Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) ĐẾN QUAN HỆ LAO ĐỘNG TRONG NGÀNH DỆT MAY Ở VIỆT NAM.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.43 KB, 19 trang )

Lời nói đầu
Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) hiện được coi như là
Hiệp định thương mại tự do “ thế hệ mới ” đầy tham vọng với những tiêu chuẩn
cao, là một thỏa thuận khu vực mở rộng, linh hoạt và toàn diện. Mục tiêu chính là
mở cửa thị trường mạnh và tham gia sâu vào các bên, loại bỏ các loại thuế quan
cho hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên,… TPP được xem
là cơ hội mà Việt Nam không thể bỏ qua. Quy mô của TPP tạo ra những lợi ích to
lớn cho nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt đối với ngành dệt may – trong nhiều năm
qua vốn là ngành xuất khẩu chủ lực của nước ta. Hiệp định TPP sẽ tác động nhiều
đến các vấn đề của ngành dệt may, trong đó có quan hệ lao động. Vì vậy, em đã
chọn đề tài “ Phân tích tác động của Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương
(TPP) tới Quan hệ lao động trong ngành dệt may ở Việt Nam”.


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI XUYÊN THÁI
BÌNH DƯƠNG (TPP)
1.1.

Giới thiệu khái quát về Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương

Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (tên tiếng Anh: Trans- Pacific
Partnership Agreement - viết tắt là TPP) là một hiệp định, thỏa thuận thương mại
tự do giữa 12 quốc gia với mục đích hội nhập nền kinh tế khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương. Hiệp định này được ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006
giữa 4 nước Singapore, Chile, New Zealand, Brunei. Tháng 9/2008, Hoa Kỳ tỏ ý
định muốn đàm phán để tham gia TPP. Sau đó, tháng 11/2008, các nước khác là Úc,
Peru, Việt Nam cũng thể hiện ý định tương tự. Đến tháng 10/2010, Malaysia chính
thức thông báo ý định tham gia đàm phán TPP.
Ngày 13/11/2010, Việt Nam tuyên bố tham gia vào TPP với tư cách thành viên
đầy đủ. Và đến ngày 04/02/2016 Việt Nam chính thức ký kết TPP và TPP sẽ bắt
đầu có hiệu lực 2 năm sau đó.


1.2.

Đặc điểm của Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP)
Có năm đặc điểm chính đã làm TPP trở thành một Hiệp định quan trọng của thế

kỷ 21, đặt ra các tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu, đồng thời tiếp tục giải
quyết các vấn đề của thời đại mới. Những đặc điểm đó bao gồm:
- Tiếp cận thị trường toàn diện: TPP đã xóa bỏ hoặc giảm thuế quan và các rào
cản phi thuế quan một cách đáng kể đối với mua bán hàng hóa và dịch vụ, bao trùm
một mảng lớn về thương mại, bao gồm hàng hóa, dịch vụ, và đầu tư nhằm tạo ra
các cơ hội mới và lợi ích cho doanh nghiệp, công nhân, và người tiêu dùng của các
nước ký kết.
- Cách tiếp cận các cam kết khu vực: TPP hỗ trợ sự phát triển sản xuất, chuỗi
cung ứng, và thương mại liền mạch, tăng cường hiệu quả, tạo và hỗ trợ việc làm,
nâng cao mức sống, tăng cường các nỗ lực bảo tồn, hỗ trợ hội nhập xuyên biên
giới, cũng như mở cửa thị trường trong nước.
- Giải quyết các thách thức thương mại mới: TPP thúc đẩy sự đổi mới, năng
suất, và tính cạnh tranh nhờ vào việc xem xét giải quyết các vấn đề mới, trong đó


có phát triển kinh tế kỹ thuật số và vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong nền
kinh tế toàn cầu.
- Thương mại toàn diện: TPP bao gồm các yếu tố mới nhằm đảm bảo các nền
kinh tế ở các mức độ phát triển khác nhau và các doanh nghiệp có quy mô khác
nhau đều có thể đạt được lợi ích từ thương mại. Hiệp định bao gồm cam kết giúp
đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiểu được Hiệp định, nắm bắt các cơ hội, và buộc
chính quyền các nước tham gia TPP phải chú ý đến những thách thức đặc thù của
mình. Hiệp định cũng bao gồm những cam kết cụ thể về phát triển và xây dựng
năng lực thương mại để đảm bảo rằng tất cả các Bên có thể tuân thủ cam kết trong
Hiệp định và tận dụng được những lợi ích.

- Nến tảng hội nhập khu vực: TPP được định hình như một nền tảng cho hội
nhập kinh tế khu vực và nhắm đến cả những nền kinh tế khác trong khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương.
1.3.

Nội dung của Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP)

1.3.1. Thương mại hàng hóa

Các Bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các hàng rào
phi thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp và xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan
cũng như các chính sách mang tính hạn chế khác đối với hàng hóa nông
nghiệp.Ngoài ra, các Bên nhất trí không áp dụng các hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu
và các loại thuế không phù hợp với WTO, bao gồm cả đối với hàng tân trang - việc
này được cho là sẽ thúc đẩy việc tái chế tất cả các bộ phận để chuyển thành các sản
phẩm mới.Đối với hàng nông nghiệp, các Bên sẽ xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan
và các chính sách mang tính hạn chế khác để gia tăng thương mại hàng nông
nghiệp trong khu vực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao an ninh lương thực và
hỗ trợ việc làm cho người nông dân và chủ trại nuôi gia súc của các nước TPP.
1.3.2. Dệt may
Các Bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ thuế quan đối với hàng dệt may – ngành
công nghiệp đóng vai trò quan trọng vào tăng trưởng kinh tế tại một số thị trường
của các nước TPP.Hầu hết thuế quan sẽ được xóa bỏ ngay lập tức, mặt dù thuế quan
đối với một số mặt hàng nhạy cảm sẽ được xóa bỏ với lộ trình dài hơn do các Bên
thống nhất.Chương Dệt may cũng bao gồm các quy tắc xuất xứ cụ thể yêu cầu việc
sử dụng sợi và vải từ khu vực TPP - điều này sẽ thúc đẩy việc thiết lập các chuỗi
cung ứng và đầu tư khu vực trong lĩnh vực này, cùng với cơ chế “nguồn cung thiếu


hụt” cho phép việc sử dụng một số loại sợi và vải nhất định không có sẵn trong khu

vực.
1.3.3. Quy tắc xuất xứ
12 nước Thành viên TPP đã thống nhất về một bộ quy tắc xuất xứ chung để xác
định một hàng hóa cụ thể “có xuất xứ” và do vậy được hưởng thuế quan ưu đãi
trong TPP.Các Bên tham gia TPP cũng đưa ra các quy tắc để bảo đảm rằng doanh
nghiệp có thể hoạt động một cách dễ dàng xuyên khu vực TPP thông qua việc thiết
lập một hệ thống chung trên toàn TPP về chứng minh và kiểm tra xuất xứ của hàng
hóa TPP.
1.3.4. Các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật
Các nước TPP nhất trí cho phép công chúng được đóng góp ý kiến vào các dự
thảo quy định SPS trong quá trình đưa ra quyết định và ban hành chính sách cũng
như để bảo đảm rằng doanh nghiệp hiểu rõ các quy định mà họ sẽ phải tuân thủ.
1.3.5. Nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh
Chương Nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh khuyến khích các cơ quan
có thẩm quyền của các thành viên TPP cung cấp thông tin về việc nộp đơn xin nhập
cảnh, để đảm bảo rằng phí nộp đơn là hợp lý, đưa ra quyết định đối với đơn xin
nhập cảnh và thông tin cho các ứng viên nộp đơn về quyết định là sớm nhất có
thể.Các thành viên TPP đồng ý đảm bảo rằng các yêu cầu về nhập cảnh tạm thời là
sẵn sàng công khai cho công chúng, bao gồm công bố thông tin kịp thời và trực
tuyến nếu có thể và cung cấp tài liệu giải thích; tiếp tục hợp tác về các vấn đề nhập
cảnh tạm thời chẳng hạn như xử lý thị thực.Đa số các thành viên TPP cũng đã cam
kết về mở cửa thị trường khách kinh doanh cho nhau, theo như Phụ lục cụ thể của
từng nước đính kèm Hiệp định TPP.
1.3.6. Thương mại điện tử
Các Thành viên TPP cam kết đảm bảo rằng các công ty và người tiêu dùng có
thể tiếp cận và chuyển dữ liệu, với các mục tiêu chính sách công hợp pháp, chẳng
hạn như quyền riêng tư, nhằm đảm bảo tự do lưu chuyển thông tin và dữ liệu toàn
cầu, dẫn dắt nền kinh tế Internet và kỹ thuật số. Không yêu cầu các công ty TPP
thiết lập các trung tâm dữ liệu để lưu trữ dữ liệu như là một điều kiện để được hoạt
động tại một thị trường TPP và thêm vào đó, mã nguồn của phần mềm không được

yêu cầu lưu chuyển hoặc tiếp cận. Thông qua và duy trì các luật bảo vệ người tiêu
dùng liên quan đến các hoạt động thương mại gian lận và lừa bịp trực tuyến và đảm
bảo rằng sự riêng tư và sự bảo vệ người tiêu dùng khác sẽ có hiệu lực tại các thị
trường TPP.Các Thành viên cũng được yêu cầu phải có các biện pháp để chấm dứt
các tin nhắn thương mại điện tử được gửi đi không do yêu cầu.
1.3.7. Doanh nghiệp nhà nước (SOEs)
Các Thành viên nhất trí bảo đảm rằng các SOEs của mình sẽ tiến hành các hoạt
động thương mại trên cơ sở tính toán thương mại, trừ trường hợp không phù hợp
với nhiệm vụ mà các SOEs đó đang phải thực hiện để cung cấp các dịch vụ công.
Bảo đảm rằng các SOEs hoặc đơn vị độc quyền sẵn có không có những hoạt động


phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp, hàng hóa, dịch vụ của các Thành viên
khác. Trao cho tòa án quyền tài phán đối với các hoạt động thương mại của các
SOEs nước ngoài và bảo đảm rằng các cơ quan hành chính quản lý cả các SOEs và
doanh nghiệp tư nhân cũng làm như vậy một cách công bằng. Sẽ không tạo ra
những ảnh hưởng tiêu cực đối với lợi ích của các Thành viên TPP khác khi cung
cấp hỗ trợ phi thương mại cho các SOEs, hay làm tổn hại đến ngành trong nước của
Thành viên khác thông qua việc cung cấp các hỗ trợ phi thương mại cho SOEs sản
xuất và bán hàng hóa trên lãnh thổ của SOE khác đó.
1.3.8. Lao động
Tất cả các Thành viên TPP đều là thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) và thừa nhận mối liên hệ giữa quyền của người lao động với thương
mại.Trong TPP, các Thành viên đồng ý thông qua và duy trì trong luật và thông lệ
của mình các quyền cơ bản của người lao động như được thừa nhận trong Tuyên bố
1998 của ILO, đó là quyền tự do liên kết và quyền thương lượng tập thể; xóa bỏ lao
động cưỡng bức; xóa bỏ lao động trẻ em và cấm các hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất; và loại bỏ sự phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp.Các Thành viên
cũng đồng ý có luật quy định mức lương tối thiểu, số giờ làm việc, an toàn và sức
khỏe nghề nghiệp. Những cam kết này áp dụng cả với các khu chế xuất.

1.4. Phạm vi
Hiệp định TPP gồm có 30 chương điều chỉnh thương mại và các vấn đề liên
quan tới thương mại, bắt đầu từ thương mại hàng hóa và tiếp tục với hải quan và
thuận lợi hóa thương mại; vệ sinh kiểm dịch động thực vật; hàng rào kỹ thuật đối
với thương mại; quy định về phòng vệ thương mại; đầu tư; dịch vụ; thương mại
điện tử; sở hữu trí tuệ; lao động; môi trường; các chương về “các vấn đề xuyên
suốt” nhằm bảo đảm Hiệp định TPP đạt được tiềm năng của mình về phát triển,
tính cạnh tranh và tính bao hàm; giải quyết tranh chấp; ngoại lệ và các điều khoản
về thể chế.
Như đã đề cập ở phía trên, bên cạnh việc nâng cấp cách tiếp cận truyền thống
đối với những vấn đề đã được điều chỉnh bởi các hiệp định thương mại tự do trước
đó (FTAs), Hiệp định TPP còn đưa vào những vấn đề thương mại mới và đang nổi
lên cũng như những vấn đề xuyên suốt. Những vấn đề này bao gồm những nội
dung liên quan đến Internet và nền kinh tế số, sự tham gia ngày càng tăng của các
doanh nghiệp Nhà nước vào thương mại và đầu tư quốc tế, khả năng của các doanh
nghiệp nhỏ trong việc tận dụng các hiệp định thương mại và những nội dung khác.


Hiệp định TPP tập hợp một nhóm các nước khác nhau – khác nhau về địa lý,
ngôn ngữ và lịch sử, quy mô và mức độ phát triển. Tất cả các nước TPP đều nhận
thức rằng tính đa dạng về phát triển là một tài sản độc đáo nhưng cũng yêu cầu sự
hợp tác chặt chẽ, xây dựng năng lực cho các nước TPP có trình độ phát triển thấp
hơn, và trong một số trường hợp, giai đoạn chuyển đổi và cơ chế đặc biệt cho phép
một số thành viên TPP một khoảng thời gian bổ sung cần thiết để nâng cao năng
lực thực thi các nghĩa vụ mới.


CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI XUYÊN THÁI
BÌNH DƯƠNG (TPP) ĐẾN QUAN HỆ LAO ĐỘNG TRONG NGÀNH DỆT
MAY Ở VIỆT NAM.

2.1.

Giới thiệu tổng quan về ngành dệt may ở Việt Nam.

Ngành dệt may Việt Nam trong nhiều năm qua luôn là một trong những ngành
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Với sự phát triển của công nghệ kĩ thuật, đội ngũ
lao động có tay nghề ngày càng chiếm tỉ lệ lớn và sự ưu đãi từ các chính sách nhà
nước, ngành dệt may đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, vừa tạo ra giá trị
hàng hòa, vừa đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Theo số liệu
của Tổng cục hải quan, năm 2015 giá trị xuất khẩu dệt may đạt 22,81 tỷ USD, tăng
9,1% so với năm 2014. Đây là tốc độ tăng trưởng đáng ngưỡng mộ đối với mặt
hàng có gái trị xuất khẩu lớn thứ hai cả nước.
Ngành dệt may Việt Nam có năng lực sản xuất cao, ngành hiện có hơn 6000
doanh nghiệp, sử dụng khoảng hơn 2,5 triệu lao động. Sản phẩm may đạt 4 tỷ đơn
vị, các sản phẩm khắc như bông xơ 8000 tấn, sợi 900 nghìn tấn, vải 1.5 tỷ m2. Năng
lực xuất khẩu của ngành dệt may cũng rất đáng nể, riêng tỏng năm 2014 kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may đạt 20,9 tỷ USD, chiếm 14% tổng kim ngạch xuất khẩu cả
nước, là mặt hàng xuất khẩu số một trong nhiều năm.
Hiện Việt Nam là quốc gia được đánh giá có năng lực cạnh tranh cao tại chuỗi
cung ứng dệt may toàn cầu. Và chọn Việt Nam làm trung tâm sản xuất hàng dệt
may xuất khẩu đang là đích đến cảu nhiều nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Ngành dệt
may cso nhiều cơ hội để bứt phá với tốc độ tăng trưởng nahnh và ổn định như hiện
nay, ngành dệt may không chỉ đóng vai trò quan trọng mà còn đảm bảo cân bằng
thương mại của Việt Nam.

2.2.

Tác động tích cực của hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương
(TPP) đến quan hệ lao động trong ngành dệt may ở Việt Nam.


Nhàng dệt may Việt Nam hiện nay có gần 6000 DN, trong đó gần 30% là DN có
vốn đầu tư nước ngoài thu dụng hơn 2.5 triệu lao động, Đóng góp 10% giá trị sản
xuất CN của cả nước.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2015 đạt được 27.02 tỷ USD, chiếm 16,8% tổng kim
ngạch xuất khẩu cả nước, tăng 2,4 lần so với 3010. Đứng top 5 trong số 153 nước


xuất khẩu dệt may TG. Kim ngạch nhập khẩu năm 2015 đạt 16,5 tỷ USD tăng
10,7% so với năm 2014.
Thứ nhất, đây là cơ hội để cải thiện quan hệ lao động, nâng cao năng lực cạnh
tranh
Bộ luật Lao động được ban hành và có hiệu lực thi hành từ 01/01/1995 đã đặt nền
tảng pháp lý cho việc hình thành và phát triển quan hệ lao động ở Việt Nam. Đến
nay, quan hệ lao động ở Việt Nam đã có những bước tiến nhất định từ việc nhận
thức đến tổ chức thực hiện phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế
thị trường và thị trường lao động. Các chủ thể được hình thành, các thiết chế bảo
đảm, hỗ trợ quan hệ lao động được ban hành và bước đầu hoạt động có hiệu quả.
Tổ chức đại diện cho người lao động, người sử dụng lao động ngày càng có vai to
lớn và quan trọng trong việc tham gia cùng Nhà nước hoạch định các chính sách,
pháp luật lao động cũng như tổ chức thực hiện trong thực tiễn… Bên cạnh đó, việc
sửa đổi và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của tổ chức công đoàn
cũng như tổ chức đại diện cho người sử dụng lao động; các quy định về hoạt động
đối thoại xã hội và thương lượng thỏa ước lao động tập thể; giải quyết tranh chấp
lao động và đình công... cũng từng bước được hoàn thiện.
Từ đầu những năm 2000, các đối tác ba bên (gồm Bộ Lao động-Thương binh và Xã
hội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam) cùng Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã và đang chung tay xây dựng
quan hệ lao động lành mạnh và tôn trọng giá trị và các nguyên tắc của ILO.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu
thông qua một loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA), nổi bật nhất là Hiệp định

Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), Việt Nam tiếp tục các cam kết cải
cách pháp luật, thiết chế và thực hành quan hệ lao động theo hướng tôn trọng đầy
đủ các nguyên tắc và quyền cơ bản trong ILO với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành
quốc gia thu nhập cao hơn mức trung bình thông qua con đường tăng trưởng toàn
diện.
Với việc gia nhập các FTA, đặc biệt là TPP và AEC, Việt Nam là một trong số ít
các nước trên thế giới có vị thế rất tốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng
cường cải cách cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Việc gia nhập TPP sẽ
tạo thuận lợi cho người lao động và DN ngành dệt may đề ra các giải pháp để xử lý
các vấn đề trong quan hệ lao động, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của người lao động. Tuy nhiên, để hưởng lợi đầy đủ từ những hợp tác này, Việt


Nam sẽ phải tiến hành những cải cách quan trọng và rộng khắp với quan điểm
nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách cơ bản về lao động, đặc biệt là hệ
thống quan hệ lao động...
Thứ hai, nâng cao vai trò của công đoàn, vai trò của người lao động và vai trò
của người sử dụng lao động
QHLĐ trong cơ chế thị trường có những nguyên tắc khác với QHLĐ trong nền
kinh tế kế hoạch hóa. Do đó, vai trò của tổ chức công đoàn ở cơ sở phải là tổ chức
thực sự, đại diện cho người lao động và đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người lao động trong quan hệ với người sử dụng lao động. Vai trò của công
đoàn, vai trò của người lao động và vai trò của người sử dụng lao động đều phải
điều chỉnh đổi mới cho phù hợp với nguyên tắc của QHLĐ trong cơ chế thị trường.
Trong các nước tham gia TPP, Việt Nam có QHLĐ với hình thức khác biệt nhất với
các nước khác nên khi tham gia sân chơi chung thì chúng ta phải thay đổi nhiều
nhất. Do đó, khi tham gia TPP thì các bên chủ sử dụng lao động, người lao động và
công đoàn đều phải có sự điều chỉnh. Điều đầu tiên là Nhà nước cần phải điều
chỉnh từ nhận thức, điều chỉnh luật pháp, điều chỉnh cơ chế thiết chế, tiếp đến là sự
điều chỉnh của hai chủ thể chính trong QHLĐ là người lao động và người sử dụng

lao động và đặc biệt quan trọng là tổ chức công đoàn.
Các chuyên gia về lao động quốc tế đã có dự báo rất lạc quan rằng, nếu chúng ta
tham gia đầy đủ tiến trình với các FTA có hiệu lực đi vào cuộc sống thì Việt Nam
có thể đạt tăng trưởng GDP khoảng 8% và sau khoảng 14 năm nữa thì sẽ tạo thêm
được 6,5 triệu công ăn việc làm.
Để đạt được kết quả như những chuyên gia lao động quốc tế dự báo phải có nhiều
yếu tố đóng góp, trong đó có cả yếu tố liên quan đến hàng rào thuế quan, những
điều kiện thuận lợi cho đầu tư, thương mại…
Và QHLĐ là yếu tố rất quan trọng, khi nói tới QHLĐ tức là nói tới những người
lao động và những doanh nghiệp (DN). Bởi, không có (DN) thì không có sản xuất
hàng hóa và không có người lao động thì cũng không có sản xuất hàng hóa.
Thứ ba, cho phép người lao động ở cấp cơ sở được tự do thành lập công
đoàn riêng độc lập với Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam
năm 2015, có tất cả 245 cuộc đình công bất hợp pháp xảy ra, trong đó ngành dệt
may chiếm đến 40%. Điều này cho thấy hoạt động của Công đoàn trong các doanh
nghiệp dệt may hoạt động chưa đạt hiệu quả, chưa thực sự là tổ chức đại diện cho
người lao động. ( xem phụ lục 2.1)
Theo cam kết mới trong Hiệp định TPP, người lao động có thể gia nhập, cùng nhau
thành lập tổ chức người lao động ở cấp cao, độc lập với Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam. Tổ chức của người lao động tại cơ sở doanh nghiệp sau khi thành lập có
thể lựa chọn gia nhập Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hoặc đăng ký với Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền để được chính thức hoạt động và sẽ chỉ được hoạt


động sau khi được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận đăng ký theo một
quy trình minh bạch và được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp
luật.
Việc cho phép người lao động tự thành lập Công đoàn sẽ đem lại lợ ích to lớn đối
với người lao động nói chung và ngành dệt may nói riêng. Hiện nay công đoàn là
do chủ sử dụng lao động trả lương, do chủ sử dụng chỉ định do vậy công đoàn chưa

phát huy vai trò của tổ chức đại diện người lao động, vẫn để xảy ra các cuộc đình
công bất hợp pháp.Tuy nhiên, nếu tổ chức đại diện cho người lao động mà do
người lao động bầu ra sẽ đảm bảo được việc thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình,
giúp người lao động có thể nói lên tiếng nói của họ, tránh vầ giảm được các mâu
thuẫn xung đột xảy ra tại nơi làm việc.
Thứ tư, thiết lập mối quan hệ hài hòa, ổn định,tiến bộ giữa doanh nghiệp với
người lao động giúp doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh thị trường trong bối cảnh
hội nhập
Hài hòa, ổn định và tiến bộ là ba thành tố không thể thiếu, là mục tiêu mà chúng ta
hướng tới trong xây dựng quan hệ lao động hiện nay.
Hài hòa trong quan hệ lao động là sự cân đối giữa các yếu tố về quyền lợi, nghĩa vụ
của các bên, đặc biệt là về lợi ích kinh tế.
Ổn định trong quan hệ lao động là việc làm, thu nhập, thời gian làm việc của người
lao động ổn định; không có biến động đáng kể về sản xuất, kinh doanh, hợp đồng
đặt hàng, số lượng, cơ cấu công nhân của doanh nghiệp. Đó là duy trì trạng thái cân
bằng về lợi ích, về quyền lực và sức mạnh của các chủ thể trong quan hệ lao động
nhằm tăng cường sự hợp tác, giảm thiểu xung đột và tạo thế bình ổn trong quan hệ
lao động.
Tiến bộ là sự vận động trong quan hệ lao động phát triển theo hướng đi lên, ngày
càng tốt hơn trước.
Việc kí kết HIệp định TPP là sự thúc đẩy mạnh mẽ trong thiết lập mối quan hệ giữa
daonh nghiệp và người lao động ngành dệt may. Nó đề cao vai trò của người lao
động cũng như doanh nghiệp, chỉ khi người lao động được almf việc trong một môi
trường tốt, quan hệ giữa người lao động với doanh nghiệp ít xảy ra mẫu thuẫn thì
mới đạt được năng suất và hiệu quả cao, từ đó doanh nghiệp sẽ có doanh thu và lợi
nhuận cao, như vậy tổng giá trị sản xuất của ngành cũng tăng lên đáng kể.
2.3.

Tác động tiêu cực của hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương
(TPP) đến quan hệ lao động trong ngành dệt may ở Việt Nam.



Quan hệ lao động là quan hệ lợi ích trên cơ sở tự nguyện giữa người sử dụng
lao động và người lao động. Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ các bên nhằm hướng
đến quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ. Tuy nhiên, hỗ trợ như thế nào để
thúc đẩy quyền tự quyết mỗi bên, tránh can thiệp quá sâu là một bài toán khó. Càng
khó hơn khi quan hệ lao động bước vào tiến trình hội nhập quốc tế và là nội dung
quan trọng trong các FTA mà Việt Nam tham gia.
Hiệp định TPP cũng bao gồm các nội dung nhằm bảo vệ tổ chức của người
lao động để không bị người sử dụng lao động can thiệp và phân biệt đối xử nhằm
vô hiệu hóa hoặc làm suy yếu khả năng đại diện, bảo vệ cho quyền lợi của người
lao động. Sau khi gia nhập TPP, người lao động sẽ được hỗ trợ tạo công ăn việc
làm và nhiều cơ hội mới.
Các DN tập trung quá lớn vào thị trường xuất khẩu (chiếm trên 80% năng
lực xuất toàn ngành). Phát triển mất cân đối, phương phức sẩn xuất gia công là chủ
yếu. và thiếu ngueeonf nhân lực chất lượng cao
Ngoài ra, TPP còn gây ra những khó khăn như là:
- Các quy định về điều kiện lao động, lương tối thiểu, giờ làm việc, an toàn lao
động... sẽ được quản lý chặt chẽ hơn. Buộc phải đổi mới trong quan hệ lao
động, đặc biệt là trong ngành dệt may bởi chỉ khi quan hệ lao động được đổi
mới, hài hòa, ổn định và tiến bộ thì doanh nghiệp mới phát triển được
- Khó khăn trong việc quản lý và kiểm soát nếu cho phép thành lập nhiều công
đoàn trong một doanh nghiệp thuộc nhóm ngành sản xuất như dệt may bởi
vốn dĩ các doanh nghiệp đều có số lượng công nhân lớn, có doanh nghiệp
lên tới hàng nghìn người. Việc quản lý công nhân đã khó, nay còn quản lý
công đoàn thì thực sự công việc này khó khăn hơn nhiều. Khi xảy ra mâu
thuẫn hay đình công, doanh nghiệp sẽ loay hoay trong việc phải giải quyết
các vấn đề với ai và khi nào.
- Đặc biệt, người lao động cũng sẽ được tự do thành lập tổ chức của mình
trong DN và có thể tự do lựa chọn hoặc gia nhập Tổng Liên đoàn Lao động

Việt Nam hoặc có thể tự chủ cho tổ chức của mình. Đặc biệt, người sử dụng
lao động không được phép can thiệp vào hoạt động của tổ chức tự chủ này…
- Theo các chuyên gia kinh tế, khi chính thức tham gia TPP các ngành nghề
nói trên sẽ được hưởng lợi do sản phẩm xuất khẩu tăng mạnh, có thể tạo
thêm hàng triệu cơ hội việc làm mới. Tuy nhiên, có thể tạo ra những thách
thức lớn về quan hệ lao động vì đây luôn là những ngành có độ nhạy cảm
cao về quan hệ lao động. Hơn nữa, quá trình hội nhập sẽ thúc đẩy tự do di


chuyển lao động, từ đó tạo nên môi trường cạnh tranh gay gắt, dẫn đến một
bộ phận không nhỏ người lao động sẽ bị thất nghiệp…
- Môi trường hoạt động công đoàn có nhiều biến đổi: Quan hệ lao động và
đình công có thể diễn biến phức tạp hơn trong giai đoạn đầu của quá trình
phát triển thị trường lao động và hội nhập quốc tế sâu rộng, đặc biệt là khi
Việt Nam gia nhập TPP.
- Việc Việt Nam gia nhập TPP và thực hiện các cam kết quốc tế, sẽ có tác động
trực tiếp và gián tiếp làm tăng thêm sự thiếu ổn định của quan hệ lao động
trong thời gian trước mắt. Mâu thuẫn giữa bên sử dụng và bên cung ứng sức
lao động, và tranh chấp trong quan hệ lao động có xu hướng tăng cả về quy
mô và tính phức tạp, đặc biệt là tranh chấp lao động tập thể có thể dễ dẫn tới
ngừng việc tập thể và đình công … của người lao động. Bên cạnh đó, có thể
xuất hiện thêm các yếu tố gia tăng tính phức tạp trong tranh chấp lao động,
đình công, lãn công, ngừng việc tạm thời của người lao động... Theo các cam
kết trong TPP, có thể việc tổ chức đình công cũng như phạm vi đình công sẽ
mở rộng đáng kể


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM CẢI THIỆN QUAN
HỆ LAO ĐỘNG TRONG NGÀNH DỆT MAY Ở VIỆT NAM DƯỚI TÁC
ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG

(TPP)
3.1. Một số giải pháp
Một là, hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp luật tương thích với những cam kết
quốc tế mà Việt Nam tham gia. Nghiên cứu sửa đổi Điều lệ Công đoàn Việt Nam
và tham gia sửa đổi pháp luật lao động và công đoàn theo hướng: Xác định rõ nội
dung trọng tâm theo thứ tự ưu tiên của các cấp công đoàn, tập trung thực hiện
những nhiệm vụ về quan hệ lao động, giảm hoặc lược bớt các nhiệm vụ khác thuộc
lĩnh vực chính trị – xã hội, ít hoặc không liên quan đến quan hệ lao động.
Cấp công đoàn cơ sở tập trung thực hiện những nhiệm vụ liên quan trực tiếp
đến quan hệ lao động và thực hiện nhiệm vụ chăm lo, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng
của người lao động; Tiếp tục tham gia xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật lao
động, trong đó cần xác định rõ các hành vi phân biệt đối xử về quyền công đoàn và
thao túng, can thiệp chống công đoàn của người sử dụng lao động…
Hai là, cần tăng cường mối quan hệ lao động hài hòa và hiệu quả. Các cuộc
đình công tại Việt Nam thường diễn ra ở các DN FDI và nếu để tình trạng này kéo
dài sẽ ảnh hưởng đến môi trường đầu tư tại Việt Nam. Điều quan trọng nhất là tạo
cơ chế đối thoại hiệu quả giữa chủ sử dụng lao động với người lao động. Do đó,
cần phải nâng cao năng lực, vai trò vị thế của người lao động để có được mối quan
hệ lao động hài hòa thông qua việc hỗ trợ đào tạo về chuyên môn, kiến thức về
pháp luật lao động, chính sách về tiền lương, bảo hiểm…
Ba là, cần xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định về giải quyết tranh chấp lao động
và đình công trong Bộ luật Lao động và các luật khác có liên quan; Có chế tài đủ
mạnh xử lý các vi phạm về pháp luật lao động và công đoàn, đặc biệt là những vi
phạm về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp…
Bốn là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn thực hiện pháp luật
lao động, cần chú ý tới tính khác biệt, đặc thù giữa các loại đối tượng lao động của
từng loại hình cơ sở trong các thành phần kinh tế và trình độ, tâm lý, tuổi tác, giới
tính, nghề nghiệp để lựa chọn nội dung, phương pháp tuyên truyền, phổ biến cho
phù hợp với đối tượng



3.2. Một số khuyến nghị
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm phù hợp với quy định và nghĩa vụ
theo Hiệp định thương mai xuyên Thái Bình Dương TPP
- Sớm xây dựng chương trình hành động thực thi TPP
- Nắm vững cam kết TPP bảo đảm thực hiện chính xác, tránh tranh chấp với
các nhà đầu tư hoặc các nước khác
- Đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn và có kiến thức về hội nhập quốc tế
đặc biệt là kinh tế quốc tế
- Tiếp tục thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính tạo môi trường kinh doanh và
đầu tư thuận lợi
- Tăng cương công tác tuyên truyền
- Thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới
- Chủ động xây dựng kế hoạch kinh doanh cho giai đoạn trung và dài hạn
- Nâng cao năng lực cạnh tranh
- Tăng cường liên kết chủ động tìm hướng hợp tác với các đối tác nước ngoài,
tham gia vào dây truyền cung ứng toàn cầu.

Thứ nhất, tăng cường quản lý thị trường lao động (cung – cầu), quản lý nguồn
nhân lực về đào tạo và việc làm, hệ thống cập nhật di chuyển, biến động lao
động. Thứ hai, đột phá về chính sách tiền lương, trả lương cao xứng đáng với
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của lao động chất lượng cao, phù hợp với giá cả
sức lao động. Thứ ba, quan tâm tạo dựng môi trường làm việc, xây dựng các
quy định, văn hóa của DN. Thứ tư, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực của các
trường đại học, cao đẳng, kết nối cung cầu giữa hệ thống giáo dục và đào tạo
nghề và người sử dụng lao động. Công tác đào tạo nguồn nhân lực cần phải gắn
kết chặt chẽ với nhu cầu của DN.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường
lao động của Quốc gia và các tỉnh, thành phố có khoa học, có hệ thống tổ chức
và phối hợp giữa cơ quan quản lý đào tạo – việc làm với các đơn vị dịch vụ việc

làm, cơ sở đào tạo nghề, các DN theo hệ thống tiêu chuẩn và định kỳ thường
xuyên…. Thứ sáu, cân đối nguồn nhân lực hiện nay và các năm tới. Việc thống
kê khả năng đáp ứng của các lĩnh vực, cân đối thừa, thiếu như thế nào là một
yếu tố quan trọng giúp các cơ sở giáo dục rà soát lại quá trình cung ứng lao
động. Thứ bảy, tổ chức hướng nghiệp, định hướng đúng mức về nghề nghiệp và


việc làm, nhằm mục đích tác động thay đổi sự lựa chọn nghề nghiệp của giới
trẻ, tạo ra sự cân đối nguồn nhân lực giữa các ngành; quan tâm của hoạt động
thông tin trong đó tư vấn hướng nghiệp là một công đoạn quan trọng, giúp cho
học sinh - sinh viên - người lao động có điều kiện xác định nghề nghiệp trên cơ
sở đánh giá năng lực bản thân và nắm được định hướng phát triển kinh tế xã hội
cũng như nhu cầu nhân lực của địa phương, đất nước trong từng thời kỳ. Thứ
tám, tập trung hoàn thiện và phát triển kỹ năng nghề nghiệp của người lao đông
theo yêu cầu DN; nâng cao năng lực, tư duy khoa học, độc lập, lao động sáng
tạo; phát huy sáng kiến, áp dụng công nghệ mới để không ngừng phát triển kỹ
năng nghề nghiệp


Kết luận
Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương tác động rất nhiều đến nền
kinh tế VIệt Nam, tạo ra những cơ hội và cả những thách thức cho các doanh
nghiệp, nhất là đối với ngành dệt may. Các daonh nghiệp dệt may cần nắm bắt kịp
thời cơ hội này, phát huy những mặt tích cực mà TPP đem lại trong quan hệ lao
động để từ đó đổi mới mối quan hệ lao động, thiết lập mối quan hệ hài hòa, ổn định
tiến bộ, đẩy mạnh hơn hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Song song là đồng thời cần xem xét kĩ lưỡng những mặt tiêu cực, những thách thức
TPP đem lại trong quan hệ lao động để nhanh chóng thực hiện các biện pháp, tránh
tình trạng bất đồng mâu thuẫn xảy ra trong doanh nghiệp.



Danh mục tài liệu tham khảo
1. Các nguyên lý quan hệ lao động, Tiến sĩ Nguyễn Duy Phúc – Nhà xuất bản Lao
động xã hội, Hà Nội, 2012.
2. Giáo trình Quan hệ lao động, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Tiệp – Trường đại học
Lao động xã hội – Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội, 2008.
3. Quan hệ lao động trong doanh nghiệp nhỏ và vừa, Tiến sĩ Nguyễn Duy Phúc –
Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội, 2012.
4. Bộ Luật lao động năm 2012.
5. Luật Công đoàn năm 2012.
6. Quan hệ lao động và hội nhập kinh tế quốc tế, Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Thanh HàNhà xuất bản Lao động xã hội, 2008.
7. />8. />9. />10. />11. />%C4%90%E1%BB%91i_t%C3%A1c_xuy%C3%AAn_Th%C3%A1i_B
%C3%ACnh_D%C6%B0%C6%A1ng


Phụ lục
2.1. Một số hình ảnh về đình công ngành dệt may

Hơn 1500 công nhân công ty TNHH may Việt Pacific (phường Mỗ Lao, Hà Đông,
Hà Nội) đội mưa đình công đòi quyền lợi ngày 18 và 19/3/2015


Ngày 13/11, hơn 900 công nhân nhà máy may mặc của Công ty TNHH MLB
Tenegry (đóng tại thị trấn Yên Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An) đã đồng loạt
đình công để đòi quyền lợi cá nhân



×