Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trường đại học kiến trúc hà nội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.23 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
------------------------------------------------

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC HÀ NỘI TRONG THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC.

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2008


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay, đạo đức có vai trò rất quan trọng trong cấu trúc nhân cách con người Việt Nam
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII của Đảng đã xác định tư tưởng, đạo đức và lối sống là những
lĩnh vực then chốt của văn hoá hiện đang có những chuyển biến quan trọng. Vì vậy nhiệm
vụ cấp bách hiện nay là: “Xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống văn hoá lành mạnh trong
xã hội, trước hết là trong các tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, trong các đoàn thể quần
chúng và từ gia đình”[12, tr.16].
Trong sự nghiệp xây dựng nền đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay, trong điều kiện cơ chế
thị trường, công nghiệp hoá, hiện đại hóa, một mặt mang lại sức sống mới cho dân tộc,
mặt khác lại có nguy cơ xa rời thậm chí đối lập với các giá trị đạo đức truyền thống. Vì
thế đi vào cơ chế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn luôn coi trọng những giá trị
truyền thống và bản sắc dân tộc, quyết không tự đánh mất mình trở thành bóng mờ hoặc


sao chép của người khác. Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, giữ vai trò quan trọng
trong sự nghiệp đổi mới đất nước và sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá phụ thuộc rất lớn vào chất lượng giáo dục trên mọi phương diện, trong đó có giáo
dục đạo đức.

Đại học Kiến Trúc Hà Nội cũng không tách khỏi cái chung đó. Vì thế
việc nghiên cứu giáo dục đạo đức mới cho sinh viên của trường trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là yêu cầu cần thiết và cấp bách. Đề tài:
“Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trường Đại học Kiến Trúc Hà Nội trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá” nhằm góp phần thực hiện tư tưởng quan
trọng trên và hy vọng góp tiếng nói riêng của mình vào sự nghiệp giáo dục đào
tạo xây dựng đạo đức mới cho sinh viên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Xung quanh vấn đề giáo dục đạo đức và đạo đức mới cho sinh viên đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu ở các góc độ khác nhau, khía cạnh khác nhau như: “Tìm hiểu giá trị
định hướng của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường” do Thái Duy
Tuyên chủ biên, Hà nội 1994; “Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương
hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên”, Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số


B94 - 38 - 32 do Mạc Văn Trang chủ biên (Viện nghiên cứu phát triển giáo dục - Bộ giáo
dục đào tạo); “Về phát triển văn hoá và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá” do Phạm Minh Hạc - Nguyễn Khoa Điềm chủ biên (2003); “Đạo đức học Macxit
với việc giáo dục đạo đức sinh viên hiện nay ở nước ta” của Dương Văn Duyên (2003) ;
“Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên” của PGS, TS Trần
Hậu Kiêm - TS. Đoàn Đức Hiếu, (2004); “Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện
nay - Thực trạng và giải pháp” của PGS, TS Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2005); “Khía
cạnh đạo đức của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay” của
Nguyễn Văn Phúc (2006); “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay. Vấn đề và giải pháp” do
GS, VS. Nguyễn Duy Quý (chủ biên) (2006)…

Một số đề tài luận văn, luận án đã đề cập vấn đề này ở những góc độ khác nhau:
“Tìm hiểu lối sống của sinh viên Hà Nội trong thời kỳ đổi mới”, luận văn thạc sỹ của
Phạm Xuân Cảnh, (1996); “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên Việt Nam hiện nay” của Trần Sỹ Phán, (1999); “Vấn đề xây dựng đạo đức
mới cho cán bộ cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Đặng
Thanh Giang, (2001); Vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường Đại học Việt
Nam hiện nay” của Vũ Đình Giáp (2003); “Đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam -Thực trạng và giải pháp” của Vũ Thanh Hương, (2004)…
Như vậy, đã có nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức, xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay nhưng chưa có một công trình nào
nghiên cứu về giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trường Đại học Kiến Trúc Hà Nội. Vì thế,
việc chọn đề tài nghiên cứu “Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trường Đại học Kiến Trúc
Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại đất nước” cũng nhằm góp phần giải quyết
vấn đề trên.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Qua khảo sát thực trạng giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trường Đại học Kiến
Trúc Hà Nội, trên cơ sở đó, đề ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức mới cho sinh viên của trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2. Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của đề tài sẽ là:
- Khẳng định tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức mới cho sinh viên các trường
Đại học trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.


- Tìm hiểu thực trạng việc giáo dục đạo đức mới của sinh viên trường Đại học Kiến
Trúc Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức mới cho
sinh viên trường Đại học Kiến Trúc Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trường Đại học Kiến Trúc Hà Nội hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu việc giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trường
Đại học Kiến Trúc Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
a. Cơ sở lý luận:
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về đạo đức, đạo đức mới.
- Các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước
về đạo đức, về thanh niên, sinh viên, giáo dục đạo đức cho sinh viên.
- Các thành tựu của các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
b. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp lịch sử - lôgic, phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ
thống, thống kê.
6. Đóng góp mới của đề tài.
6.1. Phân tích làm rõ thực trạng giáo dục đạo đức mới cho sinh viên ở trường Đại học
Kiến Trúc Hà Nội.
6.2. Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục đạo đức
mới cho sinh viên trường Đại học Kiến Trúc Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương, 6 tiết.


Chương 1. Tầm quan trọng, nội dung, yêu cầu giáo dục đạo đức mới cho sinh viên
các trường Đại học trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2. Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trường Đại học Kiến Trúc Hà Nội

trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại đất nước - Thực trạng và những vấn đề đặt ra.

Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức mới cho sinh viên trường Đại học Kiến Trúc Hà Nội hiện nay.

Chương 1


TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG, YÊU CẦU GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MỚI
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

1.1. Đạo đức mới và tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức mới cho sinh viên
ở Việt Nam hiện nay.

1.1.1 Đạo đức và đạo đức mới.
Danh từ đạo đức được bắt nguồn từ tiếng Latinh là “mos” (moris), nghĩa là lề thói,
sau đó xuất hiện từ mới là “moralis”, có nội dung liên quan với lề thói, đạo nghĩa. Còn có
một danh từ thường được xem như đồng nghĩa với đạo đức là luân lý học, có gốc từ chữ Hy
Lạp là “Ethicos”, nghĩa là lề thói, tập tục. Như vậy, khi ta nói đến đạo đức là nói đến những
lề thói, tập tục, biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người trong giao tiếp với nhau
hàng ngày.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đạo đức được hình thành từ trong lao
động và là sản phẩm có ý thức của con người. Đạo đức là hình thái ý thức xã hội đặc thù, nó
hình thành và phát triển cùng với các hình thái ý thức xã hội khác, tác động đến tồn tại xã hội
và có ảnh hưởng qua lại với các hình thái khác.
Quan điểm macxit coi đạo đức là phương thức xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và
xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Ý thức đạo đức là sự phản ánh thực tiễn các
quan hệ lợi ích trong xã hội, là sản phẩm của thực trạng kinh tế - xã hội. Nó vận động và phát
triển trong sự đối lập giai cấp khi xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên, bất luận

trong mối quan hệ xã hội nào thì đạo đức cũng là quan hệ thực sự có tính người. Đạo đức
chính là lực lượng bản chất của con người, trong quá trình phát triển của mình theo hướng
ngày càng đạt tới giá trị đích thực của cái thiện. “Đạo đức là một trong những hình thái ý
thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng [77, tr.156]. Chức năng cơ bản của đạo
đức là: “Bảo đảm năng lực hoạt động có tính chất lịch sử cả xã hội, phối hợp lợi ích cá nhân
với lợi ích xã hội, điều chỉnh về mặt xã hội những hành vi của cá nhân” [1, tr.123]. Nói cách
khác, đạo đức là phương thức xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa lợi ích xã hội
và lợi ích cá nhân.
Đạo đức không thể tách rời cuộc sống của con người, nó được bắt nguồn từ tồn tại xã
hội, lao động sản xuất, và từ cuộc đấu tranh chống thiên nhiên của con người. Vì vậy, sự phát
sinh, phát triển của đạo đức được quy định bởi sự phát sinh, phát triển tồn tại xã hội của con
người. Ăng - ghen viết “Chung quy lại thì mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều
là sản phẩm của hình thái kinh tế - xã hội lúc bấy giờ” [11, tr.163].


Nói đến đạo đức là nói đến quan hệ giữa tốt và xấu, thiện và ác. Cơ chế vận hành của
đạo đức trong đời sống rất phức tạp, bao gồm ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và đánh giá
đạo đức. Ý thức đạo đức chứa đựng những chuẩn mực, thói quen, tập quán và phong tục đạo
đức tác động đến tư tưởng, tình cảm và hành vi của con người: “Chúng đóng vai trò định
hướng tinh thần trong cuộc sống cá nhân và cộng đồng” [78, tr.46]. Các chuẩn mực đạo đức
là cơ sở để con người tuân thủ và sống với nhau một cách nhân ái, chan hoà.
Như vậy, theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, đạo đức không nảy sinh từ đạo
đức, nó cũng không phải nảy sinh từ ngoài xã hội. Sự xuất hiện của ý thức đạo đức là do nhu
cầu khách quan của sự phát triển nhận thức, của đời sống xã hội, mà trước hết là do nhu cầu
phối hợp hành động trong lao động sản xuất, trong việc phân phối sản phẩm xã hội, trong đấu
tranh. Do đó “đối với chúng ta, đạo đức ở ngoài xã hội loài người thì không thể có được” [55,
tr.368].
Xét cho cùng, hành vi có đạo đức là hành vi mang tính tự nguyện, tự giác; là hành
động vì lợi ích của người khác, của xã hội, chứ không phải vì mình và cho mình. Đúng như
các nhà duy vật Pháp quan niệm: Nếu như lợi ích, hiểu một cách đúng đắn là nguyên tắc của

toàn bộ đạo đức thì điều quan trọng là phải làm cho lợi ích riêng tư của con người phù hợp
với lợi ích của loài người.
Xét từ quan điểm lợi ích và hệ thống quy tắc, chuẩn mực, G. Bandzeladze coi “đạo
đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện, tự giác của những con
người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ xã hội nói chung” [2, tr.48,104]. Còn các tác
giả trong giáo trình Đạo đức học quan niệm: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực
xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu xã hội. Nhờ đó, con người tự giác điều chỉnh
hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội
trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội [48, tr.12].
Ngày nay, đạo đức được xem xét ở ba phương diện chủ yếu sau:
- Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm toàn bộ những quan
điểm, nguyên tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử trong quan hệ con
người với con người, con người với xã hội nhằm đảm bảo quan hệ lợi ích của cá nhân với
cộng đồng.
- Đạo đức là phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Những chuẩn mực
(khuôn phép) và quy tắc là những yêu cầu của xã hội hoặc của một giai cấp nhất định nhằm
điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân trong quan hệ với nhau và với xã hội. Những chuẩn mực
và quy tắc, hành vi nhất định được công luận xã hội, hay của một giai cấp, dân tộc thừa nhận,


hướng dẫn các cá nhân hoạt động trong khuôn khổ được phép và tránh những hành vi không
được phép.
- Đạo đức là một hệ thống giá trị. Đó là các giá trị vật chất và tinh thần; các giá trị sản
xuất và tiêu dùng; các giá trị chính trị - xã hội, nhận thức, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo.

Đạo đức có những chức năng cơ bản sau:
Trước hết, là chức năng điều chỉnh hành vi. Đạo đức là một phương thức
điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức làm cá nhân và xã hội
cùng tòn tại và phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng.

Thứ hai là chức năng giáo dục. Con người vươn lên “chân - thiện - mỹ”.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con người
tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy.
Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xã hội. Hệ thống ấy tác động
đến con người và con người tác động lại hệ thống. Hệ thống đạo đức do con
người tạo ra, nhưng sau khi ra đời, hệ thống đó tồn tại như là cái khách quan
hóa tác động chi phối con người. Ở đây, các hành vi đạo đức lặp đi, lặp lại trong
đời sống xã hội và cá nhân làm cho cả đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội được
củng cố, phát triển trở thành những thói quen, truyền thống, tập quán đạo đức.
Thứ ba là chức năng nhận thức. Với tư cách là một hình thái ý thức xã
hội, đạo đức có chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Sự
phản ánh của đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hình thái ý
thức khác.
Đạo đức là một phạm trù lịch sử. Mỗi hình thái kinh tế xã hội đều có những
chuẩn mực đạo đức phù hợp. Khi hình thái kinh tế xã hội thay đổi thì những
chuẩn mực đạo đức cũ cũng dần dần mất đi nhường chỗ cho những


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.M. Rumiantxep (chủ biên) (1986), Từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa học,
Nxb Sự thật, Hà Nội, tr 123.
2. Bandzeladze.G, (1985), Đạo đức học, tập 1, Nxb Giáo dục, tr. 48,104.
3. Bandzeladze.G, (1985), Đạo đức học, tập 2, Nxb Giáo dục, tr. 121.
4. Hoàng Chí Bảo (1996), “Hồ Chí Minh, biểu tượng của văn hóa làm người”,
Tạp chí nghiên cứu lý luận (4), tr. 5.
5. Hoàng Chí Bảo (1998), Những biện pháp xây dựng văn hóa theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 251.
6. Hoàng Chí Bảo (1998), “ Sự biến đổi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Thanh niên, (21).
7. Hoàng Chí Bảo (2001), “Nhân cách và giáo dục văn hóa nhân cách” Tạp chí

Triết học, (6).
8. Bộ Giáo dục đào tạo (2003), Báo cáo tổng kết công tác sinh viên giai đoạn
1998 - 2002, Hà Nội.
9. Bộ Lao động thương binh xã hội (1996), Xóa đói giảm nghèo với tăng trưởng
kinh tế, Nxb Lao động.
10. Báo điện tử Vietnamnet.com.vn (26/12/2006), Trò chuyện với nguyên Tổng
Bí Thư Đỗ Mười về lớp trẻ hôm nay.
11. C. Mác, Ăng ghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội,
tr. 128, 262.
12. C. Mác, Ăng ghen (1997), Toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội
tr. 681.
13. Phạm Khắc Chương (1997), “Thực trạng và một số giải pháp giáo dục đạo
đức cho thanh niên sinh viên hiện nay”, Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên
nghiệp (2), tr. 14.
14. Đinh Thị Vân Chi (2003), Nhu cầu giải trí của Thanh Niên, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 192 - 193.


15. Nguyễn Trọng Chuẩn (1995), “Đôi điều suy nghĩ về giá trị và biến đổi của
các giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường”, Tạp chí triết học
(1).
16. Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước KX - 06 (1990 - 1995), Báo cáo
tổng quan, tr.134 -135.
17. Lương Minh Cừ (2003), “Một số ý kiến về công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng cho sinh viên hiện nay”, Tạp chí giáo dục (2).
18. Đỗ Minh Cương (2001), Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên) (2002), Giá trị
truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.

20. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sỹ Quý (đồng chủ biên) (2001),
Tìm hiểu văn hóa truyền thống trong quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Dương Văn Duyên (2003), Đạo đức học Macxit với việc giáo dục đạo đức
sinh viên hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. T. Danh (2002), “Kỷ nguyên internet: đừng quên những giá trị đối mặt”,
Báo tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh, tr. 9.
23. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 81.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện đại hội giữa nhiệm kỳ khóa VI,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 51.
25. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 146.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 16.
27. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn Kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 15.


28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Phạm Văn Đồng (1989), Hồ Chủ Tịch, tinh hoa của dân tộc, lương tâm của
thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr .79.
33. Dương Tự Đam (1999), Những phương pháp tiếp cận thanh niên Việt Nam

hiện nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội, tr. 76.
34. Đoàn Nam Đàn (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Đặng Thanh Giang (2001), Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho cán bộ cơ sở
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ triết
học.
36. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 115.
37. Phạm Minh Hạc (1995), Giáo dục con người cho hôm nay và ngày mai, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, tr. 207.
38. Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2003), Về phát triển văn
hoá và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính
trị Quốc Gia, Hà Nội, tr. 248 - 249.
38. Phạm Minh Hạc (1994), Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới, Hà
Nội, tr. 122.
39. Nguyễn Văn Hòa (1997), “Đôi điều trăn trở về môn học”, Tạp chí Đại học
và giáo dục chuyên nghiệp (1), tr.19.


40. Nguyễn Minh Hiển (2000), Tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt đáp ứng nhu
cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Bộ Giáo dục Đào
tạo, Hà Nội.
41. Đoàn Đức Hiếu (2003), Sự phát triển của cá nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
42. Nguyễn Phương Hoa (2003), “Cách tiếp cận tâm lý học trong giáo dục và
rèn luyện đạo đức”, tạp chí Tâm Lý học (8).
43. Đỗ Lệ Hằng (1997), “Tìm hiểu hiện tượng quay cóp trong sinh viên hiện
nay”, Chuyên đề sinh viên (7) tr. 6.
44. Nguyễn Thị Hằng (2004), Tìm hiểu lối sống của sinh viên TP Hồ Chí Minh
qua việc sử dụng thời gian rỗi, Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45. Nguyễn Văn Huyên (1998), “Giá trị truyền thống nhân lõi và sức sống bên
trong của sự phát triển đất nước, dân tộc”, Tạp chí triết học (4) tr. 11.
46. Vũ Khiêu (1974), Đạo đức mới, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.
71.
47. Vũ Khiêu (2003), “Sự suy thoái về đạo đức và giải pháp của chúng ta”, Tạp
chí Tâm lý học (4).
48. Trần Hậu Kiêm (chủ biên) (1997), Giáo trình Đạo đức học, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 12.
49. Nguyễn Thế Kiệt (1996), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định
hướng giá trị đạo đức hiện nay”, Tạp chí triết học, (6).
50. Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2001), Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến
trong cán bộ lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
51. Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2005), Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính
trị hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
52. Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn Thế Kiệt (2004), Giáo trình đạo đức học Mác
- Lênin, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
53. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Matxcova.


54. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Matxcova.
55.V.I. Lênin (1997), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Matxcova, tr. 368 - 369.
56. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ Matxcova, tr. 217.
57. Vũ Khắc Liên (1993), Nhân cách văn hóa trong bảng giá trị Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
58. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.185.
59. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.15.

60. Hồ Chí Minh (1990), Vấn đề giáo dục, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
61. Đỗ Mười (1996), “Phát triển mạnh giáo dục đào tạo, phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí nghiên cứu giáo dục
(2), tr 2.
62. Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền
kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý mới ở
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 68 - 69.
63. Nguyễn Văn Phúc (2006), “Về một số giải pháp xây dựng nhân cách đạo
đức hiện nay”, Tạp chí triết học (6), tr. 2
64. Nguyễn Văn Phúc (1996), “Về vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát
triển nhân cách trong cơ chế thị trường”, Tạp chí triết học (10), tr. 15.
65. Nguyễn Văn Phúc (2006), “Khía cạnh đạo đức của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí triết học (4), tr. 6.
66. Nguyễn Duy Quý (2003), Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
67. Nguyễn Duy Quý (chủ biên) (2006), Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay.
Vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 117,179.
68. Đinh Ngọc Quyên, Hồ Thị Thảo, Lê Ngọc Triết, Giáo trình Đạo đức học
Mác - Lênin.
69. Đặng Quang Thành (2005), Xây dựng lối sống văn hoá của thanh niên
Thành phố Hồ chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 32.


70. Đặng Quang Thành (2005), Xây dựng lối sống có văn hóa của thanh niên
thành phố Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, Luận án tiến sỹ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
71. Đoàn Văn Thái (2004), Nhiệm vụ cơ bản của thanh niên Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Thanh niên, Hà Nội, tr.27.
72. Trung tâm khoa học xã hội nhân văn (1996), Những vấn đề đạo đức trong

điều kiện kinh tế thị trường, Hà Nội, tr 87.
73. Hữu Thọ (1/10/1997), “Thanh niên với việc rèn luyện lý tưởng cách mạng”,
Báo nhân dân, tr. 3.
74. TS. Nguyễn Đức Tiến (2005), Phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho
thanh niên Việt Nam hiện nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
75. Lê Cao Thắng (2005), Xây dựng nếp sống văn hoá của sinh viên trên địa
bàn thủ đô Hà nội trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ triết học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
76. Nguyễn Trọng (2000), Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng mới, trong văn hóa Việt Nam, xã hội và con người, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
77. Từ điển triết học (1975), Nxb Tiến bộ Matxcova, tr. 156.
78. Huỳnh Khái Vinh (chủ biên) (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức,
chuẩn giá trị xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 46.



×