Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO NHỮNG vấn đề CHI TIẾT HỎI đáp môn CHỦ NGHĨA XÃ hội KHOA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.13 KB, 98 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHI TIẾT HỎI ĐÁP MÔN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Câu 1: Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa xã hội khoa học ?
Trả lời:
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong 3 bộ phận hợp thành của chủ nghĩa
Mác- Lênin, luận giải dưới góc độ chính trị- xã hội quá trình chuyển biến cách mạng
từ hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa lên hình thái kinh tế- xã hội cộng sản
chủ nghĩa.
Sự thay thế hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tếxã hội cộng sản chủ nghĩa là quá trình lịch sử tự nhiên. Song quá trình khách quan
đó chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của giai cấp công nhân và các
tầng lớp nhân dân lao động do Đảng Mác Lênin chân chính lãnh đạo nhằm thực hiện
sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội khoa học
với tính cách là “sự biểu hiện lý luận lập trường của giai cấp vô sản”, là sự khái quát
“lý luận về những điều kiện giải phóng giai cấp vô sản”- nghiên cứu những qui luật,
những tính qui luật khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân.
Đồng thời, chủ nghĩa xã hội khoa học còn luận giải một cách khoa học những định
hướng chính trị cơ bản để giai cấp công nhân lựa chọn đúng đắn con đường, hình
thức, điều kiện, các vấn đề chiến lược, sách lược, các nguyên tắc và phương pháp cơ
bản đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân nhằm thực hiện thắng lợi sứ mệnh
của mình.
Như vậy, đối tượng nghiên cứu của CNXHKH là các qui luật, tính qui luật
chính trị- xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển HTKT-XHCSCN;
những điều kiện, con đường, hình thức, phương pháp cách mạng và những nguyên
tắc cơ bản nhằm thực hiện sự chuyển biến từ HTKT-XH cũ lên HTKT-XHCSCN.
Câu 2: Phân biệt sự khác nhau về đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa xã
hội khoa học với một số môn khoa học xã hội- nhân văn khác.
Trả lời: - Với chủ nghĩa duy vật lịch sử:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu những qui luật xã hội chung của quá
trình chuyển biến từ hình thái kinh tế- xã hội này lên hình thái kinh tế- xã hội cao
hơn trong toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội loài người. Đó là những qui luật tác
động giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng


tầng; giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; giữa đấu tranh giai cấp và quan
hệ xã hội...; còn chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những qui luật xã hội đặc thù
là qui luật chính trị- xã hội, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trong một
giai đoạn của tiến trình lịch sử xã hội loài người là từ hình thái kinh tế- xã hội tư bản
chủ nghĩa lên hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa.
- Với kinh tế chính trị:
Kinh tế chính trị học Mác- Lênin luận giải dưới góc độ quan hệ kinh tế, quan
hệ sản xuất, các qui luật kinh tế, hình thức kinh tế của chế độ tư bản chủ nghĩa, vạch
trần bản chất, thủ đoạn bóc lột của CNTB, những mâu thuẫn kinh tế và tính lịch sử
của CNTB, từ đó khẳng định tính tất yếu kinh tế dẫn đến cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa; khẳng định địa vị kinh tế xã hội quy định bản chất cách mạng của giai cấp
công nhân. Kinh tế chính trị Mác- Lênin còn tìm ra bản chất và các qui luật kinh tế


2
khách quan, các hình thức, quan hệ kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH, của
CNXH và CSCN. Kinh tế chính trị Mác- Lênin cùng với triết học Mác- Lênin là cơ
sở khoa học để CNXH khoa học luận giải những qui luật chính trị- xã hội, hệ quả tất
nhiên nảy sinh từ các quan hệ, các qui luật kinh tế dưới CNTB và trong quá trình
xây dựng CNXH, CNCS.
- Các môn khoa học xã hội- nhân văn khác như chính trị học, dân tộc học, tôn
giáo học, văn hoá học... đi vào nghiên cứu những qui luật của các quan hệ xã hội,
các hiện tượng xã hội, các vấn đề xã hội cụ thể và tương đối hẹp trong các chế độ xã
hội, các dân tộc và thế giới trong đó có chế độ XHCN. CNXH khoa học không đi
sâu vào những lĩnh vực cụ thể trên, mà từ các hiện tượng xã hội đó để rút ra những
hệ quả chính trị xã hội và các nguyên tắc có tính phương pháp luận về điều kiện,
con đường, giải pháp giải quyết các vấn đề đó phù hợp với lợi ích, lập trường giai
cấp công nhân nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.
Phân biệt sự khác nhau về đối tượng nghiên cứu giữa CNXH khoa học với các
môn khoa học khác có ý nghĩa rất quan trọng để nắm bắt được bản chất, các qui luật,

tính qui luật, các phạm trù khoa học, từ đó vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào hoạt
động thực tiễn, không ngừng làm phong phú và phát triển CNXH khoa học, xứng
đáng với tầm vóc là “lý luận cách mạng của phong trào vô sản thế giới”.
CÂU 3: VỊ TRÍ, CỦA CNXH KHOA HỌC TRONG CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN ?

Trả lời:
Chủ nghĩa Mác- Lênin là học thuyết cách mạng khoa học, thế giới quan,
phương pháp luận, ngọn cờ tư tưởng của giai cấp công nhân, cơ sở lý luận khoa học,
kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng của giai cấp công nhân toàn thế giới vì sự
nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Chủ nghĩa
Mác - Lê nin là một chỉnh thể gồm 3 bộ phận cơ bản là triết học Mác- Lênin, kinh tế
chính trị Mác- Lênin và CNXH khoa học.
Là một trong 3 bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lê nin, CNXH khoa học
góp phần làm cho chủ nghĩa Mác- Lê nin thực sự là học thuyết khoa học, cân đối,
hoàn bị, triệt để cách mạng, không chỉ nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới.
CNXH khoa học là lý luận về đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, là lý luận
chính trị xã hội trực tiếp chỉ đạo hoạt động thực tiễn cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân. Nó vừa góp phần hình thành và phát triển thế giới quan, phương pháp
luận cách mạng, khoa học, đồng thời là cơ sở lý luận chính trị trực tiếp của đường
lối, chính sách của các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế. Là lý luận chính trị về
các qui luật đấu tranh nhằm lật đổ chế độ TBCN và xây dựng thành công CNXH và
CNCS, nên CNXH khoa học từ trước đến nay luôn bị các thế lực thù địch phủ nhận,
xuyên tạc, bôi nhọ và tìm cách loại bỏ. Hơn nữa, là lý luận khoa học gắn kết chặt
chẽ với thực tiễn cách mạng của phong trào cộng sản-công nhân quốc tế và thực tiễn
xã hội các dân tộc và thời đại, CNXH khoa học đòi hỏi không ngừng được bổ sung
và phát triển sáng tạo. Kiên định và phát triển sáng tạo các nguyên lý CNXH
khoa học là yêu cầu sống còn, bảo đảm cho giai cấp công nhân thực hiện thắng
lợi sứ mệnh lịch sử của mình; hạ thấp, từ bỏ và phản bội các nguyên lý CNXH



3
khoa học tất yếu gây nên những tổn thất khôn lường đối với phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân quốc tế.
CÂU 4: NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA CNXH KHOA HỌC ?
Trả lời:
Từ mục đích, đối tượng nghiên cứu của CNXH khoa học có thể chỉ ra một số
nhiệm vụ nghiên cứu của CNXH khoa học như sau.
Thứ nhất, nghiên cứu sự vận động, biến đổi của CNTB về kinh tế- xã hội, để
nhận rõ sự biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp, các mâu thuẫn xã hội khách quan trong
lòng CNTB, đặc biệt là mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao
động với giai cấp tư sản, tất yếu dẫn đến cuộc cách mạng XHCN.
Thứ hai, nghiên cứu những biến đổi của hiện thực xã hội khách quan trong
phạm vi mỗi nước và thế giới để kịp thời rút ra những kết luận chính trị khoa học,
đúng đắn, định hướng cho nhận thức và hành động cách mạng của giai cấp công
nhân. Đặc biệt, từ những biến đổi đó để nhận rõ những tác động của nó đến các vấn
đề chính trị- xã hội, làm cơ sở để Đảng cách mạng của giai cấp công nhân xác định
con đường, biện pháp, nguyên tắc đấu tranh phù hợp. Đây là nhiệm vụ tự thân của
CNXH khoa học, là phương thức tồn tại, phát triển của CNXH khoa học, bảo đảm
sức sống sáng tạo của CNXH khoa học và làm cho CNXH khoa học làm tròn chức
năng của nó, gắn liền lý luận với thực tiễn, tránh sơ cứng, giáo điều, đúng như
Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Muốn cho CNXH khoa học trở thành khoa học, phải
đặt nó trên mảnh đất hiện thực”.
Thứ ba, tìm tòi những điều kiện, con đường, biện pháp những nguyên tắc chỉ
đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm thủ tiêu chế độ TBCN, xây dựng
chế độ XHCN và CSCN.
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân, CNXH khoa học, căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể,
phải chỉ rõ con đường đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân phù hợp với qui
luật khách quan, xu thế lịch sử, các hình thức, biện pháp đấu tranh thiết thực sáng
tạo muôn hình muôn vẻ. Đồng thời CNXH khoa học phải chỉ ra các điều kiện thiết

yếu mà giai cấp công nhân cần phải tạo lập đảm bảo cho cuộc đấu tranh đó đi đến
thắng lợi cuối cùng.
Thứ tư là, góp phần nâng cao giác ngộ cách mạng cho GCCN và nhân dân lao
động. Bởi vì, cách mạng XHCN là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do Đảng
cộng sản lãnh đạo. Tinh thần cách mạng, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân
dân chỉ được phát huy cao độ khi họ có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về sự nghiệp
cách mạng cao cả.
CNXH khoa học cùng với các bộ môn khoa học khác của chủ nghĩa MácLênin phải góp phần “cách mạng hoá” quần chúng, làm cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động có lý trí, tình cảm và niềm tin cách mạng, chủ động tự giác tham
gia vào phong trào cách mạng thực tiễn đấu tranh xoá bỏ áp bức bóc lột, xây dựng
xã hội mới.
Thứ năm, CNXH khoa học là ngọn cờ lý luận, vũ khí tư tưởng của giai cấp
công nhân trong cuộc đấu tranh giai cấp, phải thực sự sắc bén đánh bại các trào lưu,
quan điểm tư tưởng, lý luận của chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa cơ hội, xét lại.


4
Thực tiễn đã cho thấy, chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa cơ hội, xét lại từ trước đến
nay luôn tìm mọi thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lê nin nói
chung và CNXH khoa học nói riêng. Chủ động đấu tranh phê phán đánh bại các
quan điểm phản động, sai trái của chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa cơ hội, xét lại đủ
loại, CNXH khoa học bảo vệ sự trong sáng của học thuyết cách mạng, ngăn chặn
ảnh hưởng, tác hại của các trào lưu quan điểm đó trong quần chúng nhân dân và
đồng thời còn trực tiếp truyền bá các quan điểm cách mạng khoa học của CNXH
khoa học thấm sâu vào ý thức quần chúng nhân dân.
Các nhiệm vụ chủ yếu trên đây của CNXH khoa học liên hệ chặt chẽ với
nhau, cần nhận thức đầy đủ và vận dụng thích hợp, sáng tạo, không được xem nhẹ
trong bất cứ hoàn cảnh nào. Khái quát một cách cô đọng nhiệm vụ của CNXH khoa
học, Ph.Ăngghen đã viết: “Nghiên cứu những điều kiện lịch sử và do đó, nghiên cứu
chính ngay bản chất của sự biến đổi ấy, và bằng cách ấy làm cho giai cấp hiện nay

đang bị áp bức và có sứ mệnh hoàn thành sự nghiệp ấy hiểu rõ được những điều kiện
và bản chất của sự nghiệp chính họ- đó là nhiệm vụ của CNXHKH, sự thể hiện về
mặt khoa học của phong trào vô sản”1.
CÂU 5: TẠI SAO NÓI NHỜ HAI PHÁT KIẾN VĨ ĐẠI CỦA MÁC: CHỦ
NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VÀ HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ, CNXH
TỪ KHÔNG TƯỞNG TRỞ THÀNH KHOA HỌC?
Trả lời:
CNXH không tưởng mặc dù có giá trị lịch sử to lớn là đã phê phán sâu sắc chế
độ áp bức bóc lột, phác hoạ mô hình xã hội tương lai tốt đẹp, có những dự báo thiên
tài, mang tính nhân đạo, nhân văn cao cả; vì vậy, nó góp phần quan trọng thức tỉnh
quần chúng lao khổ đấu tranh chống áp bức, cường quyền và nó là một trong những
tiền đề tư tưởng trực tiếp cho sự hình thành CNXH khoa học. Tuy nhiên, CNXH
không tưởng còn những hạn chế nhất định. Đó là “...CNXH không tưởng không thể
vạch ra được lối thoát thực sự. Nó không giải thích được bản chất của chế độ nô lệ
làm thuê trong chế độ TBCN, cũng không phát hiện ra được những qui luật phát
triển của chế độ TBCN và cũng không tìm thấy lực lượng xã hội có khả năng trở
thành người sáng tạo xã hội mới”1 .
Những hạn chế đó của CNXH không tưởng là do những căn nguyên khách
quan và chủ quan của hoàn cảnh lịch sử đương thời qui định. Đúng như Ph.Ăngghen
đã chỉ rõ: “Tương ứng với một trạng thái chưa trưởng thành là những lý luận chưa
trưởng thành. Việc giải quyết những nhiệm vụ xã hội còn bị ẩn giấu trong những
quan hệ kinh tế chưa phát triển, phải được sản sinh ra từ đầu óc con người” 2 . Mặt
khác, xét về mặt chủ quan, các đại biểu của CNXH không tưởng, mặc dù có trí tuệ
lớn lao, cảm thông với quần chúng lao khổ; song nhìn chung, họ chưa từ bỏ được lập
trường giai cấp của mình để gắn bó số phận của mình với lợi ích và đứng vững trên
lập trường của giai cấp bị bóc lột.
C.Mác-Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, H.1995, tr. 393.
V.I.Lênin, to àn tập, tập 23, Nxb TB M. 1980, tr. 56-57.
2 C.Mác-Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.1994, tr. 358-359.
1

1


5
Trái lại, vào những năm 40 của thế kỷ XIX, các tiền đề khách quan về kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội đã chín muồi để có thể khắc phục những hạn chế đó của
CNXH không tưởng, để biến CNXH từ không tưởng trở thành khoa học. Đó là sự
phát triển mạnh mẽ của nền đại công nghiệp, của lực lượng sản xuất dưới CNTB và
đi liền với nó là sự xuất hiện giai cấp vô sản hiện đại; mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất mang tính xã hội hoá với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân
TBCN về tư liệu sản xuất, được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp
vô sản với giai cấp tư sản ngày càng gay gắt, dẫn đến các cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản chống sự bóc lột của giai cấp tư sản ngày càng dâng cao, giai cấp vô sản
ngày càng ý thức được lợi ích của giai cấp mình và các cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản càng ngày càng có xu hướng là một phong trào độc lập mà tiêu biểu là các
cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở Liông (Pháp 1831); ở Xilêdi (Đức 1844) và
phong trào Hiến chương ở Anh (1835-1848). Sự phát triển của phong trào công nhân
đòi hỏi khách quan phải có một lý luận khoa học cách mạng dẫn dắt. Đây là mảnh
đất hiện thực- cơ sở khách quan cho sự ra đời của CNXH khoa học. Đồng thời, trong
những thập niên đầu của thế kỷ XIX, loài người đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
trong lĩnh vực khoa học tự nhiên với 3 phát minh quan trọng: định luật bảo toàn và
chuyển hoá năng lượng; học thuyết về tế bào và học thuyết tiến hoá sinh vật của
Đác uyn. Trong lĩnh vực khoa học xã hội cũng có những thành quả khoa học có ý
nghĩa lịch sử như nền triết học cổ điển Đức mà những đại biểu tiêu biểu là chủ nghĩa
duy vật của Phơ bách, phép biện chứng của Hêghen; nền kinh tế chính trị học cổ
điển Anh mà tiêu biểu là Ađam Xmít, Ricácđô và CNXH không tưởng phê phán của
Xanhximông, Phuriê và Ôoen.
Trên những tiền đề khách quan đó, thông qua những hoạt động lý luận gắn
liền với hoạt động thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa, vận dụng và phát
triển những hạt nhân hợp lý của chủ nghĩa duy vật, phép biện chứng từ triết học thời

cổ đại đến nền triết học cổ điển Đức vào việc nghiên cứu đời sống xã hội, đã xây
dựng nên chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ rõ qui luật phát
triển của lịch sử xã hội loài người đó là sự thay thế của các hình thái kinh tế- xã hội
thông qua sự vận động của những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội và ý thức xã hội... là một
quá trình khách quan tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan. Sự vận động
của các mâu thuẫn đó trong lòng xã hội tư bản, tất yếu dẫn đến cuộc cách mạng xã
hội, làm chuyển biến hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa lên hình thái kinh tếxã hội cộng sản chủ nghĩa và đó là qui luật tiến hoá của lịch sử. Với sự ra đời của
chủ nghĩa duy vật lịch sử, C. Mác đã khắc phục được hạn chế của CNXH không
tưởng là không phát hiện ra qui luật phát triển xã hội. Từ đây, CNXH được soi sáng
bởi thế giới quan khoa học và những tư tưởng của nó được hình thành trên nền tảng
khoa học vững chắc. Đồng thời, vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa duy vật
lịch sử và kế thừa những giá trị của kinh tế chính trị học cổ điển, Mác đã đi sâu
nghiên cứu toàn diện và triệt để phương thức sản xuất TBCN, bóc trần bản chất kinh
tế của CNTB là bóc lột giá trị thặng dư, từ đó chỉ ra mâu thuẫn đối kháng và lợi ích
không thể điều hoà giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, làm sáng tỏ địa vị kinh
tế- xã hội và khả năng cách mạng của giai cấp vô sản, khẳng định giai cấp vô sản là


6
lực lượng xã hội có sứ mệnh lịch sử xoá bỏ chế độ TBCN và xây dựng xã hội mới.
Đúng như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Hai phát kiến vĩ đại ấy- quan niệm về duy vật
lịch sử và việc dùng giá trị thặng dư để bóc trần bí mật của sản xuất TBCN- là công
lao của Mác. Nhờ hai phát kiến vĩ đại ấy, CNXH đã trở thành khoa học mà ngày
nay, vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ
của nó”1 .
CÂU 6: PHÂN BIỆT SỰ KHÁC NHAU CĂN BẢN GIỮA CNXH KHOA HỌC VỚI
CNXH KHÔNG TƯỞNG ?

Trả lời:

CNXH khoa học khác hẳn về bản chất và phát triển cao hơn về trình độ, bề
rộng và chiều sâu so với CNXH không tưởng, Sự khác nhau giữa CNXH khoa học
và CNXH không tưởng cả về cơ sở hình thành, phát triển, nội dung tư tưởng, hình
thức biểu hiện, phương thức, điều kiện và khả năng vận dụng trong thực tiễn.
CNXH không tưởng nảy sinh trong xã hội phân chia giai cấp. Tuy nhiên, sự hình
thành, biến đổi những tư tưởng XHCN không tưởng không dựa trên những tiền đề
hiện thực về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nên chưa thể phản ánh khách quan,
khoa học đời sống xã hội. CNXH không tưởng chưa nhận rõ qui luật vận động
khách quan của lịch sử xã hội loài người; chưa thấy được bản chất bóc lột của CNTB
và chưa tìm thấy một lực lượng xã hội có khả năng trở thành người sáng tạo xã hội
mới. Vì vậy, CNXH không tưởng không thể vạch ra được lối thoát thực sự cho nhân
loại khỏi ách áp bức, bóc lột, không thể chỉ ra được lực lượng, con đường, điều kiện,
biện pháp đúng đắn để đi đến mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng con người.
CNXH không tưởng là những quan điểm, quan niệm thiếu cơ sở hiện thực cho sự
luận chứng khoa học; hơn nữa nó không có hệ thống, vì vậy mang tính chung
chung, chủ quan và mộng tưởng. Đặc biệt, CNXH không tưởng không gắn tư tưởng
với hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân và với hiện thực đời sống xã hội.
Do đó, nó còn là một lực cản của tư tưởng và hành động cách mạng của giai cấp
công nhân khi các điều kiện kinh tế- xã hội đã biến đổi và yêu cầu phát triển của
phong trào công nhân ngày càng cao.
Trái lại, CNXH khoa học là hệ thống lý luận khoa học được hình thành và
phát triển dựa trên những cơ sở hiện thực. Đó là sự phát triển của nền đại công
nghiệp, của lực lượng sản xuất, của khoa học kỹ thuật, công nghệ của CNTB và thời
đại, của sự biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp sâu sắc với sự xuất hiện phát triển của
giai cấp tiên tiến, cách mạng đó là giai cấp công nhân; ở sự phát triển mạnh mẽ của
phong trào công nhân, đòi hỏi phải có lý luận, cương lĩnh khoa học và cách mạng
dẫn đường. CNXH khoa học là sản phẩm của hoạt động lý luận và thực tiễn sáng tạo
của Mác và Ăngghen, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nó không
ngừng được bổ sung và hoàn thiện, phát triển và được vận dụng sáng tạo trong thực
tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân, của các Đảng cộng sản, PTCS-CNQT. Nhờ

nhận thức được qui luật phát triển của CNTB, làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử thế giới
của giai cấp công nhân, CNXH khoa học đã luận chứng khoa học các qui luật và
tính qui luật chính trị- xã hội, những con đường, điều kiện, biện pháp, chỉ ra những
nguyên tắc hoạt động cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên
1

C.Mác-Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 19, Nxb CTQG, H.1995, tr. 305.


7
thế giới để thực hiện sự chuyển biến từ CNTB lên CNCS. Đó là những nguyên lý
khoa học chặt chẽ và triệt để cách mạng, đòi hỏi phải được vận dụng sáng tạo trong
những điều kiện lịch sử cụ thể. Thực tế lịch sử đã chứng tỏ ở đâu và lúc nào nếu
trung thành, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo các nguyên lý CNXH khoa học
phù hợp với điều kiện lịch sử của dân tộc và thời đại thì sự nghiệp cách mạng của
giai cấp công nhân giành được thắng lợi. Trái lại, việc xa rời, phủ nhận hoặc vận
dụng một cách giáo điều các nguyên lý của CNXH khoa học thì sự nghiệp cách
mạng sẽ bị tổn thất khó lường. Điều đó chứng tỏ, CNXH khoa học đòi hỏi phải luôn
luôn kết hợp giữa lý luận và thực tiễn cách mạng, giữa nhân tố chủ quan phù hợp
với điều kiện khách quan, giữa sự kiên định, trung thành với các nguyên lý phổ biến
và sự vận dụng sáng tạo, phát triển các nguyên lý đó trước những biến đổi mới của
cuộc sống.
CÂU HỎI 7: GIAI CẤP CÔNG NHÂN KHÁC CÁC GIAI CẤP KHÁC
NHƯ THẾ NÀO?
Trả lời:
Hiện nay những người phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cho
rằng ở các nước TBCN, giai cấp công nhân không còn bị bóc lột như trước nữa, họ
đã trở thành những “ông chủ” hoặc họ đã bị “hoà nhập” vào tầng lớp trí thức... Do
đó làm rõ khái niệm giai cấp công nhân không những là cơ sở để hiểu biết sâu sắc về
sứ mệnh lịch sử mà còn là cơ sở khoa học chống lại mọi luận điệu sai trái về vấn đề

này.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã dùng các thuật ngữ khác nhau
để chỉ giai cấp công nhân trong quá trình phát triển: giai cấp công nhân, giai cấp vô
sản, giai cấp lao động làm thuê.. . thậm chí các ông còn dùng những thuật ngữ có nội
dung hẹp hơn để chỉ công nhân trong các ngành nghề công nghiệp: công nhân công
nghiệp, công nhân khai khoáng.
Các thuật ngữ trên tuy được dùng trong những hoàn cảnh, môi trường khác
nhau, và đều toát lên hai tiêu chí cơ bản để phân biệt người công nhân với những
người lao động khác.
-Tiêu chí về nghề nghiệp: công nhân là những người lao động trực tiếp hay
gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp. Về tiêu chí này đã
chỉ rõ môi trường lao động của công nhân là các ngành công nghiệp có trình độ kỹ
thuật khác nhau. Khi nói về tiêu chí này, Mác và Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh đến
công nhân hiện đại gắn liền với nền đại công nghiệp. “Các giai cấp khác đều suy tàn và
tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp; còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm
của bản thân nền đại công nghiệp”[ 1 ].
-Tiêu chí về vị trí trong quan hệ sản xuất. Dưới chế độ TBCN, công nhân là những
người lao động không có TLSX, phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản, bị nhà tư
bản bóc lột giá trị thặng dư. Chính tiêu chí này khiến người công nhân trở thành giai
cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
chống lại giai cấp tư sản chính là nhằm làm thay đổi vị trí của họ trong quan hệ sản
xuất TBCN.
1

Mác- Ăngghen, to àn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.1995, tr.610.


8
Dưới chế độ XHCN, công nhân là những người làm chủ trong quan hệ sản
xuất, làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, làm chủ trong phân công lao động

và phân phối sản phẩm. Đây cũng là tiêu chí căn bản chỉ rõ sự khác nhau giữa công
nhân dưới CNTB và công nhân dưới CNXH.
Hai tiêu chí này là cơ sở phương pháp luận để phân biệt rõ giai cấp công nhân
với những người lao động khác, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng KH-CN
phát triển đã tạo ra nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực lao động phức tạp như hiện
nay.
Căn cứ vào hai tiêu chí trên, chúng ta nêu lên khái niệm về giai cấp công nhân
như sau: giai cấp công nhân là giai cấp những người lao động hoạt động sản xuất
trong các ngành nghề công nghiệp thuộc các trình độ kỹ thuật khác nhau, mà địa vị
xã hội thì tuỳ thuộc vào chế xã hội đương thời: ở các nước tư bản, họ là những
người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp
tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước XHCN, họ là những
người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu vàc cùng
nhau hợp tác lao động cho mình.
CÂU HỎI 8: NỘI DUNG THỰC CHẤT SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI
CẤP CÔNG NHÂN LÀ GÌ?
Trả lời:
Khi bàn về nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác- Lênin đều khẳng định rằng, giai cấp công nhân phải tổ chức và
lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cách mạng để chuyển hình thái
kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa,
giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức, bất công và mọi hình thức bóc lột.
Như vậy, thực chất nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân giai cấp
công nhân là: xoá bỏ chế độ TBCN, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao
động cùng toàn thể nhân loại thoát khỏi mọi sự áp bức bóc lột, xây dựng xã hội cộng
sản văn minh, không có người bóc lột người. Chính vì vậy mà Ăngghen viết: “Thực
hiện sự nghiệp giải phóng thế giới, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
hiện đại”1 .
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đó là một quá trình liên tục
đấu tranh đến khi đạt được mục tiêu cuối cùng, nhưng trong quá trình ấy cũng có

tính giai đoạn. Điều này Mác và Ăngghen đã khẳng định trong “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản”: “Giai đoạn thứ nhất trong cuộc cách mạng là giai cấp công nhân
phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc”, nghĩa là phải giành lấy chính quyền từ tay
giai cấp tư sản. Sau khi có chính quyền, giai cấp công nhân dùng chính quyền ấy
vừa cải tạo xã hội cũ, vừa xây dựng xã hội mới- XHCN, thực hiện sự nghiệp giải
phóng toàn diện giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
CÂU HỎI 9: VÌ SAO GIAI CẤP CÔNG NHÂN CÓ SỨ MỆNH LỊCH SỬ
THẾ GIỚI ?
Trả lời:
Sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa Mác- Lênin với CNXH không tưởng là
ở chỗ Mác đã tìm thấy ngay trong lòng xã hội tư bản một lực lượng có thể tiến hành
1

Mác- Ăngghen, to àn tập, tập 20, Nxb CTQG, H.1994, tr.393.


9
cách mạng xã hội lật đổ chế độ TBCN xây dựng thành công CNXH và CNCS trên
phạm vi thế giới. Đó là giai cấp công nhân. Sự luận chứng khoa học về sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân, dựa trên những điều kiện kinh tế- xã hội khách quan quy
định.
Việc khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử đã
được Mác- Ăngghen luận chứng sâu sắc, có thể tóm tắt trên 3 vấn đề sau:
-Do địa vị kinh tế- xã hội khách quan của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến dưới
CNTB; chính vì vậy, lực lượng sản xuất càng tiên tiến, mang tính xã hội hoá cao
càng mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất TBCN. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất dưới CNTB được biểu hiện về xã hội là mâu thuẫn đối
kháng giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản tất yếu dẫn đến cuộc cách mạng
xã hội lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và quan hệ sản xuất TBCN. Sau khi

giành chính quyền, giai cấp công nhân đại biểu cho phương thức sản xuất mớiphương thức sản xuất XHCN.
-Giai cấp công nhân là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp được nền
đại công nghiệp rèn luyện, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng
mạnh. Giai cấp công nhân ra đời và phát triển cùng nền đại công nghiệp, do đó về số
lượng và chất lượng của giai cấp công nhân ngày càng tăng lên. Đại công nghiệp đã
rèn luyện, đoàn kết và tổ chức giai cấp công nhân thành lực lượng xã hội hùng mạnh
có khả năng lật đổ CNTB, xây dựng thành công xã hội mới - xã hội XHCN.
Mặt khác, đại công nghiệp phát triển, giai cấp công nhân ở các nước TBCN
càng bị bóc lột nặng nề hơn trước, do đó hố ngăn cách giữa tư bản với công nhân
ngày càng sâu thêm. Đây là nguyên nhân chủ yếu quyết định sự bùng nổ của một
cuộc cách mạng xã hội do giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong cuộc cách mạng ấy
giai cấp công nhân chỉ mất xiềng xích và được cả thế giới về mình.
-Do địa vị khách quan của giai cấp công nhân lại được nền đại công nghiệp
rèn luyện nên giai cấp công nhân có những phẩm chất ưu việt mà các giai cấp khác
trong xã hội tư bản không thể có được. Phẩm chất ấy là yếu tố bảo đảm cho giai cấp
công nhân vừa thực hiện vai trò tổ chức lãnh đạo vừa là người tiên phong thực hiện
những mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại.
Những phẩm chất ấy là:
+Giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng triệt để nhất.
+Là giai cấp tiên tiến nhất.
+Là giai cấp có ý thức tổ chức, kỷ luật cao.
+Là giai cấp có tinh thần đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế cao cả.
Những phẩm chất trên đây của giai cấp công nhân ngày càng được củng cố
phát triển lên chất lượng mới cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp và cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân chống chế độ áp bức, bóc lột.
Trên đây là những cơ sở khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Tuy nhiên, để giai cấp công nhân có ý thức về sứ mệnh lịch sử của mình,
vươn lên trình độ giác ngộ về giai cấp, giai cấp công nhân phải được lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin soi sáng. Điều đó có thể thực hiện được khi giai cấp công nhân
thành lập nên chính Đảng của mình.



10
Ngày nay, mặc dù cuộc cách mạng KH-CN hiện đại phát triển mạnh mẽ, tác
động đến mọi giai tầng trong xã hội nhất là trong xã hội tư bản làm cho giai cấp
công nhân có sự biến đổi nhất định về cơ cấu. Mặt khác, CNTB đang có sự điều
chỉnh thích nghi và tạm thời có bước phát triển. Song, tất cả những điều đó không
làm thay đổi địa vị kinh tế- xã hội của giai cấp công nhân. Do đó, giai cấp công nhân
vẫn là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử thế giới.
CÂU HỎI 10: TẠI SAO NÓI ĐẢNG CỘNG SẢN LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH
VIỆC THỰC HIỆN THẮNG LỢI SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN ?

Trả lời:
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ rõ mọi quy luật trong lĩnh vực xã hội muốn biến
thành hiện thực đều phải thông qua hoạt động tự giác của con người. Sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Đảng cộng sản
có vai trò quyết định thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
-Đảng cộng sản ra đời là một tất yếu khách quan của lịch sử do sự kết hợp chủ
nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân. Ở một số nước như Việt Nam, sự ra
đời của Đảng cộng sản không những chỉ là sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với
phong trào công nhân mà còn kết hợp chặt chẽ với phong trào yêu nước.
-Vai trò quyết định thắng lợi sứ mệnh lịch sử của Đảng cộng sản được thể
hiện trên mấy vấn đề sau.
+Đảng cộng sản là đội tiền phong chính trị của giai cấp công nhân. Đảng là
một tổ chức thống nhất, chặt chẽ bao gồm những người ưu tú nhất trong giai cấp
công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động. Đảng cộng sản là một bộ phận của
giai cấp công nhân không đứng trên, đứng ngoài mà nằm trong giai cấp công nhân;
Đảng cộng sản lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của Đảng.
Đảng cộng sản có khả năng nhận thức được những quy luật vận động của xã

hội, của dân tộc từ đó dìu dắt giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc đi
đến thắng lợi cuối cùng của cuộc cách mạng XHCN là giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc và giải phóng con người.
+Đảng cộng sản còn là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp
công nhân. Vai trò đó được thể hiện ở chỗ Đảng lãnh đạo và tổ chức giai cấp công
nhân và nhân dân lao động đấu tranh từng bước giành thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Trước khi có Đảng cộng sản ra đời, giai cấp công nhân chỉ đấu tranh tự phát,
nhằm đạt được những mục tiêu trước mắt. Từ khi Đảng cộng sản ra đời, Đảng lãnh
đạo, tổ chức, giác ngộ giai cấp công nhân, đề ra đường lối, chiến lược, sách lược
đúng đắn, đoàn kết toàn dân đấu tranh nhằm lật đổ giai cấp tư sản, xây dựng xã hội
mới- xã hội XHCN và CSCN. Đó là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của giai cấp
công nhân nhưng mang tính tự giác cao.
CÂU HỎI 11: TRONG ĐIỀU KIỆN CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
HIỆN ĐẠI PHÁT TRIỂN, GIAI CẤP CÔNG NHÂN CÓ CÒN SỨ MỆNH LỊCH SỬ
KHÔNG? VÌ SAO?

Trả lời:
Một đặc điểm nổi bật của giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc cách mạng
khoa học- công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ tác động đến mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong mỗi quốc gia và toàn thế giới, làm thay đổi cơ cấu giai cấp- xã


11
hội, ngay trong từng giai cấp những người lao động, trong đó giai cấp công nhân
cũng có sự biến đổi to lớn, Song không vì thế mà làm thay đổi địa vị kinh tế- xã hội
của giai cấp công nhân, thay đổi sứ mệnh lịch sử của họ.
Thứ nhất, cách mạng KH-CN làm cho giai cấp công nhân có sự biến đổi về cơ
cấu. Ở các nước tư bản phát triển bộ phận công nhân trung lưu tăng lên, đời sống
của họ có được cải thiện nhất định nhưng giai cấp công nhân vẫn là giai cấp lao
động làm thuê, bị bóc lột giá trị thặng dư. Do đó, mâu thuẫn giữa công nhân với TB

vẫn tồn tại có lúc, có nơi rất gay gắt.
Thứ hai, cách mạng KH- CN hiện đại phát triển càng làm cho đại công
nghiệp phát triển, do đó giai cấp công nhân tăng cả về số lượng và chất lượng. Ở các
nước tư bản phát triển, giai cấp công nhân chiếm đại đa số lực lượng lao động xã
hội; trình độ học vấn đại học và trên đại học trong giai cấp công nhân ngày càng
cao. Điều này hoàn toàn đúng như dự đoán của Mác- Ăngghen trong “Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản”. Vì vậy, cách mạng KH- CN càng phát triển, giai cấp công nhân
ngày càng hùng hậu, là lực lượng xã hội to lớn, có vai trò quyết định thủ tiêu sự
thống trị của giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới.
Thứ ba, lợi dụng những thành quả của cuộc cách mạng KH- CN hiện đại,
CNTB ra sức điều chỉnh thích nghi và tạm thời có bước phát triển nhất định; song
CNTB không khắc phục được những mâu thuẫn vốn có và bản chất của nó, đó là
mâu thuẫn giữa lao động và tư bản; CNTB vẫn là một xã hội áp bức, bóc lột, tất yếu
bị loại bỏ. Cuộc cách mạng KH-CN hiện đại là một nhân tố to lớn thúc đẩy cuộc
cách mạng xã hội trong tương lai để xoá bỏ CNTB ngày càng có qui mô rộng lớn,
hình thức phong phú và nội dung sâu sắc hơn, triệt để hơn.
Từ những căn cứ trên đi đến kết luận ngày nay cách mạng KH- CN hiện đại phát
triển có làm cho các giai cấp có sự phân hoá, vai trò của họ trong sản xuất có sự biến đổi,
đặc biệt là tầng lớp trí thức, song không làm thay đổi địa vị kinh tế- xã hội của họ. Do đó,
giai cấp công nhân vẫn là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử đánh đổ CNTB, xây dựng
thành công xã hội mới- XHCN và CSCN.
CÂU 12: SỰ KHÁC NHAU CĂN BẢN GIỮA CÁCH MẠNG XHCN VỚI CÁC
CUỘC CÁCH MẠNG TRƯỚC ĐÓ NHƯ THẾ NÀO?

Trả lời:
Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng xã hội, do giai cấp vô sản lãnh đạo
thông qua đội tiền phong của nó là Đảng cộng sản nhằm xoá bỏ chế độ TBCN, xoá
bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xây dựng thành công CNXH và CNCS trên
toàn thế giới.
Cách mạng XHCN khác căn bản với cuộc cách mạng trước đó ở 3 điểm:

- Do giai cấp vô sản lãnh đạo, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động.
- Cuộc cách mạng XHCN là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc, triệt để, giành
lấy chính quyền mới chỉ là màn giáo đầu của cách mạng XHCN.
- Mục đích của cách mạng XHCN là xoá bỏ chế độ áp bức, bóc lột, bất công,
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người, tạo mọi điều kiện
cho con người phát triển toàn diện, hài hoà với sự phát triển xã hội.


12
CÂU 13: VÌ SAO CÁCH MẠNG XHCN VẪN LÀ TẤT YẾU KHÁCH QUAN
TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY ?

Trả lời:
Qui luật phát triển khách quan của lịch sử xã hội loài người, là sự thay thế
hình thái kinh tế- xã hội này bằng hình thái kinh tế- xã hội khác cao hơn diễn ra như
một quá trình lịch sử tự nhiên, thông qua cách mạng xã hội. Tất cả các cuộc cách
mạng xã hội diễn ra trong lịch sử đều có nguồn gốc sâu xa từ mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu. Trong CNTB, đó là
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá với quan hệ sản xuất dựa
trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Vì vậy, hiện nay xu thế
toàn cầu hoá kinh tế càng làm cho tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất phát
triển, mâu thuẫn gay gắt với quan hệ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất.
Biểu hiện ra xã hội đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và
nhân dân lao động; mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB; mâu thuẫn giữa các nước
TBCN, các trung tâm, các tập đoàn tư bản đa quốc gia, xuyên quốc gia với nhau;
mâu thuẫn giữa các dân tộc, các nước đang phát triển với chủ nghĩa đế quốc và các
trung tâm, công ty xuyên quốc gia TBCN ngày càng gay gắt... Do đó, mặc dù CNTB
luôn tìm cách điều chỉnh, “thích nghi”, nhưng những mâu thuẫn cơ bản đó không
mất đi mà ngày càng sâu sắc hơn. Do đó, cách mạng XHCN vẫn là tất yếu khách

quan trong thời đại hiện nay.
CÂU 14: TẠI SAO NÓI CÁCH MẠNG XHCN LÀ CUỘC CÁCH MẠNG
KHÔNG NGỪNG?:
Trả lời:
Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc, triệt để nhất trong
tất cả các cuộc cách mạng xã hội đã từng diễn ra trong lịch sử. Để đạt được mục đích
cuối cùng là xây dựng thành công CNCS trên toàn thế giới, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản phải trải qua một quá trình
đấu tranh cách mạng, đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gian khổ, lâu dài với
nhiều giai đoạn và thời kỳ. Mỗi giai đoạn, thời kỳ cách mạng cụ thể, có mục tiêu,
đối tượng, phương pháp cách mạng xác định. Vì vậy, đòi hỏi Đảng cộng sản với vai
trò lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân, phải luôn nhạy cảm chính trị, bám sát
thực tiễn cuộc sống, tôn trọng khách quan để đề ra chủ trương, đường lối, chính sách
sát đúng, đưa cách mạng phát triển không ngừng, giành hết mục tiêu này đến mục
tiêu khác để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Hơn nữa, sự phát triển của lịch sử không phải là một đường thẳng mà quanh
co, phức tạp, thăng trầm. Ngay cách mạng dân chủ tư sản chỉ thay thế hình thức bóc
lột này bằng hình thức bóc lột khác tinh vi, xảo quyệt hơn, song cũng không phải
làm một lần đã xong. Do đó, cách mạng XHCN càng phải kiên trì, lâu dài qua nhiều
giai đoạn, nhiều bước trung gian, quá độ, nghĩa là phải tiến hành cách mạng không
ngừng mới đạt được mục tiêu cuối cùng.
CÂU 15: NHỮNG PHƯƠNG THỨC CÁCH MẠNG CƠ BẢN ĐỂ GIÀNH CHÍNH
QUYỀN CỦA CÁCH MẠNG XHCN LÀ GÌ?

Trả lời:


13
Cách mạng là sáng tạo, cách mạng XHCN càng đòi hỏi sự sáng tạo không
ngừng để tìm ra phương thức giành thắng lợi hiệu quả nhất. Song, phương thức cơ

bản để giành chính quyền của cách mạng XHCN có 2 phương thức cơ bản, là
phương thức bạo lực và phương thức hoà bình. Tuỳ điều kiện lịch sử cụ thể và tương
quan so sánh lực lượng, tình thế, thời cơ cụ thể mà Đảng cách mạng, xây dựng, sử
dụng bạo lực cách mạng để tiến hành phương thức nào cho phù hợp. Trong đó
phương thức cách mạng bạo lực để giành chính quyền trong cách mạng XHCN là
phổ biến, bởi vì bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù không bao giờ tự nguyện từ
bỏ lợi ích và sử dụng bạo lực phản cách mạng để chống lại cuộc cách mạng của giai
cấp công nhân; đồng thời, do tính chất ác liệt, khó khăn, lâu dài của cách mạng
XHCN làm cho giai cấp công nhân phải luôn luôn chăm lo xây dựng và sẵn sàng sử
dụng bạo lực cách mạng khi cần thiết. Thực tiễn lịch sử các cuộc cách mạng vô sản
đã chứng minh điều đó.
CÂU 16: VÌ SAO PHẢI BIẾT KẾT HỢP CHẶT CHẼ NHÂN TỐ CHỦ QUAN VỚI
ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN TRONG CÁCH MẠNG XHCN?

Trả lời:
Đây là vấn đề có tính qui luật trong mọi hiện tượng, quá trình xã hội, cách
mạng XHCN cũng không nằm ngoài vấn đề có tính qui luật đó. Hơn nữa, cách mạng
XHCN lại là cuộc cách mạng xã hội toàn diện, sâu sắc, lâu dài và triệt để, rất quyết
liệt do sự chống đối của các lực lượng thù địch. Do đó, các lực lượng cách mạng
phải chủ động, tích cực thúc đẩy sự chuyển biến cách mạng, tạo ra các điều kiện,
nhân tố thuận lợi, biết chớp thời cơ đưa cách mạng đến thắng lợi. Kiên quyết phê
phán những biểu hiện chủ quan, nóng vội, duy ý chí, song mặt khác phải chống mọi
biểu hiện thụ động, ngồi chờ, bảo thủ trì trệ. Phải bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, năng
lực trí tuệ, nhạy bén, bám sát thực tiễn, tôn trọng khách quan để chủ động phát huy
nội lực, định ra đường lối, chiến lược, sách lược và hành động cách mạng phù hợp
với thực tế khách quan. Bởi vì, qui luật xã hội bao giờ cũng thông qua hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Trong những điều kiện khách quan
nhất định, vai trò của nhân tố chủ quan có ý nghĩa quyết định to lớn đến toàn bộ sự
thành bại của cách mạng XHCN. Do đó, trong cách mạng XHCN phải kết hợp chặt
chẽ nhân tố chủ quan với điều kiện khách quan.

CÂU 17. HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI CSCN LÀ GÌ? CĂN CỨ ĐỂ
PHÂN KỲ VÀ CÁC GIAI ĐOẠN CỦA HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI
CSCN?
Trả lời:
Học thuyết Mác Lênin xác định hình thái kinh tế- xã hội là một khái niệm để
chỉ một xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan
hệ sản xuất ấy.
Vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác- Lê nin về hình thái kinh tế- xã hội nói
chung vào việc khái quát HTKTXH CSCN có thể quan niệm:
Hình thái kinh tế- xã hội CSCN là một xã hội có quan hệ sản xuất đặc trưng
dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất phù hợp với tính chất xã hội hoá cao độ


14
và trình độ phát triển tiên tiến, hiện đại của lực lượng sản xuất, và một kiến trúc
thượng tầng trong các thời kỳ, giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế- xã hội đó
tương ứng với cơ sở hiện thực của xã hội.
Sự ra đời của hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa cũng là một quá
trình lịch sử tự nhiên, tuân theo sự vận động của các qui luật khách quan thông qua
hoạt động thực tiễn của con người gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể. Lịch sử
nhân loại đã trải qua 4 hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau: Cộng sản nguyên
thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và đang quá độ từ CNTB lên
CNXH- giai đoạn đầu của hình thái kinh tế- xã hội CSCN.
Sự ra đời hình thái kinh tế- xã hội CSCN được đánh dấu bằng việc GCCN
giành được chính quyền nhà nước, bắt tay vào cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới- xã hội XHCN. Sự ra đời của hình thái kinh tế- xã hội CSCN là quá trình thống
nhất giữa tiến hoá xã hội và cách mạng xã hội. Sự phát triển không ngừng của lực
lượng sản xuất trong xã hội tư bản làm cho quan hệ sản xuất TBCN từ chỗ phù hợp

với lực lượng sản xuất trở thành vật cản cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất xã hội hoá, phát triển cao mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản
xuất TBCN. Biểu hiện về mặt xã hội đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với
giai cấp tư sản ngày càng sâu sắc. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản là tất yếu khách quan và trực tiếp dẫn đến cách mạng xã hội; thắng
lợi của cách mạng XHCN mở đường cho sự ra đời của hình thái kinh tế- xã hội
CSCN.
Sự ra đời, phát triển của hình thái kinh tế- xã hội CSCN là một quá trình lịch
sử rất lâu dài, khó khăn trong một nước và trên phạm vi toàn thế giới. Quá trình đó
đòi hỏi vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính Đảng của nó, giai
cấp công nhân cùng toàn thể nhân dân lao động bằng những hoạt động thực tiễn
sáng tạo, làm cho lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, từng bước xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và các thiết chế xã
hội, các quan hệ xã hội tương ứng ngày càng thể hiện đúng đắn và đầy đủ bản chất
của hình thái kinh tế- xã hội CSCN.
Sự phát triển của hình thái kinh tế- xã hội CSCN trải qua những giai đoạn từ
thấp đến cao, với những đặc điểm cụ thể của mỗi giai đoạn đó. Xem xét cả về lôgíc
và lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lê nin phân kỳ hình thái kinh tếxã hội CSCN bao gồm:
1. Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH.
2. CNXH- giai đoạn thấp của hình thái kinh tế- xã hội CSCN.
3. CNCS- giai đoạn cao của hình thái kinh tế- xã hội CSCN.
Trong mỗi thời kỳ, giai đoạn đó lại có thể phân chia thành các thời kỳ, giai
đoạn nhỏ khác nhau thích ứng với sự phát triển của các nhân tố kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội... của xã hội.
Sự phân kỳ hình thái kinh tế- xã hội CSCN không phải tuỳ tiện theo ý muốn
chủ quan mà dựa trên cơ sở khách quan, khoa học về sự phát triển và chín muồi của
các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đời sống xã hội. Đó là trước hết,
phải dựa trên trình độ phát triển của kinh tế- xã hội thể hiện ở trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, khoa học- công nghệ, năng suất lao động xã hội và tương



15
ứng với nó là trình độ phát triển của quan hệ sản xuất cả về quan hệ sở hữu, tổ chức
quản lý và phân phối...
Đây là tiêu chí cơ bản, cơ sở quan trọng nhất.
Thứ hai, đó là trình độ phát triển, hoàn thiện của kiến trúc thượng tầng, nhất
là nhà nước, pháp luật, sự phát triển dân chủ và các thiết chế xã hội khác cùng với
những mối quan hệ xã hội khác, các hình thái ý thức xã hội khác.
Xác định đúng đắn các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế- xã hội
CSCN có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Nôn nóng, chủ
quan, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn trong xác định các giai đoạn sẽ gây nên tổn thất
to lớn đối với sự phát triển xã hội thực chất lại kìm hãm, kéo lùi sự phát triển. Đồng
thời, bảo thủ, trì trệ, thụ động trước những biến đổi lớn lao khi các nhân tố xã hội đã
chín muồi cũng làm chậm sự phát triển xã hội đó.
CÂU 18. CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI XHCN VIỆT NAM
LÀ GÌ?
Trả lời:
Từ quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác- Lê nin và từ thực tiễn
quá trình xây dựng CNXH ở các nước XHCN và ở nước ta, “Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” (1991) của Đảng cộng sản Việt Nam đã
xác định các đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN ở Việt Nam. Đó là xã hội:
1. Do nhân dân lao động làm chủ.
2. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
3. Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
4. Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân.
5. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến
bộ.

6. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Sau Đại hội VII, Đại hội VIII, IX, X đã có sự phát triển tư duy về chủ
nghĩa xã hội với nhiều nội dung.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) đã có bước phát triển mới
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong Văn kiện Đại hội có mục III: Về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với nhiều nhận thức mới. Đại hội
xác định: Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự
biến đổi về chất của xã hội xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực là sự
nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất
quá độ"1.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) đã có thêm những
nhận thức mới về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với 8 đặc trưng các đặc
trưng.
Những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa và những phương hướng
đi lên chủ nghĩa xã hội vừa nêu là thể hiện thành quả của nhận thức mới của


16
Đảng ta. Những nhận thức mới đó đã tạo tiền đề cho việc bổ sung, phát triển
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI nhằm tiếp tục bổ sung hoàn thiện những
đặc trưng của xã hội chủ nghĩa và phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, 8 phương hướng cơ bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội và 8
mối quan hệ lớn cần quán triệt và giải quyết trong khi thực hiện.
8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong Cương lĩnh
(bổ sung, phát triển năm 2011)là:

Thứ nhất: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Thứ hai: Do nhân dân làm chủ
Thứ ba: Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp
Thứ tư: Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Thứ năm: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện
Thứ sáu: Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển
Thứ bảy: Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Thứ tám: Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới
Câu 19: Tại sao nói đi lên CNXH tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ ?
Trả lời:
Quá độ đi lên CNXH là một tất yếu lịch sử. Đó là một thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thời kỳ đó bắt đầu từ khi giai cấp công nhân
giành được chính quyền nhà nước, tiến hành xây dựng và bảo vệ đất nước theo định
hướng XHCN và kết thúc khi xây dựng về cơ bản những cơ sở kinh tế, xã hội của xã
hội XHCN với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng- văn hoá tương ứng.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin đã chỉ rõ: giữa xã hội TBCN và xã hội XHCN có một
thời kỳ quá độ từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thời kỳ quá độ lên CNXH là xã hội vừa
thoát thai từ xã hội TBCN, do đó, là một xã hội mà về mọi phương diện kinh tế, đạo
đức, tinh thần... còn mang dấu vết của xã hội cũ. “Thời kỳ quá độ ấy không thể nào
lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa CNTB đã bị lật đổ và CNCS đang phát
sinh, hay nói cách khác, giữa CNTB đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và
CNCS đã phát sinh nhưng vẫn còn non yếu” 1 . Tính chất quá độ thể hiện trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó cần đặc biệt chú ý sự quá độ chính trị mà nhà
nước CCVS phải được thiết lập, không ngừng được củng cố và hoàn thiện để tổ
chức và quản lý xã hội theo hướng XHCN.
1


V.I.Lênin, to àn tập, tập 39, Nxb TB M. 1979, tr. 309-310.


17
Thời kỳ quá độ, do đó, là thời kỳ cải biến cách mạng lâu dài để loại bỏ dần
những cái cũ, xây dựng và củng cố dần những cái mới; là thời kỳ tạo ra những tiền
đề vật chất, tinh thần để hình thành một xã hội mới, cao hơn CNTB.
Quá độ lên CNXH có hai kiểu là quá độ trực tiếp từ CNTB lên CNXH và quá
độ gián tiếp từ những xã hội tiền TBCN lên CNXH. Dù là trực tiếp hay gián tiếp đều
phải trải qua một quá trình gay go, phức tạp và lâu dài.
Ở mỗi nước do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội khác nhau mà độ dài,
ngắn của thời kỳ quá độ có khác nhau.
Cần phải có một thời kỳ quá độ lâu dài để đổi mới nền sản xuất, thay đổi căn
bản mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt
mới có thể thắng lợi được sức mạnh của thói quen quản lý xã hội theo kiểu tiểu tư
sản và tư sản.
Câu 20: Những đặc điểm chính trị- xã hội của thời kỳ quá độ lên CNXH là
gì?
Trả lời:
- Hệ thống chính trị XHCN mà bản chất là chuyên chính vô sản đã được thiết
lập và ngày càng được củng cố, xây dựng và ngày càng hoàn thiện để bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân lao động.
Đây là đặc điểm chính trị- xã hội có ý nghĩa quyết định nhất đến quá trình cải
biến cách mạng từ xã hội cũ sang xã hội mới- xã hội XHCN. Đó là quá trình thống
nhất biện chứng giữa cải tạo và xây dựng, là quá trình đấu tranh giai cấp gay go,
quyết liệt và phức tạp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong những điều kiện,
nội dung và hình thức mới. Thiết lập và củng cố hệ thống chính trị nhằm từng bước
hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực xã hội thuộc về nhân dân lao
động. Trong quá trình đó phải nắm vững vấn đề có tính nguyên tắc là thường xuyên

củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng cộng sản và vai trò quán
lý của Nhà nước XHCN đối với toàn xã hội.
Sự biến đổi của chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ lên CNXH là “Dân chủ
cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân
dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ đối với bọn chúng” 1 . Sự biến đổi ấy của chế độ dân
chủ phải không ngừng củng cố hoàn thiện hệ thống chính trị, sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản và vai trò quản lý của Nhà nước XHCN.
- Thời kỳ quá độ lên CNXH còn tồn tại cơ cấu xã hội- giai cấp đa dạng và
phức tạp, với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau, những giai cấp, những bộ
phận mà lợi ích có điểm tương đồng, đồng thời cũng có sự khác biệt. Mặt khác, các
thế lực đế quốc phản động bên ngoài luôn tìm cách móc nối với các thế lực phản
cách mạng bên trong chống phá công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH.
Cùng với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, các giai cấp và
tầng lớp xã hội trong thời kỳ quá độ cũng có sự vận động, biến đổi theo hướng xích
lại gần nhau, hình thành cơ cấu xã hội- giai cấp XHCN.
- Đời sống văn hoá, tư tưởng của xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH cũng
manh những đặc điểm khá phức tạp, Đó là sự cùng tồn tại, tác động và thâm nhập
lẫn nhau của hệ tư tưởng vô sản, tàn dư tư tưởng phong kiến, ảnh hưởng tư tưởng tư
1

V.I.Lênin, to àn tập, tập 33, Nxb TB M. 1978, tr. 109.


18
sản và tâm lý, tập quán của người sản xuất nhỏ... Xã hội còn tình trạng khác biệt khá
rõ giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa lao động trí óc và
lao động chân tay...
Quá trình cải biến cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng- văn hoá của xã hội trong
thời kỳ quá độ làm cho hệ tư tưởng vô sản thực sự chi phối đời sống tinh thần xã
hội. Cải biến dần dần tàn dư tư tưởng phong kiến và ảnh hưởng tư tưởng tư sản,

khắc phục tâm lý tập quán của người sản xuất nhỏ, ngăn chặn, loại trừ ảnh hưởng
của văn hoá xấu độc, bài trừ hủ tục mê tín dị đoan, xây dựng con người mới và lối
sống XHCN.
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện
trên tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Đó là quá trình đấu tranh để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa CNTB và CNXH.
Mọi biểu hiện chủ quan duy ý chí, nóng vội hoặc trì trệ, bảo thủ, thụ động đều gây
ra những hậu quả tiêu cực, cản trở quá trình đi lên CNXH.
Câu 21: Tại sao nói thời kỳ quá độ là thời kỳ đấu tranh giai cấp trong điều
kiện mới với những nội dung mới và hình thức mới?
Trả lời:
Cuộc đấu tranh giai cấp do giai cấp công nhân tiến hành là cuốc đấu tranh giai
cấp cuối cùng trong lịch sử loài người. Nó là phương tiện tất yếu để giải phóng hoàn
toàn xã hội khỏi ách áp bức, bóc lột, khỏi sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai
cấp. Vì vậy, đây là quá trình đấu tranh rất lâu dài và vô cùng phức tạp.
Sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, đất
nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, đấu tranh giai cấp chưa kết thúc. Bởi lẽ,
xét về cơ cấu xã hội- giai cấp, các giai cấp, tầng lớp xã hội vẫn tồn tại đa dạng, biến
đổi phức tạp. Giai cấp tư sản đã bị đánh đổ, bị mất quyền lực thống trị xã hội, song
vẫn tìm mọi cách để phục hồi trật tự xã hội cũ; cuộc đấu tranh ai thắng ai giữa
CNXH và CNTB vẫn diễn ra gay gắt; các quan hệ sản xuất cũ vẫn chưa bị xoá bỏ
ngay mà vẫn còn tác động tới các lĩnh vực kinh tế- xã hội; các giai cấp, tầng lớp
trung gian vẫn còn phân hoá và biến đổi theo những khuynh hướng khác nhau, đòi
hỏi sự lôi cuốn, giác ngộ kiên trì của giai cấp công nhân. Đặc biệt, cơ sở vật chất kỹ
thuật của CNXH cần phải được xây dựng và phát triển, tạo tiền đề vững chắc cho
CNXH; nhiều tàn dư của xã hội cũ vẫn còn ảnh hưởng nặng nề trong đời sống xã
hội cần được cải tạo. Như vậy, tiếp tục đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ vẫn là
tất yếu khách quan. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ diễn ra
trong điều kiện mới. Điều kiện mới đó là giai cấp công nhân và nhân dân lao động
đã có chính quyền, trở thành người làm chủ xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH

mục tiêu đấu tranh trực tiếp của giai cấp công nhân đã thay đổi: Từ mục tiêu giành
chính quyền sang mục tiêu cơ bản và chủ yếu là củng cố chính quyền của nhân dân
lao động xây dựng thành công CNXH, trọng tâm là xây dựng kinh tế.
Về nội dung, cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên
CNXH diễn ra trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế , xã hội, văn hoá, tư tưởng.
CNXH chỉ giành được thắng lợi triệt để khi giai cấp công nhân lãnh đạo đông đảo
quần chúng nhân dân xây dựng thành công phương thức sản xuất mới, bảo đảm
CNXH tạo ra được năng suất lao động cao hơn CNTB. Mục tiêu này chưa thực hiện


19
được thì chưa thể chiến thắng hoàn toàn CNTB. Các thế lực tư bản quốc tế luôn ra
sức ngăn cản giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền xây dựng thành công
CNXH bằng nhiều phương tiện và thủ đoạn từ bao vây, cấm vận, can thiệp quân sự
đến “Diễn biến hoà bình”. Để xây dựng CNXH, giai cấp công nhân và nhân dân lao
động phải làm thất bại các thủ đoạn nói trên.
Trong điều kiện đã nắm được chính quyền giai cấp công nhân phải sử dụng
tổng hợp linh hoạt các hình thức đấu tranh mới, trong đó có đấu tranh bằng bạo lực
và bằng hoà bình, bằng giáo dục thuyết phục và bằng hành chính, pháp chế, bằng
chính trị, quân sự và bằng kinh tế, bằng cải tạo các quan hệ cũ đã lỗi thời và xây
dựng các quan hệ mới; bằng liên minh giữa giai cấp công nhân với các giai cấp, tầng
lớp lao động khác; bằng “sử dụng” giai cấp tư sản để xây dựng CNXH...
Cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH lâu dài gay
go phức tạp như thế nào là tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của từng nước.
Ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước đây, các lực lượng chống
CNXH đã lợi dụng được tình hình khủng hoảng của CNXH, nhất là lợi dụng những
sai lầm nghiêm trọng của các Đảng cộng sản cầm quyền để đảo ngược tình thế, lập
lại trật tự tư sản, xoá bỏ chế độ XHCN. Thực tế đó là sự bác bỏ những quan niềm
mơ hồ hoặc phủ nhận đấu tranh giai cấp sau khi giai cấp công nhân đã giành được
chính quyền.

Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta, đấu tranh giai cấp là thực tế
khách quan không thể tránh khỏi. Văn kiện Đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam chỉ
rõ: “Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh trong giai đoạn hiện nay là thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN, khắc
phục tình trạng nước nghèo và kém phát triển; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục
những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu
và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng
nước ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc” 1 . Vì vậy, phải luôn
nhận thức cho đúng điều kiện, nội dung và hình thức mới của cuộc đấu tranh này để
xử lý đúng đắn các quan hệ xã hội- giai cấp, để thực hiện thắng lợi mục tiêu cách
mạng là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Câu 22: Thế nào là quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ?
Trả lời:
Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là con đường đi lên CNXH bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN,
nhưng phải tiếp thu kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
tư bản, đặc biệt là về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại. Qua đó, từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ
sản xuất mới phù hợp với sự phát triển theo định hướng XHCN.
Đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên
mọi lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp và phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có
tính chất quá độ mới đi đến thành công.
1

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB to àn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.86.


20
Câu 23: Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN có trái với tiến trình

lịch sử tự nhiên không ? Vì sao?
Trả lời:
Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN không trái với tiến trình lịch sử
tự nhiên vì:
1. Lý luận về hình thái kinh tế- xã hội của chủ nghĩa Mác- Lê nin đã vạch ra
cấu trúc và các qui luật chung nhất trong sự vận động, phát triển của xã hội. Song
khi vận dụng nó vào từng trường hợp cụ thể từng quốc gia, từng dân tộc phải tính
đến sự tác động phức tạp của hoàn cảnh lịch sử- cụ thể của tổng hợp nhiều yếu tố.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người nói chung phải trải qua các hình thái
kinh tế- xã hội một cách tuần tự từ thấp đến cao theo đúng tiến trình lịch sử tự
nhiên. Song, lịch sử nhân loại cũng không loại trừ sự phát triển đặc thù của những
quốc gia, dân tộc trong những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử nhất định, có thể “bỏ
qua” hình thái kinh tế- xã hội này, chuyển lên hình thái kinh tế- xã hội cao hơn.
Việc bỏ qua một số hình thái kinh tế- xã hội trong lịch sử của nhiều dân tộc là
một khả năng thực tế, được tạo nên do chính các quy luật chung nhất của vận động
lịch sử mà lý luận hình thái kinh tế- xã hội của chủ nghĩa Mác- Lê nin đã vạch ra.
Đây là biện chứng giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái đặc thù, cái
khách quan và cái chủ quan của tiến trình lịch sử tự nhiên có tuần tự và có nhảy vọt
trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
2. Điều kiện để một nước chậm phát triển về kinh tế “bỏ qua” chế độ TBCN
tiến lên CNXH trong thời đại ngày nay.
Điều kiện kinh tế:
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã
quốc tế hoá lực lượng sản xuất. Vì thế, ở đây đã chứa đựng “dưới một hình thức ít
nhiều phát triển”- theo cách phân tích của Ph.Ăngghen- những phương tiện để xoá
bỏ CNTB. Và do đó, có thể thông qua con đường giao lưu và hợp tác “đa phương
hoá”, “đa dạng hoá”, để các nước chậm phát triển có thể đi vào con đường phát triển
“rút ngắn” ngay cả khi CNTB chưa bị đánh bại tại “dinh luỹ” của nó.
- Do sự phát triển cao của lực lượng sản xuất, tính chất quốc tế hoá của lực
lượng sản xuất đã tạo nên một xu thế mới trong quan hệ giữa các quốc gia dân tộc,

tạo điều kiện cho các dân tộc có thể phát triển theo con đường phi tư bản chủ nghĩa.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong các nước tư bản chủ nghĩa do
cách mạng khoa học và công nghệ lại cũng mở ra nhiều yếu tố tăng trưởng kinh tếlà thành tựu chung của nhân loại mà các nước đi lên CNXH có thể sử dụng như
những bước “trung gian”, “quá độ” về kinh tế để phát triển.
Điều kiện chính trị :
- Có Đảng của giai cấp vô sản đã giành được chính quyền và trở thành đảng
cầm quyền, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội.
- Xây dựng và thực hiện được một nhà nước kiểu mới, nhà nước của dân, do
dân và vì dân.
- Có một hệ thống chính trị vững mạnh trong sạch giữ vững định hướng
XHCN.


21
Trong thời đại ngày nay, nhân tố kinh tế là nhân tố suy cho cùng là nhân tố
quyết định thắng lợi của CNXH. Song nhân tố chính trị xét về mặt chủ thể của lịch
sử lại trở thành nhân tố quyết định trong bước đường phát triển của dân tộc. Nghĩa
là nhân tố chủ quan phải được “khách quan hoá”. Đối với nước ta, các điều kiện
khách quan, chủ quan, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đã là những cơ sở
hiện thực để đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Vấn đề cơ bản là Đảng và Nhà
nước phải nhận thức và vận dụng đúng các qui luật khách quan của lịch sử- mà
trước hết là các qui luật kinh tế; Đảng và Nhà nước phải có trí tuệ và đặc biệt là phải
trong sạch, vững mạnh, kiên định với định hướng XHCN; có đường lối, chính sách
đúng đắn để tập hợp, thu hút mọi nguồn lực, mọi tiềm năng trong nhân dân để phát
triển đất nước; có chính sách đối ngoại đúng đắn để tranh thủ môi trường hoà bình,
điều kiện quốc tế thuận lợi, thu hút vốn, khoa học- kỹ thuật và công nghệ của khu
vực và thế giới; Đảng và Nhà nước phải tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp trong
nước và thế giới để nước ta “bỏ qua” chế độ TBCN tiến lên CNXH.
Với các lý do trên đây cho thấy Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN
không trái với tiến trình lịch sử tự nhiên và có khả năng hiện thực.

Câu 24. Tính tất yếu khách quan của định hướng XHCN ở Việt Nam hiện
nay?
Trả lời:
Định hướng XHCN là tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta. Điều đó xuất phát từ đặc điểm đa dạng, phức tạp về kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội của thời kỳ này, đặc biệt là tính chất gay go quyết liệt của cuộc đấu tranh
giai cấp, đấu tranh dân tộc, đấu tranh giữa con đường tiến lên CNXH và con đường
TBCN; Đồng thời, trước những tác động tiêu cực do sự thoái trào của CNXH hiện
thực, sự suy giảm niềm tin về CNXH của một bộ phận nhân dân. Tính tất yếu khách
quan của định hướng XHCN còn xuất phát từ chính thực tiễn phức tạp khó khăn của
quá trình xây dựng CNXH, quá trình hoạt động thực tiễn để hiện thực hoá các giá trị
của CNXH, các nhân tố XHCN trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Câu 25. Thế nào là định hướng XHCN? Nội dung định hướng trên các lĩnh
vực xã hội ở nước ta hiện nay.
Trả lời:
Định hướng XHCN là việc chủ thể xã hội xác định mục tiêu, phương hướng,
các giải pháp cơ bản để phát triển các giá trị, các nhân tố XHCN trong thời kỳ quá
độ lên CNXH phù hợp với xu thế khách quan của lịch sử đất nước và thời đại, đấu
tranh ngăn chặn, loại trừ những biểu hiện chệch hướng XHCN, nhằm xây dựng
thành công CNXH. Chủ thể xã hội định hướng XHCN là hệ thống chính trị và toàn
dân, trong đó vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước XHCN và
tính tích cực, sáng tạo của nhân dân có ý nghĩa quyết định. Trên cơ sở nắm vững
các nguyên lý chủ nghĩa Mác- Lê nin. đứng vững trên lập trường cách mạng của giai
cấp công nhân, lợi ích của nhân dân lao động, đồng thời xuất phát từ điều kiện hoàn
cảnh cụ thể của đất nước, Đảng cộng sản cùng với toàn bộ hệ thống chính trị và
nhân dân kiên định mục tiêu XHCN, tìm tòi các phương thức, các điều kiện xây
dựng CNXH, đưa các giá trị, các nhân tố XHCN trở thành hiện thực sinh động trong


22

các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Định hướng XHCN là nhận thức và hoạt
động của chủ thể phù hợp với xu thế khách quan của sự phát triển xã hội. Đây là quá
trình kết hợp giữa xây và chống, vừa xác lập, hiện thực hoá các giá trị của CNXH,
vừa đấu tranh với những khuynh hướng phủ nhận, chống lại con đường tiến lên
CNXH và điều chỉnh, uốn nắn những biểu hiện chệch hướng XHCN trong nhận
thức và hành vi của quá trình tiến lên CNXH.
Định hướng XHCN ở nước ta hiện nay bao gồm những nội dung cơ bản sau
đây.
- Định hướng XHCN trên lĩnh vực chính trị: Đó là giữ vững và tăng cường
chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối và vai trò lãnh
đạo của ĐCSVN đối với xã hội; là việc xây dựng, hoàn thiện và nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của HTCT XHCN; ở việc đấu tranh ngăn chặn, loại trừ
những ảnh hưởng của tư tưởng tư sản, các quan điểm cơ hội, xét lại, tàn dư tư tưởng
phong kiến; ở việc tạo ra một phong trào chính trị sâu rộng của toàn dân hướng tới
xây dựng chế độ XHCN: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
- Định hướng XHCN trên lĩnh vực kinh tế là xây dựng nền kinh tế XHCN
phát triển toàn diện dựa trên nền tảng CNH, HĐH; phát triển KH-CN hiện đại, xây
dựng cơ cấu kinh tế cân đối, hợp lý, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; xây
dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, từng bước xây dựng và
hoàn thiện QHSX dựa trên chế độ công hữu về TLSX chủ yếu, trong đó kinh tế nhà
nước và tập thể giữ vai trò chủ đạo; phát huy vai trò quản lý sản xuất- kinh doanh
của người lao động, thực hiện phân phối lao động là chủ yếu; mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại, giữ vững tính độc lập- tự chủ của nền kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá
và hội nhập.
- Định hướng XHCN trên lĩnh vực xã hội bao gồm: xây dựng một cơ cấu xã
hội phù hợp với cơ cấu kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, trong đó cơ cấu xã hộigiai cấp giữ vị trí trung tâm mà nòng cốt là liên minh giai cấp giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức; giải quyết hài hoà các lợi ích kinh
tế; khắc phục phân hoá giàu nghèo quá mức, tạo ra sự xích lại gần nhau giữa các giai
cấp, tầng lớp cơ bản của xã hội; kiểm soát được phạm vi ảnh hưởng của thành phần

tư sản trong kinh tế và đời sống xã hội. Nâng cao thu nhập, phát triển giáo dục và
chất lượng cuộc sống về ăn, mặc, ở, đi lại, việc làm, chăm sóc sức khoẻ nhân dân;
bảo vệ môi trường sinh thái, thực hiện công bằng xã hội, xây dựng các quan hệ xã
hội lành mạnh, văn minh; giữ vững ổn định trật tự an toàn xã hội, đẩy lùi các tiêu
cực và tệ nạn xã hội; nâng cao hiệu quả quản lý xã hội, hoàn thiện các thiết chế, cơ
chế quản lý xã hội. ..
Định hướng trên lĩnh vực văn hoá là xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá nhân loại; phát triển
hệ thống các giá trị văn hoá tốt đẹp; đảm bảo các nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ văn
hoá của quần chúng nhân dân; tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với lĩnh
vực văn hoá, chủ động ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực của văn hoá tư sản, tàn dư văn
hoá phong kiến.


23
Câu 26. Thế nào là hệ thống chính trị và hệ thống chính trị XHCN ?
Trả lời:
Hệ thống chính trị của một chế độ xã hội, một quốc gia là hệ thống các tổ
chức (thiết chế) chính trị- xã hội và các mối quan hệ giữa chúng với nhau, vận hành
theo một cơ chế nhất định bảo đảm cho việc thực hiện quyền lực chính trị của giai
cấp cầm quyền trong quan hệ với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội khác.
Xét về cấu trúc, hệ thống chính trị gồm 2 bộ phận cơ bản: thứ nhất, đó là các
tổ chức chính trị xã hội bao gồm các đảng chính trị; nhà nước, các đoàn thể chính trị
xã hội khác; các tổ chức chính trị- xã hội được liên kết trong một chỉnh thể và được
hoạt động hợp pháp; Thứ hai là cơ chế chính trị bảo đảm cho sự vận hành của hệ
thống chính trị, phản ánh và giải quyết mối quan hệ giữa toàn bộ hệ thống chính trị
với xã hội, giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị với nhau và mỗi thành tố
với xã hội. Việc hình thành và hoạt động của các thành tố của hệ thống chính trị
được quy định và chi phối bởi hệ tư tưởng của giai cấp cầm quyền, của các chuẩn
mực và truyền thống chính trị cũng như hiện thực đời sống chính trị gắn với điều

kiện lịch sử cụ thể.
Hệ thống chính trị XHCN là một chỉnh thể, bao gồm toàn bộ những tổ chức
chính trị- xã hội là Đảng Mác- Lê nin, Nhà nước XHCN, các tổ chức chính trị- xã
hội khác hoạt động hợp pháp, cùng với những cơ chế chính trị bảo đảm thực hiện
quyền lực thuộc về nhân dân. Xét về bản chất, hệ thống chính trị XHCN là hệ thống
chính trị nhất nguyên do Đảng cộng sản lãnh đạo. Tuỳ điều kiện lịch sử cụ thể, hệ
thống chính trị XHCN có thể thực hiện chế độ một đảng cộng sản duy nhất hoặc
Đảng cộng sản và một số đảng chính trị khác. Song, dù là chế độ một Đảng hay
nhiều đảng, Đảng cộng sản vẫn giữ vai trò lãnh đạo xã hội, còn các tổ chức chính
trị- xã hội khác đều phục tùng sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, động viên nhân dân tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN. Hệ thống chính trị XHCN nhất nguyên bảo đảm tăng cường vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân, của Đảng cộng sản đối với xã hội, giữ vững ổn
định chính trị, thực hiện tốt dân chủ XHCN, quyền lực thực sự thuộc về nhân dân,
bảo đảm cho sự phát triển của đất nước theo con đường XHCN. Giữ vững và tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng Mác- Lênin đối với hệ thống chính trị và toàn xã
hội là nguyên tắc tối cao và điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của chế
độ dân chủ XHCN, bảo đảm cho dân chủ thực sự, quyền lực thuộc về nhân dân.
Câu 27. Những đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị XHCN ở Việt Nam
hiện nay?
Trả lời:
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là hệ thống chính trị XHCN bao gồm
ĐCSVN, Nhà nước CHXHCN Việt Nam, các tổ chức chính trị- xã hội khác dưới sự
lãnh đạo của Đảng và các cơ chế chính trị thích ứng, bảo đảm quyền lực thuộc về
nhân dân.
Là hệ thống chính trị XHCN, hệ thống chính trị nước ta hiện nay thể hiện bản
chất của hệ thống chính trị XHCN; đồng thời, mặt khác do hoàn cảnh lịch sử- cụ thể
ở nước ta có một số đặc trưng nổi bật sau.



24
Thứ nhất, tính nhất nguyên chính trị XHCN. Đặc trưng này thể hiện vai trò
lãnh đạo độc tôn của ĐCSVN đối với hệ thống chính trị XHCN và toàn xã hội, trong
suốt quá trình hình thành, phát triển của hệ thống chính trị nước ta qua các giai
đoạn, thời kỳ cách mạng. ĐCSVN là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Trong hệ thống chính trị XHCN ở nước ta hiện nay không tồn tại các tổ chức
chính trị- xã hội đối lập. Các tổ chức chính trị- xã hội, các đoàn thể nhân dân, các
giai cấp, dân tộc, tôn giáo... tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền
tảng liên minh công- nông- trí thức do ĐCSVN lãnh đạo, các quyền tự do, dân chủ
của công dân và quyền con người được tôn trọng, bảo vệ và ngày càng được thực
hiện và phát huy trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quá trình xây dựng, đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị XHCN về tổ chức,
nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị nước ta đều trung thành với các quan điểm chính trị Mác- Lênin, lợi
ích lập trường giai cấp công nhân và lợi ích nhân dân lao động, đấu tranh chống
những quan điểm chính trị mơ hồ, sai trái, phản động, những hành vi đi ngược, hoặc
làm tổn hại đến lợi ích cách mạng và dân tộc.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam- trụ cột của hệ thống chính trị nước ta là Nhà
nước XHCN, mang bản chất giai cấp công nhân, là nhà nước của dân, do dân và vì
dân, thể hiện ý chí quyền lợi của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động;
là bộ máy quản lý xã hội, có đầy đủ sức mạnh quyền lực sẵn sàng đập tan mọi âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ công cuộc xây dựng đất
nước, độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia, lợi ích
dân tộc. ..
Các đoàn thể chính trị- xã hội tập trung đông đảo đoàn viên, hội viên trong
các tầng lớp nhân dân, các cộng đồng. .. dưới sự lãnh đạo của Đảng, giáo dục, động
viên nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, chấp hành đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật nhà nước, phát huy quyền dân chủ của nhân dân, bảo đảm lợi
ích chính đáng của nhân dân, tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Các hoạt động của các đoàn thể chính trị- xã hội đều trong khuôn khổ hiến pháp và
pháp luật của Nhà nước XHCN và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, các đoàn
thể chính trị- xã hội góp phần thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng- Nhà nước và nhân
dân, bảo đảm đúng định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ XHCN,
góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị- xã hội trong sạch,
vững mạnh.
Thứ hai, hệ thống chính trị nước ta mang tính định hướng XHCN trong suốt
quá trình phát triển. Hệ thống chính trị XHCN ở nước ta hiện nay ra đời từ thắng lợi
của cuộc cách mạng tháng Tám- 1945. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trước đây hay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN ngày nay, do mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng cụ thể của từng thời kỳ
đặt ra, thì tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị có
những biến đổi thích ứng. Tuy nhiên, trong quá trình đó, bản chất hệ thống chính trị
nước ta không hề thay đổi. Mục tiêu của hệ thống chính trị qua các giai đoạn, thời


25
kỳ dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đều phấn đấu vì độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH.
Thứ ba, hệ thống chính trị XHCN Việt Nam là hệ thống chính trị mang tính
dân chủ, quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.
Sự tồn tại và phát triển của hệ thống chính trị nước ta và của mỗi thành tố của
nó, không có mục đích tự thân, mà toàn bộ tổ chức, nội dung, phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị nước ta là nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
XHCN, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân. Tính dân chủ rộng rãi của hệ thống
chính trị nước ta thể hiện vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng, hoàn thiện
hệ thống chính trị, kiểm tra, giám sát các hoạt động của mỗi tổ chức; ở nội dung,
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị; ở mối quan hệ giữa các thành tố và
của mỗi thành tố với nhân dân và ở việc thường xuyên đổi mới hệ thống chính trị,
nâng cao chất lượng hiệu quả hệ thống chính trị, đảm bảo lợi ích của nhân dân.

Ngăn chặn, loại trừ chủ nghĩa quan liêu, sự suy thoái của hệ thống chính trị và cán
bộ công chức hệ thống chính trị.
Thứ tư, tính dân tộc sâu sắc thể hiện hệ thống chính trị XHCN là thành quả tất
yếu của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc của dân tộc Việt Nam; hệ thống
chính trị XHCN Việt Nam ra đời từ ngọn lửa cách mạng của phong trào giải phóng
dân tộc chống đế quốc và phong kiến; toàn bộ hoạt động, mục tiêu lý tưởng của hệ
thống chính trị nước ta là vì độc lập dân tộc và CNXH, phản ánh xu thế tất yếu của
sự phát triển dân tộc phù hợp xu thế thời đại, đáp ứng lợi ích chân chính và nguyện
vọng độc lập tự do của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tính dân tộc sâu sắc của hệ thống chính trị XHCN nước ta còn thể hiện ở sự
kế thừa và phát huy những truyền thống, những tư tưởng chính trị, những kinh
nghiệm quý báu về tổ chức, hoạt động thực tiễn chính trị trong lịch sử dựng nước và
giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc.
Câu 28. Cơ sở khoa học để Đảng cộng sản Việt Nam “kiên quyết bác bỏ đa
nguyên chính trị” ?
Trả lời:
Đa nguyên chính trị là gì? Đó là hệ thống chính trị- xã hội với cơ cấu các tổ chức
chính trị- xã hội bao gồm cả các đảng phái chính trị đối lập được hoạt động hợp pháp
tạo thành thiết chế và cơ chế chính trị của xã hội. Nói cách khác, đa nguyên chính trị
nghĩa là đa đảng đối lập (các đảng đối lập được hoạt động hợp pháp).
Xét về cấu trúc hệ thống chính trị đa nguyên (đa nguyên chính trị) bao gồm:
- Đảng chính trị của giai cấp cầm quyền.
- Nhà nước do giai cấp thống trị tạo ra.
- Các tổ chức, đoàn thể chính trị- xã hội do giai cấp thống trị tạo nên.
- Các lực lượng chính trị trung gian.
- Các Đảng đối lập và các tổ chức chính trị- xã hội khác đi liền với các Đảng
đó (được hoạt động hợp pháp).
Việc hình thành thiết chế, cơ chế chính trị đa nguyên, trên thực tế là tuỳ thuộc
vào điều kiện lịch sử cụ thể. Thực tế đó suy đến cùng là do đặc điểm, tính chất của
cơ cấu xã hội- giai cấp, tương quan so sánh lực lượng và kết quả của cuộc đấu tranh

giai cấp sinh ra. Ở các nước TBCN, việc hình thành hệ thống chính trị đa nguyên


×