Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Đo lường các yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ ở các trường trung học phổ thông công lập tại địa bàn tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 80 trang )

1

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Ở chương một, tác giả nêu lên những vấn đề chủ yếu gồm lý do chọn đề tài,
mục tiêu nghiên cứu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và
những đóng góp mà đề tài mang lại.
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong xu thế hiện nay, quá trình quản lý nói chung và quản lý giáo dục nói riêng
đang ngày càng được yêu cầu theo hướng công khai, minh bạch.
Nhiều câu hỏi được nêu ra và cần phải giải quyết: Liệu các chính sách, chương
trình hoặc dự án có đem lại kết quả như mong đợi hay không? Làm sao biết được
chúng ta có đi đúng hướng? Làm sao có thể nhận biết, phát hiện được các trở ngại
có thể gặp phải khi thực hiện? Ít nhất thì cũng cần biết được tình trạng ban đầu để
có thể xác định khoảng cách phải đi để đạt mục tiêu?
Các đơn vị hành chính sự nghiệp là những đơn vị quản lý hành chính Nhà
nước như đơn vị sự nghiệp y tế, giáo dục, văn hóa, thông tin, sự nghiệp khoa họccông nghệ, sự nghiệp kinh tế… hoạt động bằng nguồn kinh phí của Nhà nước cấp,
hoặc các nguồn kinh phí khác như thu sự nghiệp, phí, lệ phí, thu từ kết quả hoạt
động kinh doanh hay nhận viện trợ biếu tặng theo nguyên tắc không bồi hoàn trực
tiếp để thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho.
Các Nghị định của Chính phủ về việc giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự
nghiệp công lập - trong đó có giáo dục - đã tạo hành lang pháp lý giúp cho các đơn
vị sự nghiệp công lập được chủ động hơn trong việc tổ chức, điều hành hoạt động
tại đơn vị mình một cách có hiệu quả. Hiện nay, các đơn vị sự nghiệp công lập đã
được giao khoán kinh phí, biên chế để chủ động trong việc điều hành, thực hiện
nhiệm vụ và khoản kinh phí tiết kiệm được sử dụng để tăng thu nhập cho cán bộ,
viên chức. Đồng thời, nó cũng đòi hỏi các nhà quản lý không chỉ quan tâm làm
nhiệm vụ chuyên môn mà phải chú trọng quản lý về tài chính, biên chế của đơn vị.
Để giải quyết các vấn đề nêu trên, nhất thiết cần phải tăng cường công tác kiểm soát
nội bộ( viết tắt là KSNB).
Giáo dục và đào tạo (viết tắt là GD&ĐT) là đơn vị hành chính sự nghiệp có
đặc điểm là hoạt động bằng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp hoặc tự trang trải


bằng nguồn thu sự nghiệp (thông qua thu học phí của học sinh). Đặc điểm này có


2
ảnh hưởng rất lớn đến công tác kế toán của đơn vị như thanh quyết toán với ngân
sách, các khoản thu chi hạch toán có phù hợp với chương, mục lục ngân sách hay
không.
Hiện nay, trên cả nước có hơn hai ngàn trường trung học phổ thông (viết tắt là
THPT) công lập. Sự đóng góp của các trường THPT đối với sự nghiệp giáo dục là
vô cùng quan trọng. Mặc dù quy mô của trường THPT không phải là quá lớn, các
hoạt động không quá nhiều lĩnh vực như ở các trường Đại học, Cao đẳng, nhưng nó
cũng có nhiều lĩnh vực nhạy cảm dễ dẫn đến sai sót như: công tác tuyển dụng, tuyển
sinh đầu cấp, kế toán thu, chi ngân sách, quản lý và sử dụng tài sản, quản lý điểm
số... Do đó, nếu không làm tốt công tác KSNB sẽ dẫn đến những sai phạm gây mất
uy tín, mất lòng tin đối với ngành giáo dục, thất thoát tài sản Nhà nước một cách
đáng kể.
Hoạt động KSNB ở các trường THPT là hoạt động bắt buộc, thường xuyên
(được gọi là kiểm tra nội bộ) nhằm tự kiểm tra về tất cả các lĩnh vực hoạt động
trong nhà trường như: tài chính, tuyển dụng, tuyển sinh, chuyên môn, quản lý tài
sản, cải cách hành chính….Làm tốt công tác KSNB là biện pháp tốt nhất để thực
hiện chủ trương tiết kiệm, phòng chống tham ô, lãng phí của Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động này còn mang tính hình thức mà chưa được quan
tâm thực hiện đúng mức nên hiệu quả đạt được là chưa cao.
Để có thể đánh giá được thực trạng hoạt động KSNB ở các trường THPT công
lập, qua đó khắc phục những tồn tại nêu trên, nhằm nâng cao vai trò của nhà quản lý
trong việc quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nhà trường. Tác giả
chọn đề tài “Đo lường các yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ ở các
trường THPT công lập tại địa bàn Tỉnh Đồng Nai” làm đề tài nghiên cứu là điều
thiết thực, có ý nghĩa đối với các trường THPT công lập trong Tỉnh Đồng Nai.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:

Vấn đề nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu tìm hiểu và đánh giá thực
trạng công tác kiểm soát nội bộ tại các trường THPT công lập trong Tỉnh Đồng Nai
- đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập - chỉ ra được những thuận lợi cũng như khó
khăn trong quá trình tổ chức và hoạt động của hệ thống KSNB trong nhà trường.
Qua đó, tác giả phân tích nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện


3
hệ thống KSNB, nâng cao hiệu quả công tác KSNB, góp phần làm tốt công tác quản
lý các hoạt động tại các trường THPT công lập trong Tỉnh Đồng Nai.
Để đạt mục tiêu cơ bản trên, đề tài sẽ hướng vào nghiên cứu cụ thể những
vấn đề sau đây:
1.2.1. Mục tiêu tổng quát:
-

Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề cơ bản về KSNB.

-

Đo lường các yếu tố cấu thành hệ thống KSNB tại các trường THPT công
lập trên địa bàn Tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2014 - 2016. Trên cơ sở đó, tìm ra
những hạn chế, đề xuất những phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm
hoàn thiện hệ thống KSNB, nâng cao hiệu quả công tác KSNB tại trường
THPT công lập trên địa bàn Tỉnh Đồng Nai.

1.2.2. Mục tiêu cụ thể:
Tìm hiểu tình hình công tác KSNB tại 22 Trường THPT trường THPT công
lập trong Tỉnh Đồng Nai.
-


Đo lường các yếu tố cấu thành hệ thống KSNB có tác động như thế nào đến
hiệu quả công tác KSNB tại các trường THPT công lập trong Tỉnh Đồng
Nai.

-

Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống KSNB, nâng cao hiệu
quả công tác KSNB tại các trường THPT công lập trong Tỉnh Đồng Nai.

1.3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:
 Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu công tác KSNB khu vực công
 Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian nghiên cứu: các trường THPT công lập trong Tỉnh Đồng Nai.
+ Thời gian nghiên cứu: đề tài được giới hạn giai đoạn trong 03 năm 2014 2016.
1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để tìm hiểu thực trạng hoạt động KSNB trong nhà trường, tác giả đã sử dụng
phương pháp định lượng thực hiện qua 2 giai đoạn như sau:
Nghiên cứu sơ bộ
-

Phương pháp nghiên cứu lý luận: áp dụng các lý luận cơ bản về KSNB.


4
-

Thu thập các quy định liên quan đến các yếu tố thuộc hệ thống KSNB:
chính sách đạo đức, những quy định chung của nhà trường, đề án vị trí việc
làm (mô tả công việc từng vị trí), đề án chuyển đổi vị trí việc làm.


-

Sử dụng phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn: gửi bảng câu hỏi hoặc
phỏng vấn trực tiếp đến các cá nhân gồm Ban Giám hiệu, giáo viên, nhân
viên đã và đang công tác nhằm thu thập thông tin về nhận thức và sự đánh
giá của họ đối với các yếu tố của hện thống KSNB. Trên cơ sở đó, tác giả
sử dụng đồng bộ các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu,
thống kê, suy luận logic và đối chiếu với thực tế năm 2016, điều chỉnh
thang đo và xây dựng bảng câu hỏi hoàn chỉnh cho phần nghiên cứu chính
thức.
Nghiên cứu định lượng: nghiên cứu chính thức
Phiếu khảo sát chính thức được gửi cho các cá nhân là Ban Giám hiệu, giáo

viên, kế toán, nhân viên đang công tác tại các trường THPT công lập trong Tỉnh
Đồng Nai. Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để đo lường các
yếu tố cấu thành hệ thống KSNB tại các trường THPT công lập trên địa bàn Tỉnh
Đồng Nai.
 Xử lý phiếu khảo sát bằng phần mềm SPSS 22.0, gồm các bước:
-

Kiểm định thang đo Likert 5 mức độ (từ 1: không đồng tình đến 5: rất
đồng tình) để đo lường mức độ các yếu tố cấu thành hệ thống KSNB.

-

Sử dụng hệ số Cronbach’s Alpha để kiểm định độ tin cậy của thang đo.

-

Phân tích nhân tố EFA để loại bỏ các nhân tố không phù hợp và tiến hành

gom nhân tố.

-

Phân tích hồi qui.

-

Kiểm định mô hình và cho kết quả.

1.5. Đóng góp của đề tài:
Đề tài dự kiến đạt được các kết quả sau:
-

Đo lường được các yếu tố cấu thành hệ thống KSNB tại các trường THPT
công lập trên địa bàn Tỉnh Đồng Nai.

-

Đề xuất được một số nội dung cải cách hoạt động KSNB nhằm hoàn thiện,
nâng cao năng lực quản lý và sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lực trong nhà
trườngTHPT công lập. Qua đó, tác giả hy vọng những nội dung được nêu ra


5
trong đề tài này có thể được vận dụng đối với các trường THPT công lập
trong Tỉnh Đồng Nai nói riêng và cả nước nói chung.
1.6. Kết cấu của luận văn:
Luận văn gồm 05 chương với kết cấu như sau:
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Giới thiệu chung những vấn đề chủ yếu gồm lý do chọn đề tài, mục tiêu
nghiên cứu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và những
đóng góp mà đề tài mang lại
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
VÀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG TRƢỜNG HỌC
Tổng quan về hệ thống KSNB, các hoạt động KSNB trong trường THPT
công lập.
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương này tập trung vào việc xây dựng các bước nghiên cứu sơ bộ và
nghiên cứu định lượng.
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Trình bày kết quả điều tra, khảo sát và phân tích số liệu.
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Kết luận về vấn đề nghiên cứu và đề xuất một số nội dung nhằm hoàn thiện
hệ thống KSNB, nâng cao hiệu quả công tác KSNB tại các trường THPT trên địa
bàn Tỉnh Đồng Nai.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Trong chương một, tác giả đã nêu lý do chọn đề tài nghiên cứu “Đo lường
các yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ ở các trường Trung học phổ
thông công lập tại địa bàn Tỉnh Đồng Nai ” với mục đích đánh giá sự tác động của
các yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ ở các trường Trung học phổ thông
công lập trên địa bàn Tỉnh Đồng Nai. Qua đó, tác giả đề xuất một số nội dung nhằm
góp phần hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại các trường này. Đây cũng là biện
pháp cần thiết để thực nhiện chủ trương tiết kiệm, phòng chống tham ô, lãng phí của


6
Đảng và Nhà nước ta đồng thời nhằm nâng cao vai trò của nhà quản lý trong việc
quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nhà trường.
Để thực hiện đề tài, tác giả đã tiến hành khảo sát hoạt động KSNB tại các

trường THPT công lập trên địa bàn Tỉnh Đồng Nai và sử dụng phương pháp nghiên
cứu định lượng.
Kết cấu luận văn bao gồm 5 chương , sử dụng phần mềm SPSS 22.0 để phân
tích số liệu và đưa ra kết quả khảo sát.


7
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ VÀ
HOẠT ĐỘNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG TRƢỜNG HỌC
2.1. Tổng quan về hệ thống KSNB
2.1.1.

Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống KSNB

KSNB là một hệ thống biện pháp, thủ tục, chương trình, quy trình, kế hoạch
được thiết lập và tổ chức thực hiện tại cơ quan, tổ chức, đơn vị để xác nhận, đánh
giá các hoạt động theo chuẩn mực, chế độ quy định, theo mục tiêu, yêu cầu; tư vấn
và có biện pháp tác động nâng cao hiệu quả của quản lý, sử dụng các nguồn lực, hệ
thống kiểm soát để đạt được kết quả đã được xác định và phòng tránh rủi ro.
Như vậy, KSNB là công cụ chủ yếu mà nhà quản lý thường sử dụng để thực
hiện hoạt động kiểm soát nhằm đạt được mục tiêu.
Khái niệm KSNB đã phát triển từ chỗ được xem là một phương pháp giúp
cho kiểm toán viên độc lập xác định phương pháp hiệu quả nhất trong việc lập kế
hoạch kiểm toán đến chỗ được coi là một bộ phận chủ yếu của hệ thống quản lý hữu
hiệu trong hơn một thế kỷ qua.
Đầu thế kỷ XX, khái niệm KSNB bắt đầu được sử dụng trong các tài liệu về
kiểm toán nhưng nó chỉ được nhắc đến như một “công cụ bảo vệ tiền” khỏi sự biển
thủ của nhân viên.
Năm 1929, trong một công bố của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Federal
Reserve Bulletin), thuật ngữ KSNB đã được đề cập chính thức, được định nghĩa là

một công cụ bảo vệ tiền và các tài sản khác.
Năm 1936, Hiệp hội kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA – American
Institule of Certified Public Accountants)( 1936) đã mở rộng khái niệm KSNB:
“KSNB…là các biện pháp và cách thức được chấp nhận và được thực hiện trong
một tổ chức để bảo vệ tiền và tài sản khác cũng như kiểm tra sự chính xác trong ghi
chép sổ sách”.
Từ thập niên 1940, các tổ chức kế toán công và kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ đã
xuất bản một loạt các báo cáo, hướng dẫn và tiêu chuẩn về tìm hiểu KSNB trong
các cuộc kiểm toán.
Đến thập niên 1970, KSNB được quan tâm đặc biệt trong các lĩnh vực thiết
kế hệ thống và kiểm toán, chủ yếu hướng vào cách thức cải tiến hệ thống KSNB và
vận dụng trong các cuộc kiểm toán.


8
Năm 1977, trong Đạo luật chống hành vi hối lộ ở nước ngoài và trong các
báo cáo của Cohen Commission và FEI (Financial Executive Institute) đều đề cập
đến việc hoàn thiện hệ thống kế toán và KSNB. Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ (SEC
– Securities and Exchange Commission) cũng đưa ra các điều luật bắt buộc các nhà
quản trị phải báo cáo về hệ thống KSNB của tổ chức.
Năm 1979, Hiệp hội kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA) đã thành lập
một Ủy ban tư vấn đặc biệt về kiểm toán nội bộ nhằm đưa ra các hướng dẫn về việc
thiết lập và đánh giá hệ thống KSNB. Từ năm 1980 đến 1985, AICPA đã tiến hành
sàng lọc, ban hành và sửa đổi các chuẩn mực về sự đánh giá của kiểm toán viên độc
lập về KSNB và báo cáo về KSNB. Hiệp hội kế toán nội bộ (IIA –Institute of
Internal Auditor) cũng ban hành chuẩn mực và hướng dẫn kiểm toán viên nội bộ về
bản chất của kiểm soát và vai trò của các bên liên quan trong việc thiết lập, duy trì
và đánh giá hệ thống KSNB.
Từ năm 1985 về sau, sự quan tâm tập trung vào KSNB càng mạnh mẽ hơn.
Năm 1985, Hội đồng quốc gia chống gian lận về báo cáo tài chính (Ủy ban

Treadway) được thành lập. Hội đồng này đã đưa ra một loạt các vấn đề về KSNB,
nhấn mạnh tầm quan trọng của mội trường kiểm soát, các quy tắc về đạo đức, các
Ủy ban kiểm toán và chức năng của kiểm toán nội bộ. Treadway đã lưu ý rằng có
nhiều quan điểm và khái niệm khác nhau liên quan đến KSNB. Do vậy, Ủy ban tổ
chức đồng bảo trợ (COSO – Committee of Sponsoring Organization) đã được thành
lập vào năm 1985 nhằm: nghiên cứu và thống nhất định nghĩa về KSNB để phục vụ
cho nhu cầu của các đối tượng khác nhau; cung cấp đầy đủ một hệ thống tiêu chuẩn
nhằm giúp các đơn vị có thể đánh giá hệ thống KSNB để đưa ra giải pháp hoàn
thiện. Báo cáo COSO năm 1992 là tài liệu đầu tiên trên thế giới đưa ra khuôn mẫu
lý thuyết về KSNB đã tạo lập một nền tảng lý luận cơ bản về KSNB. Đặc biệt, trong
báo cáo này, KSNB không chỉ còn là một vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính mà
còn mở rộng ra cho tất cả các phương diện hoạt động và tuân thủ. Sau đó, hàng loạt
nghiên cứu, phát triển về KSNB trong nhiều lĩnh vực khác nhau đã ra đời như:
 Phát triển theo hướng quản trị (2001): dựa trên COSO 1992, COSO nghiên
cứu hệ thống đánh giá rủi ro doanh nghiệp.
 Phát triển theo hướng chuyên sâu vào những ngành nghề cụ thể.
 Phát triển theo hướng quốc gia.


9
 Phát triển theo hướng công nghệ thông tin.
 Phát triển theo hướng kiểm toán độc lập.
 Phát triển theo hướng kiểm toán nội bộ.
Năm 2004, hệ thống KSNB phát triển từ hệ thống KSNB 1992 nhưng đi sâu
vào việc kiểm soát rủi ro phù hợp với hệ thống quản trị rủi ro.
Năm 2013, INTOSAI tiếp tục được cập nhật và được công bố áp dụng vào
năm 2014.
Tháng 7/1996, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là thành viên chính thức của
tổ chức INTOSAI
2.1.2.


Định nghĩa của KSNB

Báo cáo COSO 1992 định nghĩa “KSNB là một quá trình do người quản lý,
hội đồng quản trị và các nhân viên của đơn vị chi phối, nó được thiết lập để cung
cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực hiện ba mục tiêu dưới đây:
 Hoạt động có hiệu quả
 Báo cáo tài chính Đáng tin cậy
 Các luật lệ và quy định được tuân thủ”.
Định nghĩa này được hiểu như sau:
 KSNB là một quá trình: bao gồm một chuỗi hoạt động kiểm soát ở tất cả
các bộ phận, lĩnh vực trong tổ chức, kết hợp với nhau thành một thể thống nhất. Nó
luôn luôn tồn tại và phát triển cùng với tổ chức mà không bao giờ chấm dứt, KSNB
luôn được thay đổi khi tổ chức thay đổi cho phù hợp với nhu cầu quản lý.
 KSNB đƣợc thiết kế và vận hành bởi con ngƣời: KSNB không chỉ là
những chính sách, thủ tục, biểu mẫu mà phải được vận hành bởi con người trong tổ
chức: Ban lãnh đạo, các nhân viên là những người vạch ra mục tiêu, xây dựng kế
hoạch, thiết lập cơ chế kiểm soát và vận hành chúng nhằm mang đến sự đảm bảo
hợp lý rằng tổ chức đạt được mục tiêu đã đề ra.
 KSNB cung cấp một sự đảm bảo hợp lý: KSNB giúp chống lại rủi ro
tiềm tàng vốn có của con người đang tham gia vào tổ chức. Do đó, nhà quản lý có
thể nhận thức đầy đủ về các rủi ro nhưng họ cần phải có sự lựa chọn phương pháp
KSNB phù hợp, hiệu quả, không được để chi phí giảm thiểu vượt quá giá trị của rủi
ro.


10
2.1.3.

Sự cần thiết và lợi ích của KSNB


Một hệ thống KSNB hoàn thiện sẽ giúp cho tổ chức giải quyết mâu thuẫn
giữa lao động với người sử dụng lao động một cách có hiệu quả; giảm thiểu nguy cơ
rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động sản xuất; bảo vệ tài sản khỏi bị hư hỏng mất mát, sử
dụng tài sản đúng mục đích; đảm bảo tính chính xác của các báo cáo tài chính, của
hoạt động kế toán; đảm bảo mọi thành viên tuân thủ đầy đủ các nội quy, quy định
của tổ chức, chấp hành pháp luật của Nhà nước; đảm bảo tổ chức hoạt động hiệu
quả, bảo mật thông tin, sử dụng tối ưu các nguồn lực và đạt được mục tiêu đề ra
2.2. Định nghĩa và mục tiêu của KSNB trong khu vực công
KSNB rất được chú trọng trong khu vực công, nó là đối tượng được kiểm
toán viên Nhà nước quan tâm đặc biệt. Một số quốc gia như Hoa Kỳ, Canada đã có
những công bố chính thức về KSNB áp dụng cho các cơ quan hành chính sự nghiệp.
Trong chuẩn mực về kiểm toán của Tổng kế toán nhà nước Hoa Kỳ (GAO) năm
1999 có đề cập đến vấn đề KSNB đặc thù trong tổ chức hành chính sự nghiệp có
năm yếu tố bao gồm: các quy định về môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, các
hoạt động kiểm soát, thông tin và truyền thông, giám sát.
Năm 1953, tại Havana, Cuba, Tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao
(INTOSAI – International Organization of Superme Audit Institutions) được thành
lập. Năm 1992, bản hướng dẫn về chuẩn mực KSNB của INTOSAI đã hình thành
tài liệu đề cập đến việc nâng cấp các chuẩn mực KSNB, hỗ trợ cho việc thực hiện
và đánh giá KSNB. Năm 2001, bản hướng dẫn về chuẩn mực KSNB của INTOSAI
1992 đã cập nhật thêm về các chuẩn mực KSNB cho phù hợp với tất cả các đối
tượng, phù hợp với xu thế phát triển gần đây trong KSNB và được công bố năm
2004 (INTOSAI 2004). Điều cần lưu ý trong tài liệu này là đã tích hợp các lý luận
chung về KSNB của báo cáo COSO 1992. Năm 2013, INTOSAI tiếp tục được cập
nhật và được công bố vào năm 2014 (INTOSAI 2013).
2.2.1.

Theo INTOSAI năm 1992


Định nghĩa: Căn cứ theo chuẩn mực 9100 & 9140 của INTOSAI (1992) đã
đưa ra định nghĩa KSNB như sau: “KSNB là cơ cấu của một tổ chức, bao gồm nhận
thức, phương pháp, quy trình và các biện pháp của người lãnh đạo nhằm đảm bảo
sự hợp lý để đạt được các mục tiêu của tổ chức”.
Mục tiêu: bao gồm


11
-

Thúc đẩy hoạt động hữu hiệu, hiệu quả và có kỷ cương cũng như chất
lượng của sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhiệm vụ của tổ chức.

-

Bảo vệ các nguồn lực không bị thất thoát, lạm dụng, lãng phí, tham ô, vi
phạm pháp luật.

-

Khuyến khích tuân thủ pháp luật, quy định của Nhà nước, của nội bộ.

-

Xây dựng và duy trì các dữ lệu tài chính và hoạt động, lập báo cáo chính
xác, kịp thời.

2.2.2.

Theo INTOSAI năm 2004


Định nghĩa: Theo INTOSAI (2004): “KSNB là một quá trình xử lý toàn bộ
được thực hiện bởi nhà quản lý và các cá nhân trong đơn vị, quá trình này được
thiết lập để phát hiện các rủi ro và cung cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm đạt được
các mục tiêu, nhiệm vụ chung của tổ chức”. So với định nghĩa của báo cáo COSO
và hướng dẫn năm 1992, khía cạnh giá trị đạo đức trong hoạt động được thêm vào.
Mục tiêu của KSNB được nhấn mạnh thêm, đó chính là tầm quan trọng của hành vi
đạo đức cũng như ngăn chặn và phát hiện sự gian trá, tham nhũng trong khu vực
công. Do ở khu vực hành chính công hầu hết các tổ chức, đơn vị đều hoạt động
bằng ngân sách Nhà nước. Do đó, để đảm bảo ngân sách, tài sản Nhà nước được sử
dụng đúng mục đích, tránh thất thoát, lãng phí cần thiết phải có một hệ thống quản
lý, kiểm soát chặt chẽ.
Ở khái niệm trên có 5 vấn đề cần chú ý:
-

KSNB là một quá trình

-

KSNB không phải là từng hoạt động riêng lẻ mà là một chuỗi các hoạt
động kiểm soát hiện diện ở mọi bộ phận trong đơn vị và được kết hợp với
nhau thành một thể thống nhất. Chính quá trình này là phương tiện giúp
các đơn vị đạt được mục đích của mình.

-

KSNB chịu sự chi phối của con người. KSNB được thiết kế và vận hành
bởi con người, từ cấp lãnh đạo cao nhất đến tất cả các thành viên trong
đơn vị. Chính họ sẽ định ra mục tiêu, thiết lập cơ chế kiểm soát và vận
hành chúng. Tuy nhiên, muốn hệ thống KSNB thực sự hữu hiệu thì mỗi

thành viên phải hiểu rõ trách nhiệm, quyền hạn của mình.

-

KSNB được thiết lập để đối phó với rủi ro. Việc thực hiện mục tiêu của
đơn vị sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro. KSNB sẽ giúp đơn vị nhận diện


12
và đối phó với rủi ro để tối đa hóa khả năng đạt được mục tiêu mà đơn vị
đã đề ra.
Mục tiêu: Ở khu vực công, mục tiêu của một đơn vị/tổ chức thường liên
quan đến các dịch vụ công cộng và lợi ích cộng đồng. Bao gồm các mục tiêu:
-

Thực hiện các hoạt động một cách có kỷ cương, có đạo đức, có tính kinh
tế, hiệu quả và thích hợp.

-

Thực hiện đúng trách nhiệm, cung cấp và báo cáo các thông tin tài chính
và phi tài chính phù hợp, kịp thời cho các đối tượng bên trong, bên ngoài
đơn vị.

-

Tuân thủ theo luật pháp hiện hành và các nguyên tắc, quy định

-


Bảo vệ các nguồn lực, chống thất thoát, sử dụng sai mục đích và tổn thất.

Mục tiêu của tài liệu này là thiết lập và duy trì KSNB hữu hiệu trong khu vực
công. Vì vậy, các nhà lãnh đạo của Chính phủ rất quan tâm đến tài liệu này và xem
tài liệu này là một nền tảng để thực hiện và giám sát KSNB trong tổ chức.
So sánh INTOSAI (1992) với INTOSAI (2004):
 Giống nhau: INTOSAI (1992) và INTOAI (2004) có những điểm chung là:
+ Xác định KSNB là một quá trình không thể thiếu của tổ chức nhằm đạt
được các mục tiêu về “tính hữu hiệu và hiệu quả các hoạt động trong đơn
vị; tôn trọng pháp luật và các quy định có liên quan; thiết lập và báo cáo
các thông tin quản lý, thông tin tái chính đáng tin cậy, kịp thời; bảo vệ
nguồn lực không thất thoát, hư hỏng, sử dụng sai mục đích.
+ Xác định KSNB gồm 5 yếu tố: Môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro,
hoạt động kiểm soát, thông tin và truyền thông, giám sát.
 Khác nhau:
+ Đối với mục tiêu hoạt động: INTOSAI( 2004) đã đưa vào yếu tố đạo đức.
INTOSAI( 2004) cho rằng: đạo đức là khi các cán bộ, công chức, viên
chức thực hiện nhiệm vụ của mình một cách công tâm, dùng pháp luật,
phù hợp với sứ mệnh của tổ chức. Đồng thời INTOSAI( 2004) cũng nhấn
mạnh vai trò của giá trị đạo đức trong việc phòng chống, phát hiện gian
lận, tham nhũng trong khu vực công.
+ Đối với mục tiêu báo cáo: INTOSAI( 2004) nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc báo cáo các thông tin phi tài chính.


13
2.2.3.

Theo INTOSAI năm 2013


Trên cơ sở nội dung của INTOSAI ( 2004), INTOSAI( 2013) đã cập nhật và
bổ sung một số nội dung phù hợp với yêu cầu thực tế và tình hình phát triển của xã
hội hiện nay.
 Các vấn đề không thay đổi trong INTOSAI (2013)
+ Định nghĩa về KSNB.
+ Các tiêu chuẩn nền tảng được sử dụng để đánh giá hiệu quả của hệ thống
KSNB.
+ Xác định KSNB là một quá trình, một nhiệm vụ không thể thiếu được của
một tổ chức, đơn vị nhằm đạt được mục tiêu gồm 5 yếu tố: môi trường
kiểm soát, đánh giá rủi ro, hoạt động kiểm soát, thông tin truyền thông,
giám sát.
+ Vai trò quan trọng của sự xét đoán trong thiết kế, thực hiện, tiến hành
KSNB và trong việc đánh giá tính hiệu quả của nó.
 Các vấn đề được INTOSAI (2013) bổ sung
+ Các nguyên tắc: nguyên tắc phân công, phân nhiệm; nguyên tắc bất kiêm
nhiệm; nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn; KSNB theo quy định của
khuôn mẫu (interated framework), nguyên tắc kết nối.
+ Hướng dẫn cụ thể KSNB trong môi trường tin học.
+ Các phương pháp KSNB: Sự phân chia nhiệm vụ, Lưu dữ liệu, Giám sát
hoặc theo dõi, Xử lý thông tin, Xét duyệt giao dịch, Soát xét của ban lãnh
đạo, An ninh điện tử, Bảo vệ vật chất.
+ Mục tiêu báo cáo có thay đổi theo hướng dẫn về quản trị rủi ro, KSNB và
biện pháp để giảm thiểu gian lận. Từ đó, giúp cải thiện hiệu quả hoạt
động cũng như tăng cường sự giám sát của tổ chức.
+ Biện pháp xử lý của kiểm toán viên đối với rủi ro đã đánh giá (VSA 330)
2.2.4.

Các yếu tố của hệ thống KSNB theo INTOSAI: gồm 5 yếu tố

2.2.4.1.


Môi trƣờng kiểm soát

Môi trường kiểm soát tạo nên một sắc thái chung cho một tổ chức, ảnh
hưởng đến ý thức kiểm soát của các thành viên trong tổ chức đó. Môi trường kiểm
soát là nền tảng cho tất cả các yếu tố khác trong hệ thống KSNB, tạo lập nề nếp kỷ
cương, đạo đức, cơ cấu cho tổ chức. Nếu thiếu vắng một Môi trường kiểm soát hiệu


14
quả thì bốn thành phần còn lại dù có chất lượng cũng sẽ có tác động rất kém đến
hiệu quả KSNB. Các nhân tố trong môi trường kiểm soát gồm:
 Sự liêm chính và giá trị đạo đức: sự liêm chính và giá trị đạo đức của lãnh
đạo và đội ngũ nhân viên xác định thái độ cư xử chuẩn mực trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ của họ được thể hiện qua việc tuân thủ các điều lệ, quy
định, đạo đức ứng xử của CB – CC Nhà nước.
 Năng lực nhân viên: là năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng
thực hiện và hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công. Vì vậy, trong quá
trình tuyển dụng, nhà quản lý cần phải xây dựng kế hoạch, trong đó xác định
rõ nhu cầu tuyển dụng: số lượng, vị trí, yêu cầu về năng lực chuyên môn,
kiến thức, kỹ năng cần thiết cho mỗi vị trí việc làm. Bên cạnh đó, đơn vị
cũng phải thường xuyên kiểm tra, giám sát cũng như tạo điều kiện cho nhân
viên được học tập nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn, học hỏi kinh
nghiệm…
 Triết lý quản lý và phong cách lãnh đạo: là tính cách, bản lĩnh, thái độ của
nhà quản lý trong quá trình điều hành hoạt động của tổ chức, đơn vị. Một nhà
quản lý cần phải hội đủ những yếu tố: dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới và
dám chịu trách nhiệm. Điều này có ảnh hưởng lớn đến môi trường kiểm soát.
Nếu nhà quản lý cho rằng KSNB là quan trọng thì những thành viên trong
đơn vị, tổ chức cũng sẽ nhận thấy được và toàn tâm xây dựng hệ thống

KSNB. Còn ngược lại, thì hoạt động KSNB chỉ là hình thức chứ không có ý
nghĩa thực sự.
 Cơ cấu tổ chức: là sự phân công nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm giữa các
bộ phận, cá nhân trong một tổ chức, đơn vị giúp cho mỗi thành viên hiểu
được nhiệm vụ cụ thể của mình và từng hoạt động của họ sẽ ảnh hưởng như
thế nào đến việc hoàn thành mục tiêu chung của toàn đơn vị. Một tổ chức,
đơn vị có cơ cấu tổ chức phù hợp với năng lực của từng bộ phận, cá nhân sẽ
đảm bảo cho hoạt động của toàn đơn vị được thông suốt, hiệu quả. Bên cạnh
đó, có thể ngăn ngừa những hành vi vi phạm các quy chế KSNB, loại bỏ
những hoạt động không phù hợp có thể gây mất tác dụng của các thủ tục
kiểm soát, dẫn đến việc vi phạm, che giấu sai phạm và gian lận.


15
Để có thể giúp cho các thành viên trong đơn vị đề ra kế hoạch thực hiện
nhiệm vụ và hoàn thành tốt nhiệm vụ, đơn vị cần phải xây dựng và ban hành bằng
văn bản Bảng mô tả công việc cụ thể, quy định chức năng, nhiệm vụ từng bộ phận,
cá nhân.
 Chính sách nhân sự: là toàn bộ các cách thức quản lý và chế độ của đơn vị
đối với đội ngũ nhân viên bao gồm các hoạt động: tuyển dụng, bồi dưỡng,
huấn luyện, đánh giá, thi đua, khen thưởng, kỹ luật, bổ nhiệm, tiền lương,
thôi việc …. Nhà quản lý chọn những nhân viên có đủ năng lực, kinh
nghiệm, đạo đức tốt có ảnh hưởng rất lớn đến sự hữu hiệu của môi trường
kiểm soát, góp phần đảm bảo phát triển năng lực đội ngũ, sự liêm chính và
các giá trị đạo đức.
Sự liêm chính
và các giá trị
đạo đức

Năng lực

nhân viên

Chính sách
nhân sự

Môi
trường
kiểm soát

Triết lý quản
lý và phong
cách lãnh đạo

Cơ cấu
tổ chức

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ INTOSAI)
Hình 2.1: Sơ đồ Môi trƣờng kiểm soát
2.2.4.2.

Đánh giá rủi ro

Rủi ro là những nguy cơ tiềm ẩn làm cho đơn vị không thể đạt được mục
tiêu. Bất cứ một tổ chức/đơn vị nào, dù lớn hay nhỏ đều có những nguy cơ tiềm ẩn
phát sinh từ những nhân tố bên trong lẫn bên ngoài khó có thể kiểm soát tất cả. Vì
vậy, việc nhận diện, phân tích và đánh giá rủi ro là rất quan trọng để giúp các đơn vị
đạt được mục tiêu của mình và cố gắng kiểm soát để tối thiểu hóa những tổn thất do
các rủi ro này gây ra. Để thực hiện được điều này, nhà quản lý phải xác định mục
tiêu của đơn vị, đây là điều kiện tiên quyết để đánh giá rủi ro (tác động của rủi ro
khiến cho mục tiêu có khả năng không thực hiện được).



16
Nhận diện rủi ro: rủi ro có thể phát sinh từ chính bên trong đơn vị hoặc do
tác động từ bên ngoài, nó phát sinh suốt quá trình hoạt động của đơn vị khi thực
hiện nhiệm vụ của mình. Ở khu vực công, việc nhận diện rủi ro là vô cùng cần thiết
để đề phòng những nguy cơ xấu ảnh hưởng đến quá trình thực hiện nhiệm vụ được
giao phó, đặc biệt rủi ro gian lận BCTC và tham nhũng đều là những rủi ro cao vì
khả năng xuất hiện thường xuyên và gây tổn thất lớn.
Đánh giá rủi ro: ước tính được khả năng và mức độ thiệt hại khi rủi ro xãy
ra. Việc đánh giá rủi ro phải được thực hiện thường xuyên và phải được điều chỉnh
kịp thời, phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh, yêu cầu thực tế như: điều kiện kinh
tế, chế độ, chính sách, luật lệ…Có nhiều phương pháp đánh giá rủi ro tùy theo mỗi
loại rủi ro. Tuy nhiên, phải đánh giá rủi ro một cách có hệ thống: xây dựng các tiêu
chí đánh giá rủi ro, sắp xếp thứ tự các rủi ro, xây dựng và phát triển ma trận rủi ro,
dựa vào đó phân bổ các nguồn lực đối phó với rủi ro. Việc đánh giá rủi ro chính
thức rất hao tốn thời gian.
 Đối phó với rủi ro:
Có bốn biện pháp đối phó với rủi ro là: phân tán rủi ro, chấp nhận rủi ro,
tránh né rủi ro và xử lý hạn chế rủi ro. Trong đa số các trường hợp, rủi ro phải được
xử lý hạn chế, đồng thời đơn vị phải duy trì hoạt động KSNB để có biện pháp thích
hợp để giải quyết rủi ro. Nếu nhận dạng và đánh giá được rủi ro thì nhà quản lý sẽ
có sự chuẩn bị tốt hơn. Các biện pháp xử lý hạn chế rủi ro cần hợp lý do mối liên hệ
giữa lợi ích và chi phí.
2.2.4.3.

Hoạt động kiểm soát

Hoạt động kiểm soát là những chính sách, quy định, thủ tục để đảm bảo
những chỉ thị của nhà quản lý được thực hiện nhằm đối phó với rủi ro và đạt được

mục tiêu, hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị. Đó là những chính sách, thủ tục:
-

Phân chia nhiệm vụ: mục đích là để các nhân viên kiểm soát lẫn nhau. Giao
việc kiểm soát, nắm giữ tài sản, ghi chép kế toán cho từng người khác nhau
sẽ giúp ngăn chặn, sai sót so với việc chỉ giao cho một người.

-

Lưu dữ liệu: việc lưu giữ các hồ sơ đấy đủ, khoa học giúp cho nhà lãnh đạo
cung cấp tài liệu và chứng minh các giao dịch một cách đầy đủ, nhanh
chóng.


17
-

Giám sát hoặc theo dõi: giúp chúng ta quan sát, rà soát, xem xét quá trình
diễn biến các hoạt động liên tục.

-

Kiểm soát quá trình xử lý thông tin: nhằm kiểm tra tính xác thực, đầy đủ,
mức độ tin cậy và tính đúng đắn của việc phê chuẩn các nghiệp vụ: hệ thống
chứng từ, sổ sách, phê duyệt. Đồng thời chúng ta kiểm soát được việc truy
cập vào dữ liệu, vào tập tin, các chương trình.

-

Xét duyệt giao dịch: nhằm đảm bảo rằng các giao dịch đã được xem xét và

được cấp có thẩm quyền phê chuẩn.

-

Phân tích rà soát: xem xét lại những nhiệm vụ đã được thực hiện với những
nhiệm vụ được đề ra trong kế hoạch, chiến lược của đơn vị. Thực hiện rà
soát thường giúp nhà quản lý phát hiện những vấn đề bất thường, từ đó có
những thay đổi chiến lược, kế hoạch phù hợp, kịp thời.

-

An ninh điện tử: cung cấp mật khẩu và bản ghi truy cập để bảo vệ dữ liệu và
các chương trình không bị truy cập trái phép

-

Bảo vệ tài sản (kiểm soát vật chất): định kỳ bắt buộc tiến hành so sánh, đối
chiếu giữa sổ sách kế toán và tài sản hiện có trên thực tế; qua đó phát hiện ra
những hạn chế và tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó.
2.2.4.4.

Thông tin và truyền thông:

Trong mỗi đơn vị, thông tin cần phải được thực hiện nhằm phục vụ cho quá
trình ra quyết định điều hành mọi hoạt động của đơn vị. Thông tin cần phải được
ghi chép kịp thời, chính xác, phân loại chuẩn xác các nghiệp vụ một cách có hệ
thống và bảo mật. Do đó, hệ thống KSNB đòi hỏi các tất cả các nghiệp vụ phải lập
chứng từ đầy đủ. Thông tin có thể thu thập từ nhiều nguồn: internet, báo đài, các
báo cáo của các cơ quan chức năng, từ các nhân viên trong đơn vị, mạng lưới thu
thập thông tin do đơn vị tự tổ chức…Thông tin được cung cấp qua hệ thống thông

tin, trong đó hệ thống thông tin kế toán là một khâu quan trọng.
Truyền thông là một phần của hệ thống thông tin nhưng được nêu ra để nhấn
mạnh vai trò của truyền đạt thông tin. Truyền thông hữu hiệu là việc truyền đạt
thông tin từ cấp trên xuống cấp dưới hoặc ngược lại, hoặc là sự cung cấp thông tin
giữa các bộ phận ngang nhau một cách kịp thời, xuyên suốt quá trình hoạt động của
đơn vị. Ngoài ra, cũng cần có sự truyền thông hiệu quả từ bên ngoài tổ chức.


18
2.2.4.5.

Giám sát

Hệ thống KSNB cần được giám sát để đánh giá chất lượng hoạt động của hệ
thống theo thời gian. Đây là quá trình mà nhà quản lý phải xác định việc KSNB có
được vận hành đúng quy trình, phát hiện sai sót trong quá trình thực hiện. Qua đó,
nhà quản lý có sự điều chỉnh phù hợp, kịp thời theo từng giai đoạn, yêu cầu cụ thể.
Để hạt động giám sát đạt hiệu quả, cần thực hiện giám sát thường xuyên, giám sát
định kỳ hoặc kết hợp cả hai.
Giám sát thường xuyên đạt được thông qua việc tiếp nhận các ý kiến của
khách hàng, nhà cung cấp, các biến động bất thường…Giám sát thường xuyên được
thực hiện trên tất cả các yếu tố của KSNB, liên quan đến việc ngăn chặn và phát
hiện tất cả những hiện tượng vi phạm pháp luật, lãng phí, không hiệu quả của hệ
thống.
Giám sát định kỳ được thực hiện thông qua các cuộc kiểm toán định kỳ do
các kiểm toán viên nội bộ hoặc kiểm toán viên độc lập thực hiện.
2.2.5.

Những hạn chế tiềm tàng trong hệ thống KSNB


Một hệ thống KSNB dù có được thiết kế và vận hành tốt thế nào đi nữa thì
cũng chỉ có thể cung cấp một sự đảm bảo hợp lý việc đạt được các mục tiêu mong
đợi và cũng luôn tiềm tàng những hạn chế như sau:
-

Quan hệ giữa lợi ích và chi phí: Yêu cầu thường xuyên và trên hết của nhà
quản lý là chi phí bỏ ra cho hoạt động kiểm soát phải nhỏ hơn giá trị thiệt hại
do sai sót hay gian lận gây ra.

-

Sự thông đồng, lạm quyền: hoạt động KSNB được thực hiện bởi con người
nên rất khó phát hiện và ngăn chặn sai sót, gian lận nếu nó xuất phát từ sự
lạm quyền, sự thông đồng giữa lãnh đạo với nhân viên.

-

Gian lận trong quản lý: Sự thông đồng của một trong số các thành viên Ban
lãnh đạo với nhân viên hay với người khác bên ngoài nhằm để vụ lợi cho cá
nhân, gây tổn hại đến tài sản, uy tín của đơn vị.

-

Những tình huống ngoài dự kiến: thủ tục kiểm soát không còn phù hợp, chỉ
chú trọng kiểm soát vào các nghiệp vụ thường xuyên phát sinh mà ít chú ý
đến những nghiệp vụ không thường xuyên..

-

Vấn đề con người: sự vô ý, bất cẩn, lười biếng, cẩu thả trong ghi chép, nhập

liệu, .. gây sai sót trên sổ sách, BCTC. Sự ước tính, dự toán không chính xác


19
trong chi tiêu tài chính, kế toán gây ảnh hưởng đến hoạt động của đơn vị. Sự
buông lỏng trong quản lý tài chính, tài sản.

Môi trường
kiểm soát
Đánh giá
rủi ro

Giám sát
Hệ thống
KSNB

Thông tin
truyền thông

Hoạt động
kiểm soát

(Nguồn: INTOSAI (2013))
Hình 2.2: Các yếu tố cấu thành hệ thống KSNB
Qua tìm hiểu các khái niệm, mục đích, các yếu tố về KSNB, tác giả lựa chọn
sử dụng khái niệm và các yếu tố của hệ thống KSNB theo INTOSAI (2013) làm cơ
sở lý thuyết cho đề tài nghiên cứu của mình là phù hợp với quy mô, tình hình thực
tế của đơn vị bởi vì trong nội dung của INTOSAI (2013) các chuẩn mực KSNB
trong khu vực công tập trung hơn váo các chức năng và đặc điểm của các đơn vị
Nhà nước, các quy định có tính quy chuẩn hơn là chỉ hướng dẫn.

2.3. Đơn vị sự nghiệp giáo dục, hoạt động KSNB trong trƣờng THPT công lập
2.3.1.

Đơn vị sự nghiệp giáo dục

Đơn vị sự nghiệp giáo dục, đào tạo là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của
Nhà nước quyết định thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân,
có con dấu và tài khoản riêng, tổ chức bộ máy kế toán theo quy định của Luật Kế
toán để thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo
hoặc phục vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
Đơn vị sự nghiệp giáo dục, đào tạo được giao quyền tự chủ một phần về thực
hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (sau đây gọi là đơn vị sự nghiệp
giáo dục, đào tạo tự chủ), là đơn vị sự nghiệp giáo dục, đào tạo tự bảo đảm chi
thường xuyên ( Theo Nghị định 16/2915,NĐ –CP quy định cơ chế tự chủ của đơn vị
sự nghiệp công lập).


20

2.3.2.

Hoạt động KSNB trong trƣờng THPT công lập

Trường THPT công lập là đơn vị sự nghiệp giáo dục do Nhà nước thành lập,
đầu tư cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các hoạt động chi thường xuyên có
nhiệm vụ thực hiện mục tiêu giáo dục học sinh từ lớp mười đến lớp mười hai( Theo
Bộ GD&ĐT (2011), Điều lệ trường trung học cơ sở, trung học phổ thông và

trường trung học phổ thông nhiều cấp học).
Hoạt động KSNB trong trường THPT chính là hoạt động kiểm tra nội bộ,

giám sát, đánh giá trong trường học .
Theo Điều 59, Luật Phòng chống tham nhũng quy định về tự kiểm tra nội bộ
“Thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm thường xuyên tổ chức kiểm
tra việc chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi
quản lý của mình”.
2.3.2.1.

Kiểm tra nội bộ trƣờng học:

Là hoạt động xem xét và đánh giá các hoạt động giáo dục, điều kiện dạy –
học, giáo dục trong phạm vi nhà trường nhằm mục đích để mỗi cá nhân, bộ phận
trong trường học nắm chắc tiến độ và kết quả cần đạt trong phạm vi trách nhiệm của
mình. Kiểm tra nội bộ( viết tắt là KTNB) trong trường học là công cụ sắc bén góp
phần tăng cường hiệu lực quản lý trường học nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm
của từng cá nhân, tập thể trong nhà trường. Công tác KTNB phải được thực hiện
bởi từng cá nhân , bộ phận trong trường học dưới sự chỉ đạo của Hiệu trưởng
Hoạt động này được thực hiện theo 2 cấp độ:
+ Các bộ phận, cá nhân kể cả Hiệu trưởng tự kiểm tra kết quả thực hiện nhiệm
vụ của mình.
+ Hiệu trưởng tổng hợp kết quả kiểm tra của các bộ phận, tiến hành kiểm tra
kết quả thực hiện các công việc chung, mối quan hệ phối hợp giữa các thành
viên, bộ phận và những điều kiện, phương tiên phục vụ dạy học trong nhà
trường.
Nội dung KTNB trường học bao gồm: Kiểm tra hoạt động sư phạm của giáo
viên (viết tắt là GV); Kiểm tra hoạt động của khối, tổ chuyên môn; Kiểm tra cơ sở
vật chất (viết tắt là CSVC), tài sản trong nhà trường; Kiểm tra tài chính; Kiểm tra


21
hoạt động của bộ phận thư viện, thiết bị; Kiểm tra bộ phận văn thư hành chính;

Kiểm tra hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh; Tự kiểm tra công tác quản lý
của Hiệu trưởng.
2.3.2.2.

Giám sát trong giáo dục:

Là hoạt động theo dõi quá trình thực hiện các hoạt động giáo dục thông qua
việc thường xuyên xem xét, rà soát sự tiến bộ, việc sử dụng các nguồn lực, so sánh
với kết quả đầu ra, dựa trên các chỉ số hoạt động và đưa ra các ý kiến phản hồi cho
các cấp quản lý và các bên liên quan. Giám sát cần thiết cho việc xác định hiệu quả
thực hiện các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu lâu dài. Giám sát hỗ trợ cho
đánh giá. Ngoài ra, hoạt động giám sát không chỉ là nhiệm vụ của nhà quản lý mà
còn bao gồm hoạt động giám sát ngược từ phía các thành viên trong nhà trường đối
với công tác quản lý nhà trường của BGH.
Nội dung giám sát trong trường học: Giám sát công tác tuyển dụng, Giám sát
công tác tuyển sinh, Giám sát việc phối kết hợp giữa nhà trường – gia đình – xã hội.
Với đặc thù trường THPT công lập chịu sự trực tiếp quản lý của Sở GD &
ĐT nên các trường này còn chịu sự giám sát của Sở GD & ĐT.
2.3.2.3.

Đánh giá trong giáo dục:

Là việc điều tra, xem xét, xác định chất lượng của đối tượng được đánh giá,
trên cơ sở thu thập thông tin một cách có hệ thống nhằm hỗ trợ việc ra quyết định
và rút ra bài học kinh nghiệm.
2.4.

Những công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến đề tài:
Thời gian gần đây, cùng với quá trình hội nhập ở nhiều lĩnh vực kinh tế-xã


hội đòi hỏi các đơn vị nhà nước, trong đó có các đơn vị sự nghiệp giáo dục, cần
phải chú trọng hơn nữa công tác KSNB. Vì vậy, trong những năm qua đã có nhiều
công trình nghiên cứu về KSNB đã được quan tâm ở các đơn vị sự nghiệp công và
giáo dục đã được công bố:
-

Phan Nam Anh (2013), “Hoàn thiện hệ thống KSNB tại trường Trung học

chuyên nghiệp Lương thực thực phẩm”, Luận văn thạc sĩ kinh tế Trường Đại học
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh: Thông qua việc đánh giá thực trạng hoạt động
KSNB tại trường Trung học chuyên nghiệp Lương thực thực phẩm, tác giả đưa ra
một số biện pháp nhằm hoàn thiện hệ thống KSNB ở trường này. Đề tài đã nêu


22
được vấn đề vận dụng hệ thống KSNB ở khu vực công, đánh giá và đưa ra nguyên
nhân hạn chế của hệ thống KSNB ở đơn vị, có các biểu bảng chi tiết và cụ thể.
-

Nguyễn Thị Thu Hậu (2014), “Hoàn thiện hệ thống KSNB tại Trường Đại

học Bạc Liêu”, Luận văn thạc sĩ kinh tế Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh: nghiên cứu khá kỹ phần lý luận về hệ thống KSNB, cung cấp thêm một số
thông tin mới về INTOSAI 2013.
-

Trần Mạnh Chính (2015), “Hoàn thiện hệ thống KSNB tại Trường CĐ nghề

LILAMA 2”, Luận văn thạc sĩ kế toán Trường Đại học Lạc Hồng: Nghiên cứu kỹ về
nội dung KSNB theo INTOSAI 2004 và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện

hệ thống KSNB đối với mô hình trường Trung cấp nghề.
-

Đặng Đình Hải (2015), “Hoàn thiện KSNB đối với quy trình thanh tra tại Sở

Tài Chính Tỉnh Đồng Nai”, Luận văn thạc sĩ kinh tế Trường Đại học Lạc Hồng:
Vận dụng lý thuyết KSNB theo INTOSAI 2013. Nhận xét được nguyên nhân hạn
chế của quy trình thanh tra và đề ra giải pháp hoàn thiện KSNB đối với quy trình
thanh tra tại Sở Tài Chính Tỉnh Đồng Nai.
-

Nguyễn Đức Thọ (2015), “Đổi mới hoạt động KSNB về sử dụng Ngân sách,

tài sản Nhà nước tại các cơ quan hành chính sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính”, Luận
án Tiến sĩ Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương: đề tài đã tập hợp những
khái niệm, lý thuyết về hoạt động KSNB. Đặc biệt là khái niệm về Kiểm tra nội bộ,
Tự kiểm tra nội bộ (một hoạt động bắt buộc phải thực hiện tại các trường THPT
công lập), các khái niệm về đơn vị hành chính sự nghiệp, một số mô hình hóa dạng
sơ đồ, hình vẽ. Những khái niệm mới mang tính tổng hợp, có thể vận dụng vào đề
tài nghiên cứu.
-

Vũ Hữu Đức, “Tăng cường hệ thống KSNB trong các đơn vị thuộc khu vực

công – nhìn từ góc độ kiểm toán Nhà nước”, Báo cáo tại Trường Đại học Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh.
-Các tác giả bao gồm: Trần Thị Giang Tân (chủ biên), Vũ Hữu Đức, Võ Anh
Dũng, Mai Đức Nghĩa, Phạm Thị Ngọc Bích, Dương Minh Châu và Phí Thị Thu
Hiền(2012), “Kiểm soát nội bộ”, Nhà xuất bản Phương Đông. Sách trình bày về
các nội dung cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ theo khuôn mẫu của COSO, các

loại gian lận và biện pháp phòng ngừa, cũng như kiểm soát nội bộ với một số chu
trình nghiệp vụ hay tài sản chủ yếu.


23
Những công trình nghiên cứu trên đều kế thừa phần lý luận chung, nghiên
cứu thực trạng và đưa ra giải pháp hoàn thiện hệ thống KSNB ở khu vực công phù
hợp với yêu cầu thực tế của đơn vị. Tuy nhiên, các luận văn nêu trên phần lớn chú
trọng nghiên cứu vấn đề chủ yếu là KSNB công tác thu, chi ngân sách tại các
trường Trung cấp, Cao Đẳng, Đại học, các Sở… nhưng chưa có đề tài nghiên cứu
với đối tượng là trường THPT trong khi số lượng các trường THPT công lập trong
cả nước là rất lớn (hơn hai ngàn trường).
Những đề xuất về giải pháp hoàn thiện hệ thống KSNB còn mang tính chung
chung, chưa thật sự thiết thực để giúp các đơn vị vận dụng vào việc ngăn ngừa rủi
ro, hạn chế sai sót đến mức thấp nhất, đem đến hiệu quả cao nhất cho các đơn vị
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục mà Nhà nước đã giao phó. Những tài
liệu của tác giả nước ngoài chủ yếu là dành cho các hoạt động KSNB ở các doanh
nghiệp mà chưa chú trọng đến các hoạt động KSNB ở các đơn vị, cơ quan Nhà
nước.
Bên cạnh đó, các luận văn cũng đưa ra được một số khái niệm mới về
KSNB có thể vận dụng vào quá trình nghiên cứu.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Ở chương hai, tác giả đã trình bày lịch sử hình thành, phát triển của các lý
thuyết về KSNB và lý luận về KSNB ở khu vực công theo INTOSAI 1992,
INTOSAI 2004 và INTOSAI 2013. Theo đó, hệ thống KSNB được tạo thành bởi 5
yếu tố: Môi trường kiểm soát; Đánh giá rủi ro; Hoạt động kiểm soát;Thông tin và
truyền thông; Giám sát.
Đồng thời, tác giả cũng trình bày đặc thù của trường THPT công lập và hoạt
động KSNB trong trường học bao gồm các hoạt động: kiểm tra nội bộ, giám sát,
đánh giá trong trường học.

Như vậy, việc hiểu rõ và nắm vững nội dung KSNB cũng như hoạt động
KSNB trong trường học là nền tảng để nghiên cứu đo lường các yếu tố cấu thành hệ
thống KSNB và đề ra giải pháp hoàn thiện hệ thống KSNB tại các trường THPT
trong Tỉnh Đồng Nai, góp phần làm tốt công tác quản lý và thực hiện mục tiêu giáo
dục của nhà trường.


24
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong chương ba, tác giả trình bày chi tiết phương pháp nghiên cứu, quy
trình nghiên cứu và các thang đo lường các yếu tố trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu,
giới hạn đề tài, phương pháp nghiên cứu đã được nêu trong chương một và phần cơ
sở lý luận, mô hình nghiên cứu được giới thiệu trong chương hai.
3.1 Đề xuất mô hình và nội dung nghiên cứu ban đầu:
Từ việc nghiên cứu những cơ sở lý luận về INTOSAI 2013, lý luận về hoạt
động kiểm tra nội bộ ở trường THPT cũng như những đề tài nghiên cứu có liên
quan đã được công bố, tác giả đề xuất mô hình và nội dung nghiên cứu ban đầu gồm
các biến như sau:
-

Môi trường kiểm soát : BGH quan tâm tạo lập môi trường kiểm soát thuận
lợi sẽ tạo điều kiện cho hệ thống KSNB hoạt động hiệu quả.

-

Đánh giá rủi ro: là khả năng dự báo, nhận định, và cách thức giải quyết khi
có rủi ro tiềm ẩn. Đây là yếu tố cần thiết làm tăng tính hiệu quả của hệ thống
KSNB.

-


Hoạt động kiểm soát: sẽ góp phần cung cấp thông tin xác đáng giúp BGH có
cơ sở để giải quyết vấn đề nãy sinh trong quá trình quản lý nhà trường.

-

Thông tin & truyền thông: hoạt động tốt- đặc biệt là sự công khai, minh bạch
trong tất cả các hoạt động trong nhà trường- sẽ làm nâng cao lòng tin của
nhân dân đối với sự lãnh đạo của BGH, nhiệm vụ giáo dục của nhà trường,
thể hiện tính tích cực của hệ thống KSNB.

-

Giám sát: thể hiện vai trò, trách nhiệm của tất cả các thành viên trong nhà
trường. Nó góp phần giúp cho hệ thống KSNB ngày càng hoàn thiện.

Trên cơ sở sự phát triển của báo cáo COSO từ 1992 đến 2013, hoạt động KSNB
phải triển khai đến từng đơn vị, phòng, ban, đảm bảo 3 mục tiêu và 5 bộ phận
cấu thành hệ thống KSNB, trong đó bộ phận quan trọng nhất là Môi trường kiểm
soát; cùng với nhiệm vụ kiểm tra và giám sát trong trường học theo quy định của
ngành giáo dục; qua tìm hiểu hoạt động Kiểm tra nội bộ hàng năm ở một số
trường THPT công lập trong Tỉnh Đồng Nai. Tác giả đề xuất nội dung nghiên
cứu bao gồm 5 yếu tố cấu thành hệ thống KSNB và yếu tố hiệu quả của hệ thống
KSNB, mỗi yếu tố gồm nhiều biến độc lập được đánh giá trên thang đo Likert 5
mức độ lựa chọn (từ 1: không đồng tình đến 5: rất đồng tình).


25

Môi trường kiểm soát


Đánh giá rủi ro

Hiệu quả của Hệ thống
KSNB

Hoạt động kiểm soát

Thông tin truyền thông

Giám sát
(Nguồn: Mô hình đề xuất của tác giả)
Hình 3.1: Mô hình đề xuất nghiên cứu ban đầu
Công cụ thu thập dữ liệu dùng cho đề tài này là Phiếu khảo sát gồm 23 biến độc
lập và 03 biến quan sát được thiết kế và gửi đến các cá nhân là BGH, GV, kế
toán, nhân viên đang công tác tại các trường THPT trong Tỉnh Đồng Nai( Phụ
lục 2).
Bảng 3.1: Các biến đƣợc sử dụng cho nghiên cứu sơ bộ
STT

Các yếu tố
Môi trƣờng kiểm soát

1
1.1

1.2

Các giá trị đạo đức được quy định trong bảng Quy chuẩn đạo đức trong nhà
trường .

Các điều khoản được quy định cụ thể trong Tiêu chuẩn thi đua hàng năm
của CB, GV, NV.


×