Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) ĐẾN HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU TÔM THẺ CHÂN TRẮNG CỦA VIỆT NAM VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.85 KB, 87 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
KHOA THƯƠNG MẠI

BIỆN KHẮC HUY
LỚP: 12DTM2
KHÓA: 2012 - 2016
MSSV: 1212050042

ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Tên đề tài:

“TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
ĐẾN HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU
TÔM THẺ CHÂN TRẮNG CỦA VIỆT NAM
VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020”
CHUYÊN NGÀNH: THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THẠC SỸ NGUYỄN THỊ CẨM LOAN

TP. HCM, NĂM: 2014

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
KHOA THƯƠNG MẠI


BIỆN KHẮC HUY
LỚP: 12DTM2
KHÓA: 2012 - 2016
MSSV: 1212050042



ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Tên đề tài:

“TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
ĐẾN HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU
TÔM THẺ CHÂN TRẮNG CỦA VIỆT NAM
VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020”

TP. HCM, NĂM: 2014

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian thực hiện đề án này, Thạc sỹ Nguyễn Thị Cẩm Loan đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ em, nhờ đó em có thể hoàn thành đề án thuận lợi và đúng thời gian. Vì vậy
em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng đề án sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong các thầy cô giáo đánh giá góp ý để đề án được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, ngày 19/12/2014.
Sinh viên thực hiện
Biện Khắc Huy


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
….
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………..


4

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- TPP: Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement (Hiệp định Đối tác
-

xuyên Thái Bình Dương).

DOC: United States Department of Commerce ( Bộ Thương mại Hoa Kỳ).
VESEP: Vietnam Association of Seafood Exporters and Producers (Hiệp hội Chế
biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam)
USTR: Office of the United States Trade Representative (Văn phòng đại diện
thương mại Hoa Kỳ).
MSC: Marine Stewardship Council (Hội đồng quản lý biển)
ISO: International Organization for Standardization (Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc
tế)
HACCP: Hazard Analysis and Critical Control Points (Phân tích mối nguy và điểm
kiểm soát tới hạn).
BRC: British Retail Consortium (Hiệp hội các nhà bán lẻ Anh).
GMP: Good Manufacturing Practices (tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt nhằm đảm
bảo điều kiện vệ sinh an toàn cho sản xuất)
SQF: Safe quality food (an toàn chất lượng thực phẩm).


5

-

ASC: Aquaculture Stewaship Council (Hội Đồng Quản Lý Nuôi Trồng Thủy Sản)
ILO: International Labour Organization (Tổ chức Lao động Quốc tế)
LĐTBXH: Liên đoàn Thương binh Xã hội.
RVC: Regional Value Content (Hàm lượng giá trị khu vực)
NN và PTNT: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
NĐ – CP: Nghị đinh – Chính phủ.
TBT: Technical Barriers to Trade (Các rào cản kỹ thuật trong thương mại),
SPS: Sanitary and Phytosanitary measures (biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động
thực vật)
US ITC: United States International Trade Commission (Tòa án Thương mại Quốc

tế Hoa Kỳ)
FTA: Free trade agreement (Hiệp định thương mại tự do)
TRIPS: Trade Related Intellectual Property Rights (Hiệp định liên quan đến quyền
sở hữu trí tuệ)
ACTU :Australian Council of Trade Unions (Hội đồng các liên đoàn lao động
Australia)

DANH MỤC HÌNH ẢNH


6

DANH MỤC BIỂU ĐỒ


7

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :

Trong nhiều năm qua, thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng liên tục qua các năm với mức tăng trưởng
khoảng 15 - 20%/năm. 10 năm qua, thuỷ sản Việt Nam liên tục tăng trưởng với kim ngạch
xuất khẩu tăng hơn 3 lần, từ 2 tỷ USD năm 2002 lên 6,1 tỷ USD vào năm 2011. Năm
2013, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 6,7 tỷ USD, vượt qua chỉ tiêu 6,5 tỷ USD. Trong
9 tháng năm 2014, kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này cũng đã đạt 5,7 tỷ USD. Đây là
cơ sở quan trọng để các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam hướng tới con số 10 tỷ USD vào
năm 2020 theo mục tiêu chiến lược phát triển xuất khẩu thuỷ sản giai đoạn 2010 - 2020
của Chính phủ, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một trong bốn quốc gia đứng đầu về
xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới.1

Tôm là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của thuỷ sản, đặc biệt là tôm thẻ chân trắng
trong những năm gần đây. Trong thành công của xuất khẩu thuỷ sản năm 2013 đạt trên
6,7 tỷ USD (vượt xa mục tiêu đạt 6,5 tỷ USD), có sự đóng góp lớn của ngành tôm với
doanh số trên 3 tỷ USD , chiếm 46% tổng xuất khẩu (trong đó tôm thẻ chân trắng đóng
góp với doanh số gần 1,5 tỷ USD, chiếm gần 50%) 2. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất
khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), 8 tháng đầu năm 2014, kim ngạch xuất khẩu tôm cả
nước đạt 2,56 tỷ USD, tăng 48,3% so với cùng kỳ năm 2013. Xuất khẩu mặt hàng này đã
tăng trưởng đều đặn ở hầu khắp các thị trường chủ lực của Việt Nam. 3
Bên cạnh đó, mặt hàng tôm thẻ chân trắng đã có những bước tiến ngoạn mục, vượt
mặt tôm sú để nắm giữ vai trò chủ lực trong xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Tháng
9/2013, xuất khẩu tôm thẻ chân trắng ước đạt 154 triệu USD, tăng 141,2% so với cùng kỳ
năm 2012. Lũy kế 9 tháng đầu năm 2013, số liệu thống kê của Hiệp hội Chế biến và Xuất
khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho thấy trong tổng kim ngạch xuất khẩu tôm đạt trên
2 tỷ USD, tôm thẻ chân trắng đứng đầu với 952 triệu USD, cao hơn so với tôm sú (928
triệu USD). Tuy giá trị xuất khẩu tôm sú quý III vẫn tăng so với cùng kỳ nhưng chỉ tăng
2,14%, vẫn thua mức tăng tới gần 80% của tôm thẻ chân trắng4.
Tuy nhiên, hiện nay hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đang phải đối mặt
với nhiều thách thức lớn. Mới đây nhất, theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản
Việt Nam, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) vừa có phán quyết cuối cùng giữ nguyên mức
thuế chống bán phá giá đối với tôm Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ theo quyết định sơ bộ
1 2 Không tên (2014), “Xuất khẩu thuỷ sản đối mặt nhiều thách thức”, Báo điện tử Đảng Cộng Sản
Việt
Nam,
truy
cập
ngày
1/12/2014,
xem
tại
/>2

3 Bảo Ngọc (2014), “Xuất khẩu tôm có thể vượt mức 3,5 tỷ USD”, Báo điện tử Vietnam Economic
News, truy cập ngày 1/12/2014, xem tại “ />4 Nhật Minh (2013), “Ngoạn mục xuất khẩu tôm thẻ chân trắng”, Báo điện tử stockbiz.vn, truy cập
ngày 1/12/2014, xem tại “ />

8

-

-

-

giai đoạn rà soát lần thứ 8. Theo đó, giai đoạn rà soát lần thứ 8 diễn ra từ ngày 1/2/2012
đến ngày 31/1/2013 có 32 doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam chịu thuế chống bán phá
giá, với mức thuế bình quân là 6,37%.5
Có thể thấy, đây là một khó khăn lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của
Việt Nam. Do vậy, việc 32 doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam bị phía Mỹ áp thuế
chống bán phá giá vào cuối tháng 9 này đang làm nảy sinh vấn đề đến xuất khẩu thủy sản
nói chung và mặt hàng tôm nói riêng vào năm 2014 và lộ trình đạt con số 10 tỷ USD vào
năm 2020.
Nhưng bên cạnh đó, một chủ đề thu hút được rất nhiều sự quan tâm đó chính là
Việt Nam gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic
Economic Partnership Agreement - viết tắt TPP). Trải qua rất nhiều vòng đàm phán với
mức ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc trên nhiều lĩnh vực, với nhiều đối tác tiềm năng lớn
hứa hẹn sẽ là những bạn hàng, những thị trường đầy triển vọng đối với nước ta sau này.
Đó là cơ hội cũng như thách thức đến xuất khẩu thủy sản nói chung cũng như mặt hàng
tôm, đặc biệt là tôm thẻ chân trắng nói riêng.
Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Tác động của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu tôm thẻ chân trắng của Việt Nam
và định hướng đến năm 2020” là một vấn đề hết sức cần thiết, nhằm tìm lời giải cho

những khó khăn hiện tại và định hướng phát triển đến năm 2020 của ngành thủy sản nói
chung cũng như mặt hàng tôm, đặc biệt là tôm thẻ chân trắng nói riêng.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU :
Tìm hiểu về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Phân tích các tác nhân trong sản xuất và xuất khẩu mặt hàng tôm thẻ chân trắng của Việt
Nam.
Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức trong sản xuất và xuất khẩu mặt
hàng tôm thẻ chân trắng của Việt Nam.
Phân tích tác động của hiệp định TPP đến sản xuất và xuất khẩu mặt hàng tôm thẻ chân
trắng. Liệu rằng việc gia nhập TPP sẽ tạo nên những cơ hội và thách thức như thế nào cho
ngành này, và cái nào sẽ nhiều hơn.
Đề xuất các giải pháp trong sản xuất và xuất khẩu mặt hàng tôm thẻ chân trắng nhằm tận
dụng thời cơ và chuẩn bị trước cho những thách thức.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
Nội dung, diễn biến các vòng đàm phán, những điều luật trong Hiệp định Đối tác Kinh tế
Chiến lược xuyên Thái Bình Dương. Mối quan hệ của Việt Nam với các nước thành viên
của Hiệp định và những tác động đến sản xuất và xuất khẩu mặt hàng tôm thẻ chân trắng
của Việt Nam.
- Nghiên cứu sản xuất và xuất khẩu mặt hàng tôm thẻ chân trắng của Việt Nam.
5 Tuấn Khang (2014), “Quyết đòi lại công bằng cho tôm Việt Nam”, Báo điện tử
thuysanvietnam.com.vn, truy cập ngày 1/12/2014, xem tại “ />

9

- Phân tích tác động của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương đến sản xuất và xuất

khẩu mặt hàng tôm thẻ chân trắng và đề xuất một số giải pháp để nâng cao khả năng sản
xuất và xuất khẩu, tận dụng thời cơ và chuẩn bị trước cho những thách thức.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Dùng phương pháp nghiên cứu định tính và quy nạp với dữ liệu thứ cấp thu được

từ Internet và sách, báo chuyên ngành. Sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích, so
sánh, tham khảo ý kiến từ các nhận xét khách quan của những chuyên gia trong lĩnh vực
sản xuất và xuất khẩu thủy sản, đặc biệt là tôm thẻ chân trắng để kết hợp phân tích từ đó
làm rõ hơn nội dung đề tài.
Sử dụng công cụ SWOT để phân tích các điểm mạnh, điểm yếu trong sản xuất và
xuất khẩu tôm thẻ chân trắng của Việt Nam; những cơ hội và thách thức mà TPP sẽ đem
đến. Từ đó, đưa ra các đề xuất hành động thích hợp cho các doanh nghiệp sản xuất và
xuất khẩu tôm thẻ chân trắng.
5.
KẾT CẤU ĐỀ ÁN :
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo, mục lục và phụ lục, nội
dung chính của đề tài gồm 3 chương như sau:
 Chương 1: Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
 Chương 2: Tình hình sản xuất và xuất khẩu tôm thẻ chân trắng của Việt Nam.
 Chương 3: Các tác động của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đến
việc sản xuất và xuất khẩu tôm thẻ chân trắng của Việt Nam.
 Chương 4: Một số đề xuất và giải pháp đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu khẩu tôm
thẻ chân trắng của Việt Nam và định hướng phát triển đến năm 2020.

NỘI DUNG
1.
HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TRANS PACIFIC STRATEGIC ECONOMIC PARTNERSHIP AGREEMENT
- TPP)


10

1.1. Tổng quan về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương.6
1.1.1. Khái niệm.
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh: TransPacific Strategic Economic Partnership Agreement - viết tắt TPP) là một hiệp đinh/thỏa

thuận thương mại tự do với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á-Thái
Bình Dương.
1.1.2. Ý nghĩa.
- Hoa Kỳ cho rằng, Hiệp định TPP có một ý nghĩa mang tầm vóc thế giới. Tính đến nay, 12
nước tham gia TPP chiếm tới 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn thế giới, lớn hơn
rất nhiều so với Liên minh châu Âu (EU, hiện là khu vực tự do mậu dịch lớn nhất, nhưng
chỉ chiếm có 26% GDP thế giới).
- So với các FTA, TPP có phần trội hơn hẳn về mức độ mở cửa ở các mặt hàng và dịch vụ.
Bên cạnh đó, TPP cũng có những quy định nghiêm ngặt và sâu hơn WTO về các mặt đầu
tư, sở hữu trí tuệ, mua sắm công, vệ sinh dịch tễ và các vấn đề lao động. Do đó TPP được
kỳ vọng như là một “FTA của thế kỉ 21”.
- Mở rộng thêm, các nước thành viên TPP đồng ý thúc đẩy trao đổi thương mại các sản
phẩm công nghệ cao, như trong lĩnh vực tin học, các thiết bị liên quan đến năng lượng tái
tạo. Bản hiệp định sẽ có những điều khoản nhằm tăng cường bảo vệ môi trường tại các
nước thành viên, đặc biệt trong lĩnh vực đánh bắt hải sản, đa dạng sinh học, biến đổi khí
hậu, các sản phẩm “xanh”. Từ đó giúp cải thiện môi trường sống của người dân các nước
thành viên nói riêng và cả Thế giới nói chung.
1.1.3. Diễn biến đàm phán.
Đàm phán Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) hiện nay có nguồn
gốc từ Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement – còn gọi là P4) - một Hiệp định thương mại
tự do được ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006 giữa 4 nước Singapore, Chile,
New Zealand, Brunei.
Năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán của
Hiệp định này ra các vấn đề dịch vụ tài chính và đầu tư và trao đổi với Hoa Kỳ về khả
năng nước này tham gia vào đàm phán mở rộng của P4. Phía Hoa Kỳ cũng bắt đầu tiến
hành nghiên cứu vấn đề, tham vấn nội bộ với các nhóm lợi ích và Nghị viện về vấn đề
này.
Tháng 9/2008, Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (Office of the United
States Trade Representative – USTR) thông báo quyết định của Hoa Kỳ tham gia đàm

phán P4 mở rộng và chính thức tham gia một số cuộc thảo luận về mở cửa thị trường dịch
vụ tài chính với các nước P4. Tháng 11 cùng năm, các nước Úc, Peru và Việt Nam cũng
bày tỏ sự quan tâm và tham gia đàm phán TPP, nâng tổng số thành viên tham gia lên 8
6 Chuyên đề “Đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương – TPP, truy cập ngày
5/12/2014, xem tại “ />

11

nước (trừ Việt Nam đến 13/11/2010 mới tuyên bố tham gia đàm phán với tư cách thành
viên đầy đủ, các nước khác quyết định tham gia chính thức ngay từ đầu). Cũng từ thời
điểm này, đàm phán mở rộng P4 được đặt tên lại là đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên
Thái Bình Dương (TPP).
Tuy nhiên đàm phán TPP mới đã bị trì hoãn đến tận cuối 2009 do phải chờ đợi Hoa
Kỳ hoàn thành kỳ bầu cử Tổng thống và Chính quyền mới của Tổng thống Obama tham
vấn và xem xét lại việc tham gia đàm phán TPP. Tháng 12/2009 Văn phòng Đại diện
Thương mại Hoa Kỳ (Office of the United States Trade Representative – USTR) mới
thông báo quyết định của Tổng thống Obama về việc Hoa Kỳ tiếp tục tham gia TPP. Chỉ
lúc này đàm phán TPP mới được chính thức khởi động.
Vòng đàm phán TPP đầu tiên được tiến hành tại Melbourn - Úc vào tháng 3/2010.
Ngày 10/9/2014 Các trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương
(TPP) đã hoàn tất 10 ngày đàm phán căng thẳng tại Hà Nội – Việt Nam, kết thúc vòng
đàm phán thứ 20.
Trong vòng đàm phán tại Hà Nội, Việt Nam, Mỹ, Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật
Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru và Singapore đã giải quyết thành công nhiều
vấn đề và thu hẹp khoảng cách trong nhiều lĩnh vực khác.Các đoàn đàm phán đã đạt được
tiến bộ quan trọng về doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ, đầu tư, quy tắc xuất xứ, tính
minh bạch và chống tham nhũng, lao động. Các đoàn cũng tiếp tục xây dựng các gói tiếp
cận đầy tham vọng nhằm đưa hàng hóa, dịch vụ/đầu tư, dịch vụ tài chính và mua sắm
chính phủ vào thị trường của nhau với thuế suất ưu đãi, theo thông cáo báo chí từ Đại sứ
quán Mỹ tại Hà Nội. Sau khi giảm số lượng các vấn đề còn tồn đọng, Mỹ và 11 quốc gia

TPP khác cùng cam kết sẽ giải quyết các vấn đề còn lại trong thời gian ngắn nhất có thể,
bao gồm văn bản và các gói tiếp cận thị trường.

-

-

-

-

1.2. Mục tiêu của các nước ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương.
1.2.1. Các nước phát triển.
1.2.1.1. Hoa Kỳ.
TPP là tiền đề cho hội nhập kinh tế Hoa Kỳ với Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương Gia
tăng lợi ích của Hoa Kỳ trong chính sách kinh tế và đối ngoại với Đông Nam Á.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu của Hoa Kỳ.
Tránh bị đứng ngoài một khu vực có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới do việc gia tăng
Hiệp định Thương mại Tự do trong khu vực này mà không có sự tham gia của các Hoa
Kỳ.
Chống lại những ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc trong khu vực và trên thế
giới.
1.2.1.2. Nhật Bản.
“Nhật Bản phải giữ được vị trí chủ đạo trong thế kỷ của Châu Á-Thái Bình Dương” Thủ
tướng Abe phát biểu về những bước tiếp theo của Nhật, trong một bài nói trực tiếp trên
truyền hình Nhật. Nhật Bản thấy được những lợi ích của mình khi tham gia đàm phán


12


-




-

-

-




-

-

TPP và cũng muốn trở thành một phần trong những giao dịch với khu vực có tốc độ phát
triển nhanh nhất- Châu Á-Thái Bình Dương.
Chính vì những lợi ích đó nên Nhật Bản đã khởi động việc chuẩn bị gia nhập vào TPP.
Điều này làm cho quá trình đàm phán TPP trở nên phức tạp nhất là khi có những quan
điểm trái chiều giữa Nhật và một số nước chủ chốt trong tiến trình TPP đặc biệt là Mỹ.
Nếu hàng rào thuế quan được bãi bỏ trên cả hai mặt hàng :
Nhật Bản mở rộng được thị trường xuất khẩu ô tô và hàng hóa chế tạo, sản phẩm ô tô của
Nhật ở thị trường Mỹ sẽ có giá cạnh tranh hơn.
Thay vào đó, khu vực nông nghiệp của Nhật sẽ chịu nhiều sức ép về giá vì lượng nhập
khẩu mặt hàng nông sản sẽ tăng và mức giá sẽ thấp, nông nghiệp trong nước khó phát
triển.
Tuy nhiên, ý định bảo hộ 5 mặt hàng nhạy cảm về mặt chính trị đó của Nhật Bản đã vấp

phải phản ứng từ các nước khác. Các nước này cho rằng tất cả các mặt hàng đều phải đặt
lên bàn thương lượng và quy tắc phi thuế quan của TPP không cho phép tồn.
Tại những ngoại lệ. Bất đồng giữa Nhật Bản và Mỹ không còn dừng lại ở việc bảo hộ 5
mặt hàng nông sản hay ngành công nghiệp ôtô mà còn lan rộng sang một số lĩnh vực khác
như trong lĩnh vực bảo hiểm, phía Mỹ quan ngại rằng các công ty bảo hiểm tư nhân và
Công ty Bảo hiểm Bưu điện Nhật Bản - một công ty con của Tập đoàn Bưu điện Nhật
Bản - sẽ không thể cạnh tranh bình đẳng với nhau.
1.2.1.3. Newzealand.
TPP bao gồm 4 nước nằm trong top 10 những nước có giao thương nhiều nhất với New
Zealand (Thứ nhất: Úc, Thứ ba: Mỹ, Thứ sáu: Singapore, Thứ tám: Malaysia). Tổng cộng,
các nước TPP chiếm 38% tổng khối lượng xuất khẩu của New Zealand.
Những lợi ích nền kinh tế New Zealand nhận được từ TPP:
Rào cản thuế quan được bãi bỏ và chi phí hải quan giảm cho những nhà xuất khẩu.
Có thêm nhiều cơ hội ký các hợp đồng mua sắm công.
Giảm bớt rào cản cho thương mại dịch vụ và đầu tư.
1.2.1.4. Australia.
TPP có tiềm năng trở thành cơ sở xây dựng sự hội nhập kinh tế của khu vực Châu Á-Thái
Bình Dương.
Nguyên tắc xuất xứ trong hiệp định sẽ đưa đến những cơ hội mới cho nhà xuất khẩu Úc
tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu.
TPP còn cung cấp thêm sự tiếp cận thị trường cho các loại hàng hóa và dịch vụ bên cạnh
các thị trường tạo bởi các FTA và những thành viên mới của TPP trong tương lai.
Sự có mặt của chương điều khoản về Đầu tư và dịch vụ tài chính trong TPP đưa đến nhiều
cơ hội tốt hơn cho những nhà cung cấp dịch vụ tài chính của Úc bởi vì các rào cản bị bãi
bỏ ví dụ như quy định về hạn chế vốn đầu tư nước ngoài.
TPP cũng cung cấp những quy định khuôn khổ hợp tác với các nước mà Úc chưa có các
hiệp định thương mại song phương cũng như tiềm năng cho sự tiếp cận tốt hơn đối với
các sản phẩm từ sữa và khai thác mỏ tại Peru thông qua TPP.



13

1.2.2. Các nước đang phát triển.
Đối với các nước đang phát triển, mục tiêu lớn nhất khi tham gia TPP là tăng
cường lợi thế xuất khẩu sang các nước TPP, thông qua việc các nước này miễn hoặc giảm
thuế cho hàng hóa. Tuy nhiên, điều này chỉ đạt được nếu hàng hóa của các nước đáp ứng
đầy đủ các yêu cầu rất cao và phức tạp về quy tắc xuất xứ, bắt buộc phải có nguyên liệu
hoặc giá trị chủ yếu từ các nước thành viên.
1.3. Nội dung một vài điều khoản của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương.
1.3.1. Thương mại hàng hóa (Trade in goods).
1.3.1.1. Các vấn đề được quan tâm.
Có thể nói, TPP đẩy mạnh tiến trình giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0% cho hầu
hết các mặt hàng giữa các thành viên với lộ trình thực hiện là khá ngắn. Nhưng đây chính
là cái bẫy của các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển. Ta phân tích 2
chiều:
- Nước đang phát triển xuất khẩu sang nước phát triển

Dù thuế quan giảm, cơ hội cạnh tranh với hàng hóa nước bạn tăng cao nhưng chính đối
phương cũng đã đặt ra những rào cản phi thuế vô cùng khắt khe mà hầu hết các nước
đang phát triển đều vấp phải. Đó chính là các rào cản kỹ thuật (TBT), các tiêu chuẩn an
toàn vệ sinh (SPS) khiến cho lượng xuất khẩu giảm mạnh do các nước không thể đáp ứng
được yêu cầu này. Bên cạnh đó, do đa số các mặt hàng xuất khẩu của các nước đang phát
triển là các mặt hàng thâm dụng lao động với giá nhân công rẻ nên giá thành sản phẩm
cũng khá rẻ dẫn đến hàng loạt vụ kiện chống bán phá giá xảy ra từ đó dù không vướng
phải thuế quan thì các nước cũng mắc phài thuế chống bán phá giá/chống trợ cấp xuất
khẩu.
- Nước đang phát triển nhập khẩu từ nước phát triển
Cơ hội duy nhất dành cho các nước đang phát triển là có thể tiếp cận nguồn nguyên liệu
rẻ do không bị đánh thuế. Mặt khác thách thức thì rất lớn, đó là sự đổ bộ của các ông trùm
đến từ các nước phát triển với trình độ kỹ thuật cao, gây thiệt hại đến ngành sản xuất nội

địa. Nếu như các nước đang phát triển dùng tiêu chuẩn TBT hay SPS để bảo hộ nền sản
xuất nội địa thì lại mắc phải chính rào cản do mình đặt ra vì các tiêu chuẩn này phải đươc
áp dụng theo nguyên tắc Đối Xử Quốc Gia (NT) mà trong khi trình độ của các doanh
nghiệp còn non kém so với các doanh nghiệp đến từ các nước phát triển.


14

1.3.1.2. Kết luận.
Có thể nói, hiện nay các nước phát triển có nhiều lợi thế hơn trong TPP. Nhưng
không có gì là mãi mãi, nếu các nước đang phát triển chú trọng hơn vào việc nâng cao kỹ
thuật, công nghệ để vượt qua rào cản phi thuế của các nước phát triển thì dần dần môi
trường cạnh tranh sẽ trở nên công bằng hơn đối với các nước đang phát triển. Vì vậy, TPP
chính là động lực thúc đẩy các đang phát triển cải tiến nền thương mại hàng hóa của quốc
gia.
1.3.2. Nguyên tắc xuất xứ.
1.3.2.1. Các vấn đề được quan tâm.
- Xuất xứ nội khối TPP
Theo những đề xuất về xuất xứ hàng hóa trong TPP, được hiểu là, các sản phẩm
xuất khẩu từ một thành viên của TPP sang các thành viên TPP khác để hưởng ưu đãi về
thuế đều phải có xuất xứ “nội khối TPP”.
Hàm lượng giá trị khu vực (regional value content – RVC)
RVC = (𝑇𝑇−𝑇𝑇𝑇)/TV ∗100𝑇𝑇𝑇
Trong đó :
• VNM được hiểu là giá trị nguyên vật liệu đầu vào không có xuất xứ có thể là: (i) giá CIF
tại thời điểm nhập khẩu của nguyên vật liệu, phụ tùng-bộ phận hoặc hàng hóa; hoặc (ii)
giá nguyên vật liệu, phụ tùng-bộ phận đầu vào hoặc hàng hóa chưa xác định được xuất xứ
tại lãnh thổ của một nước nơi thực hiện các công đoạn gia công, chế biến.
• TV là giá trị giao dịch của hàng điều chỉnh trên cơ sở FOB
Tùy thuộc vào thỏa thuận của các nước với nhau mà RVC tối đa hay tối thiểu của

các nước để được nhận các ưu đãi. Ví dụ giữa Việt Nam và Nhật Bản, nếu giá trị RVC lớn
hơn hoặc bằng 40% thì được cho là có xuất xứ từ Việt Nam.
- Nguyên tắc cộng gộp:

Nguyên tắc cộng gộp xuất xứ nội vùng sẽ được áp dụng cho tất cả các loại hàng
hóa, kể cả những hàng hóa nhạy cảm mà các nước TPP có thể áp dụng thuế suất khác
nhau cho hàng hóa nhập khẩu đến từ các nước khác nhau. Nhưng trong vòng đàm phán 19
này Hoa Kỳ đã đồng ý sử dụng nguyên tắc cho mọi hàng hóa.
De minimis:
Hàm lượng không đáng kể (de minimis) của nguyên liệu không có xuất xứ có thể
được sử dụng trong hàng hóa mà vẫn đáp ứng tiêu chuẩn được ưu đãi thuế quan theo TPP.


15

Một nguồn tin cho biết, các nước TPP đồng ý rằng nên quy định một mức không đáng kể,
nhưng Hoa Kỳ không muốn quy định này được áp dụng cho các hàng hóa nhạy cảm.
- Chấp nhận xuất xứ:
Vấn đề vừa được thảo luận trong phiên họp về quy tắc xuất xứ (ở vòng đàm phám
19) là liệu TPP có nên chấp thuận cho các doanh nghiệp tự chứng nhận rằng họ đã đáp
ứng quy tắc xuất xứ để được cắt giảm thuế quan không, hay doanh nghiệp phải xin giấy
chứng nhận xuất xứ chính thức từ cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu.
- Các vấn đề về thủ tục:
Các doanh nghiệp cần nắm bắt thông tin về thủ tục xác nhận Xuất xứ hàng hóa.
Điều này sẽ giúp các doanh phòng tránh các tranh chấp, hay chủ động hơn khi có tranh
chấp xảy ra. Sau đây là một vài điểm cần lưu ý:
• Việc kê khai, giấy chứng nhận xuất xứ sẽ có hiệu lực trong vòng 2 năm kể từ ngày có văn
bản tương ứng đã được ban hành.

Yêu cầu các thành viên phải lưu trữ hồ sơ xuất nhập khẩu ít nhất là 3 năm.

1.3.2.2. Kết luận.
Các yêu cầu về xuất xứ hàng hóa ngày càng khắc khe và rõ ràng hơn. Việt Nam
cần có sự chuẩn bị để thực hiện các yêu cầu này, cũng như tìm hiểu kỹ để ngăn cản các
nước vi phạm các điều khoản xuất xứ hàng hóa với ta.
1.3.3. Biện pháp phòng vệ thương mại (Trade remedies).
1.3.3.1. Các vấn đề được quan tâm.
- Tự vệ toàn cầu:
Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều



tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:
Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng;
Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó bị thiệt hại



hoặc đe doạ bị thiệt hại nghiêm trọng;
Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đe

doạ thiệt hại nói trên.
- Bán phá giá:
Một sản phẩm được đưa vào kinh doanh thương mại trên thị trường của một nước
khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của hàng hoá đó nếu giá xuất khẩu của sản
phẩm từ một nước này sang nước khác. Tùy trường hợp, sẽ có xem xét điều chỉnh một


16

cách thoả đán đối với các khác biệt về điều kiện và điều khoản bán hàng, khác biệt về chế

độ thuế hay những sự chênh lệch khác có tác động tới việc so sánh giá.
- Thuế đối kháng:
Được hiểu là một khoản thuế đặc biệt áp dụng nhằm mục đích triệt tiêu mọi khoản
ưu đãi hay trợ cấp dành trực tiếp hay gián tiếp cho công đoạn chế biến, sản xuất hay xuất
khẩu bất cứ hàng hoá nào. Không một sản phẩm nào xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết
nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết khác sẽ cùng lúc phải chịu cả thuế bán phá giá
và thuế đối kháng cho cùng một hoàn cảnh bán phá giá hay trợ cấp xuất khẩu.
1.3.3.2. Kết luận.
Tuy WTO có những quy định khá rõ ràng về điều kiện để các nước có thể áp dụng
các biện pháp phòng vệ thương mại, mức độ áp dụng và phương thức áp dụng vẫn còn
phụ thuộc khá lớn ở mỗi nước. Do vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn phải tìm hiểu rõ
về điều kiện riêng của từng quốc gia để tránh rơi vào tình trạng bị động và bị kiện. Bên
cạnh đó, Hiệp định TPP cũng có những bước phát triển khi đang cố gắng bổ sung các quy
định cụ thể hơn để khắc phục nhược điểm này, trước khi TPP được kí kết thì chúng ta vẫn
chưa biết được chính xác các quy định này là gì.
1.3.4. Các biện pháp kiểm dịch động thực vật.
1.3.4.1. Các vấn đề được quan tâm.
- Quyền quy định các tiêu chuẩn SPS của các nước thành viên
Các nước thành viên có toàn quyền quyết định biện pháp SPS riêng của mình miễn
là phù hợp với các điều khoản trong Hiệp định SPS và được khuyến khích xây dựng các
biện pháp SPS riêng của mình dựa trên những hướng dẫn, khuyến nghị và tiêu chuẩn
quốc tế hiện có.
- Công nhận tương đương
Hiệp định SPS yêu cầu các nước nhập khẩu là thành viên TPP chấp nhận các biện
pháp SPS của các nước xuất khẩu là thành viên TPP là tương đương, nếu nước xuất khẩu
chứng minh được một cách khách quan cho nước nhập khẩu thấy rằng những biện pháp
đó đảm bảo an toàn và đạt được mức độ bảo vệ phù hợp (ALOP) của nước nhập khẩu
- Hỗ trợ kỹ thuật



17

Bên xuất khẩu có thể yêu cầu bên nhập khẩu đưa ra các yêu cầu về SPS và yêu cầu
hỗ trợ kỹ thuật trong việc cải tiến những quy trình kỹ thuật, phải tăng cường năng lực con
người như thế nào, về trang thiết bị và về vấn đề kiểm tra, kiểm nghiệm như thế nào.
- SPS committee

SPS cũng sẽ thành lập một ủy ban gọi là “SPS Committee”. Ủy ban này sẽ chịu
trách nhiệm giám sát việc thực thi các nội dung của chương SPS, cũng như khi có vấn đề
về SPS xảy ra trong thương mại giữa các nước thì ủy ban này sẽ tiến hành xem xét tất cả
nội dung đó.
- Quá trình kiểm nghiệm và công nhận kết quả
Trong hiệp định này, chúng ta chuyển sang kiểm soát tất cả rủi ro trong quá trình
sản xuất, và có cơ sở để đánh giá rủi ro, thậm chí trong khi xuất khẩu, các doanh nghiệp
đã chứng minh được chuỗi sản xuất của mình là an toàn, thì không cần chứng nhận nữa.
- Vai trò của doanh nghiệp:
Những nội dung như kêu gọi hỗ trợ kỹ thuật, tranh chấp về các tiêu chuẩn SPS,
doanh nghiệp phải trực tiếp có những đề xuất, có ý kiến với các cơ quan quản lý, để tăng
cường năng lực cho doanh nghiệp.
1.3.4.2. Kết luận.
Chương SPS trong TPP có rất nhiều tiến bộ so với những hiệp định mà Việt Nam
đã từng đàm phán. Ngay cả những nước mà Việt Nam đã có FTA với ASEAN trước đây
như là Úc, New Zealand, thì cam kết trong chương SPS cũng mở hơn, có những cơ chế về
công nhận tương đương lẫn nhau, có những cơ chế để nghi nhận những vùng phi dịch
bệnh để thúc đẩy thương mại giữa các nước.
1.3.5. Hàng rào kỹ thuật trong thương mại.
1.3.5.1. Các vấn đề được quan tâm.
- Các nguyên tắc cơ bản:
• Nguyên tắc 1: Không đưa ra những cản trở không cần thiết đến hoạt động thương mại.
• Nguyên tắc 2: Không phân biệt đối xử. MFN và NT được áp dụng cho cả các quy định kỹ

thuật và các thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn.
• Nguyên tắc 3: Hài hòa hóa. Hiệp định TBT khuyến khích các nước thành viên sử dụng
các tiêu chuẩn quốc tế trong xuất khẩu, các tiêu chuẩn quốc gia (toàn bộ hoặc một phần)
trừ khi việc sử dụng đó không phù hợp, làm mất tính hiệu quả trong thực hiện một mục


18

đích nào đó. Tiếp theo, TBT khuyến khích các nước thành viên tham gia vào các Tổ chức
tiêu chuẩn quốc tế như OIE, FAO, WHO, IPPC… Là những tổ chức đã thiết lập những bộ
tiêu chuẩn kỹ thuật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi hoạt động của các tổ chức này. TBT
còn đề cập đến vấn đề đối xử đặc biệt và khác biệt với các thành viên WTO là các nước
đang và chậm phát triển.
• Nguyên tắc 4: Bình đẳng. WTO khuyến khích các nước thành viên hợp tác để công nhận
các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn của nhau.
• Nguyên tắc 5: Công nhận lẫn nhau.Nhà xuất khẩu, nhà sản xuất sẽ chỉ phải tiến hành
kiểm tra, chứng nhận tiêu chuẩn kỹ thuật ở một nước; kết quả kiểm tra và chứng nhận tại
quốc gia đó sẽ được các nước khác công nhận.Trong thực tế, các nước thành viên WTO
đều công nhận kết quả của thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn của nước khác ngay cả khi thủ
tục đánh giá sự hợp chuẩn của các quốc gia không giống nhau.
• Nguyên tắc 6: Minh bạch.
- Ủy ban về TBT: chức năng tương tự Ủy ban SPS
Để tăng thêm sự đảm bảo tính minh bạch trong thực thi hiệp định TBT, WTO cũng
đã thành lập một cơ quan chuyên trách đó là Ủy Ban TBT. Ủy ban này sẽ cung cấp cho
các thành viên WTO các thông tin liên quan đến hoạt động của hiệp định và việc xúc tiến
thực hiện các mục đích của hiệp định.
- Tham vấn kỹ thuật
Một Bên có thể bắt đầu tư vấn kỹ thuật thông qua các điểm liên lạc tương ứng với
mục đích giải quyết bất kỳ vấn đề phát sinh theo Chương này.
1.3.5.2. Kết luận.

Có thể nói việc các quốc gia hiện nay sử dụng các hàng rào kỹ thuật thương mại
(TBT) ngày càng phổ biến, đặc biệt là các nước thành viên trong TPP khi mà hàng rào
thuế quan sẽ bị loại bỏ hoàn toàn trong tương lai. Điều nay sẽ là trở ngại lớn cho các nước
thành viên đang phát triển khi mà trình độ công nghệ kỹ thuật còn non kém, dễ bị vi phạm
các tiêu chuẩn kỹ thuật. Dù trong hiệp định có quy định về việc các rào cản phi thuế cần
phải hợp lý và không được cản trở thương mại, hay phải có những ưu đãi cho các nước
đang phát triển nhưng thực sự những quy định đó còn khá mơ hồ và chung chung. Chính
vì điều này mà các nước phát triển sử dụng các hàng rào kỹ thuật ngày càng tinh vi, vì đối


19

với họ đây chính là cách duy nhất để bảo vệ ngành sản xuất nội địa khỏi các hàng hóa
nhập khẩu giá rẻ từ các nước đang phát triển.
1.3.6. Quyền sở hữu trí tuệ.
1.3.6.1. Các vấn đề được quan tâm.
- Trong phần quy định chung, các nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc không phân biệt đối xử,
nguyên tắc NT và MFN, đều có trong hiệp định TRIPS của WTO. Nhưng khi đưa quy
định đấy, ví dụ quy định NT vào một hiệp định mà phạm vi rộng hơn và quyền cao hơn,
thì nghĩa vụ kéo theo cũng sẽ lớn hơn. Riêng MFN thì các nước không đưa vào yêu cầu
chung với TPP vì người ta cho rằng bản thân hệ thống quốc gia của họ sẽ cao hơn TPP và
họ không muốn áp dụng quy định MFN này cho các nước khác. Vì vậy chỉ Việt Nam mới
là bên muốn quy định MFN này. Nguyên tắc chung là nguyên tắc cấm nhập khẩu song
song, chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ phải được phép sở hữu cả hàng hóa mà chính họ đã
bán ở thị trường nước ngoài, chẳng hạn khi nhập khẩu vào Việt Nam, họ vẫn có quyền
kiểm soát hàng hóa đó.
- Các nguyên tắc cơ bản thì thiếu hẳn những mục tiêu đã được thỏa thuận trong WTO là các

mục tiêu cân bằng lợi ích xã hội, bảo vệ lợi ích xã hội, và thiếu hẳn các điều kiện về hợp
tác. Có một yêu cầu khó đối với Việt Nam đó là các nước phát triển không đồng ý đưa

vào một chương cho hợp tác hay là hỗ trợ kỹ thuật.
- Đối với nhãn hiệu hàng hóa, Việt Nam được yêu cầu gia nhập Điều ước về Luật Nhãn
hiệu. Điều ước này đòi hỏi đơn giản hóa thủ tục, xác định quyền đối với nhãn hiệu. Về
mặt đối tượng, các nước yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu mùi. Việt Nam về
mặt hiện tại chưa thể đáp ứng được tất cả các yêu cầu của Điều ước.
- Đối với chỉ dẫn địa lý, các nước yêu cầu phải bảo hộ chỉ dẫn địa lý, tức là tên gọi của các
địa phương dùng để chỉ dẫn hàng hóa, những đặc sản của vùng miền. Ví dụ như cà phê
Buôn Mê Thuột hay nước mắm Phú Quốc. Họ muốn chúng phải được bảo hộ như nhãn
hiệu, thậm chí là nhãn hiệu cá thể. Như vậy thì có nguy cơ chỉ dẫn địa lý của cộng đồng
sẽ bị thuộc những người đăng ký trước. Ở đây, nếu như có ai đó đã đăng ký chỉ dẫn địa lý
dưới dạng nhãn hiệu thì người đó sẽ có quyền chống lại các chỉ dẫn địa lý khác. Quy định


20

về điện tử hóa, hay là minh bạch hóa quy trình xử lý đơn ở cơ quan đăng ký nhãn hiệu.
Điều này cũng rất thỏa đáng, mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp Việt Nam, tuy nhiên,
điều kiện của cơ quan đăng ký nhãn hiệu của Việt Nam chưa đáp ứng được những yêu cầu
đó.
- Đối với sáng chế, các nước yêu cầu Việt Nam tham gia hàng loạt các điều ước quốc tế về
thủ tục. Đặc biệt là đối với đối tượng bảo hộ, các nước bắt phải bảo hộ những phương
pháp sử dụng mới hoặc các công dụng mới của các sản phẩm đã biết, Việt Nam bị yêu cầu
phải bảo hộ các phương pháp phòng và chẩn đoán bệnh, hay bảo hộ thực vật, động vật,
các quá trình sản xuất thực vật, động vật bằng quy trình sinh học. Tất cả những đối tượng
này là những đối tượng được phép loại trừ khỏi phạm vi bảo hộ sáng chế mà WTO cho
phép. Họ đòi phải kéo dài thời gian bảo hộ, nếu như thủ tục đăng ký sáng chế, thủ tục
đăng ký thuốc, hay thủ tục đăng ký các sản phẩm hóa chất nông nghiệp bị chậm trễ. Họ
đề nghị rằng không cho phép các quốc gia có thủ tục phản đối việc cấp văn bằng bảo hộ
trước khi văn bằng bảo hộ được cấp, vì họ muốn tạo điều kiện cho văn bằng được cấp thật
nhanh. Riêng đối với dược phẩm và nông hóa phẩm, các FTA có những điều rất riêng,

khác hẳn hiệp định TRIPS.
- Ở trong hiệp định TRIPS của WTO thì chúng ta có cơ chế bảo hộ thông tin bí mật, bảo hộ

những dữ liệu thử nghiệm mà vẫn được bí mật, và quyền của người bảo hộ chỉ là được
giữ bí mật thông tin đó, người khác không được tiếp cận, không được bộc lộ, không được
dùng những thông tin mà bị tiếp cận hoặc bộc lộ trái phép để làm các thủ tục đăng ký lưu
hành sản phẩm tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhưng trong các FTA hiện đại,
người ta lại có cơ chế bảo hộ độc quyền đối với những dữ liệu, những thông tin như vậy.
Cơ chế bảo hộ độc quyền này sẽ dẫn đến một đối tượng bảo hộ hoàn toàn mới, tức là
không phải bản thân dữ liệu đó nữa, mà độc quyền thực chất là dành cho chính sản phẩm
đó. Cả về đối tượng bảo hộ và thời gian bảo hộ, lẫn các điều kiện bảo hộ, đều rất “thái
quá”, dành quyền lợi rất nhiều cho các hãng dược. Vì vậy nên trên báo chí, các phương
tiện thông tin truyền thông, xã hội các nước tham gia đàm phán đều có những phản ứng


21

rất gay gắt về đề xuất của Mỹ. Vậy nên một số FTA mà Mỹ ký kết với một số nước như
Peru, mãi mới được quốc hội Mỹ thông qua.
- Chương cuối cùng là phần thực thi, Mỹ đặt ra những tiêu chuẩn rất hà khắc để thực thi
một cách nghiêm ngặt đối với quyền sở hữu trí tuệ từ biện pháp thủ tục hành chính dân sự
và hình sự. Về dân sự thì có các điều như chế tài hay biện pháp xử lý hàng hóa có thiên
hướng giống như là hình sự. Kể cả thủ tục kiểm soát hải quan ở biên giới cũng như vậy.
Đối với thủ tục hành chính, trong 9 nước đàm phán, chỉ có Việt Nam và Peru có thủ tục
hành chính, nhưng Mỹ lấy nguyên một nguyên tắc của hiệp định TRIPS là nếu như một
nước có thủ tục hành chính, thì thủ tục hành chính phải giống như thủ tục dân sự. Đặc biệt
là đối với biện pháp hình sự thì họ đã hình sự hóa cái hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ ở
mức rất cao. Trong đó, tiêu chuẩn của điều ước quốc tế được phổ biến hiện nay ở trong
TRIPS là: hành vi xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan, hoặc giả mạo nhãn hiệu
phải ở quy mô thương mại, và có tính chất cố ý thì mới xử lý. Trong các FTA, người ta

đưa ra một định nghĩa về quy mô thương mại khiến cho bản chất của hành vi không còn
là quy mô thương mại nữa.
1.3.6.2. Kết luận.
Quyền sở hữu trí tuệ trong TPP tuy lấy cơ sở từ Hiệp định TRIPS trong WTO
nhưng có rất nhiều điều khoản trong chương này được đàm phán với mức độ chuyên sâu
hơn. Nhìn chung những vấn đề vẫn còn đang trên bàn đàm phán rất phức tạp và có ảnh
hưởng rất lớn đến Việt Nam. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm hiểu
và trang bị cho mình những kiến thức cần thiết liên quan đến vấn đề này để tránh những
thiệt hại cũng như những kiện tụng không đáng có.
1.3.7. Mua sắm chính phủ.
1.3.7.1. Các vấn đề được quan tâm.
- Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương-TPP sẽ lấy GPA (Hiệp định mua sắm công
trong WTO) làm chuẩn mực chung bên cạnh việc Hoa Kỳ có thể sẽ đề nghị thêm những
tiêu chuẩn khác cao hơn. Trong đó, Hoa Kỳ chỉ tập trung vào các quy định về mua sắm
công ở cấp trung ương (central government) chứ không bao gồm cả các cấp địa phương


22

(sub-federal). Từ trước đến nay việc tham gia của các bang ở Hoa Kỳ vào bất kỳ một hiệp
định quốc tế nào về mua sắm công đều là tự nguyện. Tuy nhiên, sau khi tham gia vào
TPP, Canada, Australia và Singapore đưa ra một đề xuất mới yêu cầu mở rộng các quy
định đối với mua sắm công ra cả cấp địa phương (sub-federal). Tức là các gói thầu của
các cấp chính quyền địa phương nhưng do trung ương cấp vốn sẽ vẫn phải mở cửa cho
các nhà cung cấp nước ngoài cạnh tranh như bình thường. Australia cũng yêu cầu rằng
nếu Hoa Kỳ muốn áp dụng các nguyên tắc nhằm đảm bảo hoạt động của các điều trong
Chương này không gây bóp méo thương mại thì cũng phải áp dụng các nguyên tắc đối với
cạnh tranh trong xuất khẩu hàng nông sản, điều khó có thể chấp nhận bởi Chính phủ Hoa
Kỳ.
- Việt Nam đã hai lần bỏ qua chương Mua sắm chính phủ: một lần trên bàn đàm phán hiệp

định Thương mại song phương (BTA) với Hoa Kỳ và lần thứ hai là không tham gia hiệp
định Mua sắm công (GPA) khi gia nhập WTO. Đây là lần đầu tiên Việt Nam mở cửa đàm
phán về thị trường này.
1.3.7.2. Kết luận.
Hiện chưa có thông tin tin cậy về quan điểm của Việt Nam trong vấn đề Mua sắm
Chính phủ trong TPP. Mặc dù vậy, theo một số chuyên gia, những nguyên tắc minh bạch,
cạnh tranh liên quan tới Chương này có thể là điều kiện tốt cho quá trình cải cách doanh
nghiệp nhà nước và tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp này ở Việt Nam.
1.3.8. Lao Động.
1.3.8.1. Các vấn đề quan tâm.
- Trong vòng đàm phán thứ 16, Hoa Kỳ đưa ra các đề xuất như hình phạt tiền và cả trừng
phạt thương mại dựa trên khối lượng thương mại bị ảnh hưởng bởi các vi phạm quy định
về lao động trong Chương lao động. Hoa Kỳ yêu cầu các nước phải chấp nhận và thực thi
trong pháp luật nội địa các quyền nêu tại Tuyên bố về các Quyền lao động cơ bản ILO
1998 và nhiều tiêu chuẩn khác thậm chí còn cao hơn cả các tiêu chuẩn trong FTA Hoa Kỳ
- Peru. Theo đó, những vấn đề nhạy cảm và có cách hiểu khác nhau giữa các nước như
quyền lập hội, quyền can thiệp vào các trường hợp sử dụng lao động trẻ em, quyền can


23

thiệp của Nhà nước vào các tranh chấp lao động cũng được nhấn mạnh trong đề xuất này.
Tuy nhiên, đề xuất gặp phải sự phản đối từ các nước như Việt Nam, Malaysia, Brunei, Úc,
New Zealand.
- Sau đó, Tổ chức Công đoàn thế giới đã đưa ra một bản Dự thảo Chương lao động và cơ

chế giải quyết tranh chấp liên quan đến lao động cho đàm phán TPP, dựa trên Hiệp định
Thương mại tự do Hoa Kỳ - Peru (hai thành viên của TPP hiện tại). Dự thảo này được sự
ủng hộ của 7 tổ chức công đoàn lớn ở các nước thành viên TPP (trong đó có Liên minh
Liên đoàn Lao động Hoa Kỳ và Các tổ chức liên đoàn các ngành công nghiệp Hoa Kỳ

AFL-CIO; Hội đồng các liên đoàn lao động Australia ACTU, Hội đồng các liên đoàn lao
động New Zealand CTU…). Do đó bản dự thảo này sẽ có trọng lượng nhất định trong
đàm phán.
- Về phía Việt Nam, sẽ phải đối mặt với các thử thách lớn trong việc đàm phán khi một số

quy định trong Dự thảo chương Lao động có liên quan đến vấn đề tự do lập hội, một trong
những vấn đề khá nhạy cảm khi ảnh hưởng đến chính trị; thử thách khác phải kể đến là
những quy định về Lao động trẻ em, khi các nước TPP đề nghị biện pháp ngăn chặn hàng
tại biên giới đối với những hàng hóa được sản xuất bởi lao động trẻ em, ngoài ra còn có
những vấn đề quan tâm khác như môi trường làm việc, lương tối thiểu, thời gian…
1.3.8.2. Kết luận.
Sự cách biệt trong những quy định về lao động trong Luật Việt Nam và các văn
bản Quốc tế là tiền đề cho việc ký kết TPP như Tuyên bố về các Quyền lao động cơ bản
ILO và Dự thảo Chương lao động, tạo nên các trở ngại rất lớn cho Việt Nam trong việc
đàm phán bởi vì nó đòi hỏi những thay đổi lớn trong hệ thống pháp luật và thực thi pháp
luật lao động Việt Nam, các vấn đề nhạy cảm khác về chính trị, vai trò của Đảng và Nhà
nước trong công tác quản lý. Bên cạnh những khó khăn mà Việt Nam sẽ gặp phải về vấn
đề lao động này thì bên cạnh đó nó vẫn đem lại cơ hội để Việt Nam cải thiện hệ thống
pháp luật, người lao động được đối xử công bằng và làm việc trong điều kiện tốt hơn với
mức lương đảm bảo hơn từ đó gia tăng mức sống của người dân. Những cải tiến để phù


24

hợp với những văn bản Quốc tế giúp Việt Nam từng bước được công nhận và hòa nhập
trong môi trường toàn cầu, từng bước tiến ra năm Châu.
1.4.

Tóm tắt chương.
Phần đầu tiên của Chương 1 giới thiệu vài nét về Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược

xuyên Thái Bình Dương (TPP) bao gồm phần giới thiệu về khái niệm cũng như lịch sử hình
thành của Hiệp định này. Nhưng quan trọng hơn là phân tích vị thế của Việt Nam khi tham gia
Hiệp định, trên thực tế Việt Nam và đa số các nước thành viên khác của TPP đã ký với nhau
các FTA, vì vậy mục tiêu cảu Việt Nam khi ký Hiệp định này là tăng cường thêm mới quan hệ
với Hoa Kỳ và mong nhận được nhiều ưu đãi từ nước này. Ngoài ra, Việt Nam cũng nên biết
mình biết ta khi xem xét đến mục tiêu thật sự của các nước thành viên thành viên khác.
Phần thứ hai sẽ là phân tích sâu hơn vào các điều khoản của Hiệp định TPP đặc biệt là
các điều khoản có ảnh hưởng đến việc sản xuất và xuất khẩu tôm thẻ chân trắng của Việt
Nam. Phân tích vào TPP cho thấy một bức tranh toàn diện về các điều khoản đàm phán cũng
như những khó khăn đang gặp phải. Qua đó, ta thấy được một số các điều luật có tác động
trực tiếp và gián tiếp đến ngành tôm thẻ chân trắng, điển hình là các chương Mua sắm công,
Bảo hộ trí tuệ, Thương mại hàng hóa,… Cũng như cam kết mở cửa thị trường sẽ gây nỗi lo
ngại về sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước như thế nào.
2.


-

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU TÔM
THẺ CHÂN TRẮNG TẠI VIỆT NAM
2.1. Sản xuất tôm thẻ chân trắng tại Việt Nam
2.1.1. Tôm thẻ chân trắng7
Phân loại:
Tôm thẻ chân trắng (Tên tiếng Anh: White Leg shrimp ) được định loại là:
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ chung: Penaeidea
Họ: Penaeus Fabricius
Giống: Penaeus

Loài: Penaeus vannamei

7 Vũ Thế Trụ (2000), “Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam”, Nhà xuất bản Nông nghiệp.


25

Hình 2.: Tôm thẻ chân trắng


Phân bố: Châu Mỹ La Tinh, Hawaii, hiện nay được nuôi ở rất nhiều nước trên thế giới
như: Đài Loan, Trung Quốc, Việt Nam...
Cấu tạo và điều kiện sinh thái: cũng như các loài tôm cùng họ Penaeid, tôm chân
trắng cái ký thác hoặc rải trứng ra thay vì mang trứng tới khi trứng nở. Chủy tôm này có 2
răng cưa ở bụng và 8-9 răng cưa ở lưng. Tôm nhỏ lúc thay vỏ cần vài giờ để vỏ cứng
nhưng khi tôm đã lớn thì cần khoảng 1-2 ngày.
Tôm chân trắng không cần đồ ăn có lượng protein cao như tôm sú, 35% protein
được coi như là thích hợp hơn cả, đồ ăn có thêm mực tươi rất được tôm ưa chuộng.
Trong thiên nhiên, tôm trưởng thành, giao hợp, sinh đẻ trong những vùng biển có
độ sâu 70 mét với nhiệt độ 26-28 độ C, độ mặn khá cao (35 phần ngàn). Trứng nở ra ấu
trùng và vẫn loan quanh ở khu vực sâu này. Tới giai đoạn Potlarvae, chúng bơi vào gần
bờ và sinh sống ở đáy những vùng cửa sông cạn. Nơi đây điều kiện môi trường rất khác
biệt: đồ ăn nhiều hơn, độ mặn thấp hơn, nhiệt độ cao hơn ... Sau 1 vài tháng, tôm con
trưởng thành, chúng bơi ngược ra biển và tiếp diễn cuộc sống giao hợp, sinh sản làm chọn
chu kỳ.
Tôm chân trắng lớn rất nhanh trong giai đoạn đầu, mỗi tuần có thể tăng trưởng 3g
với mật độ 100con/m2 tại Hawai không kém gì tôm sú, sau khi đã đạt được 20g tôm bắt
đầu lớn chậm lại, khoảng 1g/tuần, tôm cái thường lớn nhanh hơn tôm đực.
Nếu nuôi tôm mẹ thì nên tạo nhiệt độ nước ít thay đổi (27 độ C), nước cần phải lọc
bằng than nhằm mục đích loại bỏ tất cả những chất hữu cơ hòa tan trong nước. Tôm sinh

đẻ nên chọn những con nặng ít nhất 40gr. Những tôm đực mà nơi bộ phận mang tinh
trùng bị xám đen thì nên tránh.


×