Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh “ là đạo đức, là văn minh” và vận dụng vào công tác xây dựng Đảng ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.31 KB, 74 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH,
VỮNG MẠNH “ LÀ ĐẠO ĐỨC, LÀ VĂN MINH” VÀ VẬN DỤNG
VÀO CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn

: ThS. Cao Đức Dũng

Sinh viên thực hiện

: Phạm Thị Ngọc Bích

Lớp

: 09SGC

ĐÀ NẴNG, tháng 05/ 2013


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già của dân tộc, một nhà hoạt động chính
trị lỗi lạc, nhà văn hóa kiệt xuất, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam.


Tư tưởng của Người đã trở thành tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc
ta. Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh được Đảng
Cộng sản Việt Nam lấy làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt
động để tiến lên xây dựng một nước Việt Nam “ Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của
Người là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, trong đó tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh “ Là đạo đức, là văn minh” chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng
trong toàn bộ di sản tư tưởng của Người. Bởi theo Bác, Đảng có vững thì cách
mạng mới thành công.
Với bản chất cách mạng và khoa học, Đảng ta đã không ngừng chăm lo xây
dựng Đảng, kiên cường lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi gian nan, thách thức,
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết tiếp những trang sử vẻ vang của
dân tộc. Đảng ta ngay từ khi ra đời đã không có mục đích nào khác là đem lại
độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân. Khi trở thành Đảng cầm
quyền, Đảng phải thật sự là đầy tớ của nhân dân, gắn bó mật thiết với dân,
nếu không Đảng sẽ rơi vào tình trạng quan liêu, tạo điều kiện cho cán bộ,
đảng viên đục khoét, tham ô, xa hoa, lãng phí. Đặc biệt, trong công cuộc đổi
mới hiện nay, chúng ta phải tích cực xây đựng Đảng thật sự trong sạch, vững
mạnh “ là đạo đức, là văn minh”. Như Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Một dân tộc,
một Đảng và con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không
nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa các nhân”. [28, 557-558]
Nhưng thực tế hiện nay, trước tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị

2


trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng sa sút phẩm chất, đánh
mất vai trò lãnh đạo của mình. Nhiều đảng viên có chức, có quyền, có điều

kiện nắm giữ tài sản, tiền bạc, rơi vào sống xa hoa, lãng phí, vi phạm nhiều
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Mặt khác sự chống phá điên cuồng và
quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động. Âm mưu cơ bản của chúng là
xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong bối cảnh đó, nếu Đảng ta không giữ được bản chất cách mạng của
mình, không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng, tình cảm; không được
nhân dân ủng hộ thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đất nước đi lên.
Vì vậy, Đảng đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ
then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta. Việc thực
hiện mạnh hơn nữa Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh” về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh “ là đạo đức, là văn
minh” không chỉ là công việc cấp bách có ý nghĩa về mặt lý luận mà cả trong
đời sống hiện thực của nước ta.
Để góp phần làm rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh “ là đạo đức, là văn minh”; Thực hiện Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI): Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay, là một sinh viên khoa Giáo dục chính trị tôi
mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh “ là đạo đức, là văn minh” và vận dụng vào
công tác xây dựng Đảng ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu, kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
đạo đức, văn minh nói chung là một nhiệm vụ rất quan trọng. Vì vậy, những

3


năm qua ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này.

Trong đó có những công trình nghiên cứu như: “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hóa Đảng”, TS. Phạm Ngọc Anh (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2007; “ Đảng ta là đạo đức là văn minh”, Trương Ngọc Nam – Hoàng
Anh (đồng chủ biên), Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. “ Tư tưởng, tấm
gương đạo đức Hồ Chi Minh về xây dựng đảng ta thật sự trong sạch vững
mạnh “Là đạo đức là văn minh”, Nxb Chính trị quốc gia, 2010.
Ngoài ra, còn phải kể đến các bài viết của nhiều tác giả được đăng trên
các tạp chí như: “ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh tránh các nguy cơ
đối với Đảng cầm quyền theo tưởng Hồ Chí Minh”, của Đặng Thị Dư, Xây
dựng Đảng, số 2, 2011; “Xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh” của Trần Nam Chuân, Xây dựng Đảng, số 7, 2012; “ Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền”, của
Dương Trung Ý, Xây dựng Đảng, số 5, 2011; “ Xây dựng Đảng ta là đạo
đức, là văn minh theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, của Trương Thị Mỹ Trang,
Xây dụng Đảng, số 2, 2011; “ Đảng ta là đạo đức, là văn minh”, của Trần
Đình Huỳnh, Xây dựng Đảng, số 2, 2010.
Những công trình đó có giá trị khoa học cao, nhìn một cách tổng quát các
công trình đó đã giải quyết được những vấn đề lý luận và thực tiễn, định
hướng cho việc giải quyết những vấn đề liên quan đến đề tài, đó là những chỉ
dẫn, gợi ý hết sức quý báu cho việc triển khai nội dung nghiên cứu của luận
văn. Trong quá trình hoàn thành khóa luận, mặc dù đã có rất nhiều cố gắng
nhưng do hạn chế về trình độ, thời gian, tài liệu. Vì vậy, khóa luận chắc chắn
sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý của quý thầy cô
và các bạn sinh viên để cho đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4


3.1. Mục đích nghiên cứu:

Đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích trình bày hệ thống những quan
điểm cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
“ là đạo đức, là văn minh”, từ đó vận dụng vào công tác xây dựng Đảng ở
Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện những mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ là:
- Làm rõ một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh “ là đạo đức, là văn minh”.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh “ là đạo đức, là văn minh” vào công tác xây dựng Đảng ở Việt Nam
hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Vấn đề xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh “ là đạo đức, là văn minh”
là vấn đề khá rộng. Khóa luận chỉ nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng đạo đức, văn minh và qua đó vận dụng
tư tưởng của Người vào công tác xây dựng Đảng ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
4.1. Cơ sở lý luận:
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các Nghị quyết của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp để nghiên cứu như phương pháp duy vật
biện chứng, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch
sử và logic.
5. Nét mới của đề tài

5



Đề tài được nghiên cứu trên tinh thần đổi mới về tư tưởng, nhận thức lý
luận của Đảng về quan điểm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh “ là đạo
đức, là văn minh” do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng với phương châm
nhìn thẳng vào sự thật, khách quan, không nể nang, không né tránh. Qua đó,
đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là Đảng chân chính,
trong sạch, vững mạnh “ là đạo đức, là văn minh”.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh “ là đạo đức, là văn minh”.
- Vận dụng và đề xuất giải pháp nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh “ là đạo đức, là văn minh” ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khóa luận gồm 2
chương, 5 tiết.

6


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH “ LÀ ĐẠO ĐỨC, LÀ VĂN MINH”
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh “ là đạo đức, là văn minh”
1.1.1. Cơ sở lý luận
Vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại, người cộng sản, người thầy của cách mạng
Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đó là Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Bác đã đi xa nhưng để lại cho dân tộc ta di sản tinh thần to
lớn. Những tư tưởng và đạo đức của Người là sự kết tinh những giá trị truyền
thống của dân tộc, những tinh hoa văn hóa của nhân loại và thời đại. Suốt cả
cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành trọn cho sự nghiệp cách mạng của

Đảng, của dân, trong đó, Người quan tâm nhiều nhất đó là nâng cao đạo đức
cách mạng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh để Đảng ta xứng đáng " là
đạo đức, là văn minh".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam bắt nguồn từ học
thuyết của Mác về Đảng cộng sản và trực tiếp từ học thuyết về Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân đã được Lênin đưa ra từ những năm đầu của thế kỉ
XX. Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã kết hợp
chặt chẽ giữa nhận thức lý luận và hoạt động, tổng kết thực tiễn, xác lập nên
một hệ thống các quan điểm, tư tưởng về Đảng Cộng sản và xây dựng Đảng
Cộng sản trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông
nghiệp lạc hậu với các đặc điểm văn hóa truyền thống phương Đông. Những
quan điểm, tư tưởng đó bao gồm các vấn đề có tính quy luật có liên quan đến
sự hình thành, vị trí, vai trò, bản chất của Đảng Cộng sản và những vấn đề có
tính nguyên tắc liên quan tới công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
trong sạch, vững mạnh, nhất là trong điều kiện Đảng trở thành Đảng cầm

7


quyền. Qua đó, các tổ chức Đảng được củng cố, Đảng thêm trong sạch, kỷ
luật Đảng tăng lên và Đảng thu hút sự tín nhiệm rộng rãi của quần chúng nhân
dân. Đánh giá tình hình, V.I.Lênin cho rằng đây chỉ là kết quả bước đầu và
Đảng không được thõa mãn với những kết quả đó đã đạt được. Với chủ
trương đúng đắn về vấn đề sàng lọc đội ngũ đảng viên và kỷ luật Đảng, chú
trọng việc tăng cường chất lượng, đội ngũ đảng viên, đưa những người khong
đủ tư cách ra khỏi Đảng, V.I.Lênin đã cho chúng ta những bài học vô cùng
sâu sắc về công tác xây dựng Đảng.
Xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết ấy để đưa ra những quan điểm đúng
đắn về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh “ là đạo đức, là văn minh”.

Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng phải một lòng, một dạ phục vụ
giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc “ phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, phải “ giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch”.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
1.1.2.1. Thời kì tìm tòi, khảo nghiệm trước cách mạng tháng Tám năm 1945
Sinh ra trong một dân tộc nhiều thế kỷ luôn bị giặc ngoại bang xâm
chiếm và được tận mắt chứng kiến cảnh nhân dân ta một cổ hai tròng áp bức,
thống trị của bọn thực dân, phong kiến, làm nô lệ lầm than, đói rách, nước
mất, nhà tan. Đau xót trước tình cảnh đó, năm 1911, Hồ Chí Minh là người
thanh niên yêu nước nhiệt thành đã rời bến Nhà Rồng - Sài Gòn ra đi tìm
đường cứu nước với mục đích “ xem nước Pháp và các nước khác làm như
thế nào rồi trở về giúp đồng bào ta” lật đổ sự thống trị, ách áp bức bóc lột của
thực dân, phong kiến, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc; ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đấy là
nguyện vọng, là mong ước khát khao hàng ngàn năm của nhân dân ta, đồng

8


thời là mục tiêu, là mong ước mà Hồ Chí Minh trọn cả cuộc đời phấn đấu.
Đối với Hồ Chí Minh, quá trình tìm đường cứu nước luôn gắn với vấn đề hình
thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1911 đến trước Cách mạng Tháng
Mười Nga 1917, Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều châu lục, nhiều nước từ những
nước tư bản phát triển và các nước thuộc địa. Người nhận xét: Ở đâu nhân
dân lao động đều bị bóc lột, nghèo khổ; ở đâu giai cấp thống trị , bóc lột cũng
đều tàn ác. Người chỉ ra mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính quốc”, nhưng không phụ
thuộc cách mạng “chính quốc”. Trong giai đoạn này, tư tưởng về Đảng Cộng
sản ở Hồ Chí Minh vẫn chưa được bộc lộ rõ rệt. Vào cuối năm 1917, cách

mạng tháng Mười Nga thắng lợi, Hồ Chí Minh hân hoan chào đón và có
những hoạt động nhiệt thành ủng hộ cách mạng Tháng Mười Nga. Dưới tác
động của cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí Minh
được nâng lên tầm cao mới và đây chính là thời điểm quan trọng cho thấy con
đường cứu nước của Hồ Chí Minh đã có một định hướng mới là đi theo cách
mạng tháng Mười Nga. Tháng 7-1920, Hồ Chí Minh đã đọc được bản Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lênin, in trên báo L’Humanité, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản đã
có những cơ sở vững chắc. Tại Đại hội Tua - Đại hội Đảng Xã hội Pháp lần
thứ XVIII khai mạc vào cuối tháng 12 năm 1920, Hồ Chí Minh đã phát biểu ý
kiến, đề ra ba nhiệm vụ của Đảng đối với cách mạng thụôc địa, cách mạng
Đông Dương. Đó là: Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các
nước thuộc địa. Đảng cần phải đánh giá một cách đầy đủ, đúng đắn tầm quan
trọng của vấn đề thuộc địa. Đảng cần phái cán bộ của Đảng đến nghiên cứu
tại chỗ vấn đề Đông Dương và đề xuất những hoạt động cần thiết phải tiến
hành. Người đã bỏ phiếu tán thành việc Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế
Cộng sản, là một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp

9


và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Người đã hoàn toàn tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tin theo Quốc tế
III. Là đảng viên cộng sản Pháp, và là một trong những thành viên sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp. Người đã nhiều lần phê phán Đảng: “ làm rất và rất ít
cho các nước thuộc địa được giải phóng”, vì vấn đề này đối với Hồ Chí Minh
lại là mong ước, là mục tiêu và nhiệm vụ quan trọng nhất đặt ra đối với dân
tộc Việt Nam, đối với Đảng Cộng sản nói chung và cần phải có một đảng
cách mạng chân chính lãnh đạo đối với một nước thuộc địa nửa phong kiến
như Việt Nam .Vì vậy, sau 12 năm bôn ba thế giới nhằm nghiên cứu, học hỏi,

xem xét kinh nghiệm các nước, nghiên cứu Cách mạng Tháng Mười Nga và
lý luận Mác - Lênin, tháng 6-1923, Hồ Chí Minh đã bí mật tìm đường trở về
nước và tự đặt ra cho mình nhiệm vụ: “trở về nước đi vào quần chúng, thức
tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự
do độc lập”. Có thể khẳng định, từ nhận thức ban đầu về Đảng Cộng sản, đến
việc đề ra chủ trương, giải pháp thành lập Đảng Cộng sản để lãnh đạo quần
chúng đấu tranh lật đổ giai cấp thống trị phong kiến, thực dân giành độc lập ,
tự do cho dân tộc, ở Hồ Chí Minh đã thể hiện rất rõ. Tư tưởng xuyên suốt,
nhất quán ở Hồ Chí Minh trong quá trình hình thành Đảng Cộng sản là làm
cho toàn Đảng nhận thức rõ nhiệm vụ của Đảng không phải chỉ là giải phóng
giai cấp vô sản mà là giải phóng toàn thể dân tộc Việt Nam.
1.1.2.2. Thời kì sau cách mạng tháng Tám năm 1945
Ngay sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, vì từ đó,
Đảng lãnh đạo cách mạng trong điều kiện đã có chính quyền. Trong tác phẩm
“Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã khẳng định mục tiêu đấu tranh của
Đảng là lãnh đạo nhân dân giành lấy chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền
mang lại lợi ích cho dân tộc, độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân

10


dân. Đảng không phải là một tổ chức tự thân, vì vậy mục đích, tôn chỉ của
Đảng là “tận tâm”, “tận lực”, “phụng sự” và “trung thành với lợi ích của dân
tộc Việt Nam”.
Đảng cầm quyền, nhưng Đảng không thay đổi bản chất, không thay
đổi mục đích lý tưởng của mình. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng
cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chính sách, các định hướng về chủ trương
công tác; bằng tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tổ chức, kiểm tra và bằng
hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng lựa chọn, giới thiệu những đảng

viên ưu tú có đủ phẩm chất, đạo đức và năng lực vào trong các cơ quan lãnh
đạo chính quyền theo đúng quy trình, thủ tục và pháp luật của Nhà nước.
Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, liên hệ mật thiết với
nhân dân và luôn luôn chịu sự giám sát của nhân dân. Là lực lượng duy nhất
cầm quyền, Đảng chịu trách nhiệm trước lịch sử, trước nhân dân về sự bảo vệ
toàn vẹn độc lập dân tộc, về sự phát triển của đất nước, về hiệu lực và hiệu
quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong Di chúc, Người viết "Đảng ta là một Đảng cầm quyền... Phải
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Quan điểm này của Hồ Chí Minh là sự
vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin về Đảng vô sản kiểu mới.
Người nhấn mạnh “việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh”. Mỗi cán bộ,
đảng viên “đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho
dân…”. Đảng cầm quyền, dân là chủ, Đảng phải lấy “dân làm gốc”. Dân chỉ
có thể làm chủ thực sự khi có sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi người dân tham gia
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh là để bảo đảm quyền làm
chủ thực sự của mình. Tư tưởng và những chỉ dẫn quý báu của Hồ Chí Minh
về Đảng Cộng sản Việt Nam là đường hướng, phương châm khoa học, cách

11


mạng, để Đảng và nhân dân Việt Nam xây dựng Đảng trở thành Đảng cách
mạng chân chính, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, để
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi tới thành công.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng
Cộng sản, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng và chỉnh đốn
Đảng; đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI): “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Đây không những là nghị quyết cụ thể hóa

Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng về lĩnh vực xây dựng Đảng mà còn là
nghị quyết có tầm chiến lược trong việc thực hiện Di huấn quý báu của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; về tự phê bình và phê bình;
về sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Việc thực hiện hiệu quả nghị quyết
vừa là yêu cầu, vừa là nhiệm vụ bức thiết, thường xuyên của mỗi tổ chức
đảng, mỗi đảng viên, để Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là
văn minh”.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh “ là đạo đức, là văn minh”
1.2.1. Các khái niệm
1.2.1.1. Đảng đạo đức
Đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam là đạo đức của giai cấp công
nhân kết hợp nhuần nhuyễn với tinh hoa đạo đức truyền thống lâu đời của dân
tộc Việt Nam, nó là sự thể hiện bản chất, tư cách, sứ mệnh cao cả và bổn phận
của Đảng đối với nhân dân, Tổ quốc. Đảng đạo đức thể hiện trong đạo đức
cách mạng cao cả của Đảng, trong các tiêu chuẩn đạo đức mà mỗi cán bộ,
đảng viên phấn đấu cần phải có. Đó là các phẩm chất tiêu biểu: Suốt đời đấu
tranh cho Đảng, cho cách mạng, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng; đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết, toàn tâm,
toàn ý phục vụ nhân dân; vì Đảng, vì dân mà quên mình; gương mẫu trong

12


mọi việc; không ngừng học tập văn hóa, khoa học – kĩ thuật, học tập chủ
nghĩa Mác – Lênin; luôn luôn dùng phê bình và tự phê bình để nâng cao tư
tưởng, cải tiến công tác, cùng đồng chí mình tiến bộ; thực hành chủ nghĩa
nhân đạo chiến đấu. Đạo đức cách mạng của Đảng được hóa thân thành phẩm
chất đạo đức của từng cán bộ, đảng viên; mỗi cán bộ, đảng viên là một biểu
tượng văn hóa cao đẹp hội tụ đủ các đức tính truyền thống mà rất hiện đại:

Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng ta là một Đảng chân chính
cách mạng “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải
làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng
bào sung sướng”. Người còn nói: Đảng cũng ở trong xã hội mà ra và Đảng là
do mỗi một đảng viên, do nhiều đảng viên kết lại mà thành. Vì vậy, mỗi một
đảng viên trước hết phải là một công dân có đạo đức (đạo đức làm người, đạo
đức công dân) đồng thời phải thấm nhuần đạo đức cách mạng bởi
theo logic của sự phát triển thì người ta ai cũng vậy, trước tiên là phải biết
làm việc, có biết làm việc thì mới biết làm người và có biết làm một người
chân chính thì mới biết làm một đảng viên, cán bộ tốt, tức là biết làm một
chiến sĩ cách mạng, một đảng viên của một Đảng chân chính cách mạng. Tất
cả mọi cán bộ, đảng viên dù làm công tác Đảng hay công tác chính quyền, dù
ở bất cứ cương vị nào đều phải gương mẫu, luôn tiên phong "Đảng viên đi
trước, làng nước theo sau" trong mọi nhiệm vụ được giao, dù khó khăn gian
khổ đến mấy cũng không chùn bước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù là Chủ
tịch nước, uỷ viên các cấp bộ Đảng hay Bộ trưởng cho đến nhân viên lái xe,
quét rác… tất cả đều phải rèn luyện đạo đức cách mạng, đều phải toàn tâm,
toàn ý phục vụ nhân dân - "Đảng viên là người đầy tớ trung thành của dân".
1.2.1.2. Đảng văn minh
Khái niệm "Đảng văn minh" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng tương

13


ứng với khái niệm trí tuệ, với năng lực nhận thức và hành động cách mạng
đúng đắn. Vì theo Người, đội tiên phong mà chỉ đạo đức thôi thì chưa đủ, cần
phải có đủ bản lĩnh và trí tuệ. Đảng phải là Đảng của trí tuệ. Đây không là
một áp đặt của suy đoán chủ quan hay là sự biểu đạt một ước vọng. Đây chỉ là
sự diễn dịch cái tất yếu logic của vận động thực tiễn và cũng là của chính nhu

cầu tồn tại và phát triển của Đảng, nếu Đảng muốn làm trọn sứ mệnh cao quý
của mình, sứ mệnh “soi đường chỉ lối cho nhân dân ta vững bước trên con
đường thắng lợi” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Ánh sáng của ngọn
đuốc “soi đường, chỉ lối” đó.
Đảng ta là văn minh bởi vì nó là một tổ chức chính trị chân chính,
trung thực, trung thành, quang minh chính đại, chung thuỷ, trước sau như một
đều nhất quán một tinh thần yêu chuộng hoà bình, tôn trọng công lý và chính
nghĩa, vì độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào mình và có
quan hệ chân thành, bình đẳng, hữu nghị, hợp tác cùng có lợi với các dân tộc
và tất cả các quốc gia trên thế giới. không thể là gì khác ánh sáng của trí tuệ.
Đảng ta là văn minh là bởi vì bản chất của Đảng, mục tiêu lý tưởng của Đảng
không phải chỉ nhằm đập tan, phá bỏ cái cũ xấu xa, lạc hậu mà chủ yếu là
kiến tạo và dựng xây một xã hội mới tốt đẹp, nhân đạo.
Đảng ta là văn minh là bởi vì Đảng là một tổ chức cách mạng, kiên trì
cải tạo xã hội cũ, phá bỏ mọi cái lạc hậu; kiên trì chống lại cuộc sống mất
nhân tính; nó nhân danh chính nghĩa và vì chính nghĩa mà chống phi nghĩa,
tức là đấu tranh chống mọi biểu hiện của cái ác.
Thế kỷ XXI, thời đại của nền kinh tế tri thức và văn minh trí tuệ, thì
để thực thi được sứ mệnh soi đường chỉ lối lại càng đòi hỏi Đảng, người đảng
viên của Đảng, đặc biệt là những người đảm đương những trọng trách của
Đảng và của Nhà nước, nhất thiết phải là người có trí tuệ tương thích với vai
trò và nhiệm vụ của họ. Vả chăng, thế giới đã thay đổi không phải là một bản

14


đồ vạch sẵn cho con đường phía trước. Những kinh nghiệm có sẵn, những
phương pháp truyền thống không còn đủ cho hành trình của dân tộc đi về phía
trước. Vì thế, sáng tạo và linh hoạt trong tư duy cũng như trong hành động
phải là phẩm chất hàng đầu của con người Việt Nam đang sống trong thế kỷ

XXI. Để có thể sáng tạo và linh hoạt thì cùng với nhiệt tình và ý chí kiên
cường của người cách mạng, trí tuệ là nhân tố quyết định.
Đạo đức và văn minh phải luôn đi liền kề với nhau, góp phần tôn tạo
cho nhau để Đảng ta mãi trường tồn. Một chính đảng có “đạo đức” mà cổ hủ,
lạc hậu, không giúp cho nhân dân được ấm no thì sẽ không thể là một chính
đảng tiến bộ. Ngược lại, một đảng chỉ chú trọng “văn minh”, chú trọng những
tiến bộ vật chất để hưởng thụ, xa hoa mà kém về đạo đức, xa rời những tiêu
chuẩn đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc thì sớm muộn sẽ bị đào thải.
Chính vì vậy, Bác khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” để nói rằng,
Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng tiến bộ và nhân văn của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
1.2.2. Cách mạng cần có Đảng. “ Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt”
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, lý luận cách mạng có vai trò hết sức
quan trọng đối với Đảng Cộng sản và sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong
tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã khẳng định: Cách mạng Việt Nam
“Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng
ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ
nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. “Chủ
nghĩa” mà Hồ Chí Minh đề cập ở đây chính là hệ thống lý luận để Đảng Cộng

15


sản lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Đối với
Đảng ta, đó chính là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Trong suốt quá trình hoạt động
cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm này.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là tinh hoa trí tuệ của sự phát triển những tư tưởng
tiên tiến của nhân loại. Đó là lý luận cách mạng và khoa học, là vũ khí tư
tưởng sắc bén của giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản. Được trang bị lý
luận Mác - Lê-nin (lý luận cách mạng tiên phong), Đảng Cộng sản Việt Nam
mới xứng đáng là đội tiên phong chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai
cấp công nhân và dân tộc, Đảng mới thực sự tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự,
lương tâm của dân tộc và thời đại. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là linh hồn, là
chất kết dính làm cho Đảng thống nhất ý chí và hành động lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng.
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin “làm cốt” còn
được quy định bởi quy luật ra đời của Đảng. Đảng ta ra đời là sản phẩm của
sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam. Quy luật ra đời của Đảng tự nó đã nói lên tính tất yếu
khách quan của việc Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin “làm cốt”. Thực
tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định chân lý đó. Chỉ sau khi Chủ tịch Hồ
Chí Minh đưa ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào nước ta với tư tưởng
chỉ đạo muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta mới
thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng về tư tưởng và có được tôn chỉ hành động
đúng đắn.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lê-nin
không phải là “chìa khóa vạn năng”, càng không phải là những tín điều trong
kinh thánh. Với vai trò cải tạo thế giới, chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ phát huy
tác dụng và trở thành lực lượng vật chất to lớn khi nó được thâm nhập vào

16


quần chúng, khi Đảng Cộng sản nắm được bản chất khoa học, cách mạng và
vận dụng, phát triển nó một cách đúng đắn, sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh

cụ thể. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “… chúng ta phải học chủ nghĩa Mác - Lê-nin
để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta, cho hợp
với điều kiện đặc biệt của nước ta. Khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú
thêm lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn cách mạng của
ta”. Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực tuyệt vời trong việc bảo vệ, vận
dụng đúng đắn, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ
thể của cách mạng Việt Nam.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới của Đảng ta ngày càng đi vào chiều sâu,
không ít những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra chưa có lời giải đáp thỏa
đáng; cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận đang diễn ra gay gắt và
quyết liệt, các thế lực thù địch tăng cường hoạt động chống phá Đảng và chế
độ ta với những thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt… Trước sự tác động từ
nhiều phía của tình hình trên, đa số cán bộ, đảng viên vẫn vững vàng, kiên
định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Song, vẫn còn một bộ phận cán bộ,
đảng viên và nhân dân nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh còn giản đơn, chưa thực sự dựa trên niềm tin có cơ sở khoa học, chưa
trải qua cọ xát với những quan điểm chính trị lệch lạc, phản động. Vì vậy, khi
tiếp nhận những thông tin ngược chiều, phản bác, xuyên tạc chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì tỏ ra lúng túng, chưa biết phân tích, bác bỏ
ra sao, chưa đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để tự thuyết phục mình và thuyết
phục người khác.
Yêu cầu của công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng đã và đang đặt ra một
cách cấp thiết phải nghiên cứu, quán triệt sâu sắc hơn nữa tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng muốn vững thì phải lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin “làm cốt”.
Một là, đội ngũ cán bộ, đảng viên cần tích cực học tập, nghiên cứu nắm

17


vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, biết vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào điều kiện,

hoàn cảnh cụ thể của từng cấp, từng ngành, từng địa phương và đơn vị. Bởi
lẽ, nếu không nắm được bản chất cách mạng và khoa học, không nắm chắc
nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và đường lối, quan điểm của Đảng thì không những người cán bộ, đảng viên
không làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng mà còn không lý giải được
một cách thuyết phục những vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra. Do đó,
không có cơ sở khoa học để đấu tranh có hiệu quả chống các quan điểm sai
trái phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Hơn lúc nào hết, mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao ý thức, trách nhiệm
trong tự học tập, tự nghiên cứu nắm vững những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, nhận thức sâu sắc nội dung, giá trị và tầm vóc của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đồng thời, biết vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào giải quyết các vấn
đề thực tiễn đặt ra đối với từng cấp, từng ngành, đối với việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao.
Hai là, phải vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin cho
phù hợp với từng nơi và từng lúc, từng lĩnh vực, thường xuyên đổi mới nội
dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Cần căn cứ vào đường lối, quan điểm của Đảng, nghị
quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên và tình hình thực tiễn của địa phương,
nhà trường và đơn vị để xác định rõ nội dung, hình thức và phương pháp tiến
hành tổ chức nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cho phù hợp với từng đối tượng.
Nội dung tuyên truyền, giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cần bảo đảm tính toàn diện, tính hệ thống và chuyên sâu

18


gắn với tình hình thực tiễn. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc đổi mới hình

thức, phương pháp tiến hành công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Sử dụng có
hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng, các lực lượng chuyên trách... để
tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối, quan điểm của Đảng, tạo nên một phong trào học tập sâu, rộng
trong Đảng và toàn xã hội. Kiên quyết loại bỏ những biểu hiện tư tưởng, tâm
lý “thờ ơ” trước những vấn đề chính trị, lười học tập, lười suy nghĩ, không
thường xuyên tiếp nhận những thông tin và tri thức mới trong cán bộ, đảng
viên.
Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, tiếp
tục làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề bức xúc do thực tiễn đổi mới, chỉnh
đốn Đảng đặt ra. Trước hết, cần nghiên cứu sâu thêm vấn đề đảng viên làm
kinh tế tư nhân; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về Đảng
cầm quyền và công tác xây dựng Đảng; làm rõ hơn mô hình và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; nghiên cứu, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm
của các nước vào công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng, sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế. Trong tình hình
hiện nay, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận cần chú trọng hơn
nữa việc nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn và sự mạnh dạn khám phá,
sáng tạo. Sớm xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong công tác nghiên
cứu lý luận nhằm phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân trong việc bổ sung,
phát triển làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong điều kiện mới.
Bốn là, đẩy mạnh đấu tranh chống các quan điểm sai trái phủ nhận,
xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan
điểm của Đảng. Để đấu tranh đạt hiệu quả, cần tích cực tuyên truyền, giáo dục
những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

19



đường lối, quan điểm của Đảng, đưa những tư tưởng đó thành hiện thực trong
cuộc sống nhằm nâng cao hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Đó là cách tốt nhất để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước sự công kích
của các thế lực thù địch và sự xuyên tạc của các phần tử phản động.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tích cực tham gia đấu tranh vạch rõ bản
chất cơ hội, phản động của những quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Đồng thời, trong thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình, nhất là
trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, cán bộ, đảng viên phải thực sự phát huy vai trò
tiên phong gương mẫu, kiên quyết khắc phục tình trạng nể nang “dĩ hòa vi
quý”, loại bỏ tư tưởng “phê bình cấp trên thì sợ bị trù dập; phê bình đồng đội
thì sợ bị mất lòng, phê bình cấp dưới thì sợ mất phiếu”, nhất là trước thời
điểm tiến hành Đại hội. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn nêu cao dũng khí
trong đấu tranh tự phê bình và phê bình để góp phần bảo vệ sự trong sáng của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của
Đảng trong tình hình hiện nay.
Năm là, dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin để xây dựng khối đoàn
kết trong phong trào cộng sản quốc tế “ có lý, có tình”. Quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về vấn đề này được phản ánh rõ nhất trong bản Di chúc khi
Người mong Đảng ta “ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục
lại khối đoàn kết giữa các Đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin
và chủ nghĩa quốc tế vô sản, “có lý có tình”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng giáo dục toàn Đảng vận dụng sáng
tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc và xây dựng CNXH với tinh thần chân lí là cụ thể, cách
mạng là sáng tạo. Do đó, trong suốt quá trình hoạt động của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đứng vững trước mọi thử thách, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo

20



đất nước.
1.2.3. Xây dựng Đảng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt Đảng
Chủ tịch hồ Chí Minh luôn quan tâm lãnh đạo, rèn luyện Đảng ta tuân
theo những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng vô sản kiểu mới. Có nhiều
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, trong đó có những nguyên tắc cơ bản
sau đây:
a) Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đối với nguyên tắc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh những nội
dung sau:
Một là, Phải nhận thức rõ đây là nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất
trong tổ chức và sinh hoạt đảng. Thực hiện tốt hay kém nguyên tắc này có
quan hệ đến sự tồn tại, phát triển hay không tồng tại, không phát triểt của bất
cứ tổ chức Đảng nào từ trung ương đến chi bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ tạo nên sức mạnh đoàn kết, thống nhất
của Đảng, “Đảng tuy nhiều người, nhưng khí tiến đánh thì chỉ như một
người”
Hai là, tập trung và dân chủ luôn luôn đi đôi với nhau. Tập trung trên nền
tảng phát huy dân chủ thật sự trong Đảng, dân chủ là cơ sở của tập trung, dân
chủ dưới sự chỉ đạo tập trung. Đó là hai vế thống nhất chặt chẽ làm thành một
nguyên tắc, chúng không đối lập nhau.
Ba là, quán triệt rõ nội dung cơ bản của tập trung. Đó là thiểu số phải
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung
ương, tất cả mọi đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của tổ
chức Đảng. Đảng viên có quyền bảo lưu ý kiến của mình khác với ý kiến của
đa số đã quyết nghị, nhưng phải có trách nhiệm thực hiện nghị quyết, không
vì thế mà tuyên truyền ý kiến riêng và không phục tùng nghị quyết. Tổ chức

21



đảng phải nghiên cứu, xem xét lại ý kiến bảo lưu của cá nhân đảng viên,
không định kiến.
Bốn là, quán triệt rõ nội dung cơ bản của dân chủ. Đó là phải mở rộng và
thực hành dân chủ trong Đảng. Có đảm bảo và mở rộng, phát huy dân chủ ở
trong Đảng thì mới có dân chủ ngoài xã hội. Phải thực sự mở rộng dân chủ để
tất cả mọi đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh giải
thích về tự do dân chủ: “ Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự
do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của
mình, góp phần tìm ra chân lí. Đó là một quyền lợi và cũng là một nghĩa vụ
của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lí, lúc đó
quyền tự do dân chủ hoá ra quyền tự do phục tùng chân lí. Chân lí là cái gì có
lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân…. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân - tức là phục tùng chân lí”
Năm là, trong khi thực hiện nguyên tắc này, phải đề phòng và chống các
biểu hiện lệch lạc. Đề phòng và chống các biểu hiện của độc đoán, chuyên
quyền, hách dịch, chụp mũ, trù dập ý kiến của người khác, đồng thời cũng cần
đề phòng và chống những biểu hiện của dân chủ “quá trớn”. Muốn phòng
chống những biểu hiện lệch lạc trên đây khi thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ, cần bảo đảm cho tổ chức đảng thật sự trong sạch, vững mạnh và
chính đây là điều kiện tiên quyết bảo đảm thắng lợi cho việc thực thi nguyên
tắc đó
b) Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Có lúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi đây là “chế độ” lãnh đạo của Đảng,
coi tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung, và do đó, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung. Thật ra, giữa tập thể
lãnh đạo và cá nhân phụ trách có nhiều điểm giống nhau về tính chất trong tổ
chức và sinh hoạt đảng, nhưng đây là một nguyên tắc riêng. Đối với nguyên


22


tắc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý một số vấn đề sau đây trong nhận thức
và hành động thực tế của cán bộ, đảng viên:
Một là, tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách có quan hệ khăng khít với
nhau. Cũng như nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ
trách là hai vế làm thành một chỉnh thể thống nhất trong nguyên tắc sinh hoạt
Đảng. Trong quan điểm xác định tư cách của một người cách mạng ở thời
điểm chuẩn bị cả chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của Đảng, Chủ tịch
hồ Chí Minh đã nêu lên 23 điều yêu cầu đối với người cách mạng, trong đó có
cả những điều liên quan đến nguyên tắc này, đó là: “Quyết đoán”, “Dũng
cảm”, “ Phục tùng toàn thể” …
Hai là, tập thể lãnh đạo để phát huy trí tuệ của nhiều người. Chủ tịch Hồ
Chí Minh giải thích như sau: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một
người dù khôn ngoan tài giỏi đến mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng
chỉ trông thấy, chỉ xem được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần
phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ
mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và
sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có
thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai
lầm”
Ba là, cá nhân phụ trách để nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân. Chủ
tịch Hồ Chí Minh giải thích: “Vì sao cần phải cá nhân phụ trách? Việc gì đã
được đông người bàn bạc kĩ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải
giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà
thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá
nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra cái tệ người này ỷ cho người kia, người kia ỷ
cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế việc gì cũng không xong”
Bốn là, chống thói dựa dẫm tập thể, không dám làm, không dám chịu


23


trách nhiệm đồng thời chống độc đoán, cá nhân, coi thường tập thể. Tập thể
lãnh đạo là đảm bảo và phát huy dân chủ trong Đảng nhưng hoàn toàn xa lạ
với kiểu dựa dẫm tập thể, không dám quyết đoán trên tinh thần trách nhiệm
cao, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước công việc của cá nhân cán bộ, đảng
viên đã được tổ chức đảng phân công phụ trách. Đồng thời cá nhân phụ trách
cung xhoàn toàn xa lạ với kiểu độc đoán, độc tài, coi thường tập thể tổ chức
đảng; không được lợi dụng, vin vào cớ “cá nhân” phụ trách để lấn áp tập thể,
làm thiệt hại lợi ích của tổ chức đảng.
Việc thực hiện nguyên tắc này càng quan trọng trong điều kiện Đảng
cầm quyền, nhiều đảng viên có chức, có quyền.
c) Nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng:
Về mục đích của tự phê bình và phê bình: Làm cho phần tốt trong mỗi
con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi; làm cho các
tổ chức Đảng luôn luôn trong sạch, vững mạnh; để tăng cường đoàn kết,
thống nhất trong nội bộ Đảng; để các tổ chức Đảng và đảng viên luôn luôn
hoàn thiện mình, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân giao
cho.
Về phương pháp tự phê bình và phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý
một số nội dung sau đây:
Tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên, thậm chí
như người ta rửa mặt hằng ngày, “được như thế thì trong Đảng sẽ không có
bệnh tật mà Đảng sẽ khoẻ mạnh vô cùng”.
Tự phê bình phải thành khẩn. Thường là việc nhận ra khuyết điểm của
bản thân mình, của tổ chức mình không dễ dàng, do đó tự phê bình thường
khó hơn phê bình. Thành khẩn, thành tâm, không được “giấu bệnh sợ thuốc”

sẽ giúp cho việc tự phê bình và phê bình có kết quả tốt. Ở đây, đòi hỏi tinh

24


thần tự giác của mỗi đảng viên.
Tự phê bình và phê bình phải trung thực. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh tới việc “không đặt điều”, “không thêm bớt”. Tự phê bình và phê bình
phải kiên quyết, “ráo riết”, không nể nang. Theo Người, nếu không kiên quyết
thực hiện tự phê bình và phê bình thì cũng như giấu giếm bệnh tật trong
người, không giám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính
mạng.
Tự phê bình và phê bình “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”
như ý bổ sung của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc. Tự phê bình và phê
bình phải trên thái độ văn hoá ứng xử giữa con người với con người, hơn nữa
ở đây là giữa những đảng viên với nhau - những người đồng chí, cùng nhau
phấn đấu co mục tiêu, lí tưởng của Đảng. Tự phê bình và phê bình phải có
tính chất xây dựng, “không phải để công kích, để nói xấu, để chửi rủa”, “Chớ
phê bình lung tung không chịu trách nhiệm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Có gì cứ bình tĩnh bảo nhau, bàn với nhau. Càng cáu càng khó nghe.
Muốn dân chủ tốt, kỉ luật cao, cán bộ phải gương mẫu phê bình và tự phê
bình. Ví dụ: Bác và các chú khai hội với nhau, Bác tự phê bình trước thì các
chú mới giám phê bình. Các chú có khuyết điểm, Bác phê bình lại. Mục đích
phê bình và tự phê bình là để học cái hay, tránh cái dở, chứ không phải để nói
xấu nhau”; phê bình “những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại
Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần
thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi
bời”
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu ba thái độ cần chú ý trong tự phê bình và
phê bình ở trong Đảng:

Một là, đối với các đồng chí giác ngộ chính trị cao thì tự phê bình rất thật
thà và kiên quyết sửa chữa khuyết điểm. Khi phê bình người khác, các đồng

25


×