Khóa luận tốt nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung
tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế lớn của cả
nước. Việc bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hóa truyền thống của thủ đô ngàn năm
văn hiến, xây dựng người thủ đô văn minh, thanh lịch, tiêu biểu cho trí tuệ của cả
nước là vấn đề được các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân quan tâm thực hiện.
Để xây dựng và tiếp tục phát triển thủ đô Hà Nội trở thành một trung tâm kinh tế,
văn hóa đầu não của cả nước thì phải phát triển từ từng cá nhân, từng địa phương
và trên mọi lĩnh vực của đời sống. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế, vị trí quan trọng của thư viện càng trở lên quan trọng
trong việc nâng cao trình độ văn hóa cho người dân. Được thành lập từ những thập
niên 60 của thế kỷ XX, cho đến nay hệ thống thư viện quận trên địa bàn thủ đô Hà
Nội đã có những bước phát triển đáng kể và khẳng định được vai trò, vị trí quan
trọng trong việc tìm hiểu đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao
đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên, trước những đòi hỏi mới, hệ
thống thư viện quận ở thủ đô Hà Nội đang bộc lộ những hạn chế về tổ chức về hoạt
động, đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới việc đáp ứng nhu cầu của người dân. Vì
vậy, tôi lựa chọn đề tài “Tìm hiểu công tác hoạt động tại thư viện quận trên địa
bàn thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.” làm đề tài khóa
luận với hy vọng đưa ra thực trạng thư viện quận, từ đó mạnh dạn đề ra những giải
pháp nhằm phát triển hệ thống thư viện quận trên địa bàn Thủ đô Hà Nội góp phần
vào công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hoạt động của thư viện quận trên địa bàn thủ đô.
- Phạm vi không gian: Các thư viện quận trên địa bàn thủ đô Hà Nội
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
1
Khóa luận tốt nghiệp
- Phạm vi thời gian: Trong thời điểm hiện nay
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điều tra khảo sát thực trạng hoạt động của các thư viện quận trên địa bàn
thủ đô Hà Nội
- Đánh giá mặt mạnh và yếu, những mặt đã là được và những hạn chế tồn
tại.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của các
thư viện trên địa bàn Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khóa luận, tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu
sau:
- Điều tra bằng bảng hỏi
- Khảo sát thực tế
- Phỏng vấn trực tiếp
- Phân tích, tổng hợp tài liệu
- Thống kê xã hội học
5. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến nội dung đề tài nghiên cứu, trước đây đã có rất nhiều đề tài
nghiên cứu viết về thư viện Hà Nội như sản phẩm và dịch vụ, tổ chức quản lý
tại thư viện Hà Nội… Cụ thể như khóa luận tốt nghiệp của Hoàng Thị Trang
K43 TTTV đã làm về đề tài: “Nghiên cứu về Tổ chức và quản lý mạng lưới thư
viện cơ sở ở ngoại thành Hà Nội”. Đề tài rất hay nhưng nó ở phạm vi cơ sở. Và
đề tài khóa luận tốt nghiệp của Bàn Thị Năm – K52 – TTTV thì tìm hiểu về một
thư viện quận cụ thể “Tình hình tổ chức và hoạt động tại thư viện Quận Hoàn
Kiếm – Hà Nội”. Và một số đề tài khác nhưng các đề tài này chỉ đi vào những
vấn đề nhỏ hẹp và cụ thể chưa đi vào tầm bao quát rộng.
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
2
Khóa luận tốt nghiệp
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
có cấu trúc gồm 3 chương.
Chương 1: Giới thiệu chung về thư viện quận trên địa bàn thủ đô Hà Nội
Chương 2: Thực trạng hoạt động của thư viện quận trên địa bàn thủ đô Hà
Nội
Chương 3: Một số nhận xét và kiến nghị
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
3
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT
VỀ HỆ THỐNG THƯ VIỆN QUẬN TRÊN ĐỊA BÀN THỦ ĐÔ HÀ NỘI
1.1.
Một vài nét về thư viện thành phố Hà Nội – đơn vị quản lý trực tiếp hệ
thống thư viện tuyến cơ sở
- Quá trình hình thành và phát triển của thư viện Hà Nội
Thư viện Hà Nội được thành lập ngày 15/10/1956 với tên gọi ban đầu “Phòng
đọc sách nhân dân”. Thư viện đã qua nhiều lần thay đổi địa điểm. Lúc ở bên hồ
Hoàn Kiếm (nhà Thuỷ Toạ), khi về Lò Đúc, Mai Dịch, Văn Miếu - Quốc Tử
Giám. Đến tháng 1/1959 Thư viện chính thức đóng tại 47 Bà Triệu và mang tên
“Thư viện nhân dân Hà Nội”, nay là Thư viện Thành phố Hà Nội.
Số lượng cán bộ trong những ngày đẩu mới thành lập chỉ có 4 người, với vốn
sách nhỏ bé vài ngàn cuốn được chuyển từ kháng chiến về, ngoài ra là một số báo,
tạp chí. Cơ sở vật chất của Thư viện còn nghèo nàn. Cán bộ của Thư viện đã tìm
mọi cách khắc phục khó khăn để từng bước đưa Thư viện thành phố Hà Nội đi lên.
Trong hoàn cảnh hoà bình vừa lập lại một nửa, đất nước bước vào giai đoạn
phục hồi kinh tế, Thư viện Hà Nội đã tập trung sách báo phục vụ nhân dân Thủ đô,
đồng thời chú trọng phát triển mạng lưới các thư viện cơ sở, từ một Thư viện thành
phố sau này phát triển thêm 12 thư viện quận, huyện phục vụ nhân dân nội và
ngoại thành.
T2/2009 thư viện Hà Nội đã hợp nhất 2 thư viện là: thư viện Hà Nội (cũ) và
thư viện Hà Tây, xếp loại thư viện hạng 2 (theo thông tư 67/2006 của Bộ Văn hóa
thể thao và du lịch về việc xếp hạng thư viện).
Hiện nay thư viện Hà Nội có 2 cơ sở:
- Cơ sở 1: 47 Bà Triệu – Hoàn Kiếm – Trụ sở làm việc: 8 tầng với 7.500
m2 sử dụng – đây là công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
- Cơ sở 2: 2B Quang Trung – Hà Đông – trụ sở làm việc: 2029 m2.
Thư viện đang lưu giữ một kho tàng thư tịch khá đồ sộ của Thủ đô và nhân loại,
với 300 ngàn bản sách; 436 loại báo, tạp chí, hơn một vạn tư liệu địa chí, hơn hai
ngàn sách chữ nổi giành cho người khiếm thị; có phòng tra cứu, phòng địa chí về
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
4
Khóa luận tốt nghiệp
Thăng Long – Hà Nội. Trong kho sách có vài ngàn bản tư liệu Hán – Nôm, các loại
sách ngoại văn, các bản đồ cổ, ảnh Hà Nội xưa và nay rất quý hiếm.
- Chức năng và nhiệm vụ
- Chức năng
Thư viện Hà Nội là đơn vị sự nghiệp có chức năng tàng trữ, luân chuyển
sách báo kể cả các loại sách, báo, tài liệu do địa phương xuất bản. Thư viện Hà Nội
vừa phục vụ bạn đọc rộng rãi, kể cả thiếu nhi, vừa phục vụ những người nghiên
cứu khoa học kỹ thuật. Vì vậy, Thư viện Hà Nội là một Thư viện khoa học tổng
hợp đồng thời có chức năng nghiên cứu và hướng dẫn nghiệp vụ thư viện cơ sở.
- Nhiệm vụ
Là trung tâm nghiên cứu và hướng dẫn phương pháp hoạt động của hệ
thống thư viện, tủ sách và phong trào đọc sách của quần chúng, đề xuất phương
hướng nội dung, kế hoạch tổ chức và hoạt động của từng loại hình thư viện, tủ sách
đối với từng loại người đọc.
Bảo quản và bổ sung các loại sách báo cũ và mới xuất bản ở trong nước và sách
báo bằng tiếng nước ngoài phù hợp với đặc điểm và phương hướng phát triển kinh
tế, văn hóa của địa phương phục vụ yêu cầu công tác nghiên cứu, góp phần nâng
cao kiên thức văn hoá cho quần chúng.
Tổ chức việc tuyên truyền giới thiệu sách báo với bạn đọc.
Tổ chức việc đọc sách tại chỗ và luân chuyển cho mượn sách báo rộng rãi trong
quần chúng. bảo vệ, bảo quản kho sách báo, tài sản của thư viện.
Hướng dẫn nghiệp vụ cho thư viện quận, huyện, thị xã và các ngành...
Hiện nay được giao thêm nhiệm vụ mới: nghiên cứu khoa học và ứng dụng công
nghệ thông tin vào công tác thư viện.
- Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ
- Cơ cấu tổ chức
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
5
Khóa luận tốt nghiệp
- Đội ngũ cán bộ
Hiện nay thư viện có 75 cán bộ, trong đó có 56 cán bộ trong biên chế và 19 lao
động hợp đồng.
100% cán bộ chuyên môn có trình độ cử nhân; 7 cán bộ là thạc sĩ khoa học thư
viện. 7 cán bộ có văn bằng 2: ngoại ngữ, báo chí, hành chính.
Để nâng cao chất lượng cán bộ, cơ quan luôn tạo điều kiện cho cán bộ tham
gia các chương trình hội thảo, tập huấn về chuyên môn do Vụ Thư viện, Thư
viện Quốc gia Việt Nam… tổ chức về: các chuẩn nghiệp vụ, ứng dụng công
nghệ thông tin, số hóa tài liệu, về kỹ năng phục vụ người khiếm thị và kỹ năng
xử lý, chuyển dạng file trong sách cho người khiếm thị tại thành phố Hồ Chí
Minh… các chương trình tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, chuyên
ngành ở nước ngoài; tập huấn về công tác phục vụ bạn đọc tại Singapore – do
Quỹ SIDA Thụy Điển tài trợ; về kỹ năng tập huấn và hội thảo tại Singapore –
do thư viện Quốc gia Singapore tài trợ.
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
6
Khóa luận tốt nghiệp
Có 4 cán bộ được đào tạo 2 tháng tại Ấn Độ về tiếng Anh Tin học, được học
tập và làm việc với các chuyên gia nước ngoài góp phần nâng cao trình độ
chuyên môn, kỹ năng và tác phong làm việc. Các cán bộ đi học đều đã áp dụng
những kiến thức được học vào thực tiễn cơ quan.
Thư viện Hà Nội cũng tổ chức cho cán bộ đi tham quan học tập các thư viện
trong nước và nước ngoài: tham quan các trung tâm học liệu khu vực miền
Trung, thư viện trường đại học FPT… là những mô hình thư viện hiện đại; tham
gia các đoàn học tập, tập huấn tại nước ngoài: Trung Quốc, Malaixia, Hàn
Quốc, Singapore.
Kế họach năm tới thư viện Hà Nội đang đề xuất cử 3 cán bộ đi dự Đại hội
COLSAL lần thứ 15 tại Inđônêxia.
Nhìn chung, hiện nay đội ngũ cán bộ thư viện Hà Nội vững vàng về chuyên
môn nghiệp vụ thư viện, kinh nghiệm công tác, yêu nghề. Tuy nhiên, cán bộ
vẫn hạn chế về kỹ năng tin học và ngoại ngữ. Số cán bộ xử lý được tài liệu
ngoại văn, hay giao tiếp, làm việc trực tiếp với người nước ngoài còn quá ít.
- Người dùng tin và nhu cầu tin tại thư viện Hà Nội
- Người dùng tin tại thư viện Hà Nội rất đa dạng gồm nhiều lứa tuổi khác
nhau trên địa bàn thủ đô Hà Nội như: học sinh, sinh viên, công nhân viên chức,
nghiên cứu sinh, cán bộ về hưu, người già, trẻ em. Đặc biệt tại thư viện Hà Nội còn
phục vụ cho cả người khiếm thị bằng các sản phẩm chữ nổi, sách nói, băng caste…
và duy nhất trên địa bàn Hà Nội, thư viện có phòng phục vụ độc giả là thiếu nhi.
Chính vì nhiều đối tượng người dùng tin khác nhau nên thư viện cũng có rất nhiều
nhu cầu khác nhau đòi hỏi thư viện Hà Nội luôn luôn phải thay đổi để phù hợp với
nhu cầu tin của người dùng tin. Đi cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin,
nhu cầu tin của người dùng tin cũng đòi hỏi cao hơn nên ngoài việc phát triển
nguồn tin truyền thống thì thư viện cũng đã và đang xây dựng nguồn tin số hóa để
có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dùng tin.
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
7
Khóa luận tốt nghiệp
Như vậy dưới sự chỉ đạo trực tiếp của thư viện Hà Nội, Đảng, Nhà nước và
các cấp ban, ngành, địa phương, một hệ thống thư viện quận, huyện trên địa bàn
Thủ đô Hà Nội đã được xây dựng và phát triển ngày một hoàn thiện nhằm đáp ứng
nhu cầu đọc trong rộng rãi quần chúng nhân dân.
1.2. Vài nét về hệ thống thư viện quận trên địa bàn Thủ đô Hà Nội
Hệ thống thư viện và các thiết chế của nó được xây dựng gắn liền với đời
sống vật chất và tinh thần, mà cụ thể là đời sống văn hóa của con người. Thư viện
đáp ứng nhu cầu đọc sách, báo và sáng tạo làm theo sách, tạo ra văn hóa đọc, góp
phần nâng cao dân trí và chất lượng cuộc sống con người… Thư viện mang lại lợi
ích to lớn xây dựng nên nền văn minh, văn hóa của mỗi dân tộc.
Chính vì vậy, ngay từ khi hòa bình lập lại, Đảng, Nhà nước, các cấp, các
ngành ở Trung ương và địa phương đã quan tâm đến vấn đề đáp ứng nhu cầu thông
tin cho mọi tầng lớp nhân dân. Trong chiến lược xây dựng đời sống văn hóa trước
kia và hiện tại đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thư viện trong việc đáp ứng
nhu cầu tin cho mọi người dân.
Từ quan điểm nhận thức:
“Thư viện là một cơ quan văn hóa, giáo dục vủa Đảng và Nhà nước. Nó là
công cụ trọng yếu ngoài nhà trường để giáo dục tư tưởng, chính trị, nâng cao
trình độ, kiến thức của nhân dân lao động về mọi mặt, động viên quần chúng thực
hiện tốt các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm cho đời sống tinh
thần, tình cảm quần chúng thêm phong phú.”
Ngay từ đầu thành lập, Thư viện Hà Nội đã khẳng định phương hướng hoạt
động của mình là cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ mang tính chất chiến
lược: Không ngừng củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động tại thư viện trung
tâm; Tập trung xây dựng và phát triển hệ thống thư viện quận, huyện và cơ sở, đáp
ứng nhu cầu thông tin của người dân sống xa trung tâm thành phố, đặc biệt là
ngoại thành.
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
8
Khóa luận tốt nghiệp
Thủ đô Hà Nội gồm có tất cả 10 quận: Quận Ba Đình, Cầu Giấy, Đống Đa,
Hà Đông, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hoàng Mai, Long Biên, Tây Hồ, Thanh
Xuân. Hiện tại đã có 9 quận có thư viện, riêng Quận Hoàng Mai thì vẫn chưa có
thư viện. Các thư viện Quận được thành lập từ những năm 1960 trở về đây. Thư
viện quận Hà Đông được thành lập sớm nhất từ năm 1957.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, một số thư viện nhận được sự quan
tâm đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị, vốn tài liệu… của các cấp lãnh đạo,
cùng với sự năng động, sáng tạo của cán bộ thư viện, nên đã phát triển khá mạnh
thu hút đông đảo bạn đọc đến thư viện. Điển hình như Thư viện quận Ba Đình,
Hoàn Kiếm, các thư viện này đã nhận được cờ thi đua, bằng khen cấp Trung ương
và tỉnh thành. Tuy nhiên cũng có những thư viện chậm phát triển hơn do điều kiện
khách quan và chủ quan như thư viện quận Long Biên, Tây Hồ, Thanh Xuân.
Ra đời và phát triển trong những điều kiện khác nhau, ở những địa phương
với hoàn cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau, do đó thư viện quận trên địa bàn
Thủ đô phát triển không đồng đều. Có những thư viện được thành lập lâu đời nên
vốn tài liệu, cơ sở vật chất rất lớn tạo những thuận lợi bước đầu thúc đẩy thư viện
ngày càng phát triển nhưng cũng có những cơ quan mới được thành lập còn trong
thời kỳ bước đầu phát triển. Nhưng với chung một mục tiêu, nhiệm vụ, các thư
viện quận đã khắc phục mọi khó khăn, nỗ lực đạt được những hiệu quả hết sức to
lớn. Bằng những hoạt động cụ thể, nỗ lực cụ thể, các thư viện đã góp phần không
nhỏ trong công cuộc xây dựng và phát triển địa phương, hình thành phong trào đọc
sách, báo sâu rộng trong nhân dân. Thư viện quận đã thực sự trở thành một địa chỉ
văn hóa hấp dẫn không thể thiếu đối với người dân trên địa bàn Hà Nội.
1.2.1. Chức năng và nhiệm vụ
1.2.1.1 Chức năng
Cũng như mọi thư viện khác, thư viện quận thực hiện 4 chức năng cơ bản
sau:
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
9
Khóa luận tốt nghiệp
Thứ nhất phải nói đến chức năng giáo dục của sách, báo, của thư viện đối
với con người và xã hội. Thư viện công cộng được coi như một thiết chế giáo dục
ngoài nhà trường, là bạn đồng hành của các cơ quan giáo dục, cung cấp tri thức
cho mỗi cá nhân, mỗi nhóm người để họ vươn lên hoàn thiện nhân cách, văn hóa
của mình. Thư viện góp phần vào công cuộc xóa mù chữ, nâng cao trình độ dân trí
cho người dân ở các địa phương. Do đó, thư viện quận mang một vai trò giáo dục
hết sức to lớn.
Thứ hai, thư viện còn là cơ quan cung cấp thông tin một cách nhanh chóng,
đầy đủ và chính xác cho người dùng tin. Nguồn thông tin ngày càng đa dạng phong
phú, nhưng có những nguồn tin đáng tin cậy cũng có những nguồn tin không đáng
tin cậy do vậy chỉ có những nguồn tin trong sách, báo nhập vào thư viện đã được
cán bộ thư viện lựa chọn một cách kỹ càng, chính xác những nội dung xác thực với
người dung tin.
Thứ ba, thư viện trở thành một thiết chế văn hóa, thực hiện chức năng văn
hóa ở nhiều nơi, nó trở thành trung tâm sinh hoạt văn hoá chủ yếu của cộng đồng
dân cư, giúp con người hiểu biết về các giá trị văn hóa trong và ngoài nước. Như
vậy, thư viện trở thành nơi lưu trữ kho tàng văn hóa của nhân loại.
Cuối cùng, thư viện còn là nơi để cho mọi người thư giãn, giải trí trong thời
gian rảnh rỗi hay những giờ làm việc căng thẳng.
Với vị trí trung tâm kinh tế, xã hội, với tư cách là thủ đô của một nước, đòi
hỏi Hà Nội phải chú ý đến nhiều vấn đề, đặc biệt là vấn đề văn hóa, trình độ dân
trí… Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, việc nâng
cao chất lượng hoạt động của thư viện công cộng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội nói
chung và thư viện quận nói riêng là một vấn đề hết sức bức thiết. Bởi thư viện
quận là cầu nối giữa tỉnh, thành phố và cơ sở trong việc phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, luôn giữ một vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển thủ
đô.
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
10
Khóa luận tốt nghiệp
Chức năng của thư viện quận cũng được quy định chung rất rõ theo quy chế
về tổ chức và hoạt động của thư viện huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh quy
định.
- Thư viện huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
thư viện cấp huyện) là đơn vị sự nghiệp văn hóa - thông tin, do Ủy ban nhân dân
cấp huyện thành lập; có chức năng xây dựng và tổ chức việc sử dụng chung vốn tài
liệu thư viện phục vụ nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh, quốc phòng của địa phương.
- Tùy theo quy mô tổ chức, hoạt động và điều kiện cụ thể của từng địa phương,
thư viện cấp huyện có thể trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Trung tâm
Văn hóa - Thông tin (sau đây gọi chung là cơ quan chủ quản).
Thư viện trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện có tư cách pháp nhân, có con
dấu và được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và ngân hàng theo quy định của
pháp luật.
1.2.1.2. Nhiệm vụ
Theo quy chế về tổ chức và hoạt động của thư viện huyện, quận, thị xã thành
phố thuộc tỉnh quy định.
- Xây dựng kế hoạch hoạt động dài hạn, ngắn hạn của thư viện và tổ chức thực
hiện sau khi được cơ quan chủ quản phê duyệt;
- Tổ chức phục vụ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người đọc sử dụng vốn tài
liệu thư viện, tổ chức các hình thức phục vụ, mở cửa thư viện theo ngày, giờ nhất
định phù hợp với điều kiện công tác, sản xuất và sinh hoạt của nhân dân địa
phương; không đặt ra các quy định làm hạn chế quyền sử dụng thư viện của người
đọc;
- Xây dựng vốn tài liệu phù hợp với trình độ, nhu cầu của nhân dân, với đặc
điểm và yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
Tăng cường vốn tài liệu thư viện thông qua việc tiếp nhận sách luân chuyển từ
thư viện tỉnh hoặc thực hiện việc mượn, trao đổi tài liệu với các thư viện khác trên
địa bàn.
Thực hiện việc thanh lọc ra khỏi kho các tài liệu không còn giá trị sử dụng theo
quy định của Bộ Văn hóa - Thông tin;
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
11
Khóa luận tốt nghiệp
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền giới thiệu sách,
báo để thu hút người đọc đến sử dụng vốn tài liệu thư viện; tổ chức các đợt vận
động đọc sách, báo; xây dựng phong trào và hình thành thói quen đọc sách, báo
trong nhân dân địa phương;
- Tổ chức các dịch vụ thông tin - thư viện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ theo
quy định của pháp luật;
- Tham gia xây dựng và phát triển mạng lưới thư viện, phòng đọc sách; hướng
dẫn nghiệp vụ cho các thư viện, phòng đọc sách trên địa bàn,
- Từng bước triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của thư
viện;
- Thực hiện báo cáo định kỳ tháng, 6 tháng, hàng năm và báo cáo đột xuất vê
tình hình hoạt động của thư viện với cơ quan chủ quản và thư viện cấp tỉnh;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của thư viện
do cơ quan chủ quản giao.
Đối với thư viện có tư cách pháp nhân còn có nhiệm vụ quản lý tổ chức, cán bộ,
viên chức, tài chính và tài sản của thư viện theo quy định của cấp có thẩm quyền;
được ký kết hợp đồng lao động và quản lý lao động theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình hoạt động của mình thì các thư viện quận đã hoàn thành xuất sắc
nhiều nhiệm vụ được quy định nhưng cũng có những nhiệm vụ chưa làm được và
mới bước đầu đưa vào thực hiện như nhiệm vụ triển khai ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động của thư viện. Gần đây đã có một số thư viện triển khai
nhiệm vụ đó nhưng mới thực hiện ở bước đầu chưa phù hợp với sự phát triển hiện
nay của đất nước trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Còn lại
hầu như các thư viện quận trên địa bàn thủ đô chưa triển khai được nhiệm vụ trên.
Như vậy, trong quá trình phát triển hoạt động của thư viện cần được quan tâm đầu
tư hơn nữa của các cấp, ban, ngành, địa phương để thư viện có thể thực hiện được
đầy đủ các nhiệm vụ của mình để có thể đáp ứng tốt cho nhu cầu của người dùng
tin.
1.2.2. Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ
Pháp lệnh thư viện quy định, đối với mỗi thư viện quận có tổ chức như sau. Một
thư viện quận gồm có giám đốc thư viện và các bộ phận chuyên môn, nghiệp
vụ.
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
12
Khóa luận tốt nghiệp
- Đối với thư viện có tư cách pháp nhân người phụ trách thư viện được gọi là
Giám đốc thư viện. Giám đốc thư viện chịu trách nhiệm trước Thủ trưởng cơ quan
chủ quản về hoạt động của thư viện và việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Giám đốc thư viện cần nắm vững các tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ thư
viện và phải được bồi dưỡng kiến thức về quản lý hành chính nhà nước và lý luận
ở trình độ trung cấp hoặc tương đương.
Mỗi thư viện cấp quận huyện còn có 2 bộ phận riêng biệt: bộ phận nghiệp vụ và
bộ phận phục vụ.
Bộ phận nghiệp vụ có những nhiệm vụ sau:
- Xây dựng, bổ sung và xử lý kỹ thuật vốn tài liệu thư viện; lập danh mục tài liệu
theo yêu cầu người đọc; biên soạn các bản thông tin thư mục; tổ chức các cuộc thi
tìm hiểu qua sách báo trên quy mô toàn huyện và các hoạt động thông tin, tuyên
truyền giới thiệu sách, báo khác;
- Tham gia xây dựng và phát triển mạng lưới thư viện cơ sở; hướng dẫn nghiệp
vụ cho các thư viện trên địa bàn.
Bộ phận phục vụ có những nhiệm vụ sau:
- Tổ chức phục vụ tại thư viện, đáp ứng yêu cầu về sử dụng vốn tài liệu thư viện
thông qua các hình thức đọc tại chỗ và mượn về nhà; tổ chức các hoạt động thông
tin, tuyên truyền giới thiệu sách, báo nhằm thu hút người đọc tới sử dụng vốn tài
liệu thư viện;
- Tổ chức phục vụ ngoài thư viện, thực hiện luân chuyển sách báo xuống các thư
viện, phòng đọc sách cơ sở, các điểm Bưu điện Văn hóa xã, Tủ sách pháp luật và
các mô hình thư viện mang tính chất công cộng khác; tiếp nhận sách luân chuyển
từ thư viện tỉnh; thực hiện mượn, trao đổi tài liệu với các thư viện khác trên địa.
Căn cứ quy mô hoạt động, hạng thư viện, Giám đốc thư viện tham mưu cho Thủ
trưởng cơ quan chủ quản xây dựng phương án tổ chức các bộ phận chuyên môn,
nghiệp vụ phù hợp trình Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định.
Đó là theo quy định thì ít nhất mỗi thư viện phải có những phòng ban chuyên
trách riêng nhưng hiện tại có rất ít thư viện quận làm được điều đó. Mỗi thư viện
trung bình chỉ có từ một đến hai cán bộ thư viện họ phải kiêm nhiệm toàn bộ công
việc của thư viện, từ các hoạt động nghiệp vụ đến phục vụ bạn đọc và quản lý các
hoạt động khác của thư viện. Hiện tại, chỉ có thư viện quận Hoàn Kiếm là có ba
cán bộ thư viện làm các nhiệm vụ khác nhau còn lại các thư viện khác chỉ có từ
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
13
Khóa luận tốt nghiệp
một đến hai cán bộ. Đó là một bất cập lớn gây khó khăn cho hoạt động của thư
viện quận trong thời kỳ hiện nay.
1.2.3. Người dùng tin và nhu cầu tin của các thư viện quận, huyện, thị xã
trên địa bàn thủ đô Hà Nội
Đối tượng người dùng tin của thư viện cấp huyện được quy định khá rõ ràng
trong văn bản do Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch) ban hành:
“Đối tượng phục vụ của thư viện quận, huyện là toàn thể nhân dân và cán bộ
trong phạm vi huyện, nhưng chủ yếu là phục vụ cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ khoa
học, kỹ thuật trong các cơ quan, tổ chức sản xuất, (như xí nghiệp, nông trường,
trạm, trại…). Ngoài ra, thư viện quận, huyện phải thông qua thư viện xã, phục vụ
các tầng lớp nhân dân, kể cả thiếu nhi, học sinh trong và ngoài trường, thỏa mãn
nhu cầu về sách báo của họ”
“Đối tượng phục vụ cuả thư viện cấp huyện, quận là các tầng lớp nhân dân
và cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ khoa học, kỹ thuật của các cơ quan chuyên
môn, tổ chức sản xuất, người làm công tác giảng dạy, học tập ở địa phương”
Tựu trung lại, đối tượng phục vụ của thư viện cấp huyện, quận chính là
người dân sống trên địa bàn, thuộc nhiều thành phần, đối tượng khác nhau và đọc
sách với nhiều mục đích khác nhau nhằm: nâng cao trình độ, nghiên cứu, học tập,
ứng dụng vào sản xuất và giải trí….
Thủ đô Hà Nội với những đặc trưng về lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội… nên đối tượng phục vụ hay người dùng tin và nhu cầu tin cũng mang nững
đặc điểm riêng
Đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin
- Trong lịch sử hình thành, xây dựng và phát triển của Thăng Long - Hà Nội với
vai trò, vị trí là thủ đô của một quốc gia trong nhiều thời đại,
Thăng Long – Hà Nội luôn xác định được là “trung tâm đầu não chính trị, kinh tế hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và du
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
14
Khóa luận tốt nghiệp
lịch quốc tế và cả nước…”. Do vị thế là “trung tâm đầu não”, nên Hà Nội tập trung
khá lớn các cơ quanTrung ương, các viện, trung tâm nghiên cứu, các trường đại
học…
- Do đó Hà Nội tập trung khá lớn các nhà quản lý, các nhân tài, tri thức. Đối
tượng công nhân, nông dân, học sinh, thợ thủ công, người làm nghề tự do chiếm số
lượng đông đảo. Do đó, người dùng tin rất đa dạng cả về trình độ, đặc tính tâm
sinh lý, sinh hoạt xã hội…
Vì vậy có thể phân ra các nhóm người dùng tin và nhu cầu tin sau:
- Nhu cầu tin của nhóm người dùng tin là các nhà lãnh đạo, quản lý các cấp:
trung ương, thành phố, quận, phường, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp…
Tuy số lượng không nhiều, nhưng họ đóng vai trò quan trọng, bởi họ là những
người tiếp nhận, nhưng đồng thời lại là những người xử lý thông tin và ra quyết
định, thực hiện và điều chỉnh các quyết định nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, văn
hóa xã hội của địa phương. Do tính chất như vậy, nên ngoài những thông tin tổng
hợp về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các vấn đề phát triển và
quản lý kinh tế - xã hội của đất nước liên quan đến các địa phương, họ rất cần
thông tin mang tính chất chuyên sâu liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực quản lý và
điều hành. Trong điều kiện có ít thời gian cho việc đọc sách, thì những thông tin
nhanh, chính xác, chọn lọc, cô đọng theo yêu cầu sẽ thật sự phù hợp với nhóm
người dùng tin là cán bộ, lãnh đạo.
- Đối với nhóm người dùng tin là các nhà khoa học, mặc dầu số lượng không
lớn nhưng lại tập trung nhiều ở thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, yêu cầu và đòi hỏi về
thông tin của nhóm người dùng tin là nhà khoa học rất cao, bởi họ là những chuyên
gia đầu ngành, những nhà nghiên cứu sâu về từng lĩnh vực cụ thể. Đó là những
thông tin về các thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới, các kết quả công
trình nghiên cứu khoa học, các đề tài khoa học đã và đang được triển khai, những
phát hiện khoa học có giá trị… Do vậy, nhu cầu tin của họ là những thông tin
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
15
Khóa luận tốt nghiệp
chuyên đề, thông báo tài liệu khoa học, tóm tắt các công trình khoa học… có nội
dung sâu về một lĩnh vực cụ thể.
- Nhóm người dùng tin đại chúng là công nhân, nông dân, học sinh, sinh
viên, người cao tuổi. Đối với thư viện cấp quận, phường, các tủ sách đây là lực
lượng bạn đọc đông đảo nhất, đến với thư viện và sử dụng tài liệu nhiều nhất. Nhu
cầu tin của người dùng tin đại chúng thường rất rộng, bao quát nhiều lĩnh vực. Có
thể mang nhu cầu tìm kiếm thông tin đến những công việc liên quan mà mình công
tác, cũng có thể chỉ là nhu cầu giải trí.
1.2.4. Mục tiêu phát triển
Thư viện cấp quận trở thành trung tâm thông tin địa phương, bao trùm và
đáp ứng được mọi nhu cầu thông tin trên địa bàn của mình. Có khả năng tiếp
nhận, xử lý và phân phối thông tin từ nhiều nguồn thông tin khác nhau phục vụ
cho nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương.
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
16
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC THƯ VIỆN QUẬN TRÊN ĐỊA BÀN THỦ ĐÔ HÀ NỘI
2.1. Những vấn đề chung về hoạt động của hệ thống thư viện quận trên địa bàn
Thủ đô Hà Nội
Trong hoạt động của hệ thống thư viện công cộng Hà Nội, thư viện quận có
vai trò, vị trí rất quan trọng. Thư viện cấp quận được coi là mắt xích trọng yếu nối
liền giữa thư viện trung tâm thành phố với thư viện tủ sách cơ sở. Chịu trách nhiệm
quản lý và hướng dẫn nghiệp vụ các thư viện trên địa bàn huyện, đồng thời thông
qua thư viện, tủ sách cơ sở, thư viện quận đã và đang tích cực đưa sách báo đến tận
tay người dân, bằng phương thức phục vụ tại thư viện trung tâm quận và tổ chức
luân chuyển sách, báo giữa các thư viện, tủ sách trên địa bàn.
Với vai trò của mình trong hệ thống thư viện công cộng, những năm qua các
thư viện quận trên địa bàn thành phố đã cố gắng trong điều kiện có thể để xây dựng
vốn tài liệu phù hợp với trình độ, nhu cầu của nhân dân, với đặc điểm và yêu cầu
phát triển kinh tế, văn hóa tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người dân địa phương
khai thác, sử dụng vốn tài liệu thư viện trung tâm quận và phục vụ lưu động xuống
cơ sở trên địa bàn. Song, nhìn chung mạng lưới thư viện quận trên địa bàn thành
phố hiện đang gặp khó khăn về mô hình tổ chức quản lý, trụ sở, về kinh phí hoạt
động, thiếu về trang thiết bị thư viện, số lượng cán bộ thư viện. Tình trạng cán bộ
thư viện còn phải kiêm nhiệm các công việc khác của đơn vị chủ quản (phòng văn
hóa thông tin, nhà văn hóa, trung tâm văn hóa) và thời gian dành cho công tác
chuyên môn còn hạn chế là vấn đề tương đối phổ biến ở phần lớn các thư viện
quận.
Hiện nay 9/10 quận trên địa bàn thủ đô Hà Nội đã có thư viện cấp quận
(quận Hoàng Mai chưa có thư viện quận), tuy nhiên mạng lưới thư viện cấp quận
phát triển và hoạt động không đồng đều do sự quan tâm, đầu tư cho hoạt động thư
viện ở mỗi địa phương có điều kiện khác nhau.
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
17
Khóa luận tốt nghiệp
Để đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của thư viện quận trên địa bàn
thủ đô Hà Nội, trong số 9 thư viện quận, đề tài chọn ra 5 thư viện: thư viện quận
Ba Đình, Cầu Giấy, Đống Đa, Hoàn Kiếm, Long Biên. Đây là những thư viện điển
hình cho sự phát triển mạnh và yếu của thư viện quận để so sánh chỉ ra những ưu
và nhược điểm dẫn đến hoạt động của thư viện có phát triển không và có thu hút
được bạn đọc đến với thư viện hay không.
2.1.1. Cơ sở vật chất, trang thiết bị
* Trụ sở
Trong pháp lệnh thư viện do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành năm
2000 và có hiệu lực từ ngày 1/4/2001, tại điều 9 quy định:
Thư viện được thành lập khi có những điều kiện sau:
1. Vốn tài liệu thư viện
2. Trụ sở, trang thiết bị chuyên dùng
3. Người có chuyên môn, nghiệp vụ thư viện
4. Kinh phí đảm bảo cho thư viện hoạt động ổn định và phát triển
Như vậy, trụ sở, trang thiết bị là một trong 4 yếu tố để thư viện có thể hoạt
động. Trụ sở càng khang trang rộng rãi, thiết bị hiện đại đầy đủ sẽ làm tăng thêm
sức hấp dẫn thu hút bạn đọc đến sử dụng thư viện. Ngược lại, nếu trụ sở, nghèo
nàn, lạc hậu, trang thiết bị không đầy đủ thì việc thu hút bạn đọc đến với thư viện
là một điều hết sức khó khăn. Đặt trong bối cảnh bùng nổ của thông tin và các
phương tiện truyền thông hiện đại, các thư viện phải đối mặt với sự cạnh tranh hết
sức to lớn để giành lại ưu thế, chiếm lĩnh được thị trường thông tin, đòi hỏi các thư
viện phải đầu tư rất lớn, trước hết là về trụ sở và trang thiết bị.
Theo số liệu thống kê mới nhất tại thư viện Hà Nội năm 2011, trụ sở cũng
như trang thiết bị của thư viện quận trên địa bàn Hà Nội cho thấy sự phát triển
chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội và xu thế hội nhập.
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
18
Khóa luận tốt nghiệp
9/10 thư viện có trụ sở dành cho thư viện bao gồm trụ sở riêng và trụ sở
chung trong các trung tâm văn hóa hay nhà văn hóa. Diện tích sử dụng, trên 100m2
có 5 thư viện, rộng nhất là thư viện Quận Hoàn Kiếm 800m2, tiếp đến là thư viện
Quận Cầu Giấy 300m2…. Còn có 4 thư viện dưới 100m2, riêng Quận Hoàng Mai
không có diện tích dành cho thư viện.
Có 4 thư viện có diện tích sử dụng riêng (chiếm 44.5%), trong đó nổi bật
nhất là thư viện Quận Hoàn Kiếm. Có 4/9 thư viện sử dụng diện tích chung, chiếm
44.5%. Thường là thuộc trong trung tâm văn hóa hay nhà văn hóa, hoặc nằm ở một
tầng nào đó của tòa nhà nhiều tầng, cùng với nhiều cơ quan khác. Thư viện quận
Ba Đình nằm ở tầng của trung tâm văn hóa, thư viện quận Thanh Xuân nằm ở tầng
2 của nhà văn hóa quận; Thư viện quận Long Biên phải mượn trụ sở thư viện vì
thư viện mới được thành lập năm 2009, chiếm 11%; không có thư viện nào phải đi
thuê trụ sở. (xem biểu đồ 1)
Nội dung
Hình thức
Số thư viện
Tỷ lệ (%)
Diện tích sử dụng
Chung với nhà văn hoá
Riêng biệt
4
4
44.5%
44.5%
Mượn
1
11%
Biểu đồ 1: Trụ sở thư viện
Trong thời gian qua, các cấp chính quyền địa phương của hệ thống thư viện
quận trên địa bàn Thủ đô Hà Nội đã có sự quan tâm đầu tư hơn nữa đến các hoạt
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
19
Khóa luận tốt nghiệp
động bằng các hoạt động cụ thể như tăng cường đầu tư kinh phí, xậy dựng trụ sở
cho thư viện hoạt động, nhưng sự quan tâm đầu tư của chính quyền mỗi quận lại có
sự khác nhau và không đồng đều thể hiện ở chỗ: một phần các thư viện quận đã có
trụ sở riêng nhưng phần lớn các thư viện đều chưa có trụ sở riêng cho các hoạt
động của thư viện, thậm chí có thư viện vẫn phải đi mượn địa điểm để cho thư viện
hoạt động.
Như vậy, có thể thấy trụ sở các thư viện quận chưa thực sự ổn định, đặc biệt
là thư viện nằm trong trung tâm văn hóa hay nhà văn hóa. Bởi lẽ, đặc thù của thư
viện cần có một môi trường đặc biệt yên tĩnh để tạo không gian thoải mái cho bạn
đọc có thể tiếp thu được thông tin một cách hiệu quả nhất. Do vậy thư viện quận
nằm trong nhà văn hóa hay trung tâm văn hóa sẽ khó hoạt động, bởi nơi đây
thường xuyên diễn ra các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao sôi động…
Mặt khác, một thư viện muốn hoạt động ổn định lâu dài trước hết phải có trụ sở ổn
định để làm việc lâu dài, bố trí kho sách, chỗ ngồi cho bạn đọc… Một vài thư viện
cứ hoạt động khoảng 3 đến 5 năm, do nhiều nguyên nhân khách quan hoặc chủ
quan phải di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác, hoặc từ địa điểm này sang địa
điểm khác, làm gián đoạn hoạt động của thư viện trong một khoảng thời gian nhất
định. Cùng với đó, vốn tài liệu của thư viện cũng bị thất thoát, mất đi những nguồn
tài liệu quý hiếm. Đặc biệt là làm thay đổi thói quen của bạn đọc vì vậy sẽ làm
giảm lượng bạn đọc đến với thư viện.
* Trang thiết bị
Trang thiết bị của các thư viện quận trên địa bàn Thủ đô Hà Nội trong những
năm qua đã từng bước được đầu tư và hiện đại hơn, tạo ra sự thay đổi đáng kể, làm
tăng thêm năng lực hoạt động của thư viện, với mục đích tạo điều kiện thuận lợi và
thu hút bạn đọc đến với thư viện. Song sự phát triển còn khá chậm, còn thiếu và
yếu, nhiều nơi chưa thực sự được lãnh đạo quản lý quan tâm đầu tư. Các trang thiết
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
20
Khóa luận tốt nghiệp
bị như giá để sách, tủ mục lục, máy tính, bàn ghế cho cán bộ thư viện và độc giả…
được đầu tư ở mỗi địa phương là khác nhau.
Theo số liệu điều tra tại các thư viện, được hỏi ý kiến về số lượng giá sách
và tủ mục lục tại các thư viện quận trên địa bàn thủ đô Hà Nội với các câu trả lời.
- Tỷ lệ thư viện đáp ứng về kệ, giá sách theo đánh giá của cán bộ thư viện như sau:
Nội dung
Đánh giá
Số phiếu
Tỷ lệ (%)
Đủ
1
11%
Số phiếu đánh giá
Tạm đủ
7
78%
Không đủ
1
11%
Biểu đồ 2: Tỷ lệ đánh giá số lượng giá sách
- Tỷ lệ thư viện đáp ứng về tủ mục lục được cán bộ đánh giá như sau:
Nội dung
Đánh giá
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Đủ
1
11%
22%
Số phiếu đánh giá
Tạm đủ
6
67%
Không đủ
2
22%
11%
Đ?
67%
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
T?m đ?
Không đ?
21
Khóa luận tốt nghiệp
Biểu đồ 3: Tỷ lệ đánh giá số lượng tủ mục lục (xem lại font chữ ở biểu đồ)
Như vậy, Số lượng giá sách và tủ mục lục tại hầu hết các thư viện quận là
chưa đáp ứng được nhu cầu hoạt động của thư viện. Số lượng đó chỉ ở trong tình
trạng tạm đủ. Chỉ có rất ít thư viện số lượng giá sách và tủ mục lục là đủ. Cùng với
sự phát triển không ngừng của vốn tài liệu, các thư viện cần đầu tư kinh phí nhiều
hơn cho việc bổ sung giá sách và tủ mục lục. Nhiều thư viện có kinh phí bổ sung
giá sách và tủ mục lục nhưng lại không có diện tích để do diện tích quá trật hẹp.
Đó là các trang thiết bị hết sức cần thiết và là một yếu tố để một thư viện
hoạt động, có những thư viện quận trang thiết bị rất đồng bộ nhưng có những thư
viện thì vẫn còn thiếu thốn do nhiều điều kiện khác nhau. Có nhiều thư viện thì quá
trật hẹp nên không thể để được nhiều giá sách cũng như không kê được nhiều bàn
ghế để phục vụ độc giả.
Tủ mục lục dùng cho việc sắp xếp phích và tra cứu của bạn đọc có vai trò rất
quan trọng, nhất là đối với các thư viện quận chưa có hệ thống tra cứu hiện đại
bằng máy tính. Tuy nhiên, nó lại chưa được quan tâm đúng mức. Các tờ phích
không được thường xuyên sửa chữa hoặc thay thế mới khi bị rách nát hoặc bị mất.
Nhiều thư viện do tổ chức kho ở dạng kho mở nên phích phiếu làm ra nhưng cũng
không có tác dụng vai trò trong việc tra cứu. Như vậy, tủ mục lục sẽ làm mất dần
đi vai trò là một phương tiện tra cứu hữu ích cho bạn đọc. Thư viện quận Hoàn
Kiếm chỉ có một tủ mục lục với số lượng tài liệu gần 3 vạn bản sách. Thực tế cho
thấy số lượng phích phiếu thì quá lớn do vậy với một tủ mục lục thì không đủ chứa
cho những phích phiếu của tài liệu mới bổ sung vào thư viện. Phích phiếu của tài
liệu mới bổ sung về thư viện được cán bộ thư viện mô tả cẩn thận nhưng cuối cùng
lại phải xếp vào một chỗ mà không được đưa vào sử dụng bởi không còn tủ mục
lục để cho phích mới vào. Đó là một bất cập rất lớn đối với các thư viện thiếu tủ
mục lục như thư viện quận Hoàn Kiếm. Còn đối với những thư viện có vốn tài liệu
nhỏ thì một tủ mục lục có thể tạm coi là đủ nhưng mỗi năm vốn tài liệu bổ sung về
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
22
Khóa luận tốt nghiệp
thư viện càng lớn vì vậy trong tương lai mỗi thư viện đều cần đầu tư thêm tủ mục
lục để đáp ứng yêu cầu nguồn tài liệu ngày càng phát triển.
Đặc biệt, với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin hiện nay
nhưng hầu hết các thư viện quận chưa đầu tư về trang thiết bị điện tử như máy tính.
Một thư viện có vốn tài liệu lớn như quận Ba Đình cũng chưa sử dụng máy tính
vào hoạt động thư viện.
Nhìn chung, trang thiết bị dành cho hoạt động của hệ thống thư viện quận
còn rất hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu của người dùng tin. Nếu một thư viện
có vốn tài liệu lớn, phong phú, cán bộ thư viện nhiệt tình nhưng trang thiết bị thiếu,
không đủ để phục vụ thì cũng sẽ làm giảm đi chất lượng hoạt động của thư viện. Vì
vậy, để thu hút bạn đọc đến với thư viện quận, trong thời gian tới cùng với việc
phát triển các yếu tố khác, các thư viện quận cần được quan tâm đầu tư hơn nữa
trang thiết bị phục vụ cho thư viện.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ
2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức.
Theo pháp lệnh thư viện quy định, thư viện cấp quận, huyện gồm có giám
đốc thư viện và các phòng ban: phòng nghiệp vụ và phòng phục vụ nhưng trên
thực tế các thư viện chỉ có chung một phòng và cán bộ thư viện phải làm tất cả các
công việc trong thư viện: quản lý cả mặt chuyên môn nghiệp vụ và phục vụ bạn
đọc, hoạt động phong trào cơ sở và ngoài ra cán bộ thư viện còn kiêm nhiệm các
công việc khác của cơ quan chủ quản.
Theo số liệu điều tra thì 100% thư viện đều thuộc trung tâm văn hóa hay nhà
văn hóa không có thư viện quận nào thuộc Ủy ban nhân dân hay phòng văn hóa.
Có 6/9 thư viện chỉ có 1 bộ phận, chiếm 67%; 2/9 thư viện có 2 bộ phận, chiếm
22%; 1/9 thư viện các phòng ban tổ chức không rõ ràng nhưng thực chất là 1 bộ
phận. (xem biểu đồ 5)
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
23
Khóa luận tốt nghiệp
Nội dung
Hình thức
Số lượng thư viện
Tỷ lệ (%)
1 bộ phận
6
67%
Tổ chức
2 bộ phận
2
22%
Không rõ ràng
1
11%
Biểu đồ 5: Hình thức tổ chức thư viện
Có 9 thư viện quận thì có đến 6 thư viện chỉ có một bộ phận, có nghĩa bộ
phận nghiệp vụ và bộ phận phục vụ đều chung một phòng. Như vậy đã hợp lý và
đủ điều kiện để một thư viện quận phát triển hay chưa? Như vậy cùng một lúc, cán
bộ thư viện phải làm quá nhiều việc trong cùng một lúc: xử lý nghiệp vụ, phục vụ
bạn đọc… Do đó, nó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của thư viện. Cán bộ
thư viện không thể chuyên tâm làm một việc, làm việc này thì sẽ nghỉ việc kia, bạn
đọc cũng sẽ bi ảnh hưởng theo.
Như vậy, tất cả các thư viện quận trên địa bàn thành phố đều có hình thức tổ
chức chưa hợp lý do rất nhiều nguyên nhân cần có sự quan tâm đầu tư hơn nữa của
cơ quan chủ quản để thư viện ngày càng phát triển và giữ đúng vai trò của mình.
2.1.2.2. Đội ngũ cán bộ
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
24
Khóa luận tốt nghiệp
Cán bộ thư viện là linh hồn của thư viện là một trong 4 yếu tố cấu thành thư
viện. Cán bộ thư viện là người lựa chọn, xử lý, sắp xếp, bảo quản tài liệu theo một
trật tự nhất định và giới thiệu chúng đến với người dùng tin để phát triển được hoạt
động của thư viện.
Hiện nay số lượng cán bộ thư viện quận trên địa bàn Hà Nội, bình quân là 1,7
cán bộ/ 1 thư viện. Số lượng thư viện có 1 cán bộ là 5/9 (chiếm 55,5%); số lượng
thư viện có 2 cán bộ là 3/9 (chiếm 33,5%); Số lượng thư viện có 3 cán bộ là 1/9
(chiếm 11%). (xem biểu đồ 6).
Với bình quân 1,7 cán bộ thư viện sẽ rất khó khăn trong việc triển khai các
hoạt động thư viện. Do đó các cán bộ thư viện phải làm cả hoạt động nghiệp vụ và
phục vụ độc giả và điều đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng hạn
chế các hoạt động khác như hoạt động phong trào. Nếu có hoạt động phong trào
cũng chỉ diễn ra được vào các dịp hè với hoạt động tuyên truyền giới thiệu sách,
như vậy, ở một trừng mực nào đó, hoạt động của thư viện quận sẽ bị hạn chế nếu
không có sự tham gia tích cực của thư viện thành phố, thông qua công tác luân
chuyển sách, báo và kiểm tra đôn đốc hoạt động thư viện cơ sở.
Nội dung
Số lượng
Số lượng thư viện
Tỷ lệ (%)
Nguyễn Thị Tâm K53 TT-TV
1
5
55,5%
Cán bộ thư viện
2
3
33,5%
3
1
11%
25