Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

THỰC TRẠNG CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KHU ĐÔ THỊ MỚI TẠI TỔNG CÔNG TY XNKXD VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.32 KB, 35 trang )

THỰC TRẠNG CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KHU ĐÔ
THỊ MỚI TẠI TỔNG CÔNG TY XNKXD VIỆT NAM
(VINACONEX)
1.1. VAI TRÒ CỦA CÁC TỔNG CÔNG XÂY DỰNG VIỆT NAM VỚI
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KHU ĐÔ THỊ MỚI.
1.1.1 Vai trò của các tổng công ty xây dựng đối với hoạt động đầy tư xây dựng
khu đô thị mới tại Việt Nam.
Xây dựng là một ngành không thể thiếu được trong sự phát triển kinh tế,
các công ty xây dựng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng
cho xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Như ta đã biết ngày xưa khi
vừa thoát khỏi chiến tranh bước vào xây dựng đất nước thì việc nhà ở là quan
trọng cho các thành viên trong xã hội vì thế nhà nước chủ trương xây các căn hộ
tập thể cho công nhân viên chức ở nhưng đến xu hướng hiện nay thì các căn hộ
tập thể bằng những chung cư cao tầng, các khu đô thị mới thoáng hơn, sang
trọng hơn đáp ứng nhu cầu về nhà ở cho xã hội, như ta đã thấy những năm vừa
qua vô số những công trình dự án khu đô thị mới được hình thành như các khu
đô thị Linh Đàm, Khu đô thị Văn Quán, khu đô thị Trung Hòa Nhân Chính,
Làng Thăng Long quốc tế, Khu đô thị Định Công… góp phần phát triển đất
nước đáp ứng một phần nào đó nhu cầu của người dân.
Các tổng công ty xây dựng được thành lập từ năm 90 trở về trước đa số đều
thuộc sự quản lý của nhà nước và sau chuyển đổi sang cơ chế thị trường nhà
nước đã giảm bớt một phần nắm giữ bằng cách cổ phần hóa các tổng công ty
giảm xuống nắm giữ 51% số cổ phần, trong đó Vinaconex cũng là một trong
những thành viên trực thuộc sự quản lý của nhà nước và các tổng công ty xây
dựng với sứ mệnh mà nhà nước trao cho trọng trách kiến thiết và xây dựng đất
nước có những nhiệm vụ như sau:
• Tiếp nhận và thực hiện quyền chủ sở hữu vốn
nhà nước và với vai trò sử dụng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp tạo ra
hiệu quả tối đa (đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước), tổ chức vốn huy động
trong nước và quốc tế thể hiện năng lực của nhà đầu tư cho nền kinh tế, thay
cho việc chỉ trông chờ vào vốn ngân sách nhà nước, hoặc chỉ trông mong vào


các dự án sẵn có của nhà nước.
• Thực hiện kinh đầu tư, kinh doanh một cách có
hiệu quả vào cách ngành nghề lĩnh vực đặc biết là đối với ngành xây dựng, sử
dụng vốn có hiệu quả đảm bảo cho nền kinh tế phát triển.
Và mục tiêu của các tổng công ty xây dựng:
• Làm tốt vai trò của doanh nghiệp được thể hiện trong
việc tiến hành đầu tư, thay đổi phương thức lãnh đạo phù hợp. Chú trọng đến
việc phát triển bền vững gia tăng giá trị của công ty. Chuyển đổi cơ cấu đầu tư
sao cho phù hợp với thị trường và phù hợp với năng lực của công ty.
• Thực hiện vai trò đầu tư có chiến lực hiệu quả huy
động và tập trung nguồn lực đầu tư vào các lĩnh vực then chốt như hiện nay là
đầu tư vào các khu đô thị mới để đảm bảo cho việc quy hoạch phân bố lại dân
cư cho hợp lý. Từ đó tạo giá trị bền vững động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế
tăng năng lực cạnh tranh với các tập đoàn xây dựng trên thế giới, liên kết hợp
tác với các công ty trong và ngoài nước để học hỏi kinh nghiệp xây dựng giá trị
thương hiệu Việt ngày càng nâng cao.
• Xây dựng các tổng công ty xây dựng thành các tập
đoàn riêng biệt theo tiêu chuẩn quốc tế, có đội ngũ lao động tiên tiến, áp dụng
khoa học kỹ thuật cao, luôn đi tiên phong về sự thay đổi sáng tạo.
Và vai trò của các công ty xây dựng đối việc đầu tư vào khu đô thị mới
như sau:
Hiện cả nước có 288 khu đô thị mới đã, đang được xây dựng. Riêng trên
địa bàn Hà Nội, con số này là 40 với khoảng 6 triệu m
2
vuông nhà ở xây mới
(gồm hơn 400 chung cư cao tầng, còn lại là thấp tầng như: biệt thự, nhà vườn,
chia lô, liên kế...). Đây là con số tại thủ đô nói riêng, cả nước nói chung đã
phấn, kể từ "cái mốc" Linh Đàm - đô thị mới đầu tiên được khởi công xây dựng.
Khu dịch vụ tổng hợp và nhà ở hồ Linh Đàm - đô thị mới đầu tiên
của Thủ đô

Chặng đường hơn một thập kỷ phát triển các khu đô thị mới của Việt Nam
đã kinh qua tất thảy các cơn bĩ cực, thái lai, nhận đủ lỗ, lãi, khen, chê, thành
công, thất bại. Đây là một khu đô thị đầu tiên ra đời với quy mô lớn thể hiện sự
sáng tạo của các công ty xây dựng, đây là sự khởi xướng cho những công trình
đô thị mới về sau, tiếp nối sau đó sẽ là những công trình vĩ đại hơn, phá vỡ lối
sống cũng của người dân: Đó là dự án xây dựng khu dịch vụ tổng hợp và nhà ở
hồ Linh Đàm của công ty Phát triển nhà và đô thị (nay là Tổng Công ty Đầu tư
phát triển nhà và đô thị HUD). Ngày 15/6/1997 chung cư 9 tầng đầu tiên mang
ký hiệu CT4 thuộc dự án thành phần khu đô thị mới Bắc Linh Đàm được khởi
công.
Thế nhưng, chỉ sang năm 2000, rồi 2001, 2002 và các năm sau đó - đột
nhiên những dự án khu đô thị mới thi nhau hình thành như "nấm mọc sau mưa".
Không chỉ dừng lại ở Linh Đàm, Mỹ Đình, Xuân Phương (Hà Nội), HUD đã
"mang chuông đi đánh xứ người": Văn Quán - Yên Phúc (Hà Tây); Long Thọ -
Phước An, Biên Hoà (Đồng Nai); Chánh Mỹ, Tân An (Bình Dương), Hiệp Bình
Phước, Đông Tăng Long (TP.HCM)...
Khu
đô
thị
mới
Mễ
Trì
Hạ
khởi
công
năm
2003
ven
trục
đườn

g
Phạ
m
Hùn
g,

Nội.
Ảnh:
Hoà
ng
Huy
Nhiều chủ đầu tư khác cũng "trăm hoa đua nở": công ty Tu tạo và Phát
triển nhà Hà Nội xây Mễ Trì Hạ, Tổng công ty Xây dựng Hà Nội triển khai
Làng Quốc tế Thăng Long, Vinaconex xây Trung Hòa - Nhân Chính, công ty
Việt Hưng bắt tay vào khu đô thị, thương mại và du lịch Văn Giang... Đến nay,
hàng trăm khu mới đã ra đời với đủ loại: như khu đô thị dành cho người có thu
nhập, dành cho người có thu nhập cao, khu đô thị dành cho tầng lớp đại gia…
Nói về hiệu quả các dự án này, Bộ trưởng Quân cho rằng không nên chỉ
đánh giá bằng cách đếm số mét vuông sàn nhà xây mới đã hoàn thành, mà quan
trọng nhất là các đô thị mới đã góp phần tạo nên một nếp nghĩ mới, không chỉ
của người dân mà của nhiều cơ quan công quyền, lãnh đạo: "Nhiều người nghĩ
rằng, tạo ra những khu đô thị hoành tráng như ngày hôm nay là do Nhà nước
làm”, do sự đóng góp không nhỏ của các tổng công ty xây dựng.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu 95/125 khu đô thị mới đã hoàn thành, đưa vào
sử dụng, Vụ Kiến trúc - Quy hoạch (Bộ Xây dựng) nhận định: Các dự án hình
thành về sau, có thể tiện nghi hơn về không gian căn hộ, về trang thiết bị nội
ngoại thất... so với các dự án đi trước nhưng lại kém hơn về không gian dành
cho cộng đồng, độ thân thiện với môi trường, cảnh quan.
Các tổng công ty đã đóng góp không ít công sức để xây dựng nên những
khu đô thị như vậy giải quyết chỗ ở cho người dân, bố trí một cách hợp lý vừa

tạo ra cảnh quan cuộc sống vừa tiết kiệm diện tích đất xây dựng, phù hợp với xu
thế phát triển của kinh tế thế giới, sự ra đời của các khu đô thị đã giải quyết cho
hơn 1,5 triệu người có nhà ở.
Như khu đô thị Trung Hòa Nhân Chính của tổng công ty Vinaconex làm
chủ dự án đầu tư. Dự án đã giải quyết được hơn 15.000 chỗ ở và làm việc. Và
cũng không dừng ở đó Tổng công ty còn thực hiện nhiều dự án khu đô thị mới
với quy mô lớn hơn đạt cả lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Công ty đã xây dựng
các khu nhà ở cho người có thu nhập thấp giảm một bớt gánh nặng cho nhà
nước để đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt của người lao động có thu nhập thấp,
đây là một sự đóng góp vô cùng to lớn của công ty đối với nhà nước.
1.1.2 Sự cần thiết phải đầu tư
Nhu cầu về nhà ở tăng mạnh: theo số liệu của Cục quản lý nhà (bộ xây
dựng), mỗi năm diện tích nhà ở tăng thêm khoảng 30 triệu m
2
, riêng trong năm
2008 con số này là 50 triệu m
2
. Tuy nhiên, thị trường nhà ở chỉ chú trọng vào
nhóm nhà ở cao cấp, chưa đáp ứng được nhu cầu đang có mức thu nhập thấp,
trong khu nhu cầu nhà ở của người dân ngày càng tăng. Chỉ tính riêng khối sinh
viên, trong khoảng 600 trường đại học và cao đẳng, dự kiến đến năm 2015. tổng
số sinh viên có thể lên đến con số gần 3 triệu. Dự kiến tổng vốn đầu te để giải
quyết nhà ở là 21000 tỷ đồng.về công nhân lao động trong 194 khu công nghiệp
(KCN)được thành lập, và hiện có khoảng 1 triệu lao động trực tiếo và 1.5 triệu
lao động gián tiếp. Trong số đó khoảng 20% có nhà ở, 2% được trọ ở nhà họ
hàng. Trên 30% các hộ gia đình có nhà dưới 36 m2.
Nhu cầu về các nhà ở cao cấp cũng tăng: mức sống xã hội ngày càng tăng
thì việc chi trả cho những căn nhà có giá trị không thành vẫn đề đối với xã hội,
những căn nhà được các dự án khi vừa khởi công đã thu hút đông đảo nhiều nhà
đầu tư sẵn sàng đặt tiền mua, ta biết rằng nhu cầu con người thì ngày càng tăng,

dân số thì ngày càng tăng với tốc độ tăng hơn 1 triệu người/ năm mà diện tích
đất thì không thể nở ra trong khi đó kiến trúc của những ngôi nhà, những khu
tập thể trước thì ngày càng xuống cấp vì thế việc hình thành và phát triển các
khu đô thị mới nhằm đáp ứng về ở, nhu cầu thẩm mỹ, mức sống của người dân
là tất yếu.
Phát triển nhà ở theo kiểu khu đô thị mới có ý nghĩa là đảm bảo sự đồng bộ
về kiến trúc – quy hoạch, về kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội đảm bảo tính đồng
bộ và hiện đại của khu đô thị mới. Huy động được các nguồn vốn của phát triển
nhà ở như vốn đầu tư cùa nhà nước, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn của cán bộ
công nhân viên và nhân dân đóng góp. Đây là mô hình đang được áp dụng rộng
rãi chủ yếu ở các thành phố lớn trong nước và thể hiện một xu thế vượt trội so
với các mô hình trước đây, việc áp hình thức đầu tư khu đô thị mới này ngoài sự
nỗ lực chủ quan từ phía cơ quan quản lý nhà nước quan trọng hơn là phản ánh
đúng nhu cầu khách quan trong vấn đề nhà ở tại các thành phố lớn.
♦ Trước khi đi vào nghiên cứu chi tiết ta cần hiểu thế nào là đầu tư phát
triển khu đô thị mới hay nói cách khác thế nào thì được gọi là đầu tư một dự án
nhà ở?
“Dự án đầu tư phát triển khu đô thị mới là các dự án đầu tư xây dựng
nhà ở, nhằm tạo ra quỹ nhà ở, các khu vực đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và
hạ tầng xã hội the quy hoạch chi tiết được các cấp có thẩm quyền phê duyệt
(trong đó bao gồm cả văn phòng cho thuê).” (nghị định 71/2001/NĐ - CP).
Do đó việc đầu tư nhà theo khu đô thị mới sẽ khác với những mô hình
trước đây như:
• Xây dựng để cung cấp cho những đối tượng có nhu cầu, và
góp phần dãn khu dân cư tập trung ở trung tâm thành phố, bố trí một cách phân
bổ hợp lý mật độ dân cư.
• Mọi hoạt động xây dựng đều được tiến hành một cách quy
hoạch tổng thể và chi tiết. Vì các khu đô thị này được thiết kế theo một kiến trúc
khép kín.
• Các khu đô thị bắt buộc phải có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và

xã hội đồng bộ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của người dân.
Từ đó ta có thể thấy:
• Hầu hết các dự án tiến hành xây dựng nhà hiện này
đều phải tiến hành theo kiểu xây dựng thành một quy mô khu đô thị mới.
• Có hai loại hình nhà ở phổ biến trong các khu đô thị
mới là chung cư cao tầng và nhà biệt thự. Trong đề án nghiên cứu về tổng công
ty nói về khu đô thị mới bao gồm cả hai loại này nên vấn đề được tôi đề cập ở
cả hai loại.
• Dự án chỉ được coi là hoàn hảo nếu đảm bảo các yếu
tố về hạ tầng kỹ thuật và xã hội do đó nguồn vốn đầu tư không chỉ là chủ đầu tư.
Những đặc điểm trên được trình bày chi tiết dưới đây:
1.1.2.1 Hướng đầu tư phát triển nhà ở các khu đô thị mới:
• Việc cải tạo nâng cấp diện tích nhà ở hiện có là việc
thường xuyên và cần thiết nhằm đảm bảo chất lượng cho quỹ nhà tuy nhiên nó
không đáp ứng được nhu cầu tăng thêm hàng ngày, hàng giờ về nhà ở do quá
trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng. Do vậy việc mở rộng không gian hành
chính ở các thành phố lớn đặc biệt như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh,…
cùng với việc hình thành những khu đô thị mới thu hút sự tập trung dân cư
không những trong nội thành mà còn cả dân nhập cư mới từ ngoại thành là tất
yếu.
• Sự ra đời của các khu đô thị giải quyết được các vấn
đề sau:
o Dãn dân trong khu vực trung tâm, cải thiện điều kiện giao thông,
sinh hoạt, môi trường tại đây.
o Có điều kiện thiết lập đồng bộ về hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ
thuật trong xây dựng phát triển nhà nhằm đạt mục đích phục vụ sinh hoạt vật
chất và tinh thần của cư dân đô thị ngày càng cao.
o Tạo hướng mở, giải quyết nhu cầu nhà ở trong tương lai.
Ta có thể thấy như ở Hà nội đã xác định được cho mình định hướng tổ
chức không gian trong những năm sau: ngoài khu vực hạn chế phát triển

thì không gian sẽ được mở rộng theo hai hướng:
• Phát triển và mở rộng theo phía hữu ngạn sông
Hồng: hướng này bao gồm các quận Tây Hồ, Cầu Giấy, và Thanh Trì tại đây là
những khu vực Nam Quận Hai Bà Trưng, huyện Từ Liêm và Thanh Trì. Hiện tại
đây là những khu vực có tốc độ đô thị hóa mạnh với 2.271,3 ha xây dựng. Khu
đô thị mới mở rộng phía hữu ngạn sông Hồng được phân ra.
o Khu vực Tây Bắc Hồ (một phần nằm trong quận Tây Hồ và một
phần nằm trong phía Nam Thăng Long): định hướng khu đô thị mới hiện nay
xây dựng đồng bộ phát triển theo các dự án.
o Khu vực Tây Nam Hồ Tây (nằm trong khu vực phía Nam đường
Minh Khai) đẩy nhanh đô thị hóa, xây dựng mới khu cây xanh và khu đầu mới
kỹ thuật.
o Khu Thanh Trì – Từ Liêm (thuộc quận Thanh Xuân) phát triển
trung tâm đô thị chuyên ngành, nghỉ dưỡng…
o Khu Từ Liêm: khu đô thị mới hiện đại, công nghiệp và dân cư.
• Khu vực phát triển xây dựng phía Bắc sông
Hồng: khu vực đã có khoảng 246,6 ngàn người (cả dân đô thị và nông thôn dự
kiến năm 2010 là 1000 ngàn người với 12.820ha).
Như vậy việc mở rộng không gian đô thị, phát triển những khu đô thị
mới đã giải quyết được nhu cầu về nhà ở của dân cư đô thị trước mắt và
trong lâu dài.
1.1.2.2 Đầu tư khu đô thị mới theo dự án và sự đồng bộ về kiến trúc, quy
hoạch, về kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội.
Khắc phục những tồn tại của những mô hình trước là hầu hết thiếu đồng bộ
trong kiến trúc, quy hoạch, kết cấu hạ tầng và xã hội dẫn đến những bất tiện
trong sinh hoạt và làm việc. Điều đó đòi hỏi mỗi khu đô thị phải có sự phù hợp
môi trường xung quanh nó về kiến trúc, quy mô, ngược lại môi trường xung
quanh hay cụ thể hơn là hạ tầng xã hội và kỹ thuật phải đáp ứng được những
nhu cầu thiết yếu và ngày càng nâng cao của mọi cư dân trong mỗi căn nhà như
đi lại, học hành, ăn uống, vui chơi, giải trí…

Nhận thấy việc phát triển các khu đô thị là một trong những định hướng
của Việt Nam nên tổng công ty Vinaconex đã sáng suốt chuyển hướng chủ yếu
sang việc đầu tư khu đô thị mới. Mặc dù còn nhiều khó khăn vì những dự án về
khu đô thị đòi hỏi quy mô vốn lớn nhưng công ty đã bước đầu vượt qua những
khó khăn và bắt nhịp với sự chuyển mình của nền kinh tế Việt Nam.
1.2. GIỚI THIỆU VỀ TCT.
1.2.1 Vài nét về Tổng công ty CP VINACONEX
Quá trình thành lập và phát triển:
Sinh ra trong thời kỳ đổi mới và dưới ánh sáng đường lối đổi mới của đảng,
Tổng công ty cổ phần xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam- VINACONEX
không ngừng phát triển cùng với sự phát triển kỳ diệu của đất nước. Đến nay,
VINACONEX đã trở thành một trong những công ty đa doanh vững mạnh hàng
đầu của ngành xây dựng Việt Nam, đã khẳng định được năng lực, uy tín, vị thế
trong trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh quyết liệt.
Quá trình hoạt động và trưởng thành gần 20 năm qua của tổng công ty là
quá trình phát triển đi lên của một doanh nghiệp nhà nước từ xuất phát điểm là
một đơn vị rất nhỏ bé không được cấp vốn, không có tài sản, với hoàn cảnh
khách quan và chủ quan đầy khó khăn phức tạp. Trong một thời gian ngắn từ
ngày đầu thành lập, vượt qua những thử thách gay go ác liệt, trụ vững trước sự
thay đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, nhanh chóng chọn được mô
hình tổ chức và phương thức hoạt động, nắm bắt và tận dụng được thời cơ và
điều kiện khách quan, vừa thay đổi và ổn định tổ chức và phương thức hoạt
động, nắm bắt và tận dụng được thời cơ và điều kiện khách quan và nỗ lực chủ
quan, vừa thay đổi và ổn định tổ chức vừa triển khai hoạt động sản xuất kinh
doanh đạt nhiều thành quả ngày càng cao.
Trải qua gần hai thập kỷ phát triển và trưởng thành, Tổng công ty đã
không ngừng mở rộng và phát triển với chức năng chính là: Kinh doanh bất
động sản, xây lắp, tư vấn đầu tư- thiết kế- khảo sát quy hoạch, kinh doanh xuất
nhập khẩu thiết bị, vật tư phục vụ ngành xây dựng và các ngành kinh tế khác,
sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng, xuất khẩu chuyên gia và lao động ra

nước ngoài và các lĩnh vực kinh doanh khác.
Được thành lập ngày 27/09/1988, Tổng công ty Cổ phần xuất nhập khẩu
và xây dựng Việt Nam (VINACONEX), tiền thân là công ty dịch vụ và xây
dựng nước ngoài (có nhiệm vụ quản lý cán bộ, công nhân ngành xây dựng làm
việc ở nước ngoài), và sau đó tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam
được thành lập, đã xác định mục tiêu đa doanh, đa lĩnh vực và đa sản phẩm là
mục tiêu lâu dài. Tổng công ty hiện có trên 70 đơn vị đầu mối trực thuộc với
hơn 40.000 cán bộ, kỹ sư, chuyên gia, công nhân có kiến thức chuyên sâu và
giàu kinh nghiệm hoạt động trên khắp mọi miền của đất nước cũng như ở nước
ngoài.
Để tận dụng được tiềm năng của thị trường vốn nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh và năng lực sản xuất cũng như mở rộng quy mô, VINACONEX đã
mạnh dạn đi đầu trong việc Cổ phần hoá, chuyển đổi hình thức sở hữu. Ngày
01/12/2006 được coi là 1 dấu ấn quan trọng cuat VINACONEX khi tổng công
ty chuyển sang hoạt động theo mô hình tổng công ty cổ phần. Đây là 1 bước
ngoặt ý nghĩa, đánh dấu 1 sự phát triển mới trong quá trình xây dựng tổng công
ty trở thành một tập đoàn kinh doanhhàng đầu Việt Nam và khu vực.
Trong suốt quá trình hoạt động của mình, VINACONEX luôn coi trọng
và xác định chữ tín với khác hàng là yếu tố vô cung quan trọng. Nhờ đó, đến
nay, thương hiệu của VINACONEX đã được biết đến rộng rãi trên thương
trường, được khách hàng trong và ngoài nước tôn trọng và đặt niềm tin khi thiết
lập quan hệ hợp tác kinh doanh.
1.2.2 Cơ cấu tổ chức của công ty:
1.2.2.1 Mô hình tổ chức của toàn tổng công ty:
Đại hội đồng cổ đông
Đại hội đồng quản trị
Tổng giám đốc
Ban kiểm soát
Các Phòng, Ban chức năng của tổng công ty
Các đơn vị có phần vốn góp chi phối của tổng công ty

Các công ty liên kết
Các đơn vị SXKD hạch toán phụ thuộc và các trường đào tạo
Hình 1: Mô hình hoạt động của tổng công ty
Ngày 5/10/2006 Bộ trưởng bộ xây dựng đã có quyết định số 1384/QĐ-
BXD phê duyệt phương án cổ phần hoá Tổng công ty VINACONEX . Theo
phương án được duyệt, VINACONEX được phép giữ nguyên phần vốn nhà
nước hiện có, phát hành cổ phiếu để thu hút vốn. Tổng công ty cổ phần xuất
nhập khẩu xây dựng Việt Nam VINACONEX là Công ty mẹ của tổ hợp công ty
Mẹ- Công ty Con, hoạt động theo luật doanh nghiệp 2005, với vốn điều lệ là
1.500 tỷ đồng trong năm 2006 và đã tăng lên 2.000 và 3.000 tỷ vào tháng 7 năm
2008. Trong đó, tỷ trọng cổ phần nhà nước chiếm 63.35%, các cổ đông khác
chiếm 36.65% vốn điều lệ. Mô hình hình cổ phần hoá đã thu hút có hiệu quả
nguồn vốn xã hội, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời phát huy
cao độ trí tuệ xã hội, thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hoá trong quản lý.
Theo chủ trương đổi mới của đảng và chính phủ, Tổng công ty
VINACONEX cũng đã tiến hành cổ phần hoá các đơn vị thành viên, ngoài ra,
Tổng công ty còn thành lập mới nhiều Công ty cổ phần và Công ty TNHH.
Sau cổ phần hoá, Tổng công ty đã hoạt động dưới hình thức một Tổng công
ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp và theo mô hình Công ty Mẹ-
Công ty Con, trong đó:
- Tổng công ty cổ phần VINACONEX đóng vai trò là công ty mẹ vừa thực
hiện chức năng kinh doanh độc lập vừa thực hiện chức năng đầu tư vốn cho các
công ty con.
- Các Công ty do Tổng công ty cổ phần VINACONEX nắm cổ phần chi
phối sẽ đóng vai trò là các công ty con chịu sự chi phối của các công ty mẹ
trong một số lĩnh vực nhất định và được quyền chủ động trong các hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình.
- Các công ty do Tổng công ty cổ phần VINACONEX nắm cổ phần không
chi phối sẽ đóng vai trò là các công ty liên kết, quan hệ với công ty mẹ bình
đẳng và cùng có lợi. Công ty liên kết tự chủ và chịu trách nhiệm trong các hoạt

động sản xuất kinh doanh của mình.
- Để mô hình Công ty Mẹ- Công ty Con được phát triển bền vững, bên
cạnh việc xác định tôn chỉ hoạt động xây dựng các mục tiêu chiến lược, xây
dựng văn hoá doanh nghiệp, xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với đặc
điểm của tổng công ty thì việc xác định cơ cấu tổ chức tối ưu để nâng cao tính
tương thích trên thị trường, xây dựng mô hình quản trị doanh nghiệp phù hợp
bao gồm việc chuyển đổi hình thức hoạt động với một cơ cấu tổ chức hợp lý
phù hợp với đặc điểm của Tổng công ty.
1.2.2.2 Chức năng - nhiệm vụ của phòng ban đầu tư
1. Chức năng:
oTham mưu, giúp việc cho hội đồng quản trị, ban tổng giám đốc tìm kiếm
cơ hội đầu tư, xác định rõ mục tiêu đầu tư, tổ chức và tập trung nhân lực hợp lý
nhằm đạt được mục tiêu đầu tư các dự án của tổng công ty.
oTham mưu, giúp việc cho hội đồng quản trị, ban tổng giám đốc trong việc
hoạch định chiến lược, kế hoạch hàng năm trong công tác đầu tư nhằm từng
bước đưa mọi hoạt động đầu tư của tổng công ty hội nhập kinh tế trong khu vực
và trên thế giới.
oTham gia trong việc định hướng hoạt động cho các công ty con và công
ty thành viên liên kết (nếu có).
oCác chức năng khác do lãnh đạo tổng công ty giao.
2. Nhiệm vụ:
oTổ chức thực hiện thủ tục pháp lý đối với các dự án đầu tư của tổng công
ty và công ty con, công ty thành viên liên kết (nếu có).
oQuản lý quá trình chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành khai thác
sử dụng các dự án đầu tư của tổng công ty và các công ty con, công ty thành
viên liên kết (nếu có).
oLập báo cáo tình hình thực hiện các dự án đầu tư.
oTheo dõi, tổng hợp và đánh giá tình hình khai thác, sử dụng dự án đầu tư.
oTìm hiểu thị trường, nghiên cứu các quy định của pháp luật để tìm kiếm
cơ hội đầu tư.

oCác nhiệm vụ khác do lãnh đạo tổng công ty giao.
1.2.2.3 Hoạt động kinh doanh của công ty:
Các hoạt động kinh doanh chính:
Từ một công ty chỉ hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động và chuyên
gia nước ngoài, VINACONEX hiện là một tổng công ty lớn với các lĩnh vực
kinh doanh chủ yếu là lĩnh vực đầu tư và kinh doanh bất động sản, xây lắp công
trình, sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng, tư vấn thiết kế, xuất khẩu lao
động, xuất nhập khẩu, đầu tư tài chính, kinh doanh thương mại, du lịch và
khách sạn, giáo dục đào tạo và nhiều lĩnh vực khác.
Phương hướng cơ bản và lâu dài của VINACONEX trong hoạt động sản
xuất kinh doanh là thực hiện đa doanh, đa dạng hoá ngành nghề, đa sở hữu trên
cơ sở trên cơ sở các lĩnh vực sản xuất, đẩy mạnh sản xuất công nghiệp trong đó

×