Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Điêu khắc tượng tròn chùa việt (thế kỷ XI XVII) vùng kinh bắc từ góc nhìn tiếp biến văn hóa tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.11 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO MẠNH ĐẠT

ĐIÊU KHẮC TƯỢNG TRÕN CHÙA VIỆT
(THẾ KỶ XI-XVII) VÙNG KINH BẮC TỪ GÓC
NHÌN TIẾP BIẾN VĂN HÓA
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62310640

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI
1 - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Hữu Tuyền

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Xuân Nghị
Phản biện 2: PGS.TS. Trương Quốc Bình
Phản biện 2: PGS.TS. Trần Đức Ngôn

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại: Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam


vào hồi………..….giờ…………phút,
ngày………tháng……….năm………………..

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7. Cơ cấu của luận án
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Nghiên cứu về tiếp biến văn hóa
- Nghiên cứu của các học giả nước ngoài
Tiêu biểu với các giả tác phẩm sau: Roy C Craven tác giả cuốn
Mỹ thuật Ấn Độ. Jacques Gernet với cuốn sách Thế giới Trung
Quốc. George Cœdès với cuốn sách Cổ sử các quốc gia Ấn Độ
hóa tại Viễn Đông. Georges Condominas với hai tác phẩm Không
gian xã hội vùng Đông Nam Á, Đạo Phật ở làng. Pierre Huarde và
Maurice Durand có cuốn Kiến thức về Việt Nam. L. Bezacier với

các tác phẩm: Các phù điêu của đền chùa Ninh Phúc; Bút Tháp,
Bắc Việt Nam; Các kiến trúc tôn giáo ở Bắc Kỳ; Đình chùa miền
Bắc. Meher Mc Arthur: Tìm hiểu Mỹ thuật Phật giáo...
- Nghiên cứu của các học giả Việt Nam
Với nhiều tác giả tác phẩm tiêu biểu sau: Ngô Đức Thịnh: Văn
hóa vùng & phân vùng văn hóa ở Việt Nam. Thái Bá Vân với tác
phẩm Tiếp xúc với nghệ thuật. Chu Quang Trứ: Văn hóa Việt Nam
- nhìn từ Mỹ thuật. Tống Trung Tín: Nghệ thuật điêu khắc thời Lý

1


và thời Trần, Ngô Văn Doanh với một loạt tác phẩm về Chăm Pa:
Tháp cổ Chăm Pa, huyền thoại và sự thật; Phật viện Đồng Dương
một phong cách của nghệ thuật Chămpa…
1.1.2. Nghiên cứu về Phật giáo
Hà Văn Tấn: Chùa Việt Nam; Phan Cẩm Thượng: Điêu khắc
cổ Việt Nam; Nghệ thuật Phật giáo Bút Tháp; Chùa Dâu và nghệ
thuật Tứ Pháp. Bùi Văn Tiến Chùa Bút Tháp; Trần Lâm Biền Một
con đường tiếp cận lịch sử; Chùa Việt; Chu Quang Trứ: Tượng cổ
Việt Nam với truyền thống điêu khắc dân tộc; Mỹ thuật Lý - Trần,
mỹ thuật Phật giáo; Sáng giá chùa xưa - Mỹ thuật Phật giáo...
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Các lý thuyết nghiên cứu
- Lý thuyết Biến đổi văn hóa
- Lý thuyết Vùng văn hóa
- Lý thuyết Nhân học biểu tượng
1.2.2. Các Khái niệm công cụ
- Khái niệm Văn hóa
- Khái niệm Tiếp biến văn hóa

- Khái niệm: Tượng tròn
Tiểu kết chương 1
Giao lưu và tiếp biến văn hóa là hiện tượng xảy ra khi một
hoặc nhiều nhóm người (cộng đồng, dân tộc) có văn hóa khác
nhau giao lưu tiếp xúc với nhau tạo nên sự biến đổi về văn hóa
của một hoặc cả hai nhóm. Ở đó có sự kết hợp giữa các yếu tố
“nội sinh” với yếu tố “ngoại sinh” tạo nên sự phát triển văn hóa
phong phú, đa dạng và tiến bộ hơn. Nhưng giao lưu, tiếp biến như
thế nào, để vừa giữ gìn, bảo tồn, vừa phát triển văn hóa dân tộc?.

2


Luận án Điêu khắc tượng tròn chùa Việt (thế kỷ XI – XVII) vùng
Kinh Bắc từ góc nhìn tiếp biến văn hóa, sẽ góp phần giải quyết
vấn đề nêu trên.
Chương 2
ĐỊA CHÍNH TRỊ, LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA
VÙNG KINH BẮC

2.1. Các nhân tố tác động đến tiếp biến văn hóa, Phật giáo vùng
Kinh Bắc
2.1.1. Địa lý hành chính vùng Kinh Bắc
Theo sách Đại Nam nhất thống chí chép: thời Hùng Vương
Kinh Bắc có tên là bộ Vũ Ninh; thời Tiền Lê là Bắc Giang; thời Lý:
quận Gia Lâm; thời Trần: lộ Bắc Giang sau là lộ Kinh Bắc, thời
thuộc Minh: phủ Bắc Giang và Lạng Giang. Thời Nguyễn vẫn được
gọi là xứ (xứ Kinh Bắc) thuộc Bắc thành tổng trấn.
2.1.2. Kinh Bắc, vùng chuyển tiếp và vùng mở
Kinh Bắc là một trong “Thăng Long tứ trấn”, tiếp giáp với 3 trong

7 ngoại trấn (miền núi) vùng Đông Bắc - một vùng văn hóa mở, hành
lang giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc, nơi chuyển tiếp giữa
miền núi và đồng bằng; cùng các trấn Hải Dương (Xứ Đông), Sơn
Tây (Xứ Đoài) và Thăng Long được liên kết bởi một hệ thống giao
thông đường bộ và đường thủy đậm đặc. Vị thế này sớm tạo ra cho
Kinh Bắc điều kiện để giao lưu kinh tế, văn hóa, tôn giáo.
2.1.3. Kinh Bắc từ góc nhìn địa chính trị và địa kinh tế
Từ rất sớm Kinh Bắc đã chứng tỏ được vai trò quan trọng bậc nhất
trong địa - chính trị, địa - kinh tế và quân sự, là trung tâm chính trị,
kinh tế, của cả vùng, cả nước, các hoạt động giao thương đã vượt qua

3


lãnh thổ biên giới thu hút cả các quốc gia lân bang. Đây là “nền” cho
sự phát triển của Kinh Bắc trong các thời kỳ tiếp theo.
2.1.4. Kinh Bắc nhìn từ góc độ địa lịch sử và địa văn hóa
Luy Lâu là không gian điển hình đan xen, hỗn dung, biến đổi, hội tụ
văn hoá Việt Nam cổ với văn hoá Phật - Ấn, Nam Á và Trung Á, văn
hoá Nho Lão (Trung Hoa - Đông Á), để rồi bổ xung những nét mới cho
văn hoá Kinh - Việt, tạo đà cho sự phát triển văn hóa Đại Việt sau này.
2.2. Văn hóa vật chất Phật giáo vùng Kinh Bắc
2.2.1. Chùa Dâu
Từ thế kỉ VI đến IX, Dâu là trung tâm của thiền phái thứ nhất
của Việt Nam: Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi, đây cũng là tên của vị
Tổ sáng lập thiền phái.
- Kiến trúc chùa Dâu: thời Trần Chùa Dâu được xây dựng với
quy mô to lớn, gồm hàng trăm gian với nhiều công trình: Chùa, tháp,
cầu qua sông Dâu, do Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đứng ra hưng
công. Thời Lê - Nguyễn chùa Dâu được tu sửa nhiều lần và kiến trúc

còn lại ngày nay cơ bản là thuộc về thời Lê - Nguyễn. Chùa Dâu có
hệ thống tượng thờ đa dạng phong phú và tiêu biểu như:
Tượng tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.
Tượng Kim đồng, Ngọc nữ, Quan âm Chuẩn đề, Tứ Bồ tát, tượng
Kim Cương, tượng A-di-đà, thái tử Kỳ đà, Mạc Đĩnh Chi...
2.2.2. Chùa Phật Tích
Chùa Phật Tích (Phật Tích tự) còn gọi là chùa Vạn Phúc (Vạn
Phúc tự), nằm ở sườn phía Nam núi Phật Tích, xã Phật Tích,
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Chùa khởi dựng vào năm 1057.
- Kiến trúc chùa Phật Tích: theo các phát hiện khảo cổ học mới
nhất trên nền cũ thì Chùa Phật Tích được kiến trúc theo kiểu chữ

4


công (I), có một tháp chính lớn đã bị phá hủy. Chùa có kiến trúc thời
Lý, thể hiện qua ba bậc nền bạt vào sườn núi, các cấp nền chùa có
cấu trúc hình chữ nhật dài khoảng 60m, rộng khoảng 33m.
- Hệ thống tượng tròn chùa Phật Tích: có 10 tượng thú bằng đá,
gồm sư tử, voi, tê giác, trâu, ngựa, mỗi loại hai con, nhưng quan trọng
nhất là pho tượng Phật A-di-đà bằng đá xanh ngồi thiền định trên
tòa sen, đặc trưng của mỹ thuật thời Lý…
2.2.3. Chùa Dạm
Chùa Dạm tên chữ là Đại Lãm Thần Quang tự, hay còn gọi
là chùa Bà Tấm, chùa Trăm Gian... Chùa Dạm thuộc xã xã Nam Sơn,
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
- Kiến trúc chùa Dạm: Chùa Dạm có diện tích khoảng 7.200m2,
với bốn cấp nền cao dần kéo một trục dài 120m, chiều rộng mặt nền
70m, có bốn cấp nền, và 100 bậc thang. Thời chống Pháp, chùa bị
tiêu thổ kháng chiến, ngày nay quy mô chùa Dạm nhỏ khá nhỏ bé.

- Điêu khắc và tượng tròn chùa Dạm: Tiêu biểu hơn cả đó là cột
đá chùa Dạm cao gần 5m, chạm nổi đôi rồng phong cách thời Lý.
2.2.4. Chùa Vĩnh Nghiêm
Chùa Vĩnh Nghiêm ở thôn Quốc Khánh, xã Trí Yên, huyện Yên
Dũng, tỉnh Bắc Giang, nơi phát tích phái thiền Trúc Lâm của Phật
giáo Việt Nam.
- Kiến trúc chùa Vĩnh Nghiêm: chùa Vĩnh Nghiêm có quy mô to
lớn khoảng 10.000m2. Tổng thể kiến trúc chùa được thiết kế trên
một trục dọc, Tây Bắc Đông Nam. Mở đầu là cổng tam quan, đi
hơn 100m vào Bái đường, tiếp đến tòa Thiêu hương, thượng điện,
rồi đến là nhà Tổ đệ nhất thờ Tổ Hương Vân-Trần Nhân Tông, Tổ
đệ nhị Pháp Loa, Tổ đệ tam Huyền Quang.

5


- Hệ thống tượng tròn chùa Vĩnh Nghiêm: bao gồm tượng Phật,
tượng La Hán, tượng Hộ Pháp… nhưng đặc biệt hơn cả là có bộ
tượng tam Tổ trúc Lâm: Hương Vân, Pháp Loa, Huyền Quang…
2.2.5. Chùa Ngọc Khám
Chùa Ngọc Khám hay còn gọi là Linh Ứng tự, nằm trên địa phận
thôn Ngọc Khám, xã Gia Đông, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
- Kiến trúc chùa Ngọc Khám: Chùa Ngọc Khám ngày nay được
xây dựng mới hoàn toàn. Toàn bộ phần kiến trúc cổ không còn tồn
tại, nền chùa cổ vẫn chưa được các nhà khoa học nghiên cứu.
- Hệ thống tượng tròn chùa Ngọc Khám: Tiêu biểu nhất là bộ
Tam Thế Phật thời Lê Trung Hưng được xếp hạng bảo vật quốc gia.
2.2.6. Chùa Bút Tháp
Chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự) nằm ở bên đê hữu ngạn sông Đuống,
thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

- Kiến trúc chùa Bút Tháp: kiến trúc chính của chùa quay theo
hướng Nam. Cụm kiến trúc trung tâm ở chùa Bút Tháp bao gồm 8 đơn
nguyên chạy song hành được bố trí đăng đối trên một đường “thần
đạo” được bao bọc bởi hai dãy hành lang chạy dọc chùa. Nổi bật nhất
là tháp Báo Nghiêm, nơi thờ hoà thượng Chuyết Chuyết.
- Hệ thống tượng tròn chùa Bút Tháp: Chùa Bút Tháp sở hữu một
bảo tàng điêu khắc cổ quý giá, tiêu biểu nhất đó là pho tượng phật bà
Quan Âm nghìn tay nghìn mắt được công nhận là bảo vật quốc gia.
2.2.7. Một số ngôi chùa và tượng tiêu biểu khác
2.2.7.1. Chùa Tiêu Sơn
2.2.7.2. Chùa Bổ Đà
2.2.7.3. Chùa Kiến Sơ
2.2.7.4. Chùa Nành

6


2.2.7.5. Chùa Đào Xuyên
2.2.7.6. Chùa Xuân Ổ
Tiểu kết chương 2
1. Kinh Bắc là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị, quân sự, tôn
giáo phát triển sớm vào bậc nhất của nước ta.
2. Kinh Bắc là quê hương của vị vua đánh dấu nền độc lập tự chủ
của nước nhà, có xuất thân mật thiết với Phật giáo, góp phần quan
trọng làm cho Phật giáo thời Lý đạt được những thành tựu to lớn
trong nhiều lĩnh vực.
3. Sự khởi nguyên của đạo Phật trên vùng đất Kinh Bắc đánh dấu
một thời kỳ lịch sử phát triển rực rỡ trên vùng đất mới có ảnh hưởng
sâu sắc đến đời sống sinh hoạt của cư dân nơi đây.
4. Kinh Bắc có nhiều ngôi chùa có kiến trúc tiêu biểu và cổ nhất

Việt Nam, nơi sản sinh ra dòng thiền Trúc Lâm tam Tổ.
5. Kinh Bắc sở hữu nhiều tác phẩm nghệ thuật điêu khắc Phật
giáo đẹp và quý bậc nhất ở nước ta.
6. Kinh Bắc là nơi có nhiều lễ hội, nhiều môn nghệ thuật biểu diễn
dân gian, đặc sắc gắn liền với sự phát triển của Phật giáo.
Chương 3
NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRÕN PHẬT GIÁO
VÙNG KINH BẮC THẾ KỶ XI-XVII

3.1. Những pho tượng tròn Phật giáo tiêu biểu vùng Kinh Bắc
3.1.1. Tượng tròn thời Lý
3.1.1.1. Tượng người
Tượng Phật chùa Phật Tích thuộc xã Phật Tích, huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh (tượng A-di-đà).

7


3.1.1.2. Tượng nửa người nửa chim
Tiêu biểu nhất cho dòng tượng này là: tượng đầu người mình
chim vỗ trống bằng đá chùa Phật Tích.
3.1.1.3. Tượng thú
Trước tiên phải kể tới cặp Rồng trên cột đá chùa Dạm ở Bắc
Ninh. Đây là tác phẩm điêu khắc tượng linh thú hoàn hảo bậc nhất
trong số tượng linh thú từng được biết đến ở nước ta. Chùa Phật Tích
có 10 tượng thú bằng đá, gồm sư tử, voi, tê giác, trâu, ngựa, mỗi loại
hai con, nằm trên bệ hoa sen tạc liền bằng những khối đá lớn.
3.1.2. Tượng tròn thời Trần
3.1.2.1. Tượng người
Trong nhiều nghiên cứu về Mỹ thuật Việt Nam đã khẳng định

không còn pho tượng Phật thời Trần nào tồn tại như cuốn Mỹ thuật
của người Việt của Nguyễn Quân và Phan Cẩm Thượng hay cuốn Mỹ
thuật thời Trần của Nguyễn Đức Nùng, trong một số nghiên cứu của
các tác giả, không đề cập đến điêu khắc tượng Phật của Phật giáo
Thời Trần như cuốn Mỹ thuật Việt Nam của Nguyễn Phi Hoanh hay
Chùa Việt của Trần Lâm Biền…
3.1.2.2. Tượng nửa người nửa chim
Trong các nghiên cứu về Mỹ thuật thời Trần của nhiều tác giả:
Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ, Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng,
Nguyễn Đức Nùng, Tống Trung Tín, Vũ Ngọc Khánh,…không có
kiến giải gì về thể loại điêu khắc này ở Kinh Bắc thời Trần.
3.1.2.3. Tượng thú
Tượng thú thời Trần ở Kinh Bắc theo những tài liệu đã công bố
và những hiện vật còn lại tại các di tích văn hóa, tôn giáo của

8


vùng này cho thấy các điêu khắc thể loại này còn lại không nhiều,
chủng loại cũng rất hạn chế.
3.1.3. Tượng tròn thời Lê
3.1.3.1. Tượng người
Thời Lê - Mạc, và Lê Trung Hưng ở Kinh Bắc có nhiều pho
tượng tiêu biểu như: Chùa Dâu có nhóm tượng nữ thần tứ Pháp,
tượng Kim Cương, Hộ Pháp, tượng Mạc Đĩnh Chi...chùa Bút Tháp
có tượng Phật tam thế, nhóm tượng chân dung, tượng Phật bà Quan
âm nghìn mắt nghìn tay... chùa Xuân Ổ có nhóm tượng Ngọc Hoàng,
Thị giả, Nam Tào-Bắc Đẩu thời Mạc và Lê Trung Hưng, chùa Đào
Xuyên có tượng Quân Ấm chuẩn đề thời Mạc…
3.1.3.2. Tượng thú

Tại Kinh Bắc, ngoài đôi Rồng tháp Báo Nghiêm, phù điêu các con
thú trang trí kiến trúc chùa Bút Tháp thì không ghi nhận thêm những
pho tượng thú nổi bật nào khác trong không gian Phật giáo.
3.2. Nghệ thuật tạo hình tượng tròn Phật giáo vùng Kinh Bắc
3.2.1. Một số phương pháp tạo hình tượng tròn Phật giáo
Một số phép dựng hình tượng Phật căn bản:
Tổng chiều cao tượng Phật ngồi là: 64 ngón (kể cả búi tóc là 68
ngón). Tổng chiều cao tượng Phật đứng là: 116 ngón (kể cả búi tóc là 120
ngón). Đơn vị ngón là phân chia cơ thể ra làm 120 phần bằng nhau:
1/120 này được gọi là 1 ngón. Còn có những công thức truyền miệng
như sau: Toạ tứ lập thất: tức là một tượng Phật ngồi bằng 4 đầu,
tượng đứng bằng 7 đầu.
Dựa vào những quy chuẩn có sẵn, nghệ nhân tạc tượng có thể vận
dụng linh hoạt để đạt được hiệu quả nghệ thuật, triết lý nghề của họ
cũng rất giản dị: “Thuận mắt ta, ra mắt người”.

9


3.2.2. Tượng tròn Phật giáo chất liệu đá vùng Kinh Bắc
3.2.2.1. Nghệ thuật điêu khắc tượng tròn chất liệu đá thời Lý
Đại diện cho những tinh hoa điêu khắc thời Lý còn lại ở Kinh Bắc
và Việt Nam ngày nay đó là pho tượng Phật chùa Phật Tích, tượng
cao 1,86m; tính cả bệ là 2,69m. Cột đá chùa Dạm là một điển hình
về điêu khắc linh thú bằng đá với cặp rồng được liệt vào hàng quốc
bảo. Năm cặp thú chùa Phật Tích, tượng Hộ Pháp, tượng tượng nửa
người nửa chim… đều là những kiệt tác điêu khắc đá tiêu biểu
Điêu khắc thời Lý thể hiện một phong cách rất riêng, đó là sự kết
tinh của những yếu tố tinh hoa được chắt lọc từ điêu khắc Chăm và
điêu khắc Phật giáo Ấn Độ, được dung hòa với chất Việt đã làm nên

một tổng thể hoàn chỉnh, một xu hướng nghệ thuật xuyên suốt: tinh
sảo, to lớn, đặc sắc, tính hình tượng và thẩm mỹ cao, triết lý sâu sắc.
3.2.2.2. Nghệ thuật điêu khắc tượng tròn chất liệu đá thời Trần
Thật tiếc , vùng Kinh Bắc ngày nay không lưu giữ được tác phẩm
tượng Phật chất liệu đá nào thuộc thời Trần. Dựa vào các tượng Phật
bệ chạm hoa sen hình hộp ở chùa Thầy, chùa Bối Khê, chùa Dương
Liễu, tượng thú ở lăng mộ các vua Trần, lăng Trần Thủ Độ cho thấy:
điêu khắc đá thời Trần có sự biến đổi mạnh mẽ trong phong cách nghệ
thuật thiên về mảng khối khỏe mạnh, có sự tìm tòi trong cấu trúc của
hình và không gian đặt tác phẩm. Đặc trưng lớn, chủ đạo trong tạo
hình là tính hài hoà, mạnh mẽ, chú ý nhiều đến tính khái quát, tính
biến động của cấu trúc tổng thể hơn là mô tả chi tiết.
3.2.2.3. Nghệ thuật điêu khắc tượng tròn chất liệu đá thời Lê-Mạc
Thời kỳ này điêu khắc Phật giáo Việt Nam ảnh hưởng nhiều từ
phong cách điêu khắc Phật giáo Trung Quốc. Kinh Bắc hiện ghi nhận
ba pho tượng tam thế Phật chùa Ngọc Khám, năm pho tượng Đạo

10


giáo chùa Xuân Ổ, tượng thú có đôi Rồng đá ở tháp Báo Nghiêm
chùa Bút Tháp. Điêu khắc đá thời kỳ này tuy không tinh xảo như
thời Lý nhưng lại nổi trội về tính dân gian và vẫn kế thừa được tính
chất mạnh mẽ khái quát của điêu khắc đá thời Trần, đồng thời ghi
nhận sự đa dạng trong tượng thờ của của Đạo giáo.
3.2.3. Tượng tròn Phật giáo chất liệu gỗ vùng Kinh Bắc
3.2.3.1. Quy trình chế tác cơ bản của một tác phẩm tượng tròn
Phật giáo chất liệu gỗ
Gồm các công đoạn sau:
Đầu tiên là khâu chọn và sử lý gỗ. Khâu thứ hai tạo tượng: đục

phá, đục kỹ, tỉa nét, đánh bóng. Khâu thứ ba là sơn tượng: sơn gắn,
sơn bó, sơn thếp.
Khi pho tượng đã được tạo tác xong, trước khi rước lên thờ phụng
còn một số thao tác như “điểm nhãn”, “yểm tâm” - “hô thần nhập
tượng”... Đây là những công đoạn chính có tính phổ biến chung trong
các kỹ thuật tạo tác tượng gỗ của các làng nghề.
3.2.3.2. Điêu khắc tượng tròn Phật giáo chất liệu gỗ thời Lê
Điêu khắc tượng tròn Phật giáo thời Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng
đa dạng về thể loại, nhiều về số lượng, nhiều tác phẩm là đỉnh cao
của nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam. Tượng Quan Âm thiên thủ
thiên nhãn chùa Bút Tháp, chùa Đào Xuyên, tượng Tứ pháp chùa
Dâu, tượng nhóm tượng chân dung chùa Bút Tháp… là những minh
chứng cụ thể ssống động nhất cho nhận định trên.
Nghệ thuật điêu khắc gỗ thời Lê - Mạc ở Kinh Bắc thể hiện một
sức sống mới, nguồn mỹ cảm mới, trong đó yếu tố dân gian và bản
sắc Việt được thể hiện đậm nét, và thỏa sức bay bổng.

11


Điêu khắc tượng tròn Phật giáo chất liệu gỗ vùng Kinh Bắc vừa
mang nét riêng, lại vừa có nét chung so với điêu khắc tượng gỗ đồng
bằng Bắc bộ. Nét chung là vẫn giữ niêm luật cơ bản của nghệ thuật
Phật giáo, đặc biệt là sự bổ xung từ Phật giáo Trung Quốc, nét riêng
là đã được làm giàu thêm các tri thức dân gian đặc thù của vùng đất
Kinh Bắc mà không đâu có được.
3.2.4. Điêu khắc tượng tròn chất liệu đất sét đắp vùng Kinh Bắc
Nghệ thuật điêu khắc tượng đất đã đóng góp vào nền mỹ
thuật cổ nước nhà những tác phẩm điêu khắc có chất lượng, to lớn và
bề thế bậc nhất trong không gian nội thất chùa cổ thế kỷ XVII-XIX

(đặc biệt là các pho tượng Hộ pháp). Tượng đất sét đắp góp phần tạo
lên tính đa dạng trong nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam, cũng là
những đại diện tiêu biểu cho dòng tượng thờ chất liệu đất sét đắp của
Bắc bộ, phản ánh sự tinh tế, sáng tạo của các nghệ nhân các làng
nghề Việt. Chất liệu đất trong tạo tác tượng thờ cũng minh chứng
tính đa dạng, linh hoạt gần gũi của văn hóa đất trong đời sống tâm
linh và vật chất của cư dân Việt.
3.2.5. Màu sắc trong điêu khắc tượng tròn Phật giáo vùng Kinh Bắc
Trong Kinh Phật nguyên thủy có đề cập đến bốn danh từ
“Pathavi, Apo, Vayo và Tejo”, được dịch là: đất, nước, gió, lửa, đây
là bốn yếu tố cấu tạo thành vũ trụ. Phật giáo đã khái quát ngắn gọn
bằng phạm trù “Tứ đại”. Đất là chất rắn, nước là chất lỏng, gió là
chất khí và lửa là hơi ấm. Vậy ứng phạm trù Tứ đại trong màu sắc
thì: màu vàng và màu đỏ, biểu thị cho lửa; Màu nâu, biểu thị cho đất;
Màu trắng biểu thị cho không khí (gió); Màu đen biểu thị cho nước.
Tất cả điều đó đã tạo nên ý nghĩa tâm linh rất đặc biệt, linh thiêng,
trang trọng, nhưng cũng hết sức giản dị của chốn tu thiền, đây cũng

12


là chức năng tâm linh của nghệ thuật sơn màu, trang trí trong điêu
khắc tượng tròn Phật giáo nói chung.
Tiểu kết Chương 3
Tượng tròn thời Lý vùng Kinh Bắc tiếp thu những tinh hoa nghệ
thuật Phật giáo từ các quốc gia lân bang Ấn Độ, Chămpa, Trung Quốc
kết hợp với những tinh hoa văn hóa của cư dân Đại Việt đã sáng tạo ra
một phong cách nghệ thuật mới độc đáo, đặc sắc là đỉnh cao của mỹ
thuật cổ Việt Nam.
Mỹ thuật thời Trần cơ bản vẫn tiếp thu những tinh hoa của mỹ

thuật thời Lý, nhưng được sáng tạo, biến đổi và bổ xung thêm nhiều
nét mới, góp phần tạo nên phong cách đặc trưng mỹ thuật thời Trần.
Điêu khắc thời Trần có sự khái quát cao, lối biểu hiện khỏe mạnh, cá
biệt có những tác phẩm điêu khắc thể hiện tính đột phá trong phương
pháp tạo hình, thể hiện tư duy thẩm mỹ mới, óc quan sát tinh tế, sự
nghiên cứu kỹ lưỡng về tác phẩm và không gian đặt tác phẩm.
Nghệ thuật điêu khắc tượng tròn Phật giáo thời Lê Sơ, thời Mạc,
và thời Lê Trung Hưng là chương mới trong lịch sử mỹ thuật nước
nhà. Một diện mạo thẩm mỹ mới được sáng tạo trên nền của thực
hành văn hóa dân gian, sự kế thừa những tinh hoa từ mỹ thuật Phật
giáo Lý - Trần, và những yếu tố mới từ Phật giáo Trung Quốc.
Điêu khắc tượng tròn Phật giáo chất liệu đá, gỗ thời Lê Sơ - Mạc
- Lê Trung Hưng vùng Kinh Bắc ghi nhận sự phát triển đa dạng về
thể loại và số lượng tượng trong không gian Phật điện. Đây cũng là
thời kỳ phát triển mạnh mẽ của điêu khắc tượng tròn Đạo giáo và
Nho giáo. Tính dân gian đậm đặc cũng là những dấu ấn khác biệt
của nghệ thuật điêu khắc thời Lê-Mạc so với nghệ thuật điêu khắc
Lý-Trần. Thời Lê là sự nhường ngôi của điêu khắc tượng thờ chất

13


liệu đá bằng chất liệu gỗ trong không gian nội thất Phật điện. Đồng
thời đánh dấu sự phát triển của nghệ thuật sơn màu (sơn ta) trong
trang trí và tạo tác tượng tròn Phật giáo.
Nghệ thuật điêu khắc tượng tròn Phật giáo vùng Kinh Bắc có
đóng góp quan trọng cho nền mỹ thuật Việt Nam nói chung và nghệ
thuật điêu khắc nói riêng, nhiều tác phẩm được công nhận là bảo vật
quốc gia, là biểu tượng, chuẩn mực của mỹ thuật cổ nước nhà.
Chương 4

TIẾP BIẾN VĂN HÓA THẾ KỶ XI-XVII
GÓC NHÌN TƯỢNG TRÕN PHẬT GIÁO VÙNG KINH BẮC

4.1. Văn hóa Việt - Ấn nhìn từ tượng tròn Phật giáo
Ấn Độ là quốc gia có lịch sử phát triển lâu đời, nơi khởi nguồn
của nền văn minh sông Ấn nổi tiếng, sản sinh ra văn hóa Vệ Đà và
nhiều tôn giáo lớn như Ấn Độ giáo, Phật giáo… Văn hóa và nghệ
thuật Ấn Độ đã vượt qua sự giới hạn của biên giới và lãnh thổ, để
vươn tới các quốc gia có vị trí địa lý xa hơn, trong đó có Việt Nam.
4.1.1. Văn hóa Việt - Ấn thời Lý
Tiếp biến văn hóa Việt Ấn được thể hiện nổi bật ở các điểm sau:
Nghệ thuật kiến trúc: thời Lý tiếp nhận và chọn lọc nhiều yếu tố kiến
trúc kiến trúc có nguồn gốc từ hai tôn giáo lớn của Ấn Độ là Ấn Độ
giáo và Phật giáo với trưng đặc trưng là kiến trúc tháp Phật có đồ
hình, mặt bằng xây dựng hình tròn, hình vuông vuông, được thấy
nhiều trong các công trình xây dựng chùa tháp thời Lý - Trần sau này
như: Hoàng thành thời Lý, tháp chùa Phật Tích; tháp Tường Long,
thành phố Hải Phòng, tháp Chương Sơn…
Nghệ thuật điêu khắc Phật giáo: thời Lý pho tượng A-di-đà chùa
Phật Tích, ảnh hưởng nhiều từ phong cách điêu khắc tượng Phật Ấn

14


Độ thế kỷ II-XI, đây là sự kết hợp của nghệ thuật Ấn Độ giáo với
phong cách tượng Phật Gandhra. Cột đá chùa Dạm, tượng nửa người
nửa chim, năm cặp cặp thú đá chùa Phật Tích, hình tượng hoa sen…
đều là những những hình tượng có trong nghệ thuật điêu khắc Ấn Độ
giáo và Phật giáo Ấn Độ được Việt hóa, bổ xung vào nền văn hóa
bản địa. Ngoài tôn giáo, kiến trúc, điêu khắc, văn minh cây cỏ từ Ấn

Độ cũng là những yếu tố góp phần xây dựng mối giao lưu văn hóa
Việt- Ấn thời Lý. Văn hóa Việt-Ấn thời Lý còn được bổ xung và củng
cố thêm qua mối quan hệ Việt-Chăm chủ yếu qua các cuộc chiến tranh
Việt – Chăm.
4.1.2. Văn hóa Việt - Ấn thời Trần
Thời Trần, văn hóa Việt - Ấn có sự giảm sút về cấp độ và chịu
nhiều tác động của sự thay đổi triều đại. Phật giáo dù vẫn là tôn giáo
lớn và có ảnh hưởng nhất trong đời sống xã hội, nhưng tính chất Phật
giáo Ấn Độ nguyên thủy đã giảm đi rõ rệt do sự ảnh hưởng từ Phật
giáo, Đạo giáo và Nho giáo Trung Quốc. Điều này có thể thấy rất rõ
nét qua những điêu khắc thời Trần còn lại như bức chạm khắc dàn
nhạc chùa Thái Lạc (Hưng Yên), các tháp Phật, tượng thú ở các Lăng
mộ thời Trần, đây là sự đan xen giữa văn hóa Ấn Độ và Trung Quốc
trên nền tảng văn hoá bản địa. Thiền phái Trúc Lâm do nhà sư Trần
Nhân Tông sáng lập cơ bản cũng dựa trên những yếu tố cơ bản trên.
4.1.3. Văn hóa Việt - Ấn thời Lê
Quan hệ văn hóa Việt - Ấn thời Lê đã không còn được khăng khít
như thời Lý - Trần do nhiều yếu tố cả chủ quan và khách quan mang
lại. Nhà Lê phải đối mặt với nhiều khó khăn sau chiến tranh vừa khôi
phục cơ sở hạ tầng, phục hồi sản xuất, vừa phải khôi phục lại nền
văn hóa dân tộc bị giặc Minh tàn phá nặng nề. Nhìn chung thời Lê là

15


sự kết thúc của giai đoạn giao lưu, phát triển thịnh vượng của văn
hóa Việt- Ấn thời kỳ Đại Việt.
4.2. Văn hóa Việt - Chăm nhìn từ tượng tròn Phật giáo
Chămpa là một quốc gia cổ tồn tại độc lập liên tục trong khoảng
thời gian từ năm 192 đến cuối thế kỷ XVII. Chămpa có nền văn hóa

phát triển rực rỡ, đặc biệt, kiến trúc và điêu khắc đã đạt đến đỉnh cao
của nghệ thuật tạo hình của châu lục và thế giới.
Ấn Độ giáo là tôn giáo chính và đầu tiên của người Chăm, Ấn Độ
giáo ở Chămpa chủ yếu là Shiva giáo, cùng với một số yếu tố tôn
giáo bản địa như thờ nữ thần Đất Yan Po Nagar. Chămpa chính thức
thay đổi tôn giáo từ Ấn Độ giáo sang Phật giáo từ cuối thế kỷ IX đến
đầu thế kỷ X, khi triều đại Indrapura đóng đô tại Đồng Dương (địa
phận tỉnh Quảng Nam ngày nay).
Văn hóa Chămpa đã có những đóng góp quan trọng với sự phát
triển của văn hóa Đại Việt, nhất là vào thời Lý. Điều đó thể hiện qua
chất lượng thẩm mỹ của các tác phẩm nghệ thuật có dấu ấn Chămpa
còn lại đến ngày nay.
4.2.1. Văn hóa Việt - Chăm thời Lý
Chămpa là quốc gia có ảnh hưởng sâu đậm bởi văn hóa Ấn Độ. Từ
góc nhìn lịch sử và văn hóa cho thấy, văn hóa Chăm Pa theo người
Chăm du nhập vào Đại Việt chủ yếu qua con đường bị cưỡng bức,
dưới hình thức là tù binh của các cuộc chiến. Thời Lý mỹ thuật Đại
Việt có nhiều ảnh hưởng từ văn hóa, tôn giáo Ấn Độ trong đó nghệ
thuật Chăm pa góp phần không nhỏ vào sự ảnh hưởng đó: tượng A-diđà, tượng Hộ pháp, tượng đầu người mình chim, tượng thú, phù điêu
vũ nữ chùa Phật Tích, cột đá chùa Dạm, vùng Kinh Bắc, kiến trúc, vật
liệu các ngôi tháp thời Đại Việt cũng mang trong nhiều đặc điểm của

16


kỹ, nghệ thuật Chăm. Bản chất văn hóa Chămpa tác động vào văn hóa
Đại Việt chỉ mang tính thứ cấp nhưng lại được được hợp thức hóa do
cư dân Chămpa dần trở thành một chính thể của cư dân Đại Việt.
4.2.2. Văn hóa Việt - Chăm thời Trần
Thời Trần việc giao lưu văn hóa, nghệ thuật với Chămpa chỉ đơn

thuần là duy trì và bổ sung thêm vào nền tảng văn hóa có sẵn do nhà
Lý để lại. Kinh Bắc nói riêng và Bắc Bộ nói chung, không phát hiện
còn tượng Phật thời Trần, nên rất khó nhận biết được sự giao lưu văn
hóa Việt-Chăm trong điêu khắc tượng tròn thời kỳ này. Nghiên cứu
tượng Rồng thành nhà Hồ, phù điêu Rồng trên cánh cửa gỗ chùa Phổ
Minh, tượng Hổ lăng Trần Thủ Độ...cho thấy, các đặc điểm văn hóa
Chăm trong điêu khắc thời Trần đã mờ nhạt đi rất nhiều, không còn
ấn tượng, sôi nổi như điêu khắc thời Lý.
Tuy nhiên vẫn có những hiện vật điêu khắc cho thấy giao lưu
nghệ thuật Việt- Chăm thời Trần như: bức chạm khắc chùa Thái Lạc,
thể hiện các tiên nữ dâng hoa được cách điệu hóa theo mô típ người chim Kinari, trang phục thường rất đơn giản đặc trưng Chămpa. Âm
nhạc, vũ đạo, kiến trúc thời Trần kế thừa truyền thống của triều Lý,
trên cơ sở tiếp thu nhạc vũ Trung Hoa và Chămpa.
Thời Trần, giao lưu văn hóa Việt-Chăm không còn “dày đặc” như
thời Lý một phần do sự xuất hiện của Thiền phái Trúc Lâm mà Trần
Nhân Tông là vị tổ đầu tiên. Một yếu tố khác cũng góp phần làm cho
yếu tố văn hóa Chăm phai nhạt, mất dần dấu ấn trong văn hóa Việt là
văn hóa Đại Việt thời Trần có nhiều sự lựa chọn và nhận sự tác động
từ văn hóa Trung Quốc.

17


Quan hệ Việt-Chăm thời Trần căn bản là sự đối đầu giữa hai quốc
gia với 21 lần xung đột quân sự lớn nhỏ. Giao lưu văn hóa nghệ thuật
chỉ là thứ yếu trong mối quan hệ Việt-Chăm thời Trần.
4.2.3. Văn hóa Việt - Chăm thời Lê
Thời lê vương quốc Chămpa từng bước bị Đại Việt thu hẹp dần
lãnh thổ, sức mạnh và tinh hoa văn hóa ngày một suy yếu. Đây là
một trong những nguyên nhân khiến nghệ thuật Chăm không còn sức

ảnh hưởng tới văn hóa Đại Việt, càng không đủ sức cạnh tranh với
văn hóa Trung Quốc, phần nào ăn sâu vào sinh hoạt thường nhật của
cư dân Việt. Mặt khác, triều đại nhà Lê có những chủ trương vô hình
trung làm cho nước Đại Việt đi theo con đường “Trung Hoa hóa”,
nhất là về phương diện văn hóa. Thực tiễn là người Việt tiếp nhận
văn hóa Trung Quốc và tư tưởng Khổng giáo, điều này có nhiều
điểm mâu thuẫn với giá trị tư tưởng Bà-la-môn của cư dân Chăm.
Khảo sát các công trình kiến trúc, nghệ thuật thời Lê còn lại đến
ngày nay cho thấy, các yếu tố văn hóa, nghệ thuật Chăm không còn
xuất hiện, thay vào đó là các yếu tố văn hóa, nghệ thuật Trung Quốc
chồng lấp lên các lớp văn hóa Lý-Trần. Phật điện thời Lê cũng xuất
hiện nhiều thể loại tượng Phật và tượng thờ khác, nhưng dấu ấn
Chămpa thì không còn xuất hiện trên các công trình kiến trúc, điêu
khắc thời kỳ này.
4.3. Văn hóa Việt - Trung nhìn từ tượng tròn Phật giáo
Trung Quốc là quốc gia láng giềng lớn của Việt Nam là nơi khai
sinh hai tôn giáo lớn là Đạo giáo và Nho giáo.
Đạo giáo căn bản là sự sùng bái thờ cúng tổ tiên, thiên nhiên của
người Trung Quốc. Nho giáo do Khổng Tử sáng lập, là một hệ
thống giá trị đạo đức, triết học, triết lý giáo dục, chính trị do Khổng

18


Tử đề xướng với mục đích xây dựng một xã hội thịnh trị. Phật giáo
truyền vào Trung Quốc khoảng thế kỷ I sau Công nguyên, nhưng là
tôn giáo có ảnh hưởng lớn nhất tại Trung Quốc.
Cả ba tôn giáo có những tác động nhất định trong mối quan hệ văn
hóa Việt- Trung trong suốt hơn 2000 năm qua.
4.3.1. Quan hệ văn hóa Việt - Trung thời Lý

Mối quan hệ văn hóa Việt - Trung thời Lý diễn ra trong bối cảnh
đất nước ta vừa trải qua và thấm thía nỗi đau của hơn 1000 năm Bắc
thuộc, với những dư âm để lại lâu dài, nguy cơ tái phụ thuộc luôn hiện
hữu. Chính vì những nguy cơ nêu trên mà ngoài chính sách củng cố
quân sự, toàn vẹn lãnh thổ, nhà Lý đã dày công kiến tạo một nền văn
hóa mới độc đáo, ưu việt hơn, với dụng tâm hình thành một lãnh thổ
văn hóa tinh thần có bản sắc riêng của người Việt, làm bình phong
trước sự xâm thực của văn hóa Trung Quốc. Dưới thời Lý ngoài
những ảnh hưởng của văn hóa, tôn giáo Trung Quốc trước đó, thời kỳ
này nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Đại Việt đang tìm cho mình một
con đường đi riêng và thực tiễn cho thấy thời Lý là thời kỳ của giao
lưu văn hóa Việt-Ấn-Chăm.
4.3.2. Quan hệ văn hóa Việt - Trung thời Trần
Quan hệ văn hóa Việt - Trung thời Trần có nhiều nét tương đồng
với thời Lý, xuyên suốt vẫn là tinh thần độc lập tự chủ. Sau chiến
tranh nhà Trần vẫn duy trì một mối bang giao với Trung Quốc là
ngoài vương trong đế, lãnh thổ quốc gia vẫn được toàn vẹn, đường
biên giới văn hóa Việt - Trung căn bản vẫn vững vàng.
Điêu khắc Phật giáo thời Trần còn lưu giữ được một số tượng Phật
bệ ở chùa Thầy, chùa Bối Khê, chùa Hương Trai (xã Dương Liễu,
huyện Hoài Đức, Hà Nội)… Chạm khắc gỗ trang trí kiến trúc ở chùa

19


Phổ Minh (Nam Định), chùa Thái Lạc (Hưng Yên) với các đề tài Rồng
chầu lá đề, vũ nữ dâng hoa, nhạc công, vũ nữ dâng hương... Các bức
chạm khắc cho thấy âm nhạc, vũ đạo thời Trần kế thừa truyền thống
của triều Lý, trên cơ sở tiếp thu nhạc vũ Trung Hoa và Chămpa. Quy
mô và thành phần nhạc cụ của dàn nhạc đời Trần bao gồm: dàn đại

nhạc và tiểu nhạc, các loại nhạc cụ riêng và phục vụ cho các nhu cầu
khác nhau của đời sống cung đình cũng như của dân gian như: tiêu,
sáo, đàn tỳ bà, trống cơm... Vũ đạo, nhạc lý thời Trần có sự ảnh
hưởng rõ rệt về bài bản của vũ đạo, nhạc lý Trung Hoa. Sự ra đời của
phái thiền Trúc Lâm cũng ghi dấu của mối quan hệ văn hóa Việt
Trung bởi sự tiếp nhận ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Quốc.
Tinh thần chính trong quan hệ văn hóa Việt - Trung thời Trần
vẫn là độc lập tự chủ, hòa hoãn mềm dẻo và đối kháng khi cần
thiết. Sự thực dụng chính trị được đề cao hơn là các dấu ấn về văn
hóa và nghệ thuật.
4.3.3. Quan hệ văn hóa Việt - Trung thời Lê
Thứ nhất, tinh thần độc lập vẫn là bản chất không đổi trong ứng
sử với Trung Quốc và các quốc gia lân bang khác. Đại phá quân
Minh và 9 lần bình định Chămpa là minh chứng tiêu biểu cho nhận
định trên.
Thứ hai, chấp nhận và biến đổi, giải quyết các hậu quả do 20 năm
đô hộ nước ta của nhà Minh để lại, nhà Lê buộc phải chấp nhận thực
tại rằng đã có nhiều thế hệ người Trung Quốc hòa huyết với người
Việt bản địa, trở thành một bộ phận của cư dân Việt.
Trong Phật điện thời Lê xuất hiện nhiều thể loại tượng khác nhau
ảnh hưởng từ văn hóa, nghệ thuật Trung Quốc như: tượng Quan Âm
Phật bà nghìn mắt nghìn tay, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu…

20


Nghiên cứu tượng tròn trong Phật điện thời Lê cho thấy: nhiều nghi
thức tế lễ, đám rước; trang phục như quần, áo, mũ, hài,…; các vật
dụng như kiệu, lọng; tục thờ Ngọc Hoàng, Khổng Tử, Khổng Minh,
Quan Vũ… tiếp nhận từ văn hóa Trung Quốc đã biến đổi, dần trở

thành các nét văn hóa của người Việt. Những minh chứng trên phần
nào lý giải được mối quan hệ văn hóa Việt - Trung thời Lê đầy phức
tạp với xu thế chấp nhận và biến đổi.
Thứ ba sao chép có chọn lọc, nhà Lê nói chung, vua Lê Thái Tổ nói
riêng đã nhận thấy nhiều điểm ưu việt của tư tưởng Nho giáo nên đã chủ
ý dùng Nho giáo làm nền tảng tư tưởng cho phép trị quốc. Cùng với
Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo cũng rất phát triển, hình thành bộ ba tôn
giáo có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống văn hóa của cư dân Đại Việt. Sự
hòa hợp của ba tôn giáo thể hiện rõ nét nhất trong Phật điện thời Lê ở
cụm từ: “Tam giáo đồng đường” hay “Tam giáo đồng nguyên”.
Tiểu kết Chương 4
Những đặc điểm căn bản trong mối quan hệ văn hóa giữa Đại Việt
với các quốc gia lân cận thông qua nghiên cứu tượng tròn vùng Kinh
Bắc từ thế kỷ XI-XVII thể hiện ở những điểm sau:
1. Mối quan hệ văn hóa Việt - Ấn được xác lập từ khi Phật giáo
Ấn Độ du nhập vào Việt Nam. Phật giáo Ấn Độ đã khẳng định vai
trò quan trọng, là điểm tựa trong đời sống tinh thần của người Việt
trong suốt hành trình tồn tại và phát triển của quốc gia Đại Việt.
2. Sự giao lưu văn hóa Việt - Ấn bằng cả hai con đường chính thức
và trung gian, góp phần quan trọng hình thành một nền văn hóa mới,
phát triển rực rỡ bậc nhất thời kỳ Đại Việt (thời đại Lý - Trần).

21


3. Quan hệ văn hóa Việt - Ấn được bổ xung qua tiếp xúc văn hóa
Việt-Chăm thông qua các cuộc chiến tranh. Văn hóa Chămpa cũng có
đóng góp to lớn cho sự phát triển rực rỡ của văn hóa Đại Việt.
4. Mối quan hệ văn hóa Việt - Trung có lịch sử dài nhất của hai quốc
gia còn tồn tại đến ngày nay. Nền tảng của mối quan hệ Việt - Trung

được tạo lên trên cơ sở của sự đối kháng, hoà hoãn, tiếp nhận và cải
biến, cả về chính trị, quân sự cũng như văn hóa.
5. Mối quan hệ văn hóa Việt-Trung là sự tương tác phức tạp, có
tính chất toàn diện, trong suốt chiều dài lịch sử của hai dân tộc, bao
gồm hai mặt: tích cực và tiêu cực đối với quá trình xây dựng sự củng
cố nền quân chủ Đại Việt qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau.
Những di sản văn hóa, nghệ thuật Việt-Trung thời Lê - Mạc (tiếp đến
thời Nguyễn) là những điểm sáng trên bức tranh quan hệ văn hóa của
hai nước, chịu nhiều tác động của các yếu tố chính trị và quân sự.
6. Tượng tròn và nghệ thuật điêu khắc, cùng với các thành tố văn
hóa khác là biểu hiện sinh động của giao lưu tiếp biến văn hóa giữa
Đại Việt và các quốc gia lân cận. Tượng tròn cùng nghệ thuật điêu
khắc vừa là thành tố văn hóa, đồng thời là nhân chứng nghệ thuật
được sinh ra tại thời điểm văn hóa Đại Việt giao thoa với văn hóa
quốc gia khác. Những giá trị nghệ thuật của tượng tròn được kết tinh
trong giai đoạn này, đánh dấu sự phát triển đa dạng trong tiến trình
lịch sử nghệ thuật Việt Nam từ thời sơ sử đến nay.

22


KẾT LUẬN

1. Giao lưu và tiếp biến văn hóa của người Việt và quốc gia Việt
Nam từ thế kỷ XI-XVII diễn ra chủ yếu với ba quốc gia (Ấn/Ấn Độ,
Chăm/Chămpa, Hán/Trung Quốc).
Phạm vi giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa người Đại Việt với các
quốc gia này thể hiện trên nhiều yếu tố, nhiều phương diện: chính trị,
quân sự, kinh tế... Nhưng nổi bật nhất là giao lưu và tiếp biến Phật
giáo giữa Việt Nam và các quốc gia này.

2. Tượng tròn là yếu tố nổi bật trong các ngôi chùa, chứa đựng
những giá trị về triết lý, nhân sinh quan và thế giới quan, thẩm mỹ,
nghệ thuật, mang tính biểu tượng cao, theo từng tộc người theo Phật
giáo và dễ được các tộc cùng tiếp thu, tiếp nhận.
Điêu khắc tượng tròn Phật giáo vẫn dựa trên những nội dung căn
bản của của nghệ thuật điêu khắc nhưng khác với nghệ thuật điêu
khắc đời thường là đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ đơn thuần của con
người, nghệ thuật điêu khắc tượng tròn Phật giáo được tạo ra cho cho
mục đích duy nhất là phục vụ tôn giáo mà ở đây là Phật giáo. Tượng
tròn Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ, được du nhập vào Việt Nam
qua con đường truyền giáo. Tượng tròn Phật giáo nói chung tượng
tròn Phật giáo vùng Kinh Bắc nói riêng, là một trong những loại hình
nghệ thuật phát triển rực rỡ nhất của nền Mỹ thuật nước nhà, hàm
chứa nhiều tri thức văn hóa xã hội, tôn giáo, nghệ thuật,…
3. Điêu khắc tượng tròn Phật giáo vùng Kinh Bắc thế kỷ XI-XVII
là quần thể những những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu bậc nhất của
điêu khắc nói chung và điêu khắc tượng tròn Phật giáo nói riêng của
Việt Nam, đại diện cho ba thời kỳ lịch sử Lý - Mạc - Lê Trung Hưng.

23


×