Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đề Tài Thực trạng các dự án treo ở huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.09 KB, 17 trang )

Mục Lục
Mục
I.

Trang

Giới thiệu ................................................................................................... 2

II. Đặt vấn đề .................................................................................................. 2
III. Thực trạng về các dự án treo trên địa bàn huyện Nghi Lộc ................. 4
- Dự án đầu tư Nhà máy sản xuất nhiên liệu Ethanol Việt Nam ......... 6
- Dự án Nhà máy bao bì thân thiện mơi trường .................................... 6
IV. Nguyên Nhân .............................................................................................. 9
- Các nhóm vấn đề chính ........................................................................... 9
- Các nhóm vấn đề của việc chậm trễ ở khâu xây dựng cơng trình ...... 12
V. Giải Pháp cho " Quy hoạch treo" ............................................................ 14
- Công tác giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất cho phát triển các dự án . 14
- Giải pháp cho sự chậm trễ trong xây dựng cơng trình ....................... 17
VI. Kết Luận .................................................................................................... 17

Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

1 1152054042
MSSV:


Đề Tài : Thực trạng các dự án treo ở huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An
I. Giới thiệu :
- Nghi Lộc là một huyện ven biển ở tỉnh Nghệ An. Huyện lỵ là thị trấn Qn Hành có
diện tích 48,3 hecta.
- Vị trí địa lý:


Huyện Nghi Lộc phía Đơng trơng ra biển Đơng và giáp thị xã Cửa Lị, phía Đơng
Nam giáp huyện Nghi Xn (Hà Tĩnh), phía Nam giáp thành phố Vinh và huyện
Hưng Nguyên, phía Tây Nam giáp huyện Nam Đàn, phía Tây giáp huyện Đơ Lương,
phía Tây Bắc giáp huyện Yên Thành, và phía Bắc giáp huyện Diễn Châu.
- Diện tích:
+Huyện Nghi Lộc hiện tại có tổng diện tích tự nhiên: 34.770,43 ha, trong đó:
+ Đất sản xuất nông nghiệp: 14.309,52 ha
+ Đất lâm nghiệp: 9.329,7 ha.
+ Đất ở: 1.234,91 ha.
+ Đất chưa sử dụng: 3.646,69 ha
- Dân số: tính đến hết năm 2010 huyện Nghi Lộc có 46.730 hộ với 186.439 nhân
khẩu.
- Đơn vị hành chính:
Nghi Lộc có 30 đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn, bao gồm: Thị trấn Quán Hành, các
xã Nghi Lâm, Nghi Văn, Nghi Kiều, Nghi Hưng, Nghi Đồng, Nghi Công Bắc, Nghi
Công Nam, Nghi Mỹ, Nghi Phương, Nghi Long, Nghi Hoa, Nghi Thuận, Nghi Diên,
Nghi Vạn, Nghi Trung, Nghi Yên, Nghi Tiến, Nghi Thiết, Nghi Quang, Nghi Xá, Nghi
Khánh, Nghi Hợp, Nghi Thịnh, Nghi Phong, Nghi Xuân, Nghi Thái, Phúc Thọ, Nghi
Thạch và Nghi Trường.
- Khí hậu - Thời tiết :
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu sự tác động trực tiếp của gió mùa Tây - Nam khơ
và nóng (từ tháng 4 đến tháng 8) và gió mùa Đơng Bắc lạnh, ẩm ướt (từ tháng 11 đến tháng 3 năm
sau).
II. Đặt vấn đề :
- Khái niệm về đất: Ðất là một dạng tài nguyên vật liệu của con người.
Ðất có hai nghĩa:
+ Đất đai là nơi ở, xây dựng cơ sở hạ tầng của con người và thổ nhưỡng là mặt bằng để sản xuất
nông lâm nghiệp.
+ Ðất theo nghĩa thổ nhưỡng là vật thể thiên nhiên có cấu tạo độc lập lâu đời, hình thành do kết
quả của nhiều yếu tố: đá gốc, động thực vật, khí hậu, địa hình và thời gian.Thành phần cấu tạo của

đất gồm các hạt khoáng chiếm 40%, hợp chất humic 5%, khơng khí 20% và nước 35%.
+ Giá trị tài nguyên đất được đo bằng số lượng diện tích (ha, km 2) và độ phì (độ mầu mỡ thích hợp
cho trồng cây công nghiệp và lương thực).
- Khái niệm về lãng phí đất : Lãng phí đất là hiện tượng đất đai bị bỏ hoang, sử dụng sai mục
đích ban đầu đã xác định, không được đưa vào sử dụng vào các mục đích phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước, gây thất thoát cho nhà nước.
+ Đất chưa được đưa vào sử dụng với bất cứ mục đích nào.
* Đất để hoang
Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

2 1152054042
MSSV:


* Đất ở các dự án : như khu công nghiệp
* Dự án thủy điện : khai thác ,khoanh vùng.....
* Dự án xây dựng các khu dịch vụ
* Khu đô thị
+ Sử dụng đất khơng hợp lí cũng làm lãng phí tài nguyên đất
* Sử dụng sai mục đích
* Sử dụng không đúng với đặc điểm tự nhiên của đất
* Bón phân khơng hợp lí
* Sử dụng đất khơng hiệu quả
- Như ta đã biết đất đai có nguồn gốc từ tự nhiên, cùng với thời gian thì con người xuất hiện và tác
động vào đất đai, cải tạo đất đai và biến đất đai từ sản phẩm của tự nhiên lại mang trong mình sức
lao động của con người, tức là đất đai cũng là sản phẩm của xã hội. Đất đai là một tài nguyên thiên
nhiên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia và nó cũng là yếu tố mang tính quyết định đến sự tồn tại
và phát triển của con người và các sinh vật khác trên trái đất. Đất đai là tài sản của loài người, là
điều kiện để sinh tồn, là tư liệu sản xuất cơ bản và không thể thiếu trong nông, lâm nghiệp. Bởi
vậy nếu khơng có đất đai thì khơng có bất kỳ một ngành sản xuất nào, con người sẽ khơng thể tạo

ra của cải vật chất để duy trì cuộc sống. Trải qua một quá trình lịch sử lâu dài, mà con người đã
biến đất đai từ một thành phần, sản phẩm của tự nhiên không phụ thuộc trở thành tư liệu sản xuất
cho loài người, mà trên tư liệu ấy con người có thể tạo ra của cải vật chất để duy trì và phát triển
sự sống. Đất đai là tài sản của xã hội, cộng đồng, của một quốc gia. Luật đất đai năm 1993 của
nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi: "Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư
liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố
các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phịng.
Trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn
đất đai như ngày nay! ".
Đất đai có tính cố định vị trí, khơng thể di chuyển được, tính cố định vị trí quyết định tính giới hạn
về quy mơ theo khơng gian và chịu sự chi phối của các yếu tố mơi trường nơi có đất. Mặt khác,
đất đai khơng giống với các loại hàng hóa khác có thể sản sinh qua q trình sản xuất, do đó đất
đai là có hạn.
Nếu ví đất đai là " tấc đất tấc, tấc vàng " thì có thể nhẩm tính giá trị tài nguyên mà tỉnh Nghệ An
đang dành cho phát triển là rất lớn. Song rất tiếc, không phải tấc đất nào cũng được khai thác, tận
dụng đúng nghĩa tấc vàng, bởi có hàng trăm dự án lớn nhỏ lấy đất để hoang. Nhất là trong giai
đoạn đất nước ta bước vào thời kỳ hội nhập và phát triển cùng với thế giới, yêu sách tốt nhất đối
với tỉnh Nghệ An là mở rộng các cơng trình, khu cơng nghiệp để thu hút đầu tư phát triển cơng
nghiệp, thì số dự án được cấp đất nhưng lại để hoang là khá nhiều. Đấy là chưa kể các chủ đầu tư
ồ ạt xin cấp đất, các dự án thi cơng nhưng chưa tính tốn kỹ lưỡng hiệu quả các cơng trình.v.v.

III. Thực trạng về các dự án treo trên địa bàn huyện Nghi Lộc
- Trong quá trình đổi mới và phát triển cùng với thời đại, tỉnh Nghệ An đã đặt ra rất nhiều phương
án phát triển và thực hiện chúng để nhằm mục đích đẩy mạnh q trình phát triển kinh tế - xã hội
đưa đời sống của nhân dân cả nước nói chung và của tỉnh nói riêng lên một mức cao hơn. Nghi
Lộc là một huyện ven biển trực thuộc tỉnh Nghệ An, được UBND tỉnh đầu tư rất nhiều dự án xây
Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

3 1152054042
MSSV:



dựng nhằm phát triển kinh tế cho huyện. Song rất nhiều dự án, rất nhiều ngành, rất nhiều các vấn
đề được đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở đây nhưng song hành cùng với các dự
án, các kế hoạch thành cơng thì cịn tồn tại rất nhiều sai sót và các điểm cần lưu ý. Vấn đề lãng phí
đất đai do các cơng trình, dự án treo đang là vấn đề nóng và là điểm chú ý của toàn xã hội. Thực
trạng của vấn đề lãng phí đất đai do các cơng trình, dự án treo ở một số cấp hành chính trên địa
bàn huyện Nghi Lộc sẽ được đề cập trong bài viết.
KHU CƠNG NGHIỆP NAM CẤM

Ảnh: bản quy hoạch khu cơng nghiệp Nam Cấm
- Theo Ban quản lý Khu kinh tế Đông Nam (Nghệ An), từ năm 2001 đến nay đơn vị này đã tiến
hành thu hồi 5 dự án thuộc khu kinh tế Đông Nam và các khu công nghiệp trên địa bàn tồn tỉnh...
+ Khu cơng nghiệp Nam Cấm với 16 dự án, như: Nhà máy sản xuất thức ăn nuôi tôm cá (Công ty
cổ phần Biển Xanh), cấp phép tháng 6/2004, trên diện tích 30.000m 2; Nhà máy sản xuất bao bì và
giấy tự hủy (Cơng ty TNHH Bình Minh, Hà Nội), cấp phép tháng 6/2004, trên diện tích 50.000m 2;
Nhà máy chế biến đá vôi trắng (Công ty TNHH Wolkem VN), cấp phép tháng 3/2008, trên diện
tích 50.000m2; Nhà máy chế biến bột đá Barit và bột đá vôi xuất khẩu (Công ty Phúc Thịnh), cấp
phép tháng 11/2002, trên diện tích 45.200m2 ...
- Một thơng báo chỉ định thầu, UBND tỉnh đã ký nhiều văn bản, tạo điều kiện cho một doanh
nghiệp tự lập dự án mới thay thế dự án đã phê duyệt và theo đó tổng mức đầu tư từ 136 tỉ đồng

Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

4 1152054042
MSSV:


nhảy vọt lên hơn 294 tỉ đồng.
Theo Báo Thanh Niên thì nhà báo liên tục nhận được nhiều đơn thư của bạn đọc phản ảnh những

việc làm khơng bình thường của lãnh đạo tỉnh Nghệ An trong việc chỉ định Tổng công ty Hợp tác
kinh tế Việt - Lào (công ty TNHH) đảm nhận việc xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật khu B
thuộc khu công nghiệp (KCN) Nam Cấm, tỉnh Nghệ An.
KCN Nam Cấm thuộc huyện Nghi Lộc, cách TP Vinh chừng 20 km về phía bắc, được Thủ tướng
Chính phủ cho phép thành lập với tổng diện tích 327,84 ha (gồm 3 khu: A, B, C) và được đầu tư
giai đoạn 1 (khu B) với diện tích 79,4 ha, tại văn bản số 1255/CP-CN ngày 16/9/2003 Chính phủ
cũng đã đồng ý về nguyên tắc việc hỗ trợ một phần vốn ngân sách nhà nước đầu tư xây dựng hạ
tầng kỹ thuật trong hàng rào KCN Nam Cấm, đồng thời cho phép UBND tỉnh Nghệ An thành lập
Cơng ty Phát triển KCN, hoạt động theo hình thức đơn vị sự nghiệp kinh tế có thu để làm chủ đầu
tư dự án KCN Nam Cấm. Từ khi thành lập Khu công nghiệp Nam Cấm (nay gọi là Khu kinh tế
Đông Nam, Nghệ An), nhiều nhà đầu tư nhảy vào xin cấp phép đầu tư xây dựng dự án. Tuy nhiên,
doanh nghiệp lấy đất xong rồi để đó, khơng triển khai dự án, khiến khu công nghiệp ngày một
nhếch nhác.
Thực tế,
ngay sau
khi được
thành lập,
Công ty
Phát triển
KCN tỉnh
Nghệ An đã
gấp rút làm
việc với
Công ty Tư
vấn xây
dựng đô thị
và công
nghiệp Việt
Nam lập dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật khu B giai đoạn 1. Ngày
30/9/2003, Cơng ty Phát triển KCN Nghệ An đã có tờ trình gửi UBND tỉnh xin phê duyệt dự án.

Ngày 3/10/2003, Phó chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Hồng Trường đã ký quyết định phê
duyệt dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật giai đoạn 1 KCN Nam Cấm với tổng
mức đầu tư 136.728.000.000 đồng.
Ảnh: Cổng vào khu công nghiệp Nam Cấm.
- Ngày 9/4/2003, Văn phịng Tỉnh ủy Nghệ An ra cơng văn số 345 CV.TƯ thông báo ý kiến của
Thường trực Tỉnh ủy về việc Tổng công ty Hợp tác kinh tế Việt - Lào thầu xây dựng KCN Nam
Cấm. Lẽ ra, khi được Thủ tướng Chính phủ đồng ý về xây dựng KCN Nam Cấm cũng như đầu tư
giai đoạn 1 khu B của KCN này, lãnh đạo tỉnh Nghệ An phải thực hiện đúng theo quy định của

Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

5 1152054042
MSSV:


Chính phủ trong việc đấu thầu xây dựng hạ tầng kỹ thuật nhưng đã không làm như vậy.
- Ngày 26/5/2003, Tổng giám đốc Công ty Hợp tác kinh tế Việt - Lào đã ký công văn số 180
CV.CKTCT cam kết xây dựng hạ tầng KCN Nam Cấm và ngày 25/11/2003, Phó chủ tịch UBND
tỉnh Nghệ An Nguyễn Hồng Trường đã ký quyết định số 4609 QĐ-UB giao cho Công ty Hợp tác
kinh tế Việt - Lào thực hiện. Chưa hết, ngày 01/12/2003 Công ty Hợp tác kinh tế Việt - Lào lại
làm công văn gửi UBND tỉnh Nghệ An xin lập lại dự án đầu tư và hồ sơ thiết kế kỹ thuật - dự toán
xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu B.
- Vào ngày 02/12/2003 Phó chủ tịch Nguyễn Hồng Trường ký văn bản cho phép lập lại dự án và
ngày 19/2/2004, ký tiếp quyết định phê duyệt dự án do công ty lập mới với tổng mức đầu tư lên
đến 294.687.000.000 đồng (đội thêm gần 158 tỉ so với dự án do Công ty Tư vấn xây dựng đô thị
và công nghiệp Việt Nam lập đã được duyệt). Chưa hết, trong quyết định phê duyệt dự án có đính
kèm bản phụ lục về tổng mức đầu tư và cơ cấu nguồn vốn thì ngân sách nhà nước đảm nhận lên
đến 231.312.000.000 đồng, cịn cơng ty chỉ tự huy động có 13.358.000.000 đồng ( trích
Vietbao.vn). Trong vịng 1 ngày sau khi doanh nghiệp gửi cơng văn thì phó chủ tịch đã ký văn bản
cho phép lập lại dự án hỏi do tỉnh đã có ý định lập lại dự án từ lâu hay do cơng việc cải cách hành

chình của tỉnh hiệu quả đến mức độ thanh tra và rà sốt tính hiệu quả thực tế của doanh nghiệp
đầu tư dự án chỉ trong vòng 1 ngày?
A. Dự án đầu tư Nhà máy sản xuất nhiên liệu Ethanol Việt Nam do Công ty cổ phần thương
mại Hoa Kỳ làm chủ đầu tư được cấp giấy chứng nhận đầu tư tháng 2/2009 tại khu B, Khu công
nghiệp Nam Cấm trên diện tích 5 ha. Cho đến nay, chủ đầu tư mới hoàn thành xong hạng mục san
lấp mặt bằng nhà máy và đã dừng thi công từ cuối năm 2010 đến nay. Đã sau 30 tháng, cơng ty
chưa có đủ cơ sở chứng minh cho việc triển khai thi công dự án và đưa dự án đi vào hoạt động
như hợp đồng gia công và lắp đặt nhà xưởng, hợp đồng cung cấp, lắp đặt thiết bị. Công ty cũng
không làm thủ tục gia hạn tiến độ đối với dự án theo yêu cầu của Ban Quản lý khu kinh tế Đơng
Nam.
B. Dự án Nhà máy bao bì thân thiện mơi trường do Cơng ty cổ phần bao bì Tồn Thắng làm
chủ đầu tư được cấp giấy chứng nhận đầu tư tháng 4/2007 tại khu C trên diện tích 25.409 m 2 với
tiến độ cam kết là 12 tháng. Cho đến nay, chủ đầu tư đã hoàn thành xong một số hạng mục như
san lấp mặt bằng, xây dựng nhà ăn ca và triển khai dở dang một số hạng mục như xây dựng hàng
rào, nhà xưởng sản xuất, nhà kho, nhà điều hành và đã dừng thi công từ đầu năm 2010 đến nay.
Dự án chậm tiến độ 40 tháng so với cam kết.

Ảnh: Nhà máy bao bì thân
thiện môi trường dự án
nhiều năm chỉ là bãi đất
trống.
- KCN Nam Cấm (thuộc
KKT Đông Nam). Khu A
và Khu C hiện nay thuộc

Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

6 1152054042
MSSV:



quy hoạch xây dựng KKT Đơng Nam. Trong đó, Khu A có diện tích 93,68 ha; Khu C có diện tích
154,75 ha. Khu C đã hồn thành cơng tác bồi thường, giải phóng mặt bằng; Khu A hiện cịn 8.800
m2 chưa hồn thành cơng tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Hiện nay, Ban quản lý KKT Đông
Nam Nghệ An đã cho Công ty phát triển KCN Nghệ An thuê 242,2 ha. Hiện chủ đầu tư hạ tầng đã
cho 43 doanh nghiệp thuê lại đất, với diện tích 145,2 ha; Khu B, KCN Nam Cấm được quy hoạch
với diện tích 122,72 ha. Diện tích đã bồi thường giải phóng mặt bằng 86,08 ha; còn lại hơn 36 ha
chưa bồi thường giải phóng mặt bằng.
Theo kết quả kiểm tra của Ban quản lý KKT Đông Nam về công tác quy hoạch xây dựng tại KCN
Nam Cấm cho thấy, mật độ xây dựng của các dự án đầu tư thuê lại đất của doanh nghiệp hạ tầng
đạt tỷ lệ thấp (dưới 20%). Một số doanh nghiệp cịn có đất trống chưa sử dụng có thể thu hồi để
cấp cho dự án khác. Qua kiểm tra tại 20 dự án cho thấy: tổng diện tích đất đã cấp cho 20 dự án là
87,66 ha. Trong đó, 12,92 ha diện tích xây dựng nhà xưởng và cơng trình phụ trợ; 36,30 ha diện
tích chưa xây dựng, đất trống có thể thu hồi chuyển giao cho dự án khác khoảng 10 ha. Trong số
20 dự án được kiểm tra chỉ có dự án nhà máy gỗ Tân Việt Trung của Công ty CP ván nhân tạo
Tân Việt Trung xây dựng đủ diện tích, cịn lại các dự án khác vẫn cịn diện tích chưa xây dựng,
trong đó lớn nhất là Nhà máy bia Hà Nội – Nghệ An (12,25 ha). Ngồi ra, có 5 doanh nghiệp cịn
2 – 3 ha đất trống có 5 dự án đã xây dựng tương đối hoàn chỉnh; 15 dự án cịn lại đã đi vào hoạt
động nhưng chưa hồn thành công tác đầu tư xây dựng.

Ảnh: Bảng quy hoạch của KCN Nam Cấm
- Tính trung bình trung trên mặt bằng chung của cả tỉnh Nghệ An thì mỗi năm bà con nông dân
thu hoạch được hai vụ lúa, trung bình mỗi vụ là 5 tấn/ha vậy mỗi năm 1ha cho 10 tấn lúa. Trong
khi đó hàng chục ha đất trong khu cơng nghiệp bị bỏ hoang thì bà con lại thiếu đất để canh tác,
mỗi năm thiệt hại hàng trăm tấn lúa trên diện tích đất quy hoạch " treo " này. Các dự án quy hoạch

Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

7 1152054042
MSSV:



ra là để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho bà con nhân dân trong vùng quy hoạch, tạo công
ăn việc làm cho lao động. Vậy mà, hàng chục, hàng trăm ha đất thu hồi từ đất canh tác, đất làm
ruộng của dân nay lại để trống, dân thì vừa tiếc, vừa khơng có đất để làm ăn cịn doanh nghiệp thì
" treo " vẫn hồn " treo ".
- Quy hoạch là nhằm hiện đại hóa cơ sở hạ tầng xã hội, hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật để
nâng cao chất lượng sống nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên chưa hoặc không triển khai
hoàn toàn thuận lợi được, nếu để kéo dài sẽ gây lãng phí lớn và thiệt hại cho dân. Nhưng nếu để
quy hoạch bị phá vỡ thì kế hoạch xây dựng các đô thị văn minh, hiện đại sẽ không thể thực hiện
được.
Chúng ta biết rằng quy hoạch treo đi kèm theo hàng trăm ngàn tỷ đồng giá trị đất đai bị lãng phí.
Đồng thời điều này dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng, gây khó khăn trong bảo đảm đời sống an
sinh xã hội người dân tại các vùng có quy hoạch “treo”nói riêng và tiến trình phát triển kinh tế- xã
hội đất nước nói chung.
Theo Khoản 3 Điều 29 của Luật Đất đai: “Diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất đã được
công bố phải thu hồi để thực hiện dự án, cơng trình hoặc phải chuyển mục đích sử dụng đất mà
sau 3 năm, nếu khơng được thực hiện theo kế hoạch thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét
duyệt kế hoạch đó phải điều chỉnh hoặc hủy bỏ và công bố”. Những trường hợp sau 3 năm mà
không thực hiện và cũng không điều chỉnh hoặc hủy bỏ quy hoạch thì được coi là “quy hoạch
treo”.
Như vậy, có thể hiểu đối với các cơng trình, dự án đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước
sau 3 năm, kể từ ngày kế hoạch sử dụng đất được công bố mà chưa đủ kinh phí để thực hiện thì
được phép điều chỉnh. Đối với các cơng trình, dự án đầu tư khác mà khơng đủ kinh phí hoặc chưa
xác định được nhà đầu tư để thực hiện thì phải cơng bố hủy bỏ. Hiện nay, một số địa phương
không thực hiện việc công bố kế hoạch sử dụng đất hoặc có cơng bố nhưng sau 3 năm kế hoạch sử
dụng đất đó chưa được thực hiện vẫn không tuyên bố điều chỉnh hoặc hủy bỏ cho nhân dân biết,
có trường hợp lại thơng báo bằng miệng với nhân dân về quy hoạch cơng trình này, dự án nọ...
đều không theo đúng quy định của pháp luật về đất đai.
- Quy hoạch “treo”, dự án “treo” đang thực sự là một vấn đề nhức nhối trong một lĩnh vực được

xem là rất phức tạp, đó là đất đai và chiếm đến 70% tổng số vụ khiếu kiện. Điều đáng nói ở chỗ,
người dân nằm trong vùng quy hoạch “treo” phải chịu mn vàn khó khăn, thậm chí thiệt thịi thì
hàng nghìn hecta đất bị bỏ hoang, gây lãng phí. Diện tích lớn trong tổng số này là đất nông nghiệp
dẫn đến một thực trạng trớ trêu. Người nơng dân có đất nằm trong quy hoạch ngày qua ngày nhìn
những thửa ruộng hoang hóa, bạc màu trong khi họ thiếu đất sản xuất, thậm chí khơng còn đất sản
xuất. Quyền lợi nằm ở chỗ nào khi muốn sửa chữa nhà cửa cũng gặp nhiều khó khăn, có đất sản
xuất mà khơng dám đầu tư ni trồng? Quy hoạch là điều cần thiết nhưng cứ “treo” như vậy người
dân sẽ khổ. Người dân ủng hộ khi quy hoạch thực hiện thời gian hợp lý, chứ dự án “treo” đến
hàng chục năm thì khơng ai là khơng bức xúc. Đất đai là tài sản quan trọng, đặc biệt với người
nghèo và nhóm yếu thế trong cộng đồng. Hậu quả của những dự án “treo”, quy hoạch “treo”
không chỉ gây lãng phí mà cịn khiến khơng ít gia đình có đất trong khu vực có dự án đó tái nghèo
hoặc nghèo hơn. Do đó, tìm lời giải cho bài toán này là một yêu cầu bức thiết.
Trước hệ lụy của các khu quy hoạch “treo”, dự án “treo”, thời gian qua, địa phương cũng đã mạnh
dạn điều chỉnh, “xóa” nhiều dự án không khả thi hoặc chậm tiến độ q lâu. Tuy nhiên, điều đó
cũng khơng phải là điều dễ dàng khi những quy định cịn lỏng lẻo. Chính vì vậy, những thay đổi,

Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

8 1152054042
MSSV:


những điểm mới được quy định trong dự thảo Luật Đất đai sửa đổi đang được đưa ra lấy ý kiến
nhân dân để trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 vào tháng 5 vừa qua được hy vọng sẽ hóa giải tình
trạng trên.
Tình trạng phổ biến hiện nay là sự hạn chế năng lực xây dựng dự án, triển khai thực hiện của các
địa phương và các chủ đầu tư nên nhiều dự án đã được phê duyệt nhưng khơng được triển khai.
Một số dự án có tính khả thi rất kém, dù đã hết hiệu lực quy hoạch nhưng vẫn không được các địa
phương gỡ bỏ khiến đất bị bỏ hoang, nhà dân trong vùng đất quy hoạch rất khó được sửa chữa,
xây dựng lại. Nhiều trường hợp người dân muốn bán nhà nhưng không thực hiện được.

IV. Nguyên nhân:


Dự án “treo” được hiểu là quy hoạch lập ra rồi để đấy không thực hiện. Hậu quả là các
hoạt động khác phục vụ đời sống của người dân cũng bị “treo” theo. Nguyên nhân nào
dẫn đến tình trạng này ?

- nguyên nhân chính là thiếu nguồn tài chính để lập quy hoạch và thực hiện theo quy hoạch. Tiếp
đến là quy hoạch thiếu tính khả thi do chủ quan trong khi lập, xét duyệt quy hoạch và tác động
khách quan từ các biến động về kinh tế - xã hội.
- do thiếu sự kiểm soát và quản lý thực hiện; sự chồng chéo giữa các quy hoạch chuyên ngành
khác nhau và tác động của các chính sách pháp luật về nhà ở, đất đai. Đặc biệt, trong thời kỳ bao
cấp, quy hoạch làm theo kế hoạch nhà nước với một nguồn vốn duy nhất, nay nguồn vốn rất đa
dạng, sự thay đổi của kinh tế-xã hội nhanh và mạnh, nên quy hoạch phải có tính mềm dẻo.
- một nguyên nhân khác khiến quy hoạch khó đi vào cuộc sống là thiếu sự tham gia của cộng
đồng. Dự án “treo” là do khâu khảo sát chưa làm đúng với quy mơ, quy trình, chưa tiếp cận và
thuyết phục được cộng đồng dân cư. Thêm vào đó, việc kiểm sốt và quản lý thực hiện còn yếu
kém do cán bộ làm công tác này tại các địa phương thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn. Gốc
của vấn đề này là ở chỗ người dân khơng được hưởng lợi ích từ quy hoạch, dự án; lợi ích của
người dân-chính quyền-nhà đầu tư chưa hài hòa...
- Một trong những nguyên nhân khiến các dự án “treo” từ năm này qua tháng khác là do khơng
thực hiện được cơng tác giải phóng mặt bằng khi nhà đầu tư không thỏa thuận được với người
dân.Thực tế, trên một miếng đất quy hoạch thành cơng trình cơng cộng nhưng giá doanh nghiệp tự
thỏa thuận ln cao cịn giá nhà nước khi thu hồi, dễ phát sinh khiếu kiện. Bên cạnh đó, nhiều
người dân “ra giá” bồi thường và các chính sách rất cao so với quy định với nhà đầu tư mà không
căn cứ vào loại đất, mục đích sử dụng.Điều đó cho thấy, điều chỉnh cơ chế thỏa thuận trong lĩnh
vực thu hồi, giải phóng mặt bằng là cần thiết để tránh trường hợp “thỏa thuận ngầm”, cần xác định
rõ nguồn vốn đền bù cho dân trước khi thu hồi, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân một
cách cơng bằng.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ các cấp chính quyền làm cơng tác quy hoạch địa phương

chưa có sự đồng bộ, số lượng và chất lượng chưa đảm bảo, chưa đáp ứng được các yêu cầu nhiệm
vụ đặt ra;

Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

9 1152054042
MSSV:


- Khó khăn trong cơng tác giải phóng mặt bằng, quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 chậm, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất chậm…;
- Công tác lập quy hoạch tại các đơ thị cịn thiếu hiệu quả khơng bảo đảm tính dự báo, khơng khả
thi trong thực hiện, dẫn đến phải điều chỉnh và dự án “treo” trong thời gian dài;
- Việc triển khai đầu tư tại nhiều địa phương chưa đồng bộ cơng trình dịch vụ hạ tầng xã hội như
trường học, trung tâm thương mại, công trình thể thao..., gây bất cập trong khai thác, vận hành.
Trên thực tế, thẩm quyền của UBND TP là đưa ra thiết kế phương án và phê duyệt quy hoạch
chung 1/2000, trong khi đó, mỗi sở lại thực hiện nhưng thẩm quyền quy hoạch riêng. Sở Tài
nguyên Môi trường thực hiện quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch sử dụng đất, Sở giao thông vận
tải thực hiện quy hoạch hạ tầng giao thông; Sở Xây dựng lại nắm quy hoạch xây dựng nên khơng
trách khỏi tình trạng quy hoạch không đồng bộ. Điều này khiến cho chủ đầu tư khó mà triển khai
nhanh được dự án hoặc nếu triển khai lại viện cớ để “xé rào” xây dựng không phép, sai phép;
- Công tác quản lý quy hoạch sau khi được phê duyệt cịn yếu kém, dẫn đến tình trạng để dân lấn
chiếm, tự chuyển mục đích sử dụng đất trái phép, làm tăng chi phí bồi thường nên nhà đầu tư
khơng cịn khả năng thực hiện hoặc lo ngại khơng tiếp tục thực hiện;
- Tính cục bộ cao trong quá trình làm quy hoạch, tại nhiều địa phương;
- Nguồn tài chính để lập quy hoạch và thực hiện theo quy hoạch còn thiếu và chưa được sử dụng
thực sự hiệu quả;
- Người dân không đồng ý giao đất do giá đất bồi thường trong rất nhiều trường hợp thấp hơn giá
chuyển nhượng thực tế trên thị trường, đặc biệt là đối với đất nông nghiệp trong khu vực đô thị.
Tiền bồi thường đất nông nghiệp thường không đủ để nhận chuyển nhượng diện tích đất nơng

nghiệp tương tự hoặc không đủ để chuyển sang làm ngành nghề khác. Nhiều trường hợp bị thu hồi
đất ở thì tiền bồi thường không đủ để nhận chuyển nhượng đất ở hoặc mua lại nhà ở mới tại khu
tái định cư (theo kết quả kiểm tra một năm thi hành Luật Đất đai 2003, trong số đơn khiếu nại về
bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư có tới 70% số trường hợp khiếu nại về giá đất nông
nghiệp bồi thường quá thấp so với giá đất chuyển nhượng thực tế trên thị trường, giá đất ở được
giao tại nơi tái định cư lại quá cao so với giá đất ở đã được bồi thường tại nơi bị thu hồi, có tới
20% số trường hợp bị thu hồi đất và được bồi thường theo các chính sách trước đây, nay khiếu nại
đòi bồi thường theo giá đất của năm 2005);
- Chưa có sự liên kết giữa các quy định trong việc xác nhận tính hợp thức về quyền sử dụng đất
khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và khi tính tốn mức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Từ đó dẫn đến việc áp dụng pháp luật ở các địa phương để giải quyết vấn đề này cũng khác nhau,
nhiều trường hợp mang tính chủ quan, khơng cơng bằng trong xử lý giữa những trường hợp có
cùng điều kiện;
- Tại nhiều dự án, các cơ quan có trách nhiệm thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để giải
phóng mặt bằng chưa thực hiện đúng trình tự, thủ tục từ công khai quy hoạch, thông báo kế hoạch,
quyết định thu hồi đất, đề xuất phương án,... cho tới khâu cưỡng chế. Sai phạm chủ yếu về trình tự
thực hiện là khơng thơng báo trước cho người có đất bị thu hồi, khơng có quyết định thu hồi đất

Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

10 1152054042
MSSV:


của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong thành phần hội đồng bồi thường, giải phóng mặt bằng
khơng có sự tham gia của đại diện những người có đất bị thu hồi;
- Nhiều dự án chưa có khu tái định cư đã thực hiện thu hồi đất ở. Nhìn chung các địa phương chưa
coi trọng việc lập khu tái định cư chung cho các dự án tại địa bàn, một số khu tái định cư đã được
lập nhưng không bảo đảm điều kiện tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ;
- Trong việc thu hồi đất tại một số dự án cịn có những biểu hiện tiêu cực như: thu hồi đất để sử

dụng vào mục đích phát triển kinh tế hoặc xây dựng cơng trình cơng cộng nhưng một thời gian sau
lại quyết định sử dụng vào mục đích xây dựng nhà ở hoặc phân lô bán nền; trong khu tái định cư
bố trí cả những đối tượng khơng thuộc diện tái định cư, trong đó có cả những trường hợp là người
nhà, người thân của cán bộ lãnh đạo trong khi nhiều người thuộc diện tái định cư khơng được bố
trí.
- Các nhóm vấn đề của việc chậm trễ ở khâu xây dựng cơng trình gồm có:
Tài chính, nguyên vật liệu xây dựng, lên lịch trình & kiểm sốt, tính chặt chẽ của hợp đồng, các
thay đổi, thiết bị, mơi trường và tác động của chính quyền:
- TÀI CHÍNH
+ Chậm trễ giải ngân
+ Khó khăn khi tiếp cận tín dụng ngân hàng
+ Giá cả các ngành hàng thay đổi mạnh
- VẬT LIỆU XÂY DỰNG
+ Thiếu hụt nguyên vật liệu
+ Cung cấp nguyên vật liệu trễ
- LÊN LỊCH TRÌNH VÀ KIỂM SOÁT
+ Giám sát kém
+ Các tai nạn xảy ra khi xây dựng
+ Quản lý tại chỗ kém
+ Chương trình làm việc khơng hiệu quả hay thiếu sót
- Các phương pháp xây dựng
+ Đánh giá thấp các chi phí cho dự án
+ Đánh giá thấp tính phức tạp của dự án
+ Ước tính thấp thời gian hồn thành

Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

11 1152054042
MSSV:



- TÍNH CHẶT CHẼ CỦA HỢP ĐỒNG
+Quản lý kém chuyên nghiệp
+ Các tranh biện về pháp lý
+ Không đủ thông tin liên lạc giữa các bên
+ Sự chậm trễ trong hướng dẫn từ các chun gia
+ Sự trì hỗn bởi nhà thầu phụ
- CÁC THAY ĐỔI
+ Các thay đỗi ý kiến từ các bên liên quan
+ Các thay đổi cần thiết
+ Các sai lầm trong điều tra đất
+ Các điều kiện về nền móng tại chỗ
+ Thiết kế kém
- THIẾT BỊ
+ Người điều hành thiết bị thiếu kỹ năng
+ Sự cố của thiết bị
- MÔI TRƯỜNG
+ Các điều kiện thời tiết xấu
+ Các điều kiện tại chỗ không thuận lợi
- TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN
+ Nhận giấy phép từ cơ quan chức năng thành phố
+ Sự khác biệt giữa đặc điểm thiết kế và code xây dựng
- Ngày lễ
+ Trong 32 yếu tố được xếp vào chín nhóm thì có mười yếu tố ảnh hưởng hàng đầu gây ra sự
chậm trễ theo thứ tự sau đây:
• sự chậm trễ trong thanh tốn
• đánh giá thấp các chi phí cho dự án
• đánh giá thấp tính phức tạp của dự án
Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành


12 1152054042
MSSV:


• khó khăn trong tiếp cận tín dụng ngân hàng
• giám sát cơng trình kém
• ước tính thấp của nhà thầu về thời gian hồn thành dự án
• thiếu hụt nguyên vật liệu
• quản lý thiếu chuyên nghiệp
• tăng giá nguyên vật liệu
• quản lý tại chỗ kém.

V. Giải pháp cho “quy hoạch treo”
- Tất nhiên, mỗi dự án "treo" đều có những ngun nhân cụ thể. Ví dụ như việc dự án "chồng" dự
án; do những thay đổi trong công tác quy hoạch; triển khai áp dụng những quy định mới trong đền
bù, giải phóng mặt bằng; chủ đầu tư thiếu năng lực… và có cả những dự án "xí phần", "cắm đất"
để chờ chuyển nhượng, "sang tay" ăn chênh lệch. Thời buổi đất ở thì càng ngày càng thiếu, hàng
trăm dự án trong tình trạng "treo" đã gây nên những thiệt hại nặng nề cho quá trình phát triển kinh
tế - xã hội. Tình trạng nhiều dự án có thể thấy rõ hiệu quả, tính khả thi được xếp cùng với những
dự án "ma", rơi vào số dự án bị "treo" đã khiến khơng ít chủ đầu tư khơng thể kiên trì chờ đợi phải
rút lui, rót tiền vào chỗ khác. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến năng lực
cạnh tranh của tỉnh bị suy giảm. Lại có những dự án đã hồn thành giải phóng mặt bằng nhưng
dăm ba năm sau đó vẫn chưa được triển khai. Đất quý hơn vàng mà phải để hoang hóa, cỏ mọc lút
đầu người, trong khi đó bà con nơng dân lại khơng có đất để canh tác, sản xuất…
Áp lực về dân số mỗi ngày một đè nặng trong khi đất không thể "sinh sôi nảy nở", do đó để đạt và
tăng hiệu quả sử dụng đất thì cơng tác quản lý ngày càng phải chặt chẽ, và đây cũng chính là một
trong những nguồn lực quan trọng phục vụ quá trình phát triển. Vì vậy, hơn bao giờ hết, quá trình
thẩm định từng dự án phải được cơng khai, minh bạch. Từ đó, tập trung tháo gỡ vướng mắc cho
các dự án khả thi cũng như nhanh chóng loại bỏ những dự án khơng hiệu quả hoặc phục vụ lợi ích
của thiểu số người trong xã hội. Giải quyết tình trạng dự án "treo", dự án "rùa", một mặt vừa nâng

cao tính cạnh tranh, phát huy hiệu quả tối đa của các dự án khả thi trong quá trình phát triển, mặt
khác, nâng cao năng lực của cán bộ trong các cơ quan chuyên môn, xây dựng nền hành chính
minh bạch, củng cố lịng tin của người dân đối với năng lực quản lý của chính quyền.
- Trước hết cần đánh giá lại một cách chuẩn xác từng quy hoạch đang bị coi là "treo" và đối với
những quy hoạch có thể thực hiện sớm thì tập trung nguồn lực để thực hiện ngay, không để kéo
dài; những quy hoạch xét cần nhưng trước mắt chưa có khả năng thực hiện được thì điều chỉnh
mốc thời gian thực hiện quy hoạch; những quy hoạch không hợp lý, khơng có tính khả thi thì phải
quyết định hủy bỏ ngay; kiên quyết thu hồi các dự án mà chủ đầu tư khơng có khả năng thực hiện
để giao lại cho tổ chức, cá nhân có năng lực để thực hiện dự án đầu tư và công bố công khai trên
các phương tiện thông tin đại chúng việc điều chỉnh, hủy bỏ quy hoạch.
- Cơng tác giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất cho phát triển các dự án:

Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

13 1152054042
MSSV:


- Rà sốt, sửa đổi, bổ sung và hồn thiện các văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể về quản lý đất
đai, về giá đất, về vận dụng thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, giải quyết việc làm và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương;
- Bãi bỏ và chấm dứt ngay việc tùy tiện đặt ra các quy định trái pháp luật nhằm hạn chế quyền của
người sử dụng đất trong vùng có quy hoạch. Khi cơng bố kế hoạch thu hồi đất có cơng trình, nhà ở
để thực hiện quy hoạch phải đồng thời công bố kế hoạch tái định cư gắn với giải quyết việc làm,
ổn định đời sống của người có đất bị thu hồi;
- Đôn đốc việc sử dụng đất của các chủ đầu tư;
- Thực hiện đúng chính sách bồi thường, hỗ trợ, giải quyết việc làm và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất, bảo đảm ổn định đời sống của người có đất bị thu hồi. Phát huy vài trò của Tổ chức
phát triển quỹ đất trong việc chủ động giải phóng mặt bằng sau khi quy hoạch được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xét duyệt, tạo sẵn quỹ đất cho nhà đầu tư. Khắc phục có hiệu quả tình trạng

ách tắc, kéo dài việc giải phóng mặt bằng;
- Xem xét kỹ nhu cầu sử dụng đất, hiệu quả và tính khả thi của dự án, khả năng thực sự của nhà
đầu tư trước khi quyết định giao đất, cho thuê đất.
- Công tác xây dựng và quản lý quy hoạch:
- Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tăng cường đào tạo nghiệp vụ nhằm nâng cao chất lượng công
tác xây dựng và quản lý quy hoạch. Có cơ chế huy động các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ
sở đào tạo tham gia lập và tư vấn phản biện về các quy hoạch, dự án;
- Khuyến khích sử dụng các đơn vị tư vấn có trình độ chun mơn, nghiệp vụ cao để nâng cao
chất lượng, tính khả thi của phương án quy hoạch;
- Tiếp tục hồn thiện chính sách pháp luật về đất đai. Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng với Bộ
Tài chính đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định, trong đó quy định cụ thể, rõ ràng các trường hợp
được bồi thường, hỗ trợ về đất đối với những trường hợp người sử dụng đất chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục thu hồi đất.
- Tiếp tục tổ chức tốt việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đất đai cho cán bộ quản lý và người
sử dụng đất (bao gồm tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cơ sở tơn giáo, cộng đồng dân cư);
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đất đai. Việc kiểm tra,
thanh tra, giám sát đối với việc lập, thẩm định, xét duyệt, công bố quy hoạch gắn liền với kế hoạch
thực hiện được tiến hành ở tất cả các cấp, trước hết và chủ yếu là cấp tỉnh và cấp huyện. Qua kiểm
tra, thanh tra, giám sát, phát hiện và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm, nhất là đối với
những trường hợp tham nhũng đất đai của cán bộ, công chức;
- Chấn chỉnh những yếu kém và xử lý nghiêm kể cả dùng biện pháp chế tài đối với những vi phạm
trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã được phát hiện thông qua
việc thanh tra, kiểm tra;

Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

14 1152054042
MSSV:



- Phát huy vai trị của báo chí và nhân dân trong việc phát hiện và đưa ra công luận những trường
hợp vi phạm;
- Khi xây dựng các dự án quy hoạch cần đánh giá tương đối chuẩn xác các yếu tố về môi trường,
cảnh quan, giao thông, sự hợp lý về hiệu quả kinh tế, xã hội… từ đó xét lại tính khả thi khi thực
hiện dự án;
- Gắn mục tiêu cải tạo phát triển thành phố với mục tiêu an dân, đảm bảo quyền lợi chính đáng
của người dân chịu ảnh hưởng của quy hoạch. Cần có các chính sách cụ thể như sớm tái định cư,
khoanh định phạm vi ảnh hưởng trực tiếp của quy hoạch, có giải pháp về đời sống, việc làm; công
bố các vùng cấm xây dựng dài hạn trong 10 - 20 năm để ổn định sản xuất nông - lâm - ngư
nghiệp;
- Cơng bố thời hạn chưa thay đổi mục đích sử dụng đất. Tất cả các dự án đầu tư xây dựng phải
được quản lý chặt chẽ về tiến độ, có biện pháp chế tài chủ đầu tư và các chủ thể khác có liên quan
trong việc khơng đảm bảo tiến độ thực hiện dự án. Đồng thời có chế độ quản lý chung về tiến độ
thực hiện các dự án cải tạo phát triển thành phố;
- Thực hiện phương pháp quy hoạch chiến lược, xây dựng quy hoạch chi tiết cho từng quận,
huyện của tồn thành phố. Địi hỏi cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch, kế hoạch, chính
sách, cụ thể hơn nữa là giữa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội với quy hoạch xây
dựng.
- Bỏ hình thức nhà đầu tư tự thỏa thuận vì nếu thế người dân ở những vùng xâu vùng xa đỡ thiệt
thịi.
Cơng tác tổ chức bộ máy, đào tạo cán bộ làm quy hoạch:
- Để giải quyết tốt tình trạng quy hoạch,dự án “treo” cần có sự quy định rõ ràng hơn về chức năng,
nhiệm vụ cũng như phối hợp đồng bộ các hoạt động giữa các bộ ngành, cơ quan chức năng liên
quan, tránh chồng chéo, sai sót;
- Ngồi ra việc giải quyết bài tốn nhân sự nhằm tìm kiếm nguồn nhân lực đủ sức đáp ứng giải
quyết các vấn đề quy hoạch là một giải pháp cần được chú trọng với các phương án đi kèm như:
* Cải cách nội dung chương trình đào tạo về quy hoạch và quản lý đô thị cho phù hợp với
kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, theo hướng nêu trên;
* Xây dựng các chương trình bồi dưỡng ngắn hạn nhằm đào tạo lại các cán bộ đương nhiệm
làm công tác thực tế đang là 1 vấn đề cấp bách;

* Cải thiện cơ chế chính sách về tiền lương hiện nay.
* Xây dựng cơ chế làm việc minh bạch và thể hiện tinh thần trách nhiệm cụ thể để đẩy lùi
càng sớm càng tốt tình trạng nhũng nhiễu của cán bộ làm công tác thực tế trong quản lý, quy
hoạch và sử dụng đất đai, thiên nặng về phịng bệnh hơn chữa bệnh.Bên cạnh đó, cần phải giải
quyết bài bản hơn khâu chậm trễ trong xây dựng cơng trình. Để giải quyết cơng đoạn này, trước

Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

15 1152054042
MSSV:


hết chúng ta cần phải phân ra thành các nhóm vấn đề riêng biệt.
- Việc quy định mốc thời gian cụ thể theo hướng mà dự thảo sửa đổi đưa ra sẽ tránh được sự “lạm
dụng” của cơ quan quản lý cũng như của nhà đầu tư và tạo hành lang pháp lý rõ ràng để “xử lý”
dự án “treo.
- Quy hoạch đất cần đưa ra yêu cầu bắt buộc lấy ý kiến người dân và đảm bảo sự đồng thuận của
người dân khi lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
+ Quy định cụ thể về quy trình và biện pháp lấy ý kiến người dân
+ Công bố công khai lộ trình, thời gian thực hiện dự án cũng như quyền theo dõi, phản hồi, phản
ánh của người dân khi phát hiện sự sai lệch.
- Giải pháp cho sự chậm trễ trong xây dựng cơng trình:
Tầm quan trọng của việc cung cấp đầy đủ và kịp thời các nguồn lực tài chính trong quản lý xây
dựng dự án xây dựng cơng trình khơng thể bị xem nhẹ. được nhấn mạnh. Nguồn lực tài chính đầy
đủ chính là trung tâm điểm cho mọi yếu tố xoay quanh nó. Tất cả mọi người và tất cả mọi thứ có
liên quan đến cơng trình xây dựng đều bị ảnh hưởng xấu bởi sự thiếu hụt dòng tiền mặt đầy đủ.
Dự án sẽ không chỉ bị chậm lại, mà tinh thần của người lao động cũng giảm mạnh do không được
trả lương hoặc thanh toán tiền lương bất thường. Nhà thầu phụ, nhà cung cấp nguyên vật liệu và
công nhân đều bị ảnh hưởng từ đó. Sự thách thức đối với những người quản lý cơng trình và cả
chủ đầu tư đều phải cố gắng tìm ra cách để loại trừ hay ít ra làm giảm bớt sự xuất hiện việc khủng

hoảng tài chính trong q trình xây dựng. Như thế cần phải lưu ý các điều sau đây:
• Nhà đầu tư dự án cơng trình xây dựng phải thật bảo đảm về mặt tài chính hay nói khác đi là việc
bố trí thích hợp nguồn tài chính phải được lên kế hoạch trước khi dự án được khởi động.
• Các thủ tục chậm chạp, kéo dài và quan liêu liên quan đến việc thanh toán cho nhà thầu phải
được rút ngắn để làm tăng tính hiệu quả và việc chi trả cho nhà thầu phải được thực hiện ngay khi
đến hạn để tuân thủ chặt chẽ theo đúng các điều khoản của hợp đồng.
• Các điều khoản của hợp đồng cho phép các nhà thầu quy định việc yêu cầu bồi thường lãi suất
do thanh toán chậm phải được thực thi nghiêm ngặt để phục vụ như là cách ngăn chặn đối với
sách nhiễu của nhà đầu tư nếu có.
VI. Kết Luận:
- Trên thực tế ở địa bàn tỉnh Nghệ An có khá nhiều khu cơng trình dự án treo, mỗi dự án chiếm
hàng chục ha đất ( chủ yếu là đất nơng nghiệp, đất trồng lúa chuyển đổi mục đích sử dụng đất )
khiến diện tích đất nơng nghiệp giảm mạnh gây lãng phí tiền của đầu tư, lãng phí đất đai của nơng
nghiệp.
- Q trình triển khai, xác lập và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhìn chung
cịn nhiều hạn chế, bất cập. Việc tổ chức thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất được phê
duyệt còn thiếu đồng bộ. Nhiều phương án quy hoạch chưa dự báo được hết tốc độ phát triển kinh

Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

16 1152054042
MSSV:


tế xã hội của địa phương trong kỳ quy hoạch, việc bố trí quỹ đất cho các thành phần kinh tế không
sát với nhu cầu thực tế, dẫn đến qúa trình thực hiện phải điều chỉnh bổ sung nhiều lần. Do đó, việc
phân tích đánh giá những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của một kỳ
quy hoạch để từ đó đề ra các giải pháp khắc phục cũng như để thực hiện quy hoạch tốt hơn trong
thời gian tiếp theo là một việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai phải phù hợp với yêu cầu thực tế phát triển

kinh tế xã hội của từng địa phương. Việc sử dụng đất phải triệt để tiết kiệm, tránh lãng phí quỹ
đất, phân bổ hợp lý quỹ đất cho nhu cầu sử dụng khác nhau của nền kinh tế, đặc biệt ưu tiên đất
đai cho nhiệm vụ phát triển nông nghiệp. Việc xóa đi các quy hoạch treo khơng cần thiết sẽ giúp
giải phóng một nguồn lực tài chính - kinh tế - xã hội to lớn giúp thêm sức đáng kể cho việc vượt
qua các thách thức suy thoái kinh tế hiện nay của nước nhà. Việc nhà nước bổ sung vào luật đất
đai nhanh chóng xóa quy hoạch treo mới đây đã giúp cho hàng ngàn nông dân đã yên tâm, mạnh
dạn đầu tư nghiêm túc và dài lâu, bảo đảm hiệu quả kinh tế căn cơ lâu dài trên mảnh đất của mình.
Trước mắt, cần thiết rà sốt lại các dự án, quy hoạch, tiến hành đánh giá, phân loại cụ thể các dự
án, quy hoạch nào còn mang tính khả thi; dự án, quy hoạch nào khơng cịn khả thi, để từ đó có
biện pháp xử lý phù hợp. Những dự án, quy hoạch nào còn khả thi, đặc biệt những dự án mang
tính cơng ích, an sinh xã hội, UBND tỉnh cũng như các cơ quan hữu quan cần có biện pháp tăng
cường hỗ trợ chính quyền địa phương, các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện.
Những dự án, quy hoạch nào đã lạc hậu, khơng cịn phù hợp thì tiến hành thu hồi hoặc hủy bỏ
sớm, đồng thời thực hiện ngay việc chỉnh trang đô thị, cải thiện môi trường… để giúp người dân
ổn định cuộc sống cũng như thực hiện các quyền và nghĩa vụ về nhà ở, đất ở của mình.
Quy hoạch “treo” với các tác động tiêu cực to lớn của nó khơng chỉ là vấn đề của riêng địa
phương nào mà địi hỏi phải có sự chung tay giải quyết giữa các cơ quan chức năng có thẩm
quyền, các nhà đầu tư thực hiện dự án sao cho bảo đảm được hài hịa lợi ích lâu dài và ổn định của
người dân. Đã đến lúc cần phải “NÓI KHÔNG với QUY HOẠCH TREO”. Trong thời gian ngắn
sắp tới, tình trạng quy hoạch “treo” phải được hạn chế, đời sống nhân dân các vùng có quy hoạch
sẽ tốt hơn và điều này sẽ đem lại hiệu quả cao hơn trong phát triển kinh tế- xã hội đất nước.

Họ và tên: Nguyễn Hữu Thành

17 1152054042
MSSV:




×