Tải bản đầy đủ (.pdf) (186 trang)

Phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 186 trang )

Header Page 1 of 258.

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

ĐOÀN ĐỨC KHÁNH

PHÁT TRIỂN Ý TƯỞNG SÁNG TẠO CỦA
NGHIÊN CỨU SINH KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN QUÂN SỰ HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2015
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
Footer Page 1 of 258.


Header Page 2 of 258.

ĐOÀN ĐỨC KHÁNH

PHÁT TRIỂN Ý TƯỞNG SÁNG TẠO CỦA
NGHIÊN CỨU SINH KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN QUÂN SỰ HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử
Mã số:

62 22 03 02



LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS Phùng Văn Thiết
2. PGS, TS Bùi Mạnh Hùng

HÀ NỘI - 2015

Footer Page 2 of 258.


Header Page 3 of 258.

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tác giả. Các số liệu, kết quả trong
luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng và không
trùng lặp với những công trình đã công bố.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Đoàn Đức Khánh

Footer Page 3 of 258.


Header Page 4 of 258.

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương 1 LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN Ý TƯỞNG SÁNG TẠO
CỦA NGHIÊN CỨU SINH KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN QUÂN SỰ
1.1.
Ý tưởng sáng tạo và thực chất phát triển ý tưởng sáng tạo
của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự
1.2.
Tính quy luật phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên
cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự
Chương 2 THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN Ý TƯỞNG SÁNG TẠO
CỦA NGHIÊN CỨU SINH KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN QUÂN SỰ HIỆN NAY
2.1.
Thực trạng và nguyên nhân phát triển ý tưởng sáng tạo
của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân
sự hiện nay
2.2.
Nhân tố tác động và yêu cầu phát triển ý tưởng sáng
tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn
quân sự hiện nay
Chương 3 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN Ý TƯỞNG SÁNG TẠO
CỦA NGHIÊN CỨU SINH KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN QUÂN SỰ HIỆN NAY
3.1.
Tiếp tục đổi mới các yếu tố cơ bản của đào tạo nhằm

tạo động lực cho phát triển ý tưởng sáng tạo của
nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự
3.2.
Xây dựng môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã
hội và nhân văn quân sự
3.3.
Phát huy nhân tố chủ quan của nghiên cứu sinh khoa
học xã hội và nhân văn quân sự trong phát triển ý
tưởng sáng tạo
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Footer Page 4 of 258.

3
7

27
27
49

69

69

93


119

119

135

147
160
162
163
171


Header Page 5 of 258.

3
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Tên đề tài nghiên cứu của luận án: “Phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên
cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay, được tác giả trăn trở suy
nghĩ trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu. Đây là một công trình khoa học có
tính mới, độc lập, không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố ở trong
và ngoài nước. Cùng với ý tưởng của mình và sớm có sự định hướng, trao đổi với
tập thể cán bộ hướng dẫn khoa học, tác giả quyết định lựa chọn đề tài này làm
vấn đề nghiên cứu trong luận án, từ đó có thể đem lại những giá trị hữu ích cho
hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và quản lý đào tạo sau đại học. Đề tài
góp phần làm sáng tỏ một số nội dung, đặc điểm và những vấn đề có tính quy luật
phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh; phân tích làm rõ thực trạng, chỉ
ra những nhân tố tác động và các yêu cầu, đề xuất hệ thống giải pháp nhằm phát

triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
Những vấn đề được trình bày trong luận án là sự kế thừa có chọn lọc từ các công
trình nghiên cứu trước đó của tập thể và cá nhân các nhà khoa học có liên quan
đến đề tài luận án.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất trong xã hội thông tin hiện nay là
trình độ tư duy, tri thức, tư tưởng của con người đang có những bước phát triển
mạnh mẽ, theo hướng "tổ chức, quản lý, sáng tạo và đổi mới" dựa trên cơ sở của
những ý tưởng mới lạ, độc đáo, hữu ích. Theo đó, vấn đề phát triển ý tưởng sáng
tạo xét trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn đã và đang trở thành nhân tố
chi phối, điều khiển và tạo ra động lực thúc đẩy quá trình phát triển đời sống con
người trong xã hội hiện đại. Bởi vì “ý tưởng vừa là nền tảng phát triển vừa là yếu
tố sản xuất” [112, tr.10], hầu hết các sản phẩm vật chất và tinh thần được làm ra
trong thời đại ngày nay đều có xu hướng kết tinh, hội tụ trong đó hàm lượng tri
thức, trí tuệ, chất xám ngày càng cao, vì thế vấn đề phát triển ý tưởng sáng tạo
ngày càng được coi trọng và phát huy một cách tối đa.
Phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân
văn quân sự có vai trò quan trọng tạo ra chất lượng mới về tư duy, trí tuệ, khả
năng sáng tạo trong hoạt động lý luận và thực tiễn chính trị quân sự của người
học ở hiện tại và tương lai. Từ đó, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, yêu

Footer Page 5 of 258.


Header Page 6 of 258.

4
cầu, nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ; làm tăng chất lượng nguồn nhân lực bậc
cao cho Đảng, Nhà nước về khoa học xã hội và nhân văn quân sự, chuyên sâu về
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối quân sự của

Đảng. Nhận thức rõ về vấn đề này, các chủ thể phát triển thường xuyên quan tâm,
coi trọng sự phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh trong quá trình học
tập, nghiên cứu lý luận và đã đạt được một số kết quả rất đáng khích lệ.
Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn, phát triển ý tưởng sáng tạo của
nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự vẫn còn tồn tại hạn chế, bất
cập về hàm lượng khoa học, tính mới, độc đáo và hữu ích còn chưa đậm độ, sự
phá cách, tính đột phá chưa rõ ràng; việc tìm tòi, khám phá ra ý tưởng mới về
hướng nghiên cứu, tiếp cận mới hoặc các quan điểm, giải pháp, cách diễn dịch
mới còn hạn chế; vẫn còn hiện tượng trùng lặp khá rõ về nội dung, hình thức kết
cấu trong các sản phẩm, công trình khoa học của nghiên cứu sinh làm ảnh hưởng
không tốt đến chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức, của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện
đại và trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước tiếp tục đặt ra cho khoa học xã hội và nhân văn quân
sự cần làm sáng tỏ trên hai phương diện lý luận và thực tiễn về quan điểm, mục
tiêu, nhiệm vụ, lực lượng, sức mạnh, phương thức bảo vệ Tổ quốc; nội dung xây
dựng nền quốc phòng, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân
dân bảo vệ Tổ quốc; quan điểm, phương châm xây dựng Quân đội về chính trị; bổ
sung, phát triển, hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội; những vấn đề chính
trị quân đội nước ngoài; đối ngoại quốc phòng, quân sự trong tình hình mới.
Vì thế, nghiên cứu làm rõ sự phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu
sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự làm cơ sở cho xây dựng đội ngũ nhà
giáo, nhà khoa học, cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ tư duy lý luận cùng với
khả năng vận dụng, sáng tạo tri thức mới, áp dụng vào hoạt động giảng dạy,
nghiên cứu, lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, giáo dục bộ đội; giải quyết đúng đắn, kịp
thời đòi hỏi từ thực tiễn hoạt động chính trị quân sự và cuộc sống; góp phần vào
xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, vững
mạnh về chính trị trong tình hình mới là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết, được tác giả
lựa chọn đề tài này để nghiên cứu trong khuôn khổ luận án tiến sĩ chuyên ngành

chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Footer Page 6 of 258.


Header Page 7 of 258.

5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Góp phần gia tăng hiệu quả phát triển ý tưởng
sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự, đáp ứng yêu
cầu nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo tiến sĩ ngành khoa học xã hội và nhân
văn quân sự hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ các vấn đề về ý tưởng, ý tưởng sáng tạo; lập luận, phân tích, khái
quát về thực chất và tính quy luật phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh
khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
- Đánh giá thực trạng, nguyên nhân, chỉ ra yếu tố tác động, xác định các
yêu cầu trong trong phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã
hội và nhân văn quân sự.
- Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm phát huy nhân tố tích cực và khắc phục
những hạn chế, bất cập trong phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh
khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh
khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
* Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề liên quan đến phát triển ý tưởng
sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự trong quá trình
học tập và nghiên cứu khoa học; đề tài sử dụng các tài liệu, số liệu điều tra, khảo
sát chủ yếu là từ năm 2008 đến nay (chỉ tập trung vào nghiên cứu sinh là cán bộ,
sĩ quan quân đội), không nghiên cứu, tìm hiểu nghiên cứu sinh dân sự.

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của luận án: là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam, nghị quyết của Đảng uỷ quân sự Trung ương về giáo dục - đào tạo,
khoa học công nghệ; về xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng và phát huy nguồn
lực con người, các công trình khoa học có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn của luận án: là tình hình thực tiễn phát triển ý tưởng
sáng tạo, các kết quả điều tra khảo sát của tác giả và những số liệu báo cáo, tổng
kết của các cơ quan đơn vị có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án.
Footer Page 7 of 258.


Header Page 8 of 258.

6
* Phương pháp nghiên cứu: Đề tài luận án vận dụng hệ thống phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; hệ thống phương
pháp nghiên cứu về tư duy (phức hợp, đột phá, tích cực, độc lập…); phương pháp
luận nghiên cứu khoa học và các phương pháp khoa học liên ngành; ngoài ra đề
tài còn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, trừu
tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống - cấu trúc, lô gích - lịch sử, phương pháp
nghiên cứu tài liệu, điều tra xã hội học, phỏng vấn và xin ý kiến chuyên gia,v.v.
6. Những đóng góp mới của luận án
Bổ sung, làm rõ đặc trưng ý tưởng và ý tưởng sáng tạo, xây dựng khái
niệm ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh; chỉ ra đặc điểm và tính quy luật phát
triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
Đánh giá thực trạng, làm rõ nhân tố tác động, chỉ ra các yêu cầu có tính
nguyên tắc; đề xuất giải pháp cơ bản, đồng bộ nhằm phát triển ý tưởng sáng tạo
của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

* Ý nghĩa lý luận: Với kết quả nghiên cứu của luận án góp phần giải quyết
làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu
sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
* Ý nghĩa thực tiễn: kết quả nghiên cứu luận án cung cấp cơ sở khoa học
học trong việc thực hiện các giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình triển ý tưởng
sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay; kết
quả của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động giáo dục
- đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản lý đào tạo sau đại học ở các học viện, nhà
trường trong và ngoài quân đội.
8. Kết cấu của luận án
Kết cấu của công trình gồm: phần mở đầu; tổng quan về vấn đề nghiên
cứu; nội dung bố cục thành 3 chương (7 tiết); kết luận; các công trình khoa học đã
công bố; danh mục tài liệu tham khảo; phụ lục.

Footer Page 8 of 258.


Header Page 9 of 258.

7
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1. Những công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu ở nước ngoài liên
quan đến phát triển ý tưởng sáng tạo
Tác giả S.E.Frost với tác phẩm “Những vấn đề cơ bản của triết học” [36], đã
đề cập tới ý tưởng và tư duy, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các quan
điểm của các nhà triết học thời cổ, trung đại đến cận đại như: Heraclitus, Socrates,
Platon, Aristotle, Glile, Descartes, Spinoza, Locke, Kant, Hegel, Comte, Mill, James,
Dewey. S.E.Frost đặt vấn đề: chúng ta có những ý tưởng từ đâu, bản chất của chúng
là gì? Bằng cách nào có những kết luận và dựa vào đó để hành động? Căn cứ vào

đâu có thể biết hành động này sẽ mang lại hạnh phúc còn hành động khác mang tới
bất hạnh? Phải chăng chúng được sinh ra cùng với chúng ta và chúng có ý thức về
thời gian hoặc phải chăng chúng ta có chúng từ những cảm nhận? Hay do các vị thần
phát hiện ra chúng giúp chúng ta? Những quy luật tư duy là gì? Các nhà tư tưởng
của mỗi thời đại nghiên cứu tư duy như thế nào? Tất cả những điều đó được
S.E.Frost khái quát lại tư tưởng của các nhà triết học bàn về ý tưởng:
Triết gia Hy Lạp, Platon (427 - 347 TCN) người đầu tiên trong lịch sử triết
học bàn về ý tưởng, coi đó là một cái gì bất biến, vĩnh cửu, nguyên mẫu. Nhưng
do xuất phát từ quan điểm duy tâm khách quan, Platon cho rằng: con người phải
vượt qua những giác quan để đến với những ý tưởng, thứ không bắt nguồn từ cảm
nhận và không phụ thuộc vào cảm nhận. Ông lý giải linh hồn đến với thế giới và
mang theo cùng với nó những ý tưởng có thực. Những thứ này đã được tồn tại
trong nó trước khi được sinh ra. Tri thức thực có được khi những ý tưởng này
được nhớ lại và đặt trước ý thức. Đây là “tri thức nhận thức” khi được phân biệt
với tri thức giác quan, thứ thực sự không phải là tri thức [36, tr.314].
Với sự khởi đầu của các quan điểm khoa học của thời kỳ Phục hưng, nhà
triết học người Ý, Galieo (1546 - 1642) đại diện cho chủ nghĩa duy vật cơ giới đã
cho rằng: “Ý tưởng của chúng ta nên dựa vào việc quan sát hoặc thử nghiệm.
Nhưng họ cũng nên thêm vào những cảm nhận, hiểu biết. Họ nên xây dựng các ý
tưởng nằm ngoài việc quan sát, thử nghiệm và suy nghĩ” [36, tr.320].
Khi đề cập đến ý tưởng, triết gia người Pháp, Descartes (1596 - 1650), với
lập trường nhị nguyên luận đã thiết lập một nguyên tắc cơ bản về tất cả lối suy
Footer Page 9 of 258.


Header Page 10 of 258.

8
nghĩ, thứ mà tất cả những ý tưởng đúng phải là rõ ràng và riêng biệt. Trí óc có
những quy phạm về tính rõ ràng và riêng biệt của nó, những quy phạm được

mang lại cho trí óc nhờ vào bản chất của nó. Descartes đã lập luận tri thức đến
với con người không phải bởi việc tiếp nhận cảm giác mà là thông qua sự lý giải
thận trọng từ những tiền đề căn bản; mỗi một ý tưởng có thể được chấp nhận nếu
nó là rõ ràng và riêng biệt sau khi nó đã được lý giải [36, tr.321].
Nhà triết học duy vật người Hà Lan, Spinoza (1632 - 1677), đưa ra lập
luận: tri thức đầy đủ, những ý tưởng rõ ràng và riêng biệt, tri thức hợp lý là kết
quả từ việc lý giải những sự vật đã được biết đến; tri thức trực giác - loại tri thức
tốt nhất và mang tới một sự thật không thể bị nghi ngờ. Ở đây không thể có một
sai lầm nào[36, tr.322]; là người theo chủ nghĩa duy lý, Spinoza đã đề cao vai trò
của trí tuệ và cho rằng trực giác là cơ sở sâu sắc nhất của năng lực sáng tạo tinh
thần con người. Nếu như vai trò của Descartes là ở chỗ đã biến quan niệm về trực
giác thần bí phi lí tính thành trực giác trí tuệ thông qua mối liên hệ tất yếu với
nhận thức lôgic, còn trực giác theo Spinoza mặc dù vẫn là hình thức nhận thức
cao nhất nhưng đó nguồn gốc và gắn liền với diễn dịch.
Cùng đề cập đến ý tưởng, nhà triết học duy vật người Anh, John Locke
(1632 -1704), với sự đề cao kinh nghiệm (tính duy cảm) là nguồn gốc của nhận
thức, ông đã kết luận tất cả những ý tưởng đến với cá nhân thông qua cảm nhận
của giác quan. Khi giao tiếp với môi trường thì kích thích những giác quan, gây ra
những cảm giác, trí óc tiếp nhận và tổ chức những cảm giác này thành các ý tưởng
và các khái niệm. Vì vậy, không có những ý tưởng bẩm sinh trong trí óc; tất cả
những ý tưởng của nó đến từ bên ngoài. Những ý tưởng được tiếp nhận thông qua
cảm nhận từ giác quan được Locke gọi là những ý tưởng đơn giản. Khi những ý
tưởng đơn giản được tổ chức lại thì tạo ra những ý tưởng phức tạp [36, tr.322].
Đối với nhà triết học Kant (1724 - 1804) là người theo chủ nghĩa duy tâm
siêu nghiệm đã tìm cách vượt qua những khó khăn của cả hai thái cực, bằng việc
cho rằng chúng ta hoàn toàn nhận các cảm giác từ môi trường, từ “vật tự thân”,
nhưng lại cho rằng trí óc thuộc về một bản chất như thế, nó định dạng những cảm
giác này thành những ý tưởng. Trong đó ý tưởng của chúng ta là một kết quả của
kiểu cơ quan suy nghĩ, thứ mà chúng ta có và được quyết định bởi bản chất của
nó. Tất nhiên, chúng ta có thể đưa ý tưởng lại với nhau thành những ý tưởng lớn

Footer Page 10 of 258.


Header Page 11 of 258.

9
và phổ biến và có thể hành động như thể những điều khái quát này là đúng. Thực
tế, để thỏa mãn những bản chất đạo đức của mình thì chúng ta phải hành động.
Nhưng ở đây chúng ta đang đề cập tới những sự đánh giá chứ không phải những
ý tưởng có thể chứng minh được [36, tr.324 - 325]. Kant đã xem ý tưởng như là
một chức năng của lý trí.
Một trong những đại diện của nền triết học cổ điển Đức là Hegel với lập
trường của chủ nghĩa duy tâm khách quan đã đưa ra quan điểm về ý tưởng rằng,
những tiến trình của trí óc nhân loại và của tự nhiên là giống nhau. Hình thức cao
nhất của tư duy là sự kết hợp hài hòa cả hai trong một sự tổng hợp đưa việc suy
nghĩ lên một bước cao hơn. Trí óc con người không dừng lại cùng với các mặt đối
lập mà cố gắng xóa bỏ chúng bằng việc tác động lên chúng một sự tổng hợp. Vậy
thì chức năng cao nhất của trí óc là hoạt động đó khiến cho một người có thể nhìn
thấy toàn bộ sự vật, nhìn thấy những mặt đối lập được hợp nhất. Ở đây, con người
có khả năng đáp ứng tầm cao có thực về bản chất của mình. Suy nghĩ chuyển
động từ những ý tưởng đơn giản cho đến những khái niệm phức tạp hơn, từ tính
chất cá thể cho tới tính chất phong phú và đầy đủ. [36, tr.326 - 327].
Sau cùng, S.E.Frost đã đưa ra những nhận định rất khách quan: Tất cả mọi
người đều biết tư duy. Tất cả chúng ta đều có những “ý tưởng” hoặc những tư
duy, chúng ta nhìn thấy thế giới xung quanh và nhớ những gì chúng ta nhìn thấy.
Chúng ta đưa ra những sự suy luận từ thực tế mà chúng ta cảm nhận, rút ra kết
luận và biến chúng thành nền tảng cơ sở cho hành động của chúng ta. Chúng ta
đã cho rằng “con người” là sinh vật sống biết tư duy. Như vậy, sự giải thích về ý
tưởng và tư duy đã có hướng chắc chắn thoát khỏi siêu nhiên. Con người đã cố
gắng giải thích tư duy theo tự nhiên, như một kết quả của những tiến hóa tự nhiên

và phụ thuộc vào những quy luật tự nhiên [36, tr.310 - 311].
Hai tác giả Bobbi Deporter & Mike Hernacki trong các tác phẩm “Phương
pháp tư duy siêu tốc” [5],“Phương pháp học tập siêu tốc” [6] và “Phương pháp
ghi nhận siêu tốc” [7] đã khẳng định sáng tạo là một thuộc tính bản chất, kỹ năng
phổ biến vốn có của con người, song nếu không được rèn luyện, củng cố thì sẽ
mai một. Chúng ta muốn phát triển các kỹ năng sáng tạo thì phải luôn có sự tin
tưởng và an toàn. Các ông cũng đã chỉ ra vai trò của môi trường sáng tạo và
những quy tắc nhất định khi các chủ thể tiến hành hoạt động sáng tạo phải tuân
Footer Page 11 of 258.


Header Page 12 of 258.

10
thủ theo chúng. Đồng thời, hai tác giả còn chỉ ra phương pháp, cách thức giải
quyết vấn đề sáng tạo: 1) nắm rõ mục tiêu của vấn đề; 2) đưa ra các ý tưởng; 3)
xem xét, lựa chọn ý tưởng phù hợp; 4) kế hoạch hành động thực thi các ý tưởng;
5) đánh giá kết quả thực hiện các ý tưởng [5, tr.185 - 198]. Các ông khẳng định,
muốn trở thành nhà tư tưởng sáng tạo, điều cần thiết là phải có trí tò mò, thích thể
hiện, sẵn sàng mạo hiểm và ham muốn làm việc có hiệu quả. Dù bất luận thế nào
thì khởi nguồn, tiền đề của ý tưởng sáng tạo đều xuất phát từ tri thức, kiến thức.
Hai nhà sưu tập ý tưởng, Chip Health và Dan Health trong tác phẩm “Tạo
ra thông điệp kết dính” [13] đã giải phẫu các ý tưởng và giải thích các phương
pháp khiến cho ý tưởng mới nảy nở và trở nên hợp lý, hiệu quả hơn trong cuộc
sống, bằng các nguyên tắc cơ bản: đơn giản, bất ngờ, cụ thể, tự tin, gợi cảm xúc,
tích luỹ nhiều kinh nghiệm [13, tr.29 - 32]. Các ông còn chỉ ra sáng tạo là mang
tính hệ thống, để ý tưởng sáng tạo của con người luôn nảy nở và phát triển thì
phải được đào tạo, huấn luyện về các kỹ năng sáng tạo. Chip Health và Dan
Health còn đề cao vai trò của sự nhận biết ý tưởng. Hoàn toàn không phải cứ "có
tài năng sáng tạo bẩm sinh thì mới tạo ra ý tưởng vĩ đại"; điều quan trọng phải

nhận ra sự sáng tạo có mối quan hệ tương tác, thế giới sẽ luôn luôn có nhiều ý
tưởng xuất sắc khi chúng ta là những người nhận biết xuất sắc và phải luôn nỗ lực
hết mình để các ý tưởng được hiện thực hoá vào cuộc sống.
Tác giả Michael Michalko trong tác phẩm “Đột phá sức sáng tạo” [66], đã
chỉ ra phương pháp tạo ra ý tưởng. Trên cơ sở, nghiên cứu, phân tích các thiên tài
tư duy sáng tạo trong lịch sử nhân loại từ Leonardo da Vinci đến Walt Disney,
Pablo Picasso đến Thomas Edison, nhà bác học Charles Darwin đến thiên tài
Martha Graham. Michael đã giải thích quá trình phát triển ý tưởng của họ với các
bước đơn giản, dễ theo dõi, bất cứ ai cũng có thể áp dụng để trở nên sáng tạo hơn.
Ông đưa ra một số chiến lược tư duy sáng tạo và tổ chức lại tư duy trên cơ sở các
chiến lược khởi phát ý tưởng. Mỗi chiến lược tư duy sáng tạo gồm nhiều kỹ thuật
thực hành và chỉ dẫn chi tiết về cách thức áp dụng chúng vào các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Theo Michael cần thay đổi cách thức xem xét, giải quyết các vấn đề
của cuộc sống, đưa ra hệ thống các giải pháp cải tiến cụ thể cho những thách thức
mà con người đang từng ngày phải đối mặt.
Ronald Gross trong tác phẩm "Học tập đỉnh cao" [89] đã cung cấp những
phương pháp, cách thức lập kế hoạch “học tập suốt đời” nhằm thành công trong
Footer Page 12 of 258.


Header Page 13 of 258.

11
học tập và trong sự nghiệp. Ông đưa ra những chỉ dẫn thiết thực, hữu ích về xây
dựng định hướng phát triển của mỗi cá nhân; mang lại những cái nhìn mới và
cách nghĩ mới về việc học. Ronald Gross đã chú trọng phát triển óc phân tích, tư
duy sáng tạo; cần học cách sử dụng toàn bộ khả năng của não bộ để tạo dựng ý
tưởng thông qua việc học tập. Với một số chiến lược: quản lý tốt hơn vấn đề đang
tìm hiểu; đặt những câu hỏi sâu sắc và sáng suốt xuất phát từ kinh nghiệm của
bản thân; khơi dậy dòng ý tưởng sáng tạo nhờ biện pháp tư duy dựa trên khái

niệm như các liên kết hình thái học, mối liên hệ đa chiều; sắp xếp toàn bộ các khả
năng của não bộ (tưởng tượng, trực giác, cảm giác) theo phương pháp kết hợp.
Đặc biệt, ông đã nhấn mạnh sự loé sáng ý tưởng bằng tưởng tượng "sáng tạo thực
sự có nghĩa là cho phép não bộ tạo ra càng nhiều ý tưởng" [89, tr.275 - 276].
Tác giả Thomas Amstrong trong tác phẩm “7 loại hình thông minh” [94],
đã có những đóng góp xuất sắc trong nghiên cứu tư duy, trí tuệ và khả năng sáng
tạo của con người, chúng ta không nên quan niệm một cách định kiến, hạn hẹp về
trí thông minh. Ông chỉ ra cách tiếp cận trí thông minh với các góc nhìn mới, đa
chiều; ai cũng có trí thông minh ở dạng khởi phát hay tiềm ẩn hoặc không được
khai thác, phát huy và mất đi vì lý do nào đó. Đồng thời, ông đưa ra chỉ dẫn muốn
khám phá, phát triển các ý tưởng thì phải rèn luyện, trau dồi quá trình tư duy,
tăng cường quan sát, rèn luyện trí tưởng tượng, liên tưởng; tạo ra sự thông thái,
nhạy cảm của hệ thống thần kinh; thường xuyên ghi chép, đồ họa, lập biểu đồ, sử
dụng nhật ký ý tưởng để lưu lại những suy nghĩ, ý nghĩ nảy sinh từ cuộc sống
hàng ngày [94, tr.93]. Do đó, phải thường xuyên luyện tập và giữ lấy những ý
tưởng nảy sinh trong quá trình đó, học cách khái quát những ý tưởng, loại bỏ
những khuôn mẫu nhận thức cũ, lỗi thời, tiến đến những cách thức nhận thức mới
hơn, sáng tạo hơn phù hợp với cuộc sống hiện đại.
Tác giả Tony Buzan nhà phát minh ra những sơ đồ tư duy, với các tác
phẩm của ông: “10 cách đánh thức tư duy sáng tạo" [100],"Sơ đồ tư duy" [101]
và “Hướng dẫn sử dụng bản đồ tư duy” [102], “Sách hướng dẫn kỹ năng học tập
theo phương pháp Buzan” [103], đã chỉ ra cách thức giúp con người phát huy khả
năng sáng tạo của tư duy, khám phá những ý tưởng mới và vẽ chúng bằng bản đồ.
Ông chứng minh rằng, con người có thể điều khiển bản chất cũng như sự phát

Footer Page 13 of 258.


Header Page 14 of 258.


12
triển của quá trình tư duy, xét về lý thuyết, khả năng sáng tạo của con người là vô
hạn; cần xây dựng các kỹ năng để nâng cao trí tuệ, trí thông minh. Theo đó, muốn
ý tưởng sáng tạo thăng hoa, phát triển, con người luôn có ước mơ, khát vọng
trong sáng, kiên trì rèn luyện, nỗ lực học tập, có quyết tâm, mạo hiểm trong cuộc
sống. Đặc biệt, phải có óc liên tưởng, tưởng tượng, sự thông suốt là điều kiện nảy
sinh ý tưởng mới và giải phóng não bộ. Ông còn chỉ rõ phương cách và những
yếu tố cấu thành sức sáng tạo, chính là hiệu suất, sức mạnh dung lượng, tốc độ
trong sáng tạo; nõi rõ kỹ thuật lập sơ đồ tư duy, kết hợp cùng chương trình Bost,
giúp người học ở mọi trình độ có thể tiếp cận phương pháp học tập tích cực, ông
phân tích các trở ngại đối với việc học tập, hướng dẫn cách nạp năng lượng tối đa
cho trí nhớ. Thông qua việc thực hành, chúng ta tự tin hơn, đồng thời phát huy tốt
năng lực học tập, tạo dựng được nhiều ý tưởng mới.
Tác giả Virender Kapoor trong tác phẩm “PQ - Chỉ Số Đam Mê” [115],
đã chỉ ra không phải chỉ số thông minh (Intelligence Quotient - IQ) mà chính là
chỉ số đam mê (Passion Quotient - PQ) mới tạo sức mạnh quyết định thành công
của con người. “Chỉ số đam mê” là một thuật ngữ mới mà Virender Kapoor sáng
tạo ra như là một cách nói mới về những gì chúng ta hay dùng để chỉ sự nhiệt
huyết hay ngọn lửa trong lòng. Niềm đam mê của chúng ta là gì và nhận biết như
thế nào về những thứ mình thích và không thích, chúng ta đã biết cách sử dụng
niềm đam mê của mình như những người thành công chưa? Với PQ - Chỉ Số
Đam Mê, tác giả đã loại bỏ ảo tưởng rằng bằng cấp và chỉ số IQ cao mới là những
động lực thúc đẩy để đạt được thành công. Chỉ số IQ giống như một đoạn mạch
AND vững chắc rất khó cải thiện. Còn chỉ số PQ là chất lửa trong mỗi con người,
chúng ta hoàn toàn có thể điều chỉnh, phát triển làm thăng hoa sự đam mê học
tập, nghiên cứu và trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tác giả Michael J.Geblb trong sách “Khám phá thiên tài trong bạn” [65],
gợi cho chúng ta những ý tưởng sáng tạo thông qua tìm hiểu các thiên tài trong
lịch sử, ông đã chỉ ra, não bộ con người là một siêu máy tính với cấu trúc hơn 100
tỉ nơ ron thần kinh có năng lực tiếp thu cao, chứa đựng khả năng ghi nhớ, học tập

và sáng tạo vô hạn. Do đó, tất cả chúng ta đều sinh ra với tiềm năng trở thành
thiên tài, để tiềm năng này được bộc lộ trọn vẹn, bản thân mỗi người phải tìm
cách phát huy nó. Nhưng quan trọng hơn, những nguyên lý tư duy tiến bộ là tinh

Footer Page 14 of 258.


Header Page 15 of 258.

13
thần cầu thị, ham muốn phát triển năng lực tri giác, dấn thân khai phá, thay đổi
thế giới quan hay trau dồi trí tuệ xúc cảm của Platon, Christopher, Copernicus,
Shakespears, Thomas Jefferson, Charles Darwin, Mahatma Gandhi, Albert
Einstein,…sẽ giúp chúng ta rèn luyện trí tuệ và không ngừng hoàn thiện bản thân.
Tập thể tác giả Helga Nowotny - Peter Scott - Michael Gibbons với tác
phẩm “Tư duy lại khoa học” [40], đã đưa ra ý tưởng, cách nghĩ mới và có những
kiến giải sâu sắc về tiến đồ phát triển của khoa học trong giai đoạn hiện nay, khi
thực tế tự nhiên, xã hội - các đối tượng nhận thức của chúng ta - đã và đang bộc
lộ các đặc trưng phức tạp, hỗn độn và bất định, tầm nhìn và năng lực nhận thức
của chúng ta còn vướng cản trong lối tư duy cơ giới, với niềm tin vào các quy
luật nhân quả giản đơn, tuyến tính. Các tác giả nói, do tri thức được bối cảnh hóa,
rất có thể không còn một khoa học độc lập, tự quản, sản xuất ra những tri thức
khách quan, độc lập, thuần khiết, một cái lõi tri thức làm nòng cốt của tri thức
luận. Bối cảnh hóa cũng có nghĩa là các bối cảnh khác nhau, tức là xã hội, tăng
cường tác động đối đáp lại khoa học, tham gia tích cực vào sản xuất tri thức.
Tiêu chí của những sản phẩm tri thức được tạo ra sẽ không chỉ là những tri
thức đúng, những “chân lý khách quan”, mà còn phải kể đến những “tri thức tin
cậy được”, những “tri thức thiết thực về mặt xã hội” (socially robust knowledge).
Các thiết chế sản xuất tri thức, các trường đại học, các phòng nghiên cứu khoa
học cũng có nhiều thay đổi theo yêu cầu của bối cảnh hóa. Xã hội tham gia tích

cực vào việc sản xuất tri thức, có nghĩa việc làm khoa học, sáng tạo tri thức,
không còn bó hẹp vào một số chuyên gia nghiên cứu trong các trường đại học và
phòng nghiên cứu, mà mở rộng ngày càng nhiều cho “công chúng”. Việc sản xuất
tri thức được “công chúng hóa” dần, có thể tiến đến một hình thức thảo luận dân
chủ rộng rãi. Công chúng hóa việc sản xuất tri thức cũng sẽ đi kèm với một sự
phân phối mới, rộng khắp hơn các “năng lực chuyên môn” trong xã hội.
Các tác giả còn đưa đến cách nhìn, một cách hiểu mới về khoa học và khi
ta nói “tư duy lại khoa học” thì điều đó không có nghĩa là nói về một khoa học
hiện hữu “được tư duy lại”. Khoa học trong cách nhìn mới sẽ không còn là cái
khoa học vốn có với quyền uy tối thượng sản xuất, ban phát các chân lý khách
quan, định đoạt tính đúng sai của nhận thức và lý giải của con người, mà là khoa
học trong tương lai, khoa học sẽ được phát triển trong sự tương tác thường xuyên
với các bối cảnh của tự nhiên và xã hội, các bối cảnh luôn luôn trong tình trạng bị
Footer Page 15 of 258.


Header Page 16 of 258.

14
tác động của những xáo trộn ngẫu nhiên, bất định, khó dự đoán trước. Khoa học
mới, hệ thống sản xuất tri thức sẽ trong những mối tương tác qua lại phức tạp, phi
tuyến, trong những trạng thái xa cân bằng, không ổn định. Thông qua các tiến
trình như vậy, bằng các khả năng học và thích nghi có thể đạt đến những xuất
hiện, những hợp trội với những chất lượng mới cho cả khoa học và xã hội.
Hai tác giả Gordon Mace & Francois Petry trong tác phẩm “Cẩm nang xây
dựng dự án nghiên cứu trong khoa học xã hội” [38], đã đưa ra những ý tưởng
mới, kỹ năng, phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội, các kiến thức nền tảng
của tiến trình phương pháp luận được trình bày, kiến giải giúp tổ chức quá trình
tư duy, phát huy tính tự chủ, khả năng phân tích, tổng hợp trong nghiên cứu. Các
ông đưa ra các giai đoạn, các khâu, các bước nghiên cứu:

1) lựa chọn đề tài nghiên cứu và xây dựng thư mục tham khảo: một số tiêu
chí cần tôn trọng khi chọn đề tài; xây dựng và trình bày thư mục tham khảo của
dự án nghiên cứu; cách thức trình bày thư mục tham khảo. 2) tại sao phải xác
định một vấn đề nghiên cứu? khu biệt một vấn đề nghiên cứu tổng quát; nhận
diện những yếu tố của vấn đề; phát biểu câu hỏi tổng quát và chọn lựa đề tài
nghiên cứu. 3) là đặt giả thuyết: thế nào là một giả thuyết; vai trò, đăc trưng, cách
kiểm chứng giả thuyết. 4) xây dựng khung phân tích: tại sao phải xây dựng khung
phân tích; từ khái niệm đến biến số; phân biệt biến số với đơn vị phân tích; mối
quan hệ lôgíc giữa các biến số; từ biến số đến chỉ báo; cơ sở lý luận của việc lựa
chọn biến số và chỉ báo. 5) chọn lựa chiến lược kiểm chứng giả thuyết: đâu là bản
chất và vai trò của chiến lược kiểm chứng giả thuyết; có những loại chiến lược
kiểm chứng nào; tính hiệu lực của bằng chứng; nghiên cứu tương quan hay
nghiên cứu trường hợp. 6) chọn lựa kỹ thuật thu thập thông tin: thu thập loại
thông tin nào; sử dụng kỹ thuật để thu thập; những phương thức sử dụng các kỹ
thuật thu thập thông tin; tiêu chí đánh giá các kỹ thuật thu thập thông tin. 7) xử lý
dữ liệu: sắp xếp dữ liệu thông tin như thế nào; phân tích dữ liệu; cần làm rõ
những điều gì đối với các phương thức sử dụng của công cụ phân tích. 8) phát
biểu các kết luận: các vấn đề văn hóa, đạo đức trong nghiên cứu khoa học xã hội.
2. Những công trình khoa học tiêu biểu trong nước nghiên cứu về phát
triển ý tưởng sáng tạo
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia “Giáo trình triết
học Mác - Lênin” [46] đã khái quát, làm rõ quan điểm của các nhà sáng lập ra chủ
Footer Page 16 of 258.


Header Page 17 of 258.

15
nghĩa Mác - Lênin khi đề cập đến ý tưởng, tư duy, nhận thức: Ý tưởng liên quan
chặt chẽ với ý thức, chính là ở sự phản ánh năng động, sáng tạo của ý thức. Tính

sáng tạo của phản ánh ý thức thể hiện ở chỗ ý thức có khả năng phản ánh bản chất,
quy luật của sự vật, hiện tượng; ý thức con người có khả năng biến đổi hình ảnh
(cảm tính và lý tính) của sự vật trong đầu óc của mình, tạo ra mô hình mới để từ đó
biến đổi sự vật trong hoạt động thực tiễn. Ý thức là sự phản ánh sáng tạo lại hiện
thực, theo nhu cầu thực tiễn xã hội. Giữa ý tưởng, ý thức, nhận thức, thực tiễn có
mối quan hệ biện chứng vừa quy định, dàng buộc vừa nương tựa nhau.
Theo triết học Mác - Lênin, khi đề cập đến ý thức là bao hàm về nguồn gốc
tự nhiên (bộ óc, giác quan, hệ thần kinh), nguồn gốc xã hội (lao động, ngôn ngữ,
quan hệ); về bản chất (sự phản ánh năng động sáng tạo). “Phương thức tồn tại của
ý thức và của một cái gì đó đối với ý thức, đó là tri thức. Tri thức là hành vi duy
nhất của ý thức. Cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chứng nào ý
thức biết cái đó. Tri thức là quan hệ có tính chất đối tượng duy nhất của ý thức”
[64, tr.236], trong đó tính sáng tạo của ý thức được thể hiện rất phong phú. Trên
cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng
tượng ra cái không có trong thực tế. Ý thức có thể tiên đoán, dự báo tương lai
(phản ánh vượt trước), có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những giả
thuyết, lý thuyết khoa học trừu tượng, khái quát cao.
Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của các mặt cơ bản: Một là, trao
đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất
hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin. Hai Là, mô hình hoá đối
tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình "sáng
tác lại" hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hóa các đối tượng vật chất thành các
ý tưởng tinh thần phi vật chất. Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách
quan, tức quá trình hiện thực hoá tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái
quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các
dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này con người lựa chọn những
phương pháp, phương tiện, công cụ tác động vào hiện thực khách quan nhằm
thực hiện mục đích của mình. Điều đó, càng nói lên tính năng động sáng tạo của
ý thức [46, tr.199 - 202].
Footer Page 17 of 258.



Header Page 18 of 258.

16
Trong ý tưởng cơ cấu hợp lý của nó là một hình thức của tư duy, các loại khái
niệm có ý nghĩa đặc biệt liên hợp cả những kiến thức về thực tế hiện tại và mục tiêu
chủ quan, với mục tiêu chuyển đổi của nó. Tính đặc thù của ý tưởng là khả năng xác
định, đặc điểm quan trọng nhất của các quá trình khách quan tạo ra một tổng thể,
hình ảnh chuẩn mực của các đối tượng trong nhận thức và sáng tạo; là sự kết hợp các
khía cạnh lý thuyết và thực tế của mối quan hệ của con người với thế giới. Ý tưởng
là cơ sở của một quá trình sáng tạo của con người. Ý tưởng có thể đúng hoặc sai.
Tiêu chuẩn của chân lý là ý tưởng của thực tiễn xã hội và lịch sử.
Giữa ý thức, nhận thức, tư duy, ý tưởng, thực tiễn luôn có mối quan hệ
biện chứng, “Nhận thức là quá trình hiện thực khách quan bởi con người, là quá
trình tạo thành tri thức, trong bộ óc con người về hiện thực khách quan. Nhờ có
nhận thức, con người mới có ý thức về thế giới; ý thức về cơ bản là kết quả của
quá trình nhận thức thế giới. Thế giới vật chất tồn tại khách quan ở ngoài độc lập
với ý thức của con người, tác động vào các giác quan sinh ra cảm giác, từ đó đi
tới hình thành ý thức” [46, tr.344].
Quá trình nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và trở về
với thực tiễn. Ph.Ăngghen đã viết “Cái mà tư duy của chúng ta có thể nhận thức
được, là căn cứ cho chúng ta thấy tư duy đã nhận thức và hàng ngày đang nhận
thức. Và như thế là đủ, cả về mặt lượng lẫn về chất” [1, tr.732]. Đó cũng là quá
trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản
chất sâu sắc hơn. Thực tiễn là cơ sở, mục đích, động lực chủ yếu và trực tiếp của
nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức.“Chính việc người ta
biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới
tự nhiên là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ
con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cách cải biến tự

nhiên” [1, tr.720]; cần quán triệt: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là
quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức” [52, tr.167].
Nhóm nghiên cứu của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia
trong sách“Tư duy phát triển hiện đại: Một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn”
[112], đã giới thiệu những ý tưởng về phát triển của tác giả Gerald M. Meier
trong thời đại toàn cầu hóa và khi vai trò của kinh tế tri thức ngày càng tăng, khoa
học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trong đó tri thức là sức mạnh nòng cốt
của lực lượng sản xuất mới. Theo đó, những ý tưởng là mối quan tâm hàng đầu,
Footer Page 18 of 258.


Header Page 19 of 258.

17
là những hàng hóa kinh tế cực kỳ quan trọng, trong một thế giới với những hạn
chế vật chất, chính sự phát hiện ra các ý tưởng lớn, cùng với sự phát triển hàng
triệu ý tưởng nhỏ sẽ khiến cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Các ý tưởng là
lời chỉ dẫn cho phép chúng ta sử dụng những nguồn lực vật chất hạn chế luôn
hiệu quả hơn. Mục đích cuối cùng là làm cho các ý tưởng thích hợp về sự phát
triển được tiếp thu và thực thi, “việc thực hiện được ý tưởng là điều căn bản để
nâng cao năng suất tổng nhân tố”, có thể tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế. Với ý nghĩa sâu sắc, những ý tưởng khoa học
còn có thể thay đổi những giá trị của một xã hội và có thể hỗ trợ cho quá trình
hiện đại hóa [112, tr.11 - 14].
Đồng tác giả Vũ Đình cự và Trần Xuân Sầm trong tác phẩm “Lực lượng
sản xuất mới và kinh tế tri thức” [14], đưa ra những đặc điểm của lực lượng sản
xuất mới hiện nay là khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vì tất cả
sản phẩm lao động đều là kết quả của quá trình vật hóa sức mạnh của tri thức, đến
một mức độ phát triển nhất định của nền sản xuất thì tri thức khoa học có thể trực
tiếp trở thành yếu tố đầu vào của sản xuất. Khoa học trong lực lượng sản xuất

mới có nghĩa rộng, không chỉ bao hàm khoa học công nghệ mà còn nhiều ngành
khoa học xã hội.
Những tri thức kinh tế học, khoa học quản lý, tài chính, ngân hàng, tâm lý
học, mỹ học, ngôn ngữ học.v.v. ngày càng trở thành yếu tố quan trọng của lực
lượng sản suất mới. Tri thức được khẳng định là động lực chủ yếu của sự tăng
trưởng, tạo ra của cải, tạo ra việc làm trong tất cả các ngành của nền kinh tế mới nền kinh tế tri thức [14, tr.145 - 148]. Các tác giả chỉ ra phương thức phát triển
nền kinh tế tri thức là xã hội học tập, học tập xuốt đời cho mọi người. Để có tri
thức, mỗi người cần học tập thường xuyên hơn nữa, có tổ chức và dưới nhiều
hình thức, mới, có thể tiếp thu và chuyển hóa tri thức chung thành kỹ năng, thành
cái của mình. Việc học tập suốt đời trong nền kinh tế tri thức chẳng những giúp ta
vượt qua thách thức của một thế giới biến động, đang đổi thay nhanh chóng, mà
còn mở ra cơ hội thích nghi, tiếp cận trong không gian và thời gian hiện đại.
Tác giả Phan Dũng với bộ sách "Sáng tạo và đổi mới" gồm 7 tác phẩm:
"Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới" [16], "Thế giới bên trong con người
sáng tạo" [17], "Tư duy lôgíc, biện chứng và hệ thống" [18], "Các thủ thuật
(nguyên tắc) sáng tạo cơ bản phần 1”[19], "Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo
Footer Page 19 of 258.


Header Page 20 of 258.

18
cơ bản phần 2” [20], "Các phương pháp sáng tạo" [21], "Các quy luật phát triển
hệ thống" hay (Các quy luật sáng tạo và đổi mới) [22], đưa đến cách nghiên cứu
một cách toàn diện, có hệ thống về lý luận và thực tiễn sáng tạo. Theo tác giả,
sáng tạo là nhu cầu mang tính tự nhiên,"Sáng tạo (creativity) là hoạt động tạo ra
bất kỳ cái gì có đồng thời tính mới và ích lợi" [16, tr.21]; "Phương pháp luận sáng
tạo và đổi mới là hệ thống các phương pháp và các kỹ năng cụ thể sử dụng
phương pháp dùng để thực hiện sáng tạo và đổi mới" [16, tr.92] nâng cao chất
lượng cuộc sống của con người.

Công dụng của phương pháp luận sáng tạo và đổi mới nhằm trang bị các
cách thức khác nhau trong nghiên cứu xem xét sự vật, hiện tượng; thấy được sự
liên hệ, khuynh hướng, dự báo phát triển, nhận biết được sự tương đồng, thống
nhất và các loại mâu thuẫn giữa các sự vật; các vấn đề nảy sinh; tăng tính nhạy
bén của tư duy trong tiếp thu, đánh giá, xử lý thông tin; phát triển trí tượng tưởng;
phát ra các ý tưởng; xây dựng và sử dụng các kiểu tư duy để giải quyết vấn đề
sáng tạo. Tác giả đề cao vai trò nền tảng của tư duy lôgíc, tư duy biện chứng và tư
duy hệ thống trong việc đáp ứng và phục vụ tốt nhất với tư cách là các kiến thức
cơ sở của phương pháp luận sáng tạo và đổi mới, đồng thời nhấn mạnh đến các
yếu tố: tri thức, thông tin, khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo có vai trò rất
quan trọng đưa đến sự thành công trong sáng tạo và đổi mới.
Để có ý tưởng sáng tạo, các yếu tố xúc cảm, thói quen, tính nhạy bén, trí
nhớ, tưởng tượng, liên tưởng, linh cảm (trực giác); các cấp độ của ý thức, tiềm
thức và vô thức [17, tr.178 - 194] hợp thành cơ chế tác động, ảnh hưởng đến sự
hình thành ý tưởng; ngoài ra sức ỳ, điều kiện, môi trường không thuận lợi sẽ là
lực cản trong tư duy sáng tạo, làm ý tưởng khó nảy sinh và phát triển. Vì vậy, cần
coi trọng phát hiện, bồi dưỡng năng lực sáng tạo, có môi trường thích hợp, để
năng lực sáng tạo của các cá nhân có thể phát triển ở mức cao nhất. Theo tác giả,
muốn điều khiển hành động và thế giới bên trong con người sáng tạo, phải hiểu lý
thuyết và nắm chắc một số mô hình về hệ điều khiển và bị điều khiển, các mối
quan hệ tương tác, nhân quả, phản hồi giữa các hệ điều khiển sáng tạo.
Tác giả Nguyễn Đình Gấm với bài viết: “Sáng tạo - phẩm chất nhân cách
hàng đầu của con người trong xã hội hiện đại” [37], đã đưa ra quan điểm coi
sáng tạo là tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó, phụ thuộc vào
những cái đã có. Ở một góc độ nào đó khi nói đến sáng tạo là bao hàm trong đó ý
Footer Page 20 of 258.


Header Page 21 of 258.


19
tưởng mới, thực hành theo cách mới, làm ra sản phẩm mới có ích lợi. “Ý tưởng là
mầm mống của sự sáng tạo, do đó trước tiên cần quan tâm đến các ý tưởng mới”
[37, tr.60]. Khi ý tưởng xuất hiện thì phải nhanh chóng lưu giữ và phát triển ý
tưởng trở thành những kết quả, sản phẩm có giá trị hữu ích. Đồng thời, tác giả
nhấn mạnh những ý tưởng mới chỉ có giá trị khi chứa đựng những hạt nhân hợp
lý, là cơ sở, tiền đề giải quyết các vấn đề đặt ra. Tố chất cá nhân, phương pháp
giáo dục, môi trường xã hội là các nhân tố ảnh hưởng, quy định đến sự xuất hiện
các ý tưởng mới. Theo đó, cần có những cơ chế để khuyến khích, động viên các
tập thể, cá nhân biến những ý tưởng sáng tạo trong khoa học, nghệ thuật, kinh
doanh và hiện thực hoá trong thực tiễn.
Hai tác giả Việt Phương và Thái Ninh trong tác phẩm "IQ - EQ nền tảng
của sự thành công" [83] đã chỉ ra vai trò của trí thông minh và trí thông minh xúc
cảm đưa đến thành công trong cuộc sống. Theo các tác giả, trí tuệ là "Năng lực
học tập các tri thức mới và năng lực thích ứng với hoàn cảnh dựa vào những trải
nghiệm. Nó được cấu thành từ các mặt: trí nhớ, khả năng tư duy, tưởng tượng, sự
tập trung, sức quan sát, sức sáng tạo...."[83, tr.12]. Muốn nâng cao năng lực trí
tuệ cần nắm chắc đặc điểm của chúng, tăng cường rèn luyện trí nhớ; linh hoạt
trong suy nghĩ, có kế hoạch học tập, nghiên cứu hợp lý; vận dụng tổng hợp
phương pháp, kỹ năng tư duy. Sáng tạo ra hình tượng mới trên cơ sở cải tạo
những biểu tượng, ký ức trong não bộ; là quá trình tổ hợp lại, liên kết các hình
tượng, đúc kết từ kinh nghiệm, trải nghiệm; rèn luyện, tập trung cao độ (hành vi,
thói quen, chú tâm), sự quan sát, tính sáng tạo trong học tập. Từ đó, giúp cho trí
tuệ, năng lực nhận thức được biểu hiện một cách vững chắc trong các hoạt động
cảm nhận, nhận biết, phán đoán đưa ra ý tưởng.
Tác giả Lê Văn Quang trong tác phẩm "Phát triển trí tuệ và năng lực sáng
tạo khoa học trong đào tạo sau đại học" [84] đã chỉ ra những yêu cầu khách quan
về chất lượng đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ và hiện trạng của các nhiệm vụ đó. Vì vậy,
đòi hỏi các lực lượng tham gia quá trình đào tạo cần tập trung mọi cố gắng tạo ra
sự chuyển biến về chất lượng; đánh giá khách quan đối với chất lượng đào tạo

của các ngành khoa học; nghiên cứu, phát triển, bổ sung, đổi mới và phát huy vai
trò các nhân tố trong đào tạo. Quá trình nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học
về khoa học xã hội và nhân văn, cần nâng lên một trình độ mới, cao hơn hẳn trình
độ đại học đối với toàn bộ các nhân tố cơ bản của quá trình đó: nâng cao chất
Footer Page 21 of 258.


Header Page 22 of 258.

20
lượng đội ngũ giảng viên; đổi mới mô hình, chương trình nội dung đào tạo; phát
triển phương pháp giảng dạy,...trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực bậc cao
cho đất nước, nhằm phục vụ tích cực cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và
tăng cường quốc phòng, an ninh theo yêu cầu mới [84, tr.14 - 15].
Tác giả Hoàng Chí Bảo trong tác phẩm “Dân chủ trong Nghiên cứu khoa
học xã hội và nhân văn” [4], đã chỉ ra tính phức tạp của khoa học này. “Vấn đề
càng trở nên phức tạp hơn khi đối tượng - khách thể nghiên cứu là một hiện tượng
văn hóa, một quan hệ con người chứ không phải hiện tượng tự nhiên trong giới tự
nhiên vô cơ hoặc giới tự nhiên sinh vật. Chính điều này quy định tính phức tạp
của khoa học xã hội. Đây là tính phức tạp đặc thù của khoa học xã hội và nhân
văn có trong những khoa học “không chính xác” - cái phân biệt chúng với các
khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ - vốn là khoa học “chính xác”, có thể
thực chứng được” [4, tr.10].
Tác giả còn phân tích và lập luận: khoa học xã hội và nhân văn, một lĩnh
vực khoa học rất đặc thù hướng tới tính đúng đắn, chính xác, không phải theo
kiểu số học và toán học hoặc thực chứng đến từng chi tiết trong thí nghiệm. Nó
đúng đắn chính xác ở chỗ phát hiện ra cái chủ yếu - bản chất giữa vô số cái thứ
yếu, không bản chất…Nó tìm ra các quy luật vận động gắn liền với bản chất của
nó; đi tìm các quy luật chi phối sự bộc lộ các thuộc tính, đặc trưng, xu hướng và
khuyng hướng vận động tiếp theo của sự vật. Để làm được điều này, khoa học

nghiên cứu về con người và xã hội đòi hỏi chủ thể nghiên cứu phải có được năng
lực tư duy sáng tạo, phân tích - tổng hợp - khái quát và trừu tượng hóa rất cao,
tiến sâu vào cái bản chất vốn khuất lấp ở bên trong các đối tượng đó. Tính đúng
đắn chính xác của khoa học xã hội và nhân văn trong đó có nghiên cứu lý luận là
ở chỗ vạch ra các cơ sở, những điểm tựa, những định hướng tư tưởng cho con
người hành động, gợi mở tiếp tục thúc đẩy con người tự nhận thức, tự giải quyết
các vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Tác giả Đào Văn Tiến khi nghiên cứu về “Phát triển năng lực tư duy sáng
tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [89]
đã cho rằng năng lực tư duy sáng tạo là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái
hiện, liên tưởng, trừu tượng hoá, khái quát, xử lý thông tin trong quá trình phản
ánh và tạo ra tri thức mới về đối tượng nhằm chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người ngày càng có hiệu quả.
Footer Page 22 of 258.


Header Page 23 of 258.

21
3. Những công trình khoa học trong nước nghiên cứu về đào tạo trình
độ tiến sĩ ở các ngành khoa học trong đó có khoa học xã hội và nhân văn
Thông qua tìm hiểu, khái quát các công trình khoa học nghiên cứu về đào
tạo trình độ tiến sĩ ở các ngành trong đó có khoa học xã hội và nhân văn để chúng
ta thấy được chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học và các điều kiện bảo đảm
cho chúng. Từ đó, nhận biết được chất lượng nghiên cứu sinh về năng lực trí tuệ,
tư duy, trình độ tri thức, khả năng sáng tạo của họ đang như thế nào.
Nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội (1010 -2010) và kỷ
niệm 30 đào tạo sau đại học của nước ta (1976 - 2006), nhóm tác giả Nguyễn
Mạnh Cường, Nguyễn Thị Hồng Hà với tác phẩm “Nho Giáo đạo học trên đất
kinh kỳ Thăng long - Hà Nội”[15], đã đưa ra nhận xét, đánh giá về đào tạo sau

đại học trong đó đề cập đến đào tạo trình độ tiến sĩ ở nước ta. Với nhiều số liệu
dẫn chứng về cơ sở đào tạo sau đại học trong cả nước hiện nay là 155 bao gồm 85
trường đại học và học viện, 70 viện nghiên cứu (trong số 127 cơ sở đào tạo trình
độ tiến sĩ). Đào tạo trình độ tiến sĩ, thời gian qua đã bổ sung lực lượng lớn cho
đội ngũ giáo viên các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu; nhiều cán
bộ có trình độ tiến sĩ được đào tạo trong nước hiện đang giữ vị trí quan trọng
trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học. Nhiều công trình đề tài luận án tiến
sĩ các ngành có khả năng ứng dụng cao, góp phần tích cực vào sự phát triển của
đất nước. [15, tr.388 - 389].
Tuy nhiên, các tác giả cũng chỉ ra những yếu kém, bất cập về chương trình
đào tạo còn nặng nề, đơn điệu, nặng tính hàn lâm, thiếu thực tiễn, còn trùng lặp,
việc bổ sung chỉnh sửa, cập nhật kiến thức mới sau từng năm học hay từng học kỳ
chậm được thực hiện; nội dung các chuyên đề tiến sĩ còn chưa đáp ứng được mục
tiêu đề ra, chưa đạt được hiệu quả nâng cao kiến thức chuyên ngành, cập nhật cho
nghiên cứu sinh cũng như giúp cho họ giải quyết các vấn đề nghiên cứu; việc xác
định đề tài, hướng nghiên cứu của nghiên cứu sinh chưa xuất phát từ yêu cầu phát
triển của các ngành khoa học, tính mới và khả thi trong các công trình và khả
năng thực hiện của người học còn hạn chế; việc phân công hướng dẫn nghiên cứu
sinh còn chưa bảo đảm về chuyên môn sâu, am hiểu đề tài nghiên cứu cũng như
khả năng định hướng dẫn dắt nghiên cứu sinh; đa số các luận án thuộc lĩnh vực
kinh tế, quản lý, chính trị, tâm lý, giáo dục có những kết luận, giải pháp chung
chung, không bao giờ sai nhưng cũng không có ý tưởng mới.
Footer Page 23 of 258.


Header Page 24 of 258.

22
Trong Kỷ yếu Hội thảo của Bộ Giáo dục - Đào tạo về “Gắn kết nghiên cứu
khoa học với đào tạo tiến sĩ trong các cơ sở đào tạo sau đại học” [10], có 53 bài

viết của các tác giả đề cập đến vấn đề này và cho rằng, đào tạo tiến sĩ và nghiên
cứu khoa học là những nhiệm vụ cơ bản, quan trọng xuyên suốt ở mọi cơ sở có
đào tạo trình độ tiến sĩ. Xét về bản chất đào tạo trình độ tiến sĩ là hướng đến mục
tiêu giúp cho người học tự hình thành, nâng cao năng lực tự phát hiện, giải quyết
sáng tạo các vấn đề trong lĩnh vực chuyên môn được đào tạo. Năng lực này là
tổng hòa của các thành tố: tri thức khoa học, kỹ năng (chuyên môn, tổ chức thực
hiện), phương pháp tư duy, kinh nghiệm thực tiễn. Sự hình thành và phát triển các
yếu tố đó là thành quả của quá trình đào tạo phát huy tối đa vai trò của người dạy
và người học, đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, thực hành nghề nghiệp với tự
đào tạo, tự nghiên cứu liên tục, suốt đời [10, tr.10].
Quá trình gắn nghiên cứu khoa học với đào tạo trình độ tiến sĩ trong các cơ
sở đào tạo sau đại học là tổng thể các chủ trương, nội dung, hình thức, biện pháp
của lãnh đạo, chỉ huy các cấp, các lực lượng tham gia vào nghiên cứu khoa học
và đào tạo trình độ tiến sĩ ở các cơ sở đó và được thực hiện thông qua các hoạt
động xây dựng chương trình nội dung, phương pháp đào tạo; nghiên cứu đề tài,
biên soạn sách, giáo trình, tài liệu phục vụ đào tạo trình độ tiến sĩ; chất khoa học
trong quy trình giao đề tài luận án, người hướng dẫn nghiên cứu sinh; trong tổ
chức đánh giá luận án tiến sĩ các cấp.
Trong các sách: Những vấn đề cơ bản nâng cao chất lượng đào tạo sau đại
học ở Học viện Chính trị quân sự [41]; Đào tạo sau đại học ở Học viện Chính trị
quân sự - Thành tựu và triển vọng [42]; Đào tạo sau đại học ở Học viện Chính
trị quân sự (1986 - 2005) - Thành tựu và kinh nghiệm [43]; Nâng cao chất lượng
tạo nguồn đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học xã hội nhân văn quân sự
trong quân đội hiện nay [44], đã khẳng định Học viện Chính trị là một trong
những trung tâm của quốc gia về đào tạo sau đại học, góp phần làm tăng số lượng
và chất lượng nguồn nhân lực bậc cao là đội ngũ nhà sư phạm, cán bộ khoa học
các ngành khoa học xã hội và nhân văn cho đất nước và quân đội.
Trong hơn 27 năm (1987 - 2015) thực hiện đạo tạo sau đại học, trong đó có
đào tạo trình độ tiến sĩ đạt được nhiều thành tựu quan trọng, có hàng trăm nghiên
cứu sinh bảo vệ thành công luận án và được công nhận học vị tiến sĩ. Để không


Footer Page 24 of 258.


Header Page 25 of 258.

23
ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập,
cần tiếp tục thực hiện tốt mục tiêu đào tạo trình độ tiến sĩ, đào tạo ra những cán
bộ khoa học có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức cách mạng trong
sáng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của đất nước và
quân đội, có trình độ cao về lý luận và năng lực giảng dạy, nghiên cứu khoa học,
có tư duy độc lập sáng tạo, khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề mới có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn, có trình độ tri thức chuyên ngành sâu, tiên phong
trong sự nghiệp xây dựng quân đội về chính trị, đấu tranh tư tưởng lý luận, bảo
vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm của Đảng.
Tuy nhiên, trong đánh giá đào tạo trình độ tiến sĩ khoa học xã hội và nhân
văn quân sự, đã chỉ ra thiếu sót, hạn chế về trình độ chuyên sâu về chuyên ngành;
năng lực độc lập nghiên cứu, sự tự tin vào khả năng bản thân của một số nghiên
cứu sinh ở mức thấp; vốn sống, trải nghiệm, kiến thức, tính năng động sáng tạo,
khả năng tiếp cận cái mới, giao tiếp, hòa nhập thích ứng chưa theo kịp đòi hỏi của
thực tiễn; nội dung chương trình, phương pháp đào tạo còn lạc hậu; chất lượng
tuyển tuyển sinh còn bất cập; phương pháp tự học, tự nghiên cứu chưa đề cao;
chất lượng giảng dạy, chất lượng đội ngũ giảng viên sau đại học chưa đồng đều,
số người giỏi chưa nhiều; chất lượng của một số luận án tiến sĩ còn hạn chế, ý
nghĩa đóng góp cho thực tiễn chưa lớn; công tác quản lý sau đại học còn bất cập
trước đòi hỏi nâng cao chất lượng đào tạo.
Để nâng cao chất lượng đào tạo trình độ tiến sĩ các ngành khoa học xã hội
và nhân văn quân sự. Cần làm tốt công tác chuẩn bị bồi dưỡng nguồn và công tác

tuyển sinh; thường xuyên xây dựng, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên; đổi mới nội dung chương trình, khoa học hóa quy trình đào tạo; đổi
mới nâng cao chất lượng tự học, nâng cao chất lượng xây dựng và bảo vệ luận án;
phát triển quy mô đào tạo, đổi mới công tác tổ chức quản lý, tăng cường cơ sở vật
chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ đào tạo sau đại học [43, tr.122 - 132].
Trong các đề tài: Đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ
khoa học xã hội nhân văn ở Học viện Chính trị thời kỳ mới [110]; Phát huy tư duy
độc lập của nghiên cứu sinh trong thực hiện luận án tiến sĩ ở Học viện Chính trị
hiện nay [111]; Gắn nghiên cứu khoa học với đào tạo tiến sĩ ở Học viện Chính trị

Footer Page 25 of 258.


×