Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa singapore vơi hoa kỳ và những vấn đề đặt ra cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1004.29 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI NGOẠI THƯƠNG
*********



NGUYỄN THÀNH LONG


Đàm phán Hiệ p đị nh Thương mạ i tự do (FTA) giữa Singapore
vớ i Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam



Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế
Mã số: 60.31.07



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN HOÀNG ÁNH






Hà Nội - 2010



Lời cảm ơn

Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Hoàng Ánh, là người đã tận
tình hướng dẫn tôi khi thực hiện đề tài này.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các đồng nghiệp của tôi đã có những ý
kiến đóng góp quý báu cho luận văn của tôi và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
những người thân trong gia đình đã động viên, khuyến khích và tạo điều kiện
cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 2 tháng 2 năm 2010.


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu của Luận văn là trung thực, không sao chép của bất kỳ ai, Các
số liệu và dữ liệu trong Luận văn có nguồn gốc cụ thể, rõ ràng.

Hà Nội, ngày 2 tháng 2 năm 2010.
Học viên


Nguyễn Thành Long

i
MỤC LỤC

Danh mục các Chữ viết tắt iii
Danh mục các Bảng v

Danh mục các Hình vẽ, đồ thị v
Danh mục các Phụ lục vi
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG I TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO 5
1.1 Khái niệm Hiệp định thƣơng mại tự do 5
1.2 Phân loại các FTA 8
1.2.1 FTA song phương 8
1.2.2 FTA đa phương 10
1.2.3 FTA hỗn hợp 14
1.3 Nội dung chính của FTA 17
1.4 Tác động của FTA 19
1.4.1 Tác động tích cực 19
1.4.2 Tác động tiêu cực 23
1.5 Quá trình hình thành và phát triển các FTA trên thế giới 27
1.5.1 Giai đoạn trước năm 1995 27
1.5.2 Giai đoạn từ 1995 tới nay 28
CHƢƠNG II QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN VÀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN HIỆP
ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO GIỮA SINGAPORE VỚI HOA KỲ 32
2.1. Sự cần thiết ra đời FTA giữa Singapore với Hoa Kỳ 32
2.1.1 Bối cảnh kinh tế và quan hệ thương mại giữa Singapore với Hoa Kỳ 32
2.1.2. Điều kiện ra đời FTA giữa Singapore với Hoa Kỳ 42
2.2. Tiến trình đàm phán FTA giữa Singapore và Hoa Kỳ 43
2.3. Tình hình thực hiện hiệp định FTA giữa Singapore với Hoa Kỳ 44
2.3.1. Nội dung hiệp định FTA giữa Singapore với Hoa Kỳ 44
2.3.2. Thực trạng thực hiện USSFTA 49

ii
2.4 Tác động của USSFTA đối với Singapore 52
CHƢƠNG III BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH ĐÀM PHÁN HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO VỚI HOA KỲ 59

3.1 Tổng quan các FTA Việt Nam đã tham gia 59
3.1.1 Tiến trình thực hiện một số FTA của Việt Nam với các đối tác 59
3.1.2 Tác động của các FTA Việt Nam đã tham gia đối với nền kinh tế Việt Nam 68
3.2 Sự cần thiết của FTA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ 69
3.2.1 Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ 69
3.2.2 Vai trò của thị trường Hoa Kỳ với Việt Nam 75
3.3 Cơ hội và thách thức về khả năng đàm phán FTA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ 77
3.3.1 Cơ hội của Việt Nam khi đàm phán FTA với Hoa Kỳ 77
3.3.2 Thách thức khi đàm phán FTA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ 79
3.4 Những kiến nghị khi đàm phán FTA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (ở tầm vĩ mô) 82
3.4.1 Kiến nghị về đà m phá n một FTA nói chung 82
3.4.2 Những kiến nghị về đàm phán FTA với Hoa Kỳ 85
KẾT LUẬN 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89


iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
AANZFTA
Australia- ASEAN- New
Zealand Free Trade
Agreement
Khu vực Mậu dịch tự do
ASEAN-Australia-New
Zealand
ACFTA

ASEAN- China Free Trade
Agreement
Khu vực Mậu dịch tự do
ASEAN-Trung Quốc
AFTA
ASEAN Free Trade
Agreement
Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN
AHTN
2007
ASEAN Harmonized Tariff
Nomenclature 2007
Biểu thuế Hài hòa ASEAN
phiên bản 2007
AIFTA
ASEAN- India Free Trade
Agreement
Khu vực Mậu dịch tự do
ASEAN- Ấn Độ
AJCEP
ASEAN- Japan Closer
Economic Partnership
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn
diện ASEAN- Nhật Bản
AKFTA
ASEAN- Korea Free Trade
Agreement
Khu vực Mậu dịch tự do
ASEAN- Hàn Quốc
ASEAN

Association of Southeast Asia
Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
BTA
Viet Nam-U.S. Bilateral
Trade Agreement
Hiệp định Thương mại song
phương Việt Nam- Hoa Kỳ
CEPT
Agreement on the Common
Effective Preferential Tariff
Chương trình Thuế quan có
hiệu lực chung của ASEAN

iv
EFTA
European Free Trade
Association
Hiệp hội Mậu dịch tự do Châu
Âu
EPA
Vietnam- Japan Economic
Partnership Agreement
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn
diện Việt Nam- Nhật Bản
EC
European Commission
Cộng đồng Châu Âu
EU

European Union
Liên minh Châu Âu
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTA
Free Trade Agreement
Hiệp định thương mại tự do
GATT
General Agreement on Tariffs
and Trade
Hiệp ước chung về thuế quan và
Mậu dịch
GSP
Generalized System of
Preferences
Hệ thống thuế quan phổ cập
MFN
Most Favoured Nation
Thuế suất nhập khẩu ưu đãi
thông thường
NAFTA
North America Free Trade
Agreement
Hiệp định Thương mại Tự do
Bắc Mỹ
SL
Sensitive List
Danh mục nhạy cảm
TIFA

Vietnam-U.S. Trade and
Investment Framework
Agreement
Hiệp định Khung về thương mại
và đầu tư giữa Việt Nam với
Hoa Kỳ
TEL
Temporary Exclusion List
Danh mục loại trừ tạm thời
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại thế giới
USSFTA
U.S Singapore Free Trade
Agreement
Hiệp định Thương mại tự do
giữa Hoa Kỳ với Singapore

v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.2: Tổng hợp các hiệp định thương mại khu vực đang đàm phán và còn
hiệu lực
Bảng 2.1: Giá trị Nhập khẩu và Xuất khẩu hàng hoá giữa Hoa Kỳ với
Singapore năm 2003
Bảng 2.2. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ với Singapore 10 tháng đầu
năm 2009
Bảng 3.1. Thống kê Danh mục cam kết của Việt Nam trong EPA
Bảng 3.2. Tồng hợp cam kết tự do hoá của các FTA
Bảng 3.3. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam- Hoa Kỳ giai
đoạn 1997-2008


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 1.2: Số lượng các FTA trên Thế giới từ năm 1995- 2009
Hình 2.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Hoa Kỳ với Singapore từ năm 1998
đến năm 2003
Hình 2.2. Những mặt hàng xuất khẩu chủ chốt của Hoa Kỳ vào Singapore
(giai đoạn 2001- 2006)
Hình 2.3. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Hoa Kỳ với Singapore từ năm
2004- năm 2008
Hình 3.1: Lộ trình cắt giảm thuế của Việt Nam và các nước trong khuôn khổ
các FTA giữa ASEAN và đối tác

vi
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Các Hiệp định thương mại tự do đã báo cáo với WTO/GATT giai
đoạn trước 1995 đến nay vẫn còn hiệu lực
Phụ lục 2: Các Hiệp định thương mại tự do Singapore đã ký kết
Phụ lục 3: Các Hiệp định thương mại tự do Hoa Kỳ đã ký kết
Phụ lục 4: Lộ trình cắt giảm thuế các mặt hàng từ Singapore vào Hoa Kỳ

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh các vòng đàm phán của WTO hiện nay ngày càng kéo
dài và lâm vào bế tắc, các quốc gia đang có xu hướng đàm phán các Hiệp định
thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương để mở rộ ng khả năng
thâm nhậ p và o thị trườ ng củ a cá c nướ c , thu hú t vố n đầ u tư nướ c ngoà i , nhằm
tăng cườ ng quan hệ ngoạ i giao vớ i cá c đố i tá c và nâng cao vị thế của quốc gia
trên trường quốc tế. Hòa chung vào xu thế đó, Việt nam đang chuẩn bị đàm

phán FTA với một số đối tác như EU, Australia và đặc biệt là Hoa Kỳ.
Để chủ động trong đàm phán FTA với Hoa Kỳ, chúng ta cần nghiên
cứu và chuẩn bị trước các nội dung quan trọng khi đàm phán với đối tác.
Trong khối ASEAN, chỉ có Singapore đã đàm phán và thực hiện thành công
Hiệp định Thương mại Tự do với Hoa Kỳ (bắt đầu có hiệu lực từ năm 2004).
Là một nước châu Á, Singapore có vị trị địa lý gần Việt Nam, và cùng là
thành viên trong các tổ chức ASEAN, APEC, ASEM, WTO nên có nhiều
nét tương đồng khi đàm phán. Vì vậy, việc nghiên cứu, rút ra bài học kinh
nghiệm trong đàm phán FTA giữa Singapore và Hoa Kỳ sẽ rất bổ ích cho Việt
nam khi thiết lập nội dung đàm phán cũng như khi đối mặt với cơ hội và
thách thức trong cuộc đàm phán này.
2. Tình hình nghiên cứu:
Việc hình thành các Hiệp định Thương mại Tự do diễn ra ngày càng sôi
động trên thế giới trong các thập niên gần đây. Vì vậy, các học giả cũng như
các chính trị gia, các nhà kinh tế ngoài và trong nước đã có rất nhiều nghiên
cứu về Hiệp định thương mại tự do trên thế giới. Điển hình như:

2
Ở nước ngoài: Nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm nghiên cứu đến lĩnh
vực này như: Giáo sư Tiến sỹ Razeen Sally, Đại học Kinh tế Luân Đôn với
cuốn sách “Những chân trời mới trong thương mại tự do: Tương lai toàn cầu
hóa và vai trò nổi lên của Châu Á“ Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân
(sách dịch năm 2009); GS Philip Abbott, Đại học Pudue University (Hoa Kỳ)
viết bài “Trade and Development: Lessons from Vietnam’s Past Trade
Agreement“, đăng trên Tạp chi World Development số 37 năm 2009
Những bài viết này đã cho thấy tầm quan trọng của FTA và triển vọng phát
triển của FTA ở châu Á.
Ở trong nước: Thời gian qua FTA đã trở thành vấn đề được nhiều cơ
quan Bộ, ngành và các chuyên gia trong nước quan tâm nghiên cứu. Các cơ
quan như Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch Đầu tư đã thường xuyên tổ chức các

cuộc hội thảo đánh giá tác động các hiệp định FTA Việt Nam đã tham gia
trong thời gian gần đây. Nhiều chuyên gia trong nước đã có công trình nghiên
cứu về FTA như: Tiến sỹ Bùi Trường Giang đã bảo vệ Luận án Tiến sĩ Kinh
tế cấp Nhà nước với đề tài: “Xu hướng hình thành các hiệp định thương mại
tự do (FTA) tại Đông Á” (tháng 4/2008); PGS, TS Trần Đình Thiên - Viện
Kinh tế Việt Nam với bài“Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: Vai trò của
FTA song phương“ đăng trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia về
Thương mại Việt Nam 20 năm đổi mới
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đều tập trung nghiên cứu,
đánh giá vai trò, tác động của FTA và đưa ra khuyến nghị, phương thức đàm
phán FTA cho Việt Nam trong giai đoạn hội nhập sâu rộng sắp tới. Các tác
giả đều khẳng định FTA như là một công cụ đổi mới và xây mới thể chế kinh
tế thị trường, là chiến lược hội nhập thành công cho thời kỳ hậu gia nhập
WTO đòi hỏi Việt Nam phải biết kết hợp ba cấp độ hội nhập đa phương, khu
vực và song phương với các chương trình cải cách bên trong. Tuy nhiên, chưa

3
có nghiên cứu nào về khả năng đàm phán FTA giữa Việt Nam với Hoa Kỳ.
Do đó, luận văn này là công trình đầu tiên được viết với mục đích tìm
hiểu những cơ hội và thách thức cho Việ t Nam khi đà m phá n FTA với Hoa
Kỳ, nhằm đưa ra những kiến nghị cho Việt Nam trong tiến trình đàm phán
này.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đí ch củ a đề tà i là nhằ m tìm hiểu tiến trình đàm phán FTA giữa
Singapore với Hoa Kỳ, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi
đà m phá n (FTA) vớ i Hoa Kỳ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn dự kiến sẽ giải quyết những vấn đề sau:
- Nghiên cứu tổng quan về Hiệ p đị nh thương mạ i tự do (FTA) và thực
tiễn về FTA trên thế giới

- Nghiên cứu tình hình đà m phá n và thực hiện hiệp định FTA giữa
Singapore và Hoa Kỳ;
- Tìm hiểu cơ hội và thách thức cho Việ t Nam khi đà m phá n FTA với
Hoa Kỳ, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị cho Việt Nam khi đàm phán
FTA với Hoa Kỳ.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
5.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là:
- Tình hình thực hiện FTA trên thế giới
- Tình hình đàm phán FTA giữa Singapore vớ i Hoa Kỳ
- Tình hình đàm phán và thực hiện FTA của Việt Nam với các đối tác
khác

4
- Triển vọng đàm phán FTA của Việt nam với Hoa Kỳ
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian : Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những nội dung có
liên quan đến tình hình đàm phán FTA giữa Singapore vớ i Hoa Kỳ và tình
hình đàm phán và thực hiện FTA của Việt Nam với các đối tác khác
- Về thời gian: Luận văn giới hạn trong khoảng thời gian từ khi Việt
Nam gia nhập ASEAN, tức là từ 1995 đến nay.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê nin về duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, Tư tưởng Hồ chí Minh và các quan điểm về phát triển kinh tế
của Đảng Cộng sản Việt Nam là cơ sở để luận văn xác định phương pháp
nghiên cứu của mình. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu tổng hợp khác nhau như: Phương pháp phân tích - tổng hợp,
phương pháp đối chiếu- so sánh, phương pháp mô tả và khái quát hoá đối
tượng nghiên cứu, phương pháp thống kê để làm rõ nội dung nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương sau:

Chương I- Tổng quan về hiệp định thương mại tự do
Chương II- Quá trình đàm phán và tình hình thực hiện Hiệp định
thương mại tự do giữa Singapore với Hoa Kỳ
Chương III- Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình đàm
phán Hiệp định thương mại tự do với Hoa Kỳ

5
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO

1.1 Khái niệm Hiệp định thƣơng mại tự do
Tư tưởng tự do kinh tế, đặc biệt tự do thương mại đã được rất nhiều nhà
kinh tế học từ cổ điển tới hiện đại ủng hộ (Fransois Quesnay người Pháp;
ADam Smith, David Ricardo người Anh và S.Sismondi người Pháp…) bởi nó
mang lại lợi ích kinh tế- xã hội rất to lớn cho các quốc gia. Trong quá trình
tham gia tự do thương mại, các quốc gia không thể áp dụng được một mình,
không “tự nguyện” giảm các rào cản thương mại mà phải thỏa thuận cùng
nhau cắ t giả m cá c rà o cả n thương mạ i , tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển
tự do thương mạ i . Quá trình thúc đẩy tự do hóa thương mại này dẫn đến việc
thành lập các hiệp định thương mại tự do (FTA).
Hiện nay, đánh giá theo phạm vi và mức độ hội nhập, các quốc gia liên
kết kinh tế theo nhiều loại hình của Hiệp định thương mại khu vực (Regional
Trade Agreements, viết tắt là RTAs), trong đó nổi bật gồm có: Hiệp định ưu
đãi thương mại, Hiệp định thương mại tự do, Thỏa thuận hội nhập kinh tế,
Liên minh thuế quan. Hiệp định ưu đãi thương mại (Preferential Trade
Agreement) là cấp độ thấp trong các loại hình hiệp định thương mại khu vực,
theo đó các quốc gia tham gia hiệp định dành các ưu đãi về thuế quan và phi
thuế quan cho hàng hóa của nhau. Trong thỏa thuận này, thuế quan và hàng
rào phi thuế quan có thể vẫn còn, nhưng thấp hơn so với khi áp dụng cho quốc
gia không tham gia hiệp định. Một ví dụ về thỏa thuận ưu đãi thương mại là

Hiệp định về Thỏa thuận Ưu đãi Thương mại ASEAN được ký kết tại Manila
năm 1977 và được sửa đổi năm 1995; hay Khu vực Ưu đãi Thương mại Đông

6
và Nam Phi tồn tại từ năm 1981 đến năm 1994; hay như các Hiệp định dành
ưu đãi thương mại (hay tối huệ quốc) mà một số nước phát triển có thể dành
cho các nước đang phát triển. Thỏa thuận hội nhập kinh tế (Economic
Integration Agreement) là hình thức hội nhập kinh tế thông qua bãi bỏ thuế
quan và hàng rào phi thuế quan đối với hàng hóa và tự do hóa dịch vụ, bảo hộ
đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử giữa các nước ký kết hiệp định. Liên
minh thuế quan (Customs Union) có thể hiểu là một khu vực thương mại tự
do giữa các nước thành viên cộng với thuế quan thống nhất của các nước
thành viên đối với hàng hóa từ ngoài khu vực. Việc thành lập liên minh thuế
quan cho phép tránh được những phức tạp liên quan đến xuất xứ hàng hóa,
nhưng lại làm nảy sinh những khó khăn trong phối hợp chính sách giữa các
nước thành viên. FTA cũng là một trong số những loại hình Hiệp định
Thương mại khu vực.
Cho tới nay đã có rất nhiều các tổ chức và quốc gia khác nhau đưa ra
các khái niệm về FTA cho riêng mình. Điều này thể hiện những quan điểm
khác nhau về FTA cũng như sự phát triển đa dạng của các quốc gia. Trong số
các khái niệm về FTA đã được đưa ra thì đa số các nước và các tổ chức trên
thế giới chấp thuận một số khái niệm sau:
- Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) tại điều XXIV
điểm 8b ghi rõ: “Một khu vực mậu dịch tự do được hiểu là một nhóm gồm hai
hoặc nhiều các lãnh thổ thuế quan. Trong đó, thuế và các quy định mang tính
hạn chế về thương mại (ngoại trừ, trong chừng mực cần thiết, các hạn chế
được phép theo quy định của các Điều XI, XII, XIII, XIV, XV and XX) sẽ bị dỡ
bỏ đối với phần lớn các sản phẩm có xuất xứ từ các lãnh thổ đó và được trao
đổi thương mại giữa các lãnh thổ lập thành khu vực mậu dịch tự do” (A free
trade area shall be understood to mean a group of two or more customs

territories in which the duties and other restrictive regulations of commerce

7
(except, where necessary, those permitted under Articles XI, XII, XIII, XIV,
XV and XX) are eleminated on substantially all the trade between the
constituent territories in products originating in such territories) [20].
- Theo Wikipedia-the free encyclopedia: “FTA là một Hiệp ước
thương mại giữa hai hoặc nhiều quốc gia. Thông thường các thỏa thuận được
thực hiện giữa hai nước và có nghĩa là để giảm bớt hoặc gỡ bỏ hoàn toàn
thuế quan trong thương mại” (FTA is a trade treaty between two or more
countries. Usually these agreements are between two countries and are meant
to reduce or completely remove tariffs to trade) [33].
- Theo trang web chính thức của Chính phủ Nhật Bản về FTA: “FTA
là những hiệp định chung có mục tiêu dỡ bỏ thuế quan, thực hiện tự do hoá
thương mại hàng hoá và dịch vụ giữa các nước và khu vực xác định. FTA là
một trường hợp ngoại lệ của Hiệp định WTO và Quy chế Tối huệ quốc” [35].
- Theo trang web chính thức của Chính phủ Singapore về FTA: “FTA
là một thỏa thuận pháp lý ràng buộc giữa hai hoặc nhiều quốc gia để giảm
hoặc loại bỏ các rào cản thương mại và tạo thuận lợi cho sự chuyển dịch
hàng hoá và dịch vụ qua biên giới giữa các vùng lãnh thổ của các Bên” [34].
- Theo trang web chính thức của Chính phủ Hoa kỳ về FTA: “FTA là
sự đàm phán giữa hai hay nhiều quốc gia nhằm cắt giảm tất cả các hàng rào
thuế quan và phi thuế quan đối với thương mại giữa các thị trường của các
nước thành viên. Mỗi nước vẫn có thể áp dụng các rào cản thuế và rào cản
thương mại khác đối với các quốc gia không tham gia ký‎ kết hiệp định” [36].
Tóm lại, chúng ta có thể thấy các khái niệm trên đều hàm chứa một nội
dung cốt lõi xuyên suốt: “FTA là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia
(hoặc vùng lãnh thổ) nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một

8

số nhóm mặt hàng nào đó bằng việc cắt giảm thuế quan, tạo lập các quy định
tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ và di chuyển vốn giữa các quốc
gia thành viên”. Đối với FTA thì mỗi nước vẫn có thể áp dụng các rào cản
thuế và rào cản thương mại khác đối với các quốc gia không tham gia ký‎ kết
hiệp định. Ngày nay, FTA không chỉ giới hạn trong việc thực hiện tự do hóa
thương mại hàng hóa, dịch vụ mà còn cả xúc tiến và tự do hoá đầu tư, hợp tác
chuyển giao công nghệ, thuận lợi hóa thủ tục hải quan, xây dựng năng lực và
nhiều nội dung mới khác như lao động, môi trường; các FTA đã cho thấy
những ưu thế vượt trội của mình, trở thành một xu hướng đang phát triển rất
mạnh mẽ trong những năm gần đây.
1.2 Phân loại các FTA
Chúng ta có thể phân loại các FTA theo nhiều tiêu chí khác nhau như
quy mô số lượng các nước tham gia FTA, hình thức đàm phán ký kết các
FTA, hoặc mức độ tự do hóa của các FTA, cũng có thể phân theo đặc thù các
nước tham gia. Nhưng phân loại theo quy mô số lượng các quốc gia tham gia
đàm phán ký kết là một cách phân loại cho thấy sự khác biệt tương đối giữa
các FTA. Theo cách này, các FTA được chia ra thành 3 loại: FTA song
phương, FTA đa phương, FTA hỗn hợp.
1.2.1 FTA song phương
FTA song phương được hiểu đơn giản là FTA chỉ có 2 quốc gia hoặc
vùng lãnh thổ tham gia đàm phán và ký kết. Như vậy, chỉ có 2 nước trong
suốt quá trình đàm phán cũng như ký kết một FTA và cũng chỉ có 2 nước này
chịu sự ràng buộc của những điều khoản được quy định trong FTA song
phương.
Đây là loại hình FTA phổ biến nhất hiện nay và sẽ tiếp tục phát triển

9
mạnh mẽ trong tương lai bởi những ưu thế của nó về quá trình đàm phán
nhanh gọn, đơn giản, dễ đạt được sự thống nhất. Có thể lấy FTA song phương
giữa Chile với Hoa Kỳ hoặc FTA song phương giữa Peru với Singapore làm

ví dụ cho loại hình FTA này.
- FTA song phương giữa Chile với Hoa Kỳ
FTA song phương giữa Chile với Hoa Kỳ được ký kết ngày 06/06/2003
và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2004 sau 2 phiên đàm phán kéo dài
13 năm. Đây là hiệp định thương mại tự do song phương đầu tiên giữa Hoa
Kỳ ký kết với một nước Châu Mỹ La tinh. Theo như thỏa thuận thì hai bên sẽ
dỡ bỏ hàng rào thuế quan ngay lập tức đối với 87% mặt hàng và tiến tới xóa
bỏ hoàn toàn với tất cả các mặt hàng trao đổi thương mại song phương chậm
nhất trong vòng 12 năm. FTA song phương giữa Chile với Hoa Kỳ có hiệu
lực đã giảm 90% thuế xuất khẩu của Hoa Kỳ đến Chile và 95% thuế của Chile
xuất khẩu sang Hoa Kỳ [38]. Hiệp định này cũng bao gồm các cam kết của cả
hai nước đối với nhiều vấn đề liên quan đến phi thuế quan như: quyền sở hữu
trí tuệ, dịch vụ, đầu tư, tạm nhập tái xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp
và về viễn thông.
Theo Cục Thương mại Hoa Kỳ thì Hiệp định này đã làm tăng kim
ngạch hai chiều giữa Hoa Kỳ và Chile đạt 20,3 tỷ đô vào năm 2008, xuất khẩu
từ Chile vào Hoa Kỳ đã tăng 300%; hơn 300 công ty của Hoa Kỳ đã đầu tư
vào Chile, sử dụng trên 585.000 lao động Chile và đóng góp thêm 3,2% vào
GDP của Chile [37].
- FTA song phương giữa Singapore với Peru
FTA song phương giữa Singapore với Peru (PeSFTA) được bắt đầu
đàm phán vào ngày 19/11/2004 sau cuộc họp giữa Thủ tướng Lee Hsien
Loong và Tổng thống Peru Alejandro Toledo Manrique ở lề của cuộc họp các

10
nhà lãnh đạo kinh tế APEC tại Santiago, Chile. PeSFTA được k‎ý kết vào
ngày 29/5/2008 và có hiệu lực vào ngày 1/8/2009. PeSFTA là một thỏa thuận
toàn diện bao gồm các lĩnh vực như thương mại hàng hoá, quy tắc xuất xứ,
biện pháp thương mại, vệ sinh (SPS) các biện pháp, kỹ thuật, các rào cản
thương mại (TBT), thương mại dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ, thủ tục

hải quan, tạm thời xuất nhập cảnh, cạnh tranh chính sách, quy định chế và giải
quyết tranh chấp.
Với Singapore, đây là FTA thứ hai mà nước này đã ký với một quốc
gia Nam Mỹ, bao gồm các vấn đề về thương mại hàng hóa, quy định xuất xứ
đến chính sách cạnh tranh và giải quyết tranh chấp. Hơn 87% tổng số mặt
hàng xuất khẩu của Singapore sang Peru sẽ được miễn thuế ngay khi FTA
trên có hiệu lực, phần còn lại sẽ giảm dần trong giai đoạn 10 năm. Trong khi
đó, tất cả mặt hàng mà Peru xuất khẩu sang Singapore cũng sẽ được miễn
thuế ngay lập tức. Peru là đối tác thương mại lớn thứ 17 ở Mỹ Latinh của
Singapore với kim ngạch thương mại song phương năm 2007 đạt 37,2 triệu
USD. Trong khi đó, Singapore là thị trường xuất khẩu hàng chế tạo lớn nhất
của Peru ở Đông Nam Á. Theo các nhà phân tích, FTA này sẽ mang lại cơ hội
tiếp cận thị trường của nhau đối với các doanh nghiệp Peru và Singapore,
đồng thời đẩy mạnh quan hệ thương mại và đầu tư song phương.
1.2.2 FTA đa phương
FTA đa phương là một FTA có từ 3 quốc gia hoặc vùng lãnh thổ trở lên
tham gia đàm phán và ký kết. Thông thường, các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ
thường có vị trí địa lý gần nhau, chính vì thế mà loại hình FTA này còn được
biết đến với tên gọi khác là FTA khu vực. Do số lượng các quốc gia tham gia
đàm phán ký kết nhiều nên thời gian chuẩn bị cho một FTA đa phương đi vào
hiệu lực thường kéo dài hơn nhiều so với một FTA song phương.

11
Có nhiều động lực kéo các nước vào một FTA chung, nhưng đa số các
nước đều muốn mở rộng thị trường mậu dịch, thắt chặt tình đoàn kết với các
quốc gia hoặc nâng cao vị thế, có tiếng nói hơn trên trường quốc tế. Một số ví
dụ cho hình thức FTA đa phương như: Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu,
Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN …
- Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu (tiếng Anh: European Free Trade
Association, viết tắt là EFTA) là hiệp định thương mại đa phương được 7 nước

bên ngoài Cộng đồng kinh tế châu Âu thời đó (Áo, Đan Mạch, NaUy, Bồ Đào
Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Vương Quốc Anh) đàm phán ký kết vào ngày
4/1/1960 tại Stockholm và có hiệu lực vào ngày 3/5/1960. EFTA được coi là
một trong những FTA đa phương ra đời đầu tiên đến nay vẫn còn hiệu lực.
Quá trình hình thành và phát triển EFTA đã có sự biến động liên tục.
Phần Lan đã tham gia vào năm 1961, Iceland vào năm 1970, và Liechtenstein
vào năm 1991. Năm 1973, Vương quốc Anh và Đan Mạch đã rời EFTA tham
gia vào EC, tiếp đến là Bồ Đào Nha vào năm 1986, và bởi Áo, Phần Lan và
Thụy Điển vào năm 1995. Ngày nay, EFTA chỉ còn bao gồm 4 quốc gia
không phải thành viên của Liên minh Châu Âu (EU) là Thụy sĩ, Na-uy, Ai-
xơ-len và Liechtenstein (trong đó chỉ có Na Uy và Thụy Sĩ là những thành
viên sáng lập)
Mục tiêu của EFTA nhằm đạt được sự tăng trưởng và thịnh vượng giữa
các nước thành viên cũng như xúc tiến gần hơn hợp tác kinh tế giữa các nước
Tây Âu. Hơn nữa, các nước EFTA muốn góp phần vào việc mở rộng thương
mại trên thế giới. Do đó, EFTA có nhiều thỏa hiệp mậu dịch tự do với các
nước ngoài châu Âu cũng như các tuyên bố hợp tác và các nhóm làm việc
chung để cải thiện mậu dịch. Hiện nay, các nước EFTA đã thiết lập các quan
hệ mậu dịch ưu đãi với 20 quốc gia và lãnh thổ, không kể 27 nước hội viên

12
Liên minh châu Âu.
- Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (tiếng Anh: North America
Free Trade Agreement; viết tắt: NAFTA) là hiệp định thương mại tự do đa
phương giữa ba nước Canada, Mỹ và Mexico, được ký kết ngày 12/8/1992,
hiệu lực từ ngày 1/01/1994. Nội dung của hiệp định này là: Giúp cho 3 nước
Mỹ, Canada và Mexico trao đổi thương mại được thuận tiện. Cụ thể là việc
Mỹ và Canada có thể dễ dàng chuyển giao công nghệ sang Mexico và Mexico
cũng dễ dàng chuyển giao nguồn nhân lực sang hai nước kia. Ngoài ra, hiệp
định này còn giúp cho 3 nước có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới

về kinh tế với các khối như EU, AFTA
Kể từ khi hiệp định được thi hành năm 1994 đã tạo ra những thay đổi to
lớn đối với các thành viên trong toàn khối. Sau 10 năm thực sự đã có bùng nổ
thương mại. Kể từ khi ký kết, 76,2% hàng hoá Mexico xuất sang Hoa Kỳ và
66,3% hàng hoá Hoa Kỳ xuất sang Mexico được miễn thuế so với con số
trước khi ký kết hiệp định là 13,9 và 17,9%. Hàng rào thuế giảm đã làm
thương mại tăng mạnh. Nếu như trước khi hiệp định được ký kết, thương mại
giữa ba nước với nhau đạt trên 200 tỷ USD thì đến năm 2002 đã tăng hơn 3
lần, đạt trên 600 tỷ USD. Thương mại của NAFTA đã tăng cao hơn thương
mại của khối với phần còn lại của thế giới. Thương mại của khối NAFTA với
các nước còn lại giai đoạn 1990-2002 tăng từ 322 lên 481 tỷ USD. Trong 3
nước, Mexico là nước có trình độ phát triển thấp nhất cũng thu được lợi ích từ
thương mại. Trong vòng hơn 10 năm, kim ngạch xuất khẩu của Mexico đã
tăng hơn 4 lần, từ khoảng 40 tỷ USD lên trên 160 tỷ USD. Trong cùng giai
đoạn, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Mexico trong khối NAFTA đã tăng từ
79% lên đến 91%. Tăng trưởng thương mại đã thúc đẩy nền kinh tế đi lên.
Nền kinh tế Mexico đạt mức tăng trưởng trung bình 3,3%/năm sau khi hội
nhập so với tốc độ của giai đoạn trước là 2,9%/năm. Cũng trong giai đoạn 10

13
năm, kinh tế đi lên đã giúp tăng được công ăn việc làm 22%. Một số địa
phương của Mexico đã thu được lợi ích lớn từ quá trình hội nhập, như ở Jalisco
đã hình thành được một khu vực công nghiệp công nghệ cao tập trung [8].
- Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (tiếng Anh: ASEAN Free Trade
Area; viết tắt là AFTA) là FTA đa phương giữa các nước trong khối ASEAN.
Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống còn từ 0% đến 5%,
loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài
hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước. Sáng kiến về AFTA vốn là của Thái
Lan. Sau đó hiệp định về AFTA được ký kết vào năm 1992 tại Singapore.
Ban đầu chỉ có sáu nước là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines,

Singapore và Thái Lan (ASEAN-6). Các nước Campuchia, Lào, Myanma và
Việt Nam (CLMV) được yêu cầu tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối
ASEAN.
Mục đích của AFTA là nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau:
+ Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào
thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi quan thuế.
Điều này sẽ khiến cho các doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải có
hiệu quả và khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Đồng thời,
người tiêu dùng sẽ mua được những hàng hoá từ những nhà sản suất có hiệu
quả và chất lượng trong ASEAN, dẫn đến sự tăng lên trong thương mại nội
khối.
+ Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một
khối thị trường thống nhất, rộng lớn hơn.
+ Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế
đang thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu
vực (RTA) trên thế giới.

14
+ Để thực hiện thành công Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, các nước
ASEAN cũng trong năm 1992, đã ký Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu
lực chung (Common Effective Preferential Tariff), gọi tắt là CEPT. CEPT là
một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về giảm thuế quan
trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế
về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, bắt đầu từ
1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. ( Đây là thời hạn đã có sự đẩy nhanh
hơn so với thời hạn ký Hiệp định ban đầu : từ 15 năm xuống còn 10 năm).
Theo Hiệp định về Thuế quan Ưu đãi có Hiệu lực Chung (CEPT), sáu quốc
gia gia nhập ASEAN trước sẽ xóa bỏ khoảng 98% tổng số dòng thuế của
mình đối với các quốc gia thành viên khác vào năm 2006. Thời hạn dành cho
bốn quốc gia gia nhập sau là năm 2013. Các sản phẩm được xem xét giảm

thuế quan được nêu trong bốn danh mục, đó là: (i) danh mục các sản phẩm
giảm thuế ngay, (ii) danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế, (iii)
danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm, và (iv) danh mục
các sản phẩm loại trừ hoàn toàn [4].
1.2.3 FTA hỗn hợp
FTA hỗn hợp là hình thức kết hợp giữa FTA song phương với FTA đa
phương. Nó giống với một FTA song phương ở chỗ số bên tham gia hiệp định
chỉ là hai bên: một bên là một khu vực mậu dịch tự do với một bên là một
hoặc một số quốc gia đối tác. Mặt khác nó cũng giống như một FTA đa
phương ở chỗ phạm vi tác dụng cũng là nhiều quốc gia.
FTA hỗn hợp tuy còn có nhiều phức tạp trong quá trình đàm phán
nhưng loại hình FTA này vẫn đang tăng nhanh về số lượng trong những năm
gần đây bởi những ưu thế của nó so với các FTA song phương và FTA đa
phương. FTA hỗn hợp tạo ra một thị trường đầy tiềm năng, đa dạng và phong

15
phú cho các thành viên.
Các FTA hỗn hợp trên thế giới đã và đang được ký kết theo một trong
hai cách thức phổ biến sau: Theo cách thứ nhất thì tất cả các thành viên của
khu vực mậu dịch tự do sẽ cùng kết hợp đàm phán với quốc gia đối tác để đi
tới thống nhất. EU thường áp dụng hình thức này khi ký kết FTA hỗn hợp với
một quốc gia khác. Theo cách thứ hai thì từng thành viên của khu vực mậu
dịch tự do sẽ độc lập đàm phán với quốc gia đối tác và FTA hỗn hợp chung sẽ
là sự tổng hợp từ kết quả của các cuộc đàm phán riêng lẻ. Kiểu đàm phán này
thường được sử dụng trong các FTA giữa một bên là ASEAN hoặc Liên minh
thuế quan Nam Phi (SACU).
Một số ví dụ cho hình thức FTA hỗn hợp đã được hình thành trên thế
giới như: Hiệ p đị nh thương mạ i tự do giữ a ASEAN với Trung Quốc , ASEAN
với Hàn Quốc, ASEAN với Australia và NewZealand, EU với Hàn Quốc.
- Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN với Trung Quốc

Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN với Trung Quốc (ACFTA),
xuất phát ý tưởng về việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do giữa Trung
Quốc và ASEAN từ đề xuất của Cựu Thủ tướng Trung Quốc- Chu Dung Cơ
tại Hội nghị thượng đỉnh không chính thức ASEAN lần thứ 4 tổ chức vào
tháng 11/ 2000. Ngày 4/ 11/ 2002, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8
diễn ra ở thủ đô Phnompenh (Campuchia), các nhà lãnh đạo ASEAN và
Trung Quốc đã chính thức ký bản hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn
diện ASEAN- Trung Quốc (Framework Agreement on Asean– China
Comprehensive Economic Cooperation - FAACCEC), mở đường cho việc
thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) trong 10
năm sau đó.
ACFTA vừa chính thức đi vào hoạt động ngày 1/1/2010, với khoảng

16
9.000 nhóm hàng hóa và dịch vụ, tương đương 90% tổng trao đổi thương mại
song phương, được miễn giảm thuế. Có thể nói ACFTA là Hiệp định thương
mại tự do lớn nhất trên thế giới cho đến thời điểm 2009 với 1,9 tỷ dân số. Nội
dung cam kết cắt giảm thuế của các nước trong khuôn khổ ACFTA được điều
chỉnh bởi Hiệp định Khung về Hợp tác Kinh tế toàn diện ASEAN-Trung
Quốc được các nhà lãnh đạo Thượng đỉnh ASEAN và Trung Quốc ký ngày
4/11/2002 tại Campuchia (gọi tắt là Hiệp định Khung), Hiệp định Thương mại
Hàng hoá ASEAN- Trung Quốc được ký kết ngày 29/11/2004 tại Lào.
Theo các chuyên gia, Khu vực thương mại tự do Trung Quốc- ASEAN
sẽ giúp hai bên bớt phụ thuộc vào thị trường bên ngoài, thúc đẩy trao đổi
thương mại giữa hai bên. ACFTA sẽ đặc biệt có lợi đối với tiềm năng tăng
trưởng kinh tế của hai bên. Hơn nữa, điều này sẽ tạo ra một cơ chế quan trọng
nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế ở khu vực và cho phép ASEAN và Trung
Quốc có tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề thương mại quốc tế.
- Hiệp định thương mại tự do giữa EU với Hàn Quốc
Hiệp định thương mại tự do giữa EU với Hàn Quốc được ký kết vào

ngày 15/10/2009 mở đường cho việc xóa bỏ hầu như mọi hình thức thuế quan
và nhiều rào cản thương mại phi thuế quan giữa hai nền kinh tế lớn này. Sau
khi Hiệp định thương mại tự do EU- Hàn Quốc có hiệu lực, dự kiến vào nửa
cuối năm tới, trong vòng 3 năm tiếp theo hai bên sẽ phải từng bước dỡ bỏ các
mức thuế áp đối với 96% hàng xuất khẩu của EU và 99% hàng xuất khẩu của
Hàn Quốc.
Ủy viên EU phụ trách thương mại Catherine Ashton cho rằng Hiệp
định thương mại tự do giữa EU với Hàn Quốc có ý nghĩa quan trọng đặc biệt,
giúp hai bên đối phó với tình trạng suy thoái kinh tế và tạo thêm nhiều việc
làm mới.

×