhân phải làm cách mạng, phủ nhận chun chính vơ sản. Bécstanh đã sửa đổi
chủ nghĩa Mác về mặt triết học, kinh tế chính trị học và học thuyết đấu tranh
giai cấp. Chúng phủ nhận và cho rằng chủ nghĩa Mác là một học thuyết giáo
điều và đã lạc hậu. Thực chất là phủ nhận chủ nghĩa Mác.
Bécstanh lý luận rằng dưới chế độ tư bản, công nhân không bị bần cùng
hóa mà cịn được thường xun cải thiện điều kiện hoạt động như với giai cấp
tư sản tự do, nhờ đó mà đã thu được những thắng lợi to lớn trong các cuộc
tuyển cử và hoạt động nghị trường.
Đối với vấn đề thuộc địa các nước đế quốc đang tiến hành các cuộc
chiến tranh xâu xé thị trường. Ở các đại hội Ln đơn (1896), Pari (1900),
Stutga (1907) thì các vấn đề liên quan đến tình hình quốc tế này, thì Quốc tế II
khơng thể làm ngơ. Họ phải tỏ rõ thái độ của giai cấp công nhân. Đại hội Pari
(1900) đã có nghị quyết đúng đắn lên án chính sách thuộc địa của chủ nghĩa
đế quốc. Nghị quyết kêu gọi đấu tranh chống lại các cuộc phiêu liêu thuộc địa,
kêu gọi thành lập các đảng Xã hội ở các thuộc địa và thống nhất hành động
với các đảng đó. Đến đại hội Stutga (1907) vấn đề thuộc địa trở thành vấn đề
tranh luận sôi nổi nhất và qua đó lột trần bộ mặt thật của các đại biểu cơ hội.
Các đại biểu là Vancon, Fonma, Bécstanh đã bênh vực chủ nghĩa thực dân,
bênh vực chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc. Họ cho rằng chế độ
thuộc địa có thể tồn tại và nên tồn tại trong chế độ tư bản chủ nghĩa để “khai
hóa”các nước lạc hậu. Theo họ những người xã hội cũng có thể và cần phải
thực hiện “chính sách thuộc địa xã hội chủ nghĩa”. Bécstanh cho rằng sự bảo
hộ của các dân tộc văn minh đối với các dân tộc không văn minh là cần thiết.
Như vậy bọn cơ hội trong Quốc tế II đã cơng khai thừa nhận và ủng hộ
chính sách nô dịch dân tộc của chủ nghĩa đế quốc, chống lại nguyên tắc về
quyền dân tộc tự quyết, về quyền đấu tranh vì độc lập tự do của các dân tộc bị



6

áp bức. Những quan điểm của các lãnh tụ cơ hội trong Quốc tế II hoàn toàn xa
lạ với chủ nghĩa Mác về vấn đề thuộc địa.
Trước những vấn đề cơ bản đó, những người lãnh đạo Quốc tế II bị
phân chia thành ba phái:
Phái cơ hội xét lại-cải lương cơng khai như Bécstanh thì cực lực phản
đối quyền lãnh đạo của Đảng vô sản và giai cấp công nhân trong cách mạng
dân chủ tư sản. Bécstanh kiên quyết bác bỏ tư tưởng cách mạng dân chủ
chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Phái giữa đứng đầu là Cauxky đi theo quan điểm cơ hội cho rằng giai
cấp vô sản chỉ có thể giành được địa vị lãnh đạo tạm thời và muốn giành thắng
lợi hồn tồn thì giai cấp vô sản phải biến thành đa số trong nhân dân. Phái
giữa không tỏ rõ thái độ trước sự can thiệp của nước ngoài và sự tàn bạo của
Nga hoàng. Họ chống lại hình thức bãi cơng chính trị của giai cấp công nhân.
Thực ra phái giữa về bản chất là đại biểu của chủ nghĩa cơ hội giấu mặt, khoác
áo Mácxit để chống lại những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác. Đó cũng là tư
tưởng của những phần tử cơng nhân q tộc, tiểu tư sản nhằm tìm mọi cách
thỏa hiệp quyền lợi giai cấp vô sản với quyền lợi của giai cấp tư sản, thực chất
là bảo vệ giai cấp tư sản. Causky đưa ra cái gọi là “dân chủ thuần tuý” nhằm
tô son trát phấn cho nền dân chủ tư sản, phủ phục trước nền dân chủ ấy, cho
rằng nó là nền dân chủ cho mọi giai cấp, nó tồn tại vĩnh viễn và ngày càng
hồn thiện. Causky hoàn toàn phủ nhận bạo lực cách mạng. Causky cũng phủ
nhận việc dùng bạo lực để trấn áp sự phản kháng của giai cấp bóc lột sau khi
giai cấp vơ sản đã nắm chính quyền, cho rằng dùng bạo lực là xoá bỏ dân chủ,
là rơi vào những biện pháp cực đoan. Vả lại khi giai cấp vô sản và quần chúng
lao động đã trở thành đa số thì nói đến sử dụng bạo lực là vơ lý, là thừa. Tất cả
những lập luận xét lại đó chỉ nhằm đi tới phủ nhận sự cần thiết phải dùng bạo
lực để đập tan nhà nước tư sản và thiết lập chun chính vơ sản.



7

Như vậy dù có biểu hiện dưới hình thức nào, với tên gọi từng giai đoạn
khác nhau, thì bản chất của chủ nghĩa cơ hội là tư tưởng tư sản, tiểu tư sản
trong phong trào công nhân quốc tế, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cơ bản, lâu dài
của giai cấp cơng nhân vì những lợi ích trước mắt, cục bộ của một nhóm nhỏ,
là sự thoả hiệp đầu hàng trước hệ tư tưởng tư sản và là sự phản bội chủ nghĩa
Mác- Lênin.
Phái tả là phái cách mạng có các đại biểu như Lôrra.Lucxambua, Clara
Xétkin và V.I.Lênin. Họ kiên quyết bảo vệ những nguyên tắc của chủ nghĩa
Mác chống lại mọi trào lưu cơ hội trong phong trào công nhân.
Việc xuất hiện chủ nghĩa cơ hội xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ
XIX địi hỏi phong trào cơng nhân phải có đối sách của mình và cần thiết phải
có một lãnh tụ chỉ đạo phong trào. Vào những năm 1898-1899 một số lãnh tụ
phái tả trong các đảng cơng nhân như Plekhanop,Bêben, Rơra. Lucxembua…..
có lên tiếng phê phán chủ nghĩa xét lại Bécstanh nhưng các cuộc đấu tranh đó
khơng triệt để, kết quả hạn chế do đó chủ nghĩa cơ hội lũng đoạn Quốc tế II và
nó làm cho Quốc tế II chết một cách “nhục nhã”.
Trong bối cảnh đó, những người Mácxit Nga đã dẫn đầu cuộc đấu tranh
chống khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa. Tình hình đó đặt ra cho V.I.Lênin và
những người bạn của ơng là phải truyền bá chủ nghĩa Mác vào phong trào
công nhân Nga để tiến tới thành lập chính đảng cách mạng ở Nga. Năm 1895
tại Pêtécbua, V.I.Lênin đã thống nhất các tổ chức của công nhân và lấy tên
“Hội liên hiệp giải phóng giai cấp cơng nhân”. Đây là tổ chức tiền thân của
Đảng cách mạng dựa vào phong trào công nhân. Nhưng không được bao lâu,
tổ chức này bị Chính phủ Nga Hồng đàn áp. V.I.Lênin và những người lãnh
đạo của Hội bị bắt đưa đi đầy ở Xibêri. Ban lãnh đạo mới của Hội được thành
lập do Máctưnốp đứng đầu, thực chất họ là “phái kinh tế”, quan điểm của họ
đối lập hoàn toàn với V.I.Lênin.Với đường lối chính trị sai lầm, cơ hội cải



8

lương, chủ trương của họ là đấu tranh kinh tế, phủ nhận đấu tranh chính trị.
V.I.Lênin cho rằng “phái kinh tế” là trung tâm của chính sách thoả hiệp và chủ
nghĩa cơ hội. V.I.Lênin đã vạch trần sai lầm của chủ nghĩa Bécstanh và tác hại
to lớn của nó đối với sự nghiệp của giai cấp công nhân. Để nhận diện chủ
nghĩa cơ hội V.I.Lênin đã phân tích nguồn gốc kinh tế và xã hội, kiên quyết
đấu tranh để loại trừ chủ nghĩa cơ hội ra khỏi đảng công nhân.
Khi nói về nguồn gốc của chủ nghĩa cơ hội V.I.Lênin khẳng định tuyệt
nhiên khơng phải là ngẫu nhiên mà nó đều có nguồn gốc của nó. V.I.Lênin đã
chỉ ra chủ nghĩa cơ hội có nguồn gốc kinh tế lịch sử xã hội của nó. Nó xuất
hiện từ rất sớm vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ra đời trong tổ chức của
phong trào công nhân, ngay trong hàng ngũ của những người Mácxít
Trước hết về nguồn gốc kinh tế: Đó là sự mua chuộc của giai cấp tư sản
với tầng lớp trên của giai cấp công nhân bằng hình thức siêu lợi nhuận. Đó là
bộ phận cơng nhân có trình độ chun mơn, tay nghề cao, có uy tín trong tập
thể cơng nhân được giai cấp tư sản sử dụng giúp tư sản trong tổ chức, quản lý
sản xuất, giám sát kỹ thuật. Sau đó bị giai cấp tư sản mua chuộc, chi phối bằng
lợi ích vật chất, hình thành nên tầng lớp cơng nhân “q tộc”. Từ đó bị biến
chất trở thành tay sai cho giai cấp tư sản, tầng lớp công nhân quý tộc này đã
tác động làm cho chủ nghĩa cơ hội phát triển trong phong trào cơng nhân.
Nguồn gốc lịch sử: Đó là thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển tương đối
ổn định và hồ bình, các hình thức đấu tranh nghị trường, đấu tranh trong các
câu lạc bộ là hình thức đấu tranh phổ biến đã làm cho nhiều người lầm tưởng
bản chất của giai cấp tư sản và coi đấu tranh nghị trường là hình thức duy
nhất. Mặt khác do sự phát triển hồ bình, ổn định khơng xảy ra mâu thuẫn
xung đột giữa giai cấp tư sản và giai cấp vơ sản, lợi dụng tình hình đó giai cấp
tư sản đưa những phần tử phản động vào phong trào công nhân để lái phong

trào công nhân đi theo chủ nghĩa cơ hội.


9

Nguồn gốc xã hội: Những năm cuối thế kỉ XIX đánh dấu sự phát triển
chủ nghĩa Mác, lúc này chủ nghĩa Mác đã thắng lợi tuyệt đối với tất cả các hệ
tư tưởng khác của phong trào công nhân. Chủ nghĩa Mác trở thành một hiện
tượng mới lạ trong đời sống chính tri xã hội ở các nước Tây Âu. Chính vì vậy
nó thu hút sự chú ý của các tầng lớp thanh niên trí thức tiểu tư sản gia nhập
Đảng, nhưng họ lại chưa được nghiên cứu kỹ chủ nghĩa Mác, chưa hiểu đúng
chủ nghĩa Mác “mà chỉ biết chủ nghĩa Mác qua từng mẩu vụn vặt trình bày
trong các sách báo hợp pháp”. Điều đó có nghĩa là họ vào đảng một cách tự
phát, cảm tính chứ hồn tồn khơng phải giác ngộ mục tiêu lí tưởng của Đảng,
tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng để hi sinh phấn đấu cho mục tiêu lí
tưởng đó. Họ đã đem vào Đảng tính tự do vơ chính phủ, tâm lí do dự thiếu
kiên quyết của tư tưởng tiểu tư sản mà họ vẫn chưa gột rửa được. Vì vậy khi
phong trào gặp khó khăn, gian khổ thì tất yếu họ sẽ giao động, mất lịng tin,
hồi nghi, từ giã lập trường giai cấp công nhân thỏa hiệp với giai cấp tư sản.
điều này Lênin chỉ ra rất rõ là: Việc tầng lớp “các viện sĩ” tham gia đông đảo
vào phong trào XHCN trong mấy năm gần đây đã đảm bảo cho chủ nghĩa
Bécstanh được phổ biến nhanh chóng.
Về đặc điểm của chủ nghĩa cơ hội
V.I.Lênin cho rằng chủ nghĩa cơ hội được biểu hiện dưới nhiều mầu
sắc, nhiều dạng, loại khác nhau tuỳ theo đặc điểm của từng quốc gia dân tộc,
nhưng chúng giống hệt nhau về nội dung bản chất chính trị xã hội.V.I.Lênin
cho rằng những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội quốc tế hiện đại thay đổi tuỳ
theo đặc điểm dân tộc, nhưng chủ nghĩa cơ hội thì bất cứ ở đâu cũng giống hệt
như nhau về nội dung xã hội và chính trị. Về “phái kinh tế" ở Nga, V.I.Lênin
khẳng định chỉ là sự biến tướng của chủ nghĩa cơ hội xét lại quốc tế, là những

đồ đệ của Bécstanh ở Nga, chúng lấy tự do phê bình và chủ nghĩa Bécstanh
làm điều kiện đồn kết những người dân chủ xã hội Nga. Về hình thức nó


10

được biểu hiện dưới dạng "chủ nghĩa kinh tế" còn về bản chất nội dung chính
trị xã hội giống hệt nhau, nó hiện ngun hình là chủ nghĩa cơ hội xét lại của
Bécstanh. Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa cơ hội nói chung và phái kinh tế ở
Nga nói riêng là về nguyên tắc chúng sợ công bố công khai, sợ phê bình.
Về tư tưởng lý luận chúng tầm thường hoá chủ nghĩa Mác dẫn đến bất
lực và đồng lõa với những quan điểm tư tưởng phản động "chủ nghĩa
Bécstanh và phái "phê bình" mà phần lớn những người Mácxít hợp pháp đều
lũ lượt đi theo, đã tước mất khả năng ấy và làm bại hoại ý thức xã hội chủ
nghĩa bằng cách tầm thường hoá chủ nghĩa Mác, bằng cách truyền bá cái
thuyết cho rằng những đối kháng xã hội đang giảm dần đi, bằng cách tuyên bố
rằng tư tưởng về cách mạng xã hội và chuyên chính vơ sản là phi lý.
Về quan điểm chính trị chúng chủ trương thu hẹp và hạ thấp cuộc đấu
tranh chính trị, thực chất là hạ thấp chính trị xã hội chủ nghĩa xuống trình độ
cơng liên chủ nghĩa, như vậy hạ thấp mục tiêu đấu tranh của phong trào công
nhân, từ bỏ cách mạng vơ sản và chun chính vơ sản V.I.Lê nin chỉ ra: Chủ
nghĩa cơ hội kéo phong trào công nhân và cuộc đấu tranh giai cấp xuống thành
một thứ chủ nghĩa cơng liên hẹp hịi. Về sách lược thiếu kiên định cải lương
về hình thức đấu tranh giai cấp, chỉ đấu tranh kinh tế, không quan tâm đến đấu
tranh vì mục đích chính trị, chỉ quan tâm đến mục tiêu trước mắt bỏ mục tiêu
cơ bản lâu dài, chỉ quan tâm đến quy mô tổ chức mang tính cục bộ, tiểu tổ
phường hội, nghiệp đồn bỏ quy mơ tập trung thống nhất mang tính tồn diện,
biến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân “thành một cuộc đấu tranh “thực
tế” đòi những cải cách từ từ, vụn vặt.
Như vậy V.I.Lênin đã vạch trần bản chất, nguồn gốc và những đặc điểm

của chủ nghĩa cơ hội quốc tế nói chung và "phái kinh tế" ở Nga nói riêng.
V.I.Lênin đã chỉ ra nhiệm vụ của Đảng dân chủ xã hội Nga và các đảng kiểu
mới là phải đánh bại chủ nghĩa cơ hội một cách thực sự. V.I.Lênin khẳng định.


11

Dù những đặc điểm đó của phái phê bình và chủ nghĩa Bécstanh ở Nga thì
nhiệm vụ của những người muốn đánh đổ chủ nghĩa cơ hội một cách thật sự,
chứ khơng phải trên lời nói. Thứ nhất là phải nghĩ đến việc làm lại công tác lý
luận là công tác chỉ vừa mới bắt đầu được tiến hành trong thời kỳ chủ nghĩa
Mác hợp pháp và nay thì những nhà hoạt động bất hợp pháp lại phải đảm
nhiệm lấy; khơng có cơng tác ấy thì phong trào khơng thể phát triển thắng lợi
được. Thứ hai là cần tiến hành đấu tranh tích cực chống "phái phê bình" hợp
pháp, nó đã làm truỵ lạc đầu óc con người đến cùng cực. Thứ ba là phải lên
tiếng mạnh mẽ chống tình trạng lộn xộn và dao động trong phong trào thực tế,
bằng cách tố cáo và bác bỏ mọi mưu đồ làm giảm giá trị, một cách có ý thức
hay khơng có ý thức, cương lĩnh và sách lược. Để có cơ sở khoa học đánh bại
chủ nghĩa cơ hội V.I.Lênin đã đấu tranh và khẳng định vai trò tầm quan trọng
của lý luận cách mạng đối với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân,
đối với Đảng cộng sản nói chung và Đảng dân chủ xã hội Nga nói riêng.
V.I.Lênin khẳng định: Khơng có lý luận cách mạng thì cũng khơng thể có
phong trào cách mạng. V.I.Lênin chỉ ra lý luận cách mạng chính là lý luận chủ
nghĩa Mác, đó là hệ thống lý luận mang bản chất cách mạng và khoa học, nó
phản ảnh lợi ích mục tiêu lý tưởng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân,
đồng thời chỉ ra con đường và biện pháp cách mạng đúng đắn để giai cấp công
nhân làm cách mạng vơ sản tự giải phóng mình và giải phóng tồn xã hội, xây
dựng thành công chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi tồn thế giới, đó chính là
thế giới quan phương pháp luận, là vũ khí của giai cấp cơng nhân, là ngọn đèn
chỉ lối soi đường, là điều kiện cơ bản để giác ngộ giai cấp công nhân và

chuyển hố phong trào cơng nhân từ tự phát thành tự giác. Về vai trò của lý
luận của chủ nghĩa Mác đối với đảng dân chủ xã hội Nga nói riêng và các
đảng kiểu mới nói chung V.I.Lênin chỉ rõ chỉ đảng nào được một lý luận tiên
phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm trịn vai trị chiến sĩ tiên phong.


12

Trong khi đấu tranh phê phán chủ nghĩa cơ hội, V.I.Lênin đồng thời yêu
cầu những người mác-xít phải kiên định và cơng khai tính đảng của mình.
Người chỉ rõ chủ nghĩa Mác là học thuyết vạch ra con đường đấu tranh để tự
giải phóng của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động; “điểm chủ yếu trong
học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trị lịch sử thế giới của giai cấp
vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”. Mang tính đảng sâu sắc
nhưng chủ nghĩa Mác không hiểu theo nghĩa một học thuyết phiến diện, cực
đoan và khép kín, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển tất yếu của văn minh
nhân loại. Khác hẳn về chất với các học thuyết xuất hiện trong lịch sử, học
thuyết của Mác có sự thống nhất biện chứng tính đảng với tính khoa học. Cơ
sở khách quan của sự thống nhất đó là sự phù hợp giữa lợi ích của giai cấp
cơng nhân với lợi ích của nhân dân lao động và quy luật phát triển tất yếu của
xã hội. Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân là do chính bản thân
tiến trình vận động, phát triển khách quan của lịch sử quy định. Chủ nghĩa
Mác không chỉ là ý nguyện của giai cấp công nhân, mà cũng đồng thời là khát
vọng của nhân loại tiến bộ; là sự kế thừa và phát triển những tinh hoa trong
lịch sử tư tưởng- văn hố của lồi người. Chính vì vậy, dẫu phải trải qua nhiều
thử thách gay go với những bước thăng trầm lịch sử, chủ nghĩa Mác ngày càng
khẳng định sức sống mãnh liệt của mình; mọi thủ đoạn cơng kích, bài xích
nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác đều không đủ sức thuyết phục và cuối cùng
đều bị thất bại.
Như vậy: Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trước sự lũng

đoạn của chủ nghĩa cơ hội trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nói
chung và phong trào cơng nhân ở Nga nói riêng. Trong điều kiện đó, địi hỏi
phải đấu tranh kiên quyết với chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác, thành lập đảng kiểu mới của giai cấp cơng nhân.V.I.Lênin đã hồn thành
nhiệm vụ lịch sử trọng đại đó. V.I.Lênin đã vạch trần bản chất, nguồn gốc, đặc


13

điểm của chủ nghĩa cơ hội, chỉ ra tính chất phản động phản cách mạng của chủ
nghĩa cơ hội, khẳng định vai trò của lý luận cách mạng, bảo vệ và phát triển
học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác, chống lại sự xuyên tạc của chủ
nghĩa cơ hội.
2. Những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội
Chủ nghĩa cơ hội có những nội dung và biểu hiện cụ thể khác nhau, tuỳ
theo điều kiện lịch sử cụ thể của cuộc đấu tranh giai cấp và so sánh lực lượng
giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, giữa lực lượng cách mạng và lực
lượng phản cách mạng. Núp dưới ngọn cờ “tự do phê bình”, “đổi mới tư duy
lý luận”, chủ nghĩa cơ hội, xét lại đòi xem xét toàn bộ những nguyên lý, quy
luật, phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội
khoa học nói riêng. Cho dù nội dung, hình thức nào thì biểu hiện của chủ
nghĩa cơ hội cũng tập trung ở một số điểm cơ bản sau:
Trước sự điều chỉnh, thích nghi tạm thời của chủ nghĩa tư bản, ít nhiều
làm dịu mâu thuẫn xã hội, trong một mức độ nào đó đời sống của giai cấp
cơng nhân được cải thiện, mức sống được nâng lên. Giai cấp tư sản sử dụng
một mẩu nhỏ bé trong chiếc bánh lợi nhuận khổng lồ để trói buộc cơng nhân
thơng qua hình thức cổ phần, cổ phiếu. Một số cơng nhân có cổ phiếu, cổ phần
trở thành cổ đơng trong các xí nghiệp tư bản. Bọn cơ hội cho rằng giai cấp tư
sản đã thay đổi bản chất, biết chung sống hồ bình với giai cấp công nhân, nên
quan niệm về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi

thời. Theo họ, cách mạng vơ sản, chun chính vơ sản là tàn bạo, chuyên
quyền, mất dân chủ, đấu tranh giai cấp là tự huỷ diệt nên phải cùng chung
sống hịa bình, phải ưu tiên lợi ích nhân loại, hy sinh lợi ích giai cấp, lợi ích
dân tộc dẫn đến thoả hiệp với giai cấp tư sản.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học- công
nghệ, vai trị của đội ngũ trí thức ngày càng quan trọng, khoa học kỹ thuật trở


14

thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, cơ cấu xã hội- giai cấp biến đổi sâu sắc, giai cấp vơ sản khơng
cịn ngun nghĩa như xưa. Từ đó bọn cơ hội xét lại cho rằng sứ mệnh lịch sử
thế giới hiện nay thuộc về “khối lịch sử mới”, hay đội ngũ trí thức, cịn giai
cấp cơng nhân đã hết vai trò lịch sử. Chúng đòi xét lại những nguyên lý xây
dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác-Lênin, địi đa ngun chính trị, đa
Đảng đối lập; địi dân chủ một cách tự do, vô tổ chức, vô hạn độ, dân chủ
khơng gắn với kỷ cương, luật pháp… địi để nhân dân tự chọn món ăn tinh
thần, khơng cần định hướng, quản lý trong lĩnh vực văn hoá, tư tưởng
Sau sự khủng hoảng, sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu
và Liên Xô, chủ nghĩa cơ hội, xét lại từ bỏ con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội theo học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, họ muốn quay về chế độ dân
chủ nhân dân, chủ nghĩa xã hội dân chủ hay phát triển theo con đường tư bản
chủ nghĩa. Với chiêu bài tư duy chính trị mới, họ sử dụng liệu pháp “sốc”
trong kinh tế, đổi mới chính trị đi trước đổi mới kinh tế, thả nổi nền kinh tế,
chấp nhận thị trường tự do, khơng có sự quản lý của nhà nước… đã dẫn đến
sự thất bại cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Chủ nghĩa cơ hội, xét lại xuyên tạc nội dung, tính chất, mâu thuẫn, mục
tiêu của thời đại. Từ đó, đưa ra chiến lược, sách lược sai lầm đó là từ bỏ đấu
tranh giai cấp thay bằng thi đua lịch sử; khơng nói đến sự tan rã của chủ nghĩa

thực dân, sụp đổ của chủ nghĩa đế quốc; cho động lực cách mạng chủ yếu là
lực lượng đấu tranh cho hồ bình dân chủ; từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản,
tước mất bản chất quốc tế của giai cấp cơng nhân, chỉ cịn lại những lời kêu
gọi chung chung, vô nguyên tắc không hiệu quả, thậm chí là sự thoả hiệp, đầu
hàng chủ nghĩa đế quốc. Phủ nhận lịch sử, bôi đen lịch sử, từ đó ra sức xuyên
tạc lịch sử, hạ bệ lãnh tụ, nói xấu Đảng cộng sản, từ bỏ con đường xã hội chủ
nghĩa chân chính, để chấp nhận “chủ nghĩa xã hội nhân đạo, dân chủ”- cái mà


15

họ cho là xã hội duy nhất đem lại cuộc sống xứng đáng cho con người.
Nhưng, thực chất xã hội mà họ lựa chọn vẫn nằm trong khuôn mẫu của chủ
nghĩa tư bản và chấp nhận những cải cách nhỏ nhặt để duy trì xã hội trong trật
tự của chủ nghĩa tư bản.
Những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội ảnh hưởng và có tác hại khơng
nhỏ tới phong trào cơng nhân. Nó quanh co uốn khúc như rắn nước giữa hai
quan điểm đối chọi nhau, nó tìm cách thoả thuận với cả quan điểm này, lẫn
quan điểm kia. Nó quy những sự bất đồng ý kiến của mình thành những điều
sửa đổi nhỏ nhặt, những sự hoài nghi, những nguyện vọng thành tâm và vô
hại. Do vậy những người cộng sản chân chính khơng khi nào mơ hồ mất cảnh
giác, thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận bổ xung vào kho tàng
lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và trong từng giai đoạn lịch sử phải nhận
diện rõ những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội để kịp thời đấu tranh giữ vững
tính khoa học, cách mạng của học thuyết Mác- Lênin.
II. ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI TRONG SỰ
NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1.Nhận diện về chủ nghĩa cơ hội trong giai đoạn hiện nay.
Trước sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và cơng nghệ
đã góp phần làm thay đổi diện mạo của hành tinh chúng ta, chủ nghĩa tư bản

nhờ có ưu thế về vốn, khoa học, cơng nghệ vẫn có những điều chỉnh thích
nghi tồn tại. Đời sống giai cấp cơng nhân có mặt nào đó được cải thiện tương
đối, bàn tay bóc lột của chủ nghĩa tư bản được che đậy kín đáo hơn. Trong
giới hạn nhất định, chủ nghĩa tư bản cũng có những cải tiến nhất định về chính
trị. Trong bối cảnh đó, những ảo tưởng về một q trình cải biến chủ nghĩa tư
bản thành chủ nghĩa xã hội lại có điều kiện sống lại.
Trong các nước xã hội chủ nghĩa, ở Liên Xô và Đông Âu trước đây,
mặc dù các Đảng Cộng sản đó giữ được vai trị độc tôn lãnh đạo cách mạng,


16

nhưng ở một số nước cũng đó xuất hiện những tư tưởng cơ hội với các biểu
hiện khác nhau, nhưng tựu trung được chia làm 2 loại: chủ nghĩa cơ hội tầm
thường và chủ nghĩa cơ hội chính trị.
Chủ nghĩa cơ hội tầm thường không gắn với những sai lầm trong nhận
thức lý luận nhưng lại biểu hiện khá phong phú trong cuộc sống hàng ngày.
Nó được xuất hiện dưới các dạng như chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân,
thói xu nịnh luồn cúi, bon chen để mong tìm kiếm những lợi ích vật chất hay
tinh thần của cá nhân. Những kẻ cơ hội loại này sẵn sàng bán cả danh dự,
lương tâm để đạt mục đích mong muốn và do đó chúng có thể đổi trắng thành
đen, nói xấu người khác, tìm mọi cách để đề cao mình, tạo bè phái, gây mất
đoàn kết nghiêm trọng trong tập thể.
Những người cộng sản khi đã rơi vào chủ nghĩa cơ hội tầm thường thì
họ tự đánh mất vai trị tiên phong của người đảng viên, làm tổn hại đến uy tín
chung của đảng trong nhân dân. Từ người cơ hội tầm thường người ta dễ trở
thành người cơ hội chính trị và dễ trở thành những kẻ phản bội sự nghiệp cách
mạng của giai cấp công nhân, phản bội chủ nghĩa Mác-Lênin một cách rất
nhanh chóng. Trong thời kỳ hịa bình và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cơ hội tầm thường xuất hiện khá phổ biến và có nguy cơ lan rộng nếu các

Đảng đó khơng thường xun đấu tranh phê bình, củng cố phẩm chất chính trị
của đội ngũ đảng viên.
Chủ nghĩa cơ hội chính trị biểu hiện như sau:Thái độ chính trị khơng
theo một đường lối rõ rệt, khơng có chính kiến hẳn hoi, có thể ngã bên này
hay bên nọ để mưu lợi trước mắt.
Trong phong trào cộng sản, có hai khuynh hướng cơ hội: Cơ hội "hữu
khuynh": sùng bái phong trào tự phát, từ bỏ cách mạng xã hội chủ nghĩa, phủ
nhận giai cấp cơng nhân giành chính quyền. Cơ hội "tả khuynh": là sự kết hợp


17

hỗn tạp những phương châm cách mạng cực đoan và phiêu lưu, dựa trên
những quan niệm duy ý về sức mạnh tuyệt đối của bạo lực cách mạng.
Cơ hội chính trị thường được rào chắn một cách kín đáo hơn và trên
thực tế đó xuất hiện với 2 dạng là chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều.
Chủ nghĩa xét lại đòi xem xét lại những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin, phủ nhận ý nghĩa phổ biến của học thuyết này trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chống lại cách mạng vô sản và chun chính vơ
sản, khơng thừa nhận những quy luật cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xét lại hiện đang gây nên tình trạng
bè phái trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế; nhiều đảng cộng sản
đó phân ly thành các đảng nhỏ hơn có xu hướng chính trị khác nhau, có đảng
từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ... Họ khuyến khích các đảng cộng sản và
cơng nhân thực hiện sự thoả hiệp với các chính quyền tư sản. Những quan
điểm cách mạng và mác-xít trước đây đều bị coi là lạc hậu, lỗi thời.
Chủ nghĩa cơ hội là người bạn đồng hành của chủ nghĩa xét lại, chúng
giả danh là những người Mác xít để chống lại chủ nghĩa Mác. Quan điểm của
chúng là thỏa hiệp, cải lương về mục đích về nhiệm vụ chính trị của giai cấp
công nhân và cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân chống lại giai cấp tư sản,

điều đó có nghĩa là chúng chống lại cách mạng vơ sản, chun chính vơ sản.
Bản chất của chủ nghĩa cơ hội là tuy không công khai phủ nhận chủ nghĩa
Mác nhưng chúng xuyên tạc chủ nghĩa Mác, chúng chỉ giữ lại hình thức mà
vứt bỏ nội dung, giữ lai thể xác mà vứt bỏ linh hồn của chủ nghĩa Mác, như
vậy, về bản chất chủ nghĩa cơ hội và xét lại là một. Chúng có mỗi quan hệ
chặt chẽ, tác động và chuyển hóa lẫn nhau, chúng đều phủ nhận những nguyên
lí cơ bản của chủ nghĩa Mác, ranh giới giữa chúng là khơng phân biệt, chúng
ln ẩn mình, luồn lách để phá hoại Đảng, phá hoại phong trào công nhân.


18

Cũng chủ nghĩa giáo điều - một dạng khác của chủ nghĩa cơ hội chính
trị - cũng gây tác hại khơng nhỏ cho phong trào cách mạng thế giới, nó hạn
chế phát triển lý luận mác-xít và q trình áp dụng một cách sáng tạo lý luận
đó vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc. Những người giáo điều đó
làm đơng cứng những quan điểm kinh điển, đề cao những trích dẫn máy móc
hơn là nghiên cứu tình hình cụ thể. Trên thực tế, chủ nghĩa giáo điều thường
xuất hiện ở những nước có nền kinh tế lạc hậu. Người ta đến với chủ nghĩa
Mác-Lênin từng mẩu, từng đoạn, nhưng lại chủ quan cho rằng mình đó nắm
được toàn bộ tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin mà không cần học lại.
Những biểu hiện khác nhau của chủ nghĩa cơ hội chính trị đương nhiên đó gặp
phải sự đấu tranh quyết liệt từ những người mác-xít chân chính. Cuộc đấu
tranh không khoan nhượng, thường xuyên chống các loại chủ nghĩa cơ hội là
quy luật vận động và phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Hơn lúc nào hết, chúng ta càng thấm thía lời dạy của Lênin: giữa hệ tư tưởng
tư sản và hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa khơng có hệ tư tưởng trung gian nào,
mọi sự xa rời hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đều có nghĩa là tăng cường hệ tư
tưởng tư sản
Khi đó rơi vào lập trường cơ hội thì bước chuyển sang lập trường phản

bội cũng khơng xa. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, trong phong trào chủ
nghĩa xã hội thế giới, chủ nghĩa cơ hội hiện đại xuất hiện dưới vỏ bọc mới.
Dưói danh nghĩa cải tổ, cải cách nhưng thực chất là phủ định những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ định những thành quả của chủ nghĩa xã
hội hiện thực, trượt dài theo con đường tư bản, Chúng ta không bảo thủ khi
thừa nhận chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô trước đây so với lý tưởng xã
hội chủ nghĩa, những nguyên tắc và tiêu chí cao đẹp của chủ nghĩa xã hội vẫn
còn một khoảng cách và nhiệm vụ của những người cách mạng là phải rút
ngắn những khoảng cách đó chứ khơng phải là đạp đổ tất cả.


19

2. Đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Nằm sâu trong những nguy cơ, quốc nạn đối với chúng ta hơm nay đều
thấp thống hình ảnh những phần tử cơ hội chủ nghĩa. Bệnh quan liêu, tệ tham
nhũng và thói vơ trách nhiệm mà một số khơng nhỏ người có chức, có quyền
mắc phải là một ví dụ. Trong điều kiện Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền,
một bộ phận không nhỏ những kẻ cơ hội, thiếu lý tưởng cộng sản, tìm cách
chui vào Đảng để tìm cơ hội thăng quan tiến chức. Bất chấp lợi ích của Đảng,
của nhân dân, họ tìm cách vun vén cho lợi ích cá nhân, gia đình, dịng tộc. Họ
ham muốn quyền lực, địa vị, coi như một thứ có thể mua bán, tiến thân, từ đó
mà khéo luồn lách, nịnh bợ lấy lòng cấp trên, để tranh thủ lá phiếu trước mỗi
đợt bầu cử. Họ kéo bè kết cánh, móc ngoặc trên dưới, trong ngồi, tìm mọi
cách để chạy "chức", chạy "quyền", chạy "danh", chạy "lợi", chạy "chỗ", chạy
"bằng cấp", chạy "tuổi", khi bị phát hiện thì tiếp tục chạy "tội". Họ lợi dụng
việc tuyển chọn, đánh giá, luân chuyển cán bộ để trục lợi cá nhân, tìm mọi
cách đưa người "cùng cánh" vào nắm những chức vụ trong cơ quan mà khơng
chịu chọn những người có đủ đức, tài, gây mất đoàn kết nội bộ. Tại Đại hội XI

của Đảng (1-2011), Đảng ta nhận định: Tình trạng suy thối về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên và
tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà cịn tiếp tục diễn biến phức tạp…Tình trạng
chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được
khắc phục.
Những tư tưởng, biểu hiện cơ hội chủ nghĩa đó đã và đang gây ra những
tổn hại tới sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng, làm giảm
sút vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, làm giảm niềm tin
của nhân dân với Đảng. Một khi những tư tưởng, biểu hiện này phát triển


20

thành một chủ nghĩa, một trào lưu thì nó sẽ đe dọa trực tiếp đến bản chất, tới
sự tồn vong của Đảng và chế độ. Do đó, có thể nói việc đấu tranh phòng
chống, đẩy lùi những tư tưởng, biểu hiện cơ hội chủ nghĩa đang là vấn đề đặt
ra hết sức cấp thiết trong tình hình hiện nay.
Trong dịng chảy của lịch sử, có thể thấy sự nghiệp cách mạng của Việt
Nam do Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo, ngay từ đầu đó xác
định nhiệm vụ giải phóng quốc gia, dân tộc khỏi sự nơ dịch của đế quốc bên
ngoài là mục tiêu chủ yếu. Nhiệm vụ trọng đại đó tự nó đó có sức tập hợp hết
sức lớn lao. Trong q trình đó, chủ nghĩa cơ hội quốc tế cũng khó có thể ảnh
hưởng đến phong trào của công nông nước ta. Cho nên trong phong trào cách
mạng Việt Nam chưa có thời kỳ nào xuất hiện chủ nghĩa cơ hội với tư cách
như một lực lượng hay một phong trào có khả năng ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển của cách mạng.
Ngay từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định và khơng
ngừng nâng cao vai trị lãnh đạo của mình. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố cơ
bản quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của

Đảng đã được khẳng định trong tiến trình lịch sử, trong lãnh đạo giành chính
quyền năm 1945, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp đổi mới đất
nước, Đảng ta phải không ngừng đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Thường xuyên đề cao cảnh giác kiên
quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng Đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Thực tiễn trong việc chống những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội những
năm qua đã xây dựng Đảng ta luôn vững mạnh cả về chính trị tư tưởng và tổ
chức. Kết quả trên là do Đảng ta thường xuyên đề cao cảnh giác đấu tranh


21

vạch trần tư tưởng cơ hội trong Đảng, tăng cường đồn kết thống nhất, tăng
cường vai trị lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng nước ta. Trong giai đoạn
cách mạng nước ta trải qua thời kỳ biến động, ở những bước ngoặt lịch sử,
thời kỳ khó khăn gian khổ thường xuất hiện tư tưởng cơ hội với nhiều biểu
hiện khác nhau. Từ cơ hội về chính trị, một ít người đi tới hoạt động bè phái,
chống đối tổ chức. Đảng ta với đường lối lãnh đạo đúng đắn đã kiên quyết đấu
tranh vạch trần tư tưởng cơ hội, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng,
lãnh đạo cách mạng nước ta hồn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc
thống nhất đất nước đưa nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, Đảng ta
vẫn tiếp tục giữ được phẩm chất của một Đảng cách mạng chân chính, chưa
từng nghiêng nghả, kể cả trong những giai đoạn phức tạp. Trong những năm
xáo động của tình hình thế giới gần đây, trước sự sụp đổ của hệ thống xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, những biểu hiện mầm mống của chủ nghĩa
cơ hội có dịp trỗi dậy địi xét lại con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà chúng

ta đó lựa chọn. Tư tưởng, tâm trạng đó xuất hiện trong hồn cảnh lịch sử cụ
thể cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Một lần nữa trí tuệ
của Đảng và ý nguyện của cả dân tộc lại hoà làm một hướng tới mục tiêu xây
dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ ,công bằng và văn
minh. Trong dòng chảy của sự nghiệp đổi mới hôm nay, đất nước ta đang
bước đi những bước vững chắc trong sự đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và sẽ khơng có chỗ cho bất cứ một hạt
giống của chủ nghĩa cơ hội có thể nảy mầm bén rễ.
Tuy nhiên, cũng cần nhìn thẳng vào thực tế hiện nay, trong xây dựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, những biểu hiện của
chủ nghĩa cơ hội tầm thường có biểu hiện ngày càng nhiều hơn. Những con
người “biến chất” đó khơng có sự liên kết rộng rãi với nhau trong một nhóm


22

hay một phái nào, nhưng lại đang như những hạt sạn, giống nhau như những
giọt nước. Bằng mọi thủ đoạn, chúng đang bám lấy cơ thể Đảng như những ký
sinh trùng có hại. Chúng đang làm hại Đảng, làm hao mịn uy tín của Đảng
trong nhân dân.
Điều cần thiết hiện nay là phải thẳng thắn gạt bỏ những bọn cơ hội tầm
thường đó. Bài học từ sự sụp đổ của các Đảng Cộng sản ở Liên Xô và nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu trước đây, để quyết định một thái độ hành động cho
hôm nay với các loại cơ hội đang tồn tại trong dòng chảy cách mạng của đất
nước ta. Chúng ta khơng nên đơn giản hố coi đó chỉ là những đảng viên chưa
gương mẫu, những đảng viên trung bình. Mà theo tinh thần của V.I.Lênin, đó
là những "kẻ thù bên trong" của cách mạng và cần phải tiến hành một cuộc
đấu tranh không khoan nhượng với chúng.
Nhất là trong những năm gần đây tình hình thế giới và trong nước có
nhiều diễn biến phức tạp đã và đang tác động mạnh vào cách mạng nước ta.

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đưa đến sự phát triển mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất trên thế giới và q trình quốc tế hố sâu sắc nền sản xuất
vật chất và đời sống xã hội. Chủ nghĩa tư bản lợi dụng tình hình đó để điều
chỉnh thích nghi tạm thời. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu đã làm cho chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng thoái trào, các lực
lượng xã hội chủ nghĩa bị thu hẹp. Các nước xã hội chủ nghĩa cịn lại đứng
trước những khó khăn thử thách to lớn. Lợi dụng tình hình đó chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hồ bình” bạo loạn
lật đổ để chống phá cách mạng nước ta. Bên cạnh đó Đảng ta đề ra đường lối
phát triển kinh tế xã hội của đất nước là thực hiện đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế, nhất là việc phát
triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong những điều kiện quốc tế và trong nước như vậy, đã làm xuất hiện


23

những tư tưởng cơ hội về chính trị biểu hiện: Quan điểm chính trị khơng rõ
ràng, phai nhạt lý tưởng cách mạng, không vững vàng trên những vấn đề
đường lối quan điểm của Đảng, lập trường tư tưởng giao động thiếu niềm tin
vào chủ nghĩa xã hội, hoài nghi vai trị lãnh đạo của Đảng, khơng kiên định
vào những vấn đề nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Vì vậy để tăng cường cuộc đấu tranh đẩy lùi và khắc phục tư tưởng cơ
hội chủ nghĩa với mọi biểu hiện của nó là vấn đề vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp
bách của Đảng ta hiện nay. Để đấu tranh chống những tư tưởng cơ hội chủ
nghĩa, chúng ta phải nắm vững những đặc trưng cơ bản của tư tưởng cơ hội
chủ nghĩa là sự giao động ngả nghiêng về chính trị, khơng kiên định trên
những vấn đề nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối chính sách của Đảng. Họ thường ít bộc lộ quan điểm một

cách thật rõ ràng, họ che dấu bộ mặt thật, vừa tỏ ra ủng hộ đường lối của
Đảng, bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lê nin, thổi phồng một khía cạnh trong đường
lối hợp với quan điểm của họ. Họ lấy danh nghĩa đổi mới tư duy, bổ sung cụ
thể hóa đường lối của Đảng, thêm chi tiết này, thêm chi tiết khác mà thực chất
là sửa cốt lõi đường lối quan điểm của Đảng ta. Những tư tưởng đó cịn biểu
hiện trên lĩnh vực đạo đức lối sống một số người mang danh nghĩa Đảng cộng
sản, chiến sĩ cách mạng nhưng sống khơng có lý tưởng, tính tốn thực dụng,
tìm kiếm cơ hội để đạt danh vọng cá nhân, hình thức bề ngồi rất cách mạng,
rất nhất trí với đường lối của Đảng, rất tin tưởng chủ nghĩa xã hội, nhưng bên
trong họ sống khơng trung thực, ln tìm mọi cách để chạy chức, chạy quyền,
tạo dựng tín nhiệm có lợi cho bản thân, sống sa hoa truỵ lạc, xa rời quần
chúng.
Chính vì vậy, trước tình hình hiện nay, trong cơng cuộc xây dựng, chỉnh
đốn Đảng chúng ta phải chú trọng khắc phục suy thối về chính trị tư tưởng và


24

đạo đức lối sống cơ hội thực dụng. Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết hội nghị
TWIV- khóa XI- Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, tập trung một số
nội dung chủ yếu sau đây:
1. Đối với Đảng ta luôn xây dựng chủ trương đường lối lãnh đạo cách
mạng một cách sát đúng, giữ nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy
vai trị tính tiền phong gương mẫu của cán bộ đảng viên trong thực hiện nhiệm
vụ. Nâng cao chất lượng sinh hoạt, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình ở từng
tổ chức đảng và mỗi đảng viên. Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện mơ
hồ mất cảnh giác, phai nhạt mục tiêu lý tưởng, thoái hoá biến chất, vi phạm
phẩm chất đạo đức lối sống của người cán bộ đảng viên. Đấu tranh với những
hành vi vi phạm cương lĩnh, đường lối nghị quyết của Đảng, vi phạm nguyên
tắc của Đảng, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, bảo đảm cho tồn

Đảng ln thống nhất cả về lý luận và thực tiễn, vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức đủ trình độ năng lực để lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi.
Củng cố khối đoàn kết thống nhất chính trị tư tưởng trên cơ sở đường
lối quan điểm của Đảng. Kiên quyết đấu tranh đập tan các luận điệu xuyên tạc
của địch, phản động mưu toan xoá bỏ chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, xuyên tạc chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng, cổ vũ "dân
chủ, nhân quyền tư sản". Không một phút giây nào được buông lỏng cuộc đấu
tranh vạch trần bản chất sai trái, nguy hại của chủ nghĩa cơ hội, hữu khuynh,
xét lại của chủ nghĩa giáo điều cũ và mới, của mọi biểu hiện mơ hồ giao động
về chính trị cũng như lối sống cơ hội, thực dụng. Kiên quyết bảo vệ sự trong
sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan
điểm của Đảng ta.
2. Tăng cường sức chiến đấu và hiệu quả của công tác tư tưởng, lý luận
theo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX), làm cho cơng tác tư tưởng ln chủ
động, kịp thời, sắc bén, có tính thuyết phục cao góp phần củng cố sự đồn kết


25

thống nhất về chính trị, tư tưởng trong tồn Đảng, tồn dân. Đổi mới cơng tác
giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân
nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu con
đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, đường lối quan điểm của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, xây dựng niềm tin vào đường lối đổi mới xây dựng đất
nước của Đảng. Kiên quyết, kịp thời đấu tranh chống những biểu hiện cơ hội,
những quan điểm sai trái trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nâng cao chất
lượng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, để lý luận đi trước một bước
trong giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá.
3. Chú trọng chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt trong công
tác cán bộ ở các cấp, các ngành. Đổi mới phương pháp đánh giá cán bộ, quy

trình tuyển chọn, đào tạo, đề bạt, luân chuyển cán bộ. Tăng cường dân chủ
trong Đảng và trong nhân dân, có cơ chế cụ thể để phát huy quyền kiểm tra,
giám sát, đánh giá cán bộ, đảng viên của các tổ chức, đoàn thể và nhân dân.
Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng.
Trong sinh hoạt đảng, cần tập trung đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, thực
dụng cùng những biểu hiện suy thối về phẩm chất chính trị, đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng viên.
Các cấp ủy đảng cần có cơ chế tổ chức, giám sát, kiểm tra để mỗi đảng
viên không ngừng tự học tập, tự rèn luyện, tu dưỡng bản thân, nâng cao trình
độ lý luận, nhận thức và phẩm chất đạo đức cán bộ. Đảng viên cần đi sâu vào
quần chúng nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, giải thích cho dân hiểu bản
chất, biểu hiện của bọn cơ hội chủ nghĩa, động viên nhân dân tích cực đấu
tranh. Cần chú trọng chất lượng, khơng chạy theo số lượng trong công tác phát
triển đảng viên mới.
4. Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền,
chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương như Đại hội


×