Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.21 KB, 94 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây chính là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện.
Những số liệu trong khóa luận tốt nghiệp này là trung thực. Các đoạn trích được
trích dẫn rõ ràng, đúng quyền tác giả. Các kết quả nghiên cứu trong khóa luận này
chưa từng được công bố
Đà Nẵng, ngày 22 tháng 5 năm 2013
Tác giả

Nguyễn Minh Hải

LỜI CẢM ƠN


2

2
2

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong trường Đại học sư phạm Đà
Nẵng, Thầy cô giáo trong khoa Tâm lý – giáo dục đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ, tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt 4 năm học tập tại trường cũng như trong quá
trình nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc nhất đến cô giáo ThS. Tô Thị
Quyên cô đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận
tốt nghiệp.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của Ban giám hiệu nhà trường, các thầy cô
giáo, đặc biệt là các thầy cô giáo trong Khoa Tâm lý – giáo dục, giáo viên chủ
nhiệm và tập thể sinh viên các lớp 12CTL, 12CTXH, 12SDL, 12SVL, 12ST và
12SPT cùng toàn thể các bạn sinh viên trường Đại học sư phạm – Đại học Đà Nẵng
đã nhiệt tình giúp đỡ, cộng tác để tôi có thể hoàn thành khó luận tốt nghiệp này.
Cảm ơn các bạn trong lớp và các anh chị khóa trước đã chia sẽ tài liệu và giúp


đỡ tôi rất trong quá trình thực hiện đề tài này.
Báo cáo tốt nghiệp không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được
sự chia sẻ, góp ý kiến của quý thầy cô cùng các bạn để bài đề tài được hoàn thiện
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, ngày 22 tháng 5 năm 2013
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Minh Hải

MỤC LỤC


3

3
3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHSP – ĐHĐN
ĐTB
SV
KKTL
SL
TB
Nxb
THPT

Đại học sư phạm - Đại học Đà Nẵng
Điểm trung bình

Sinh viên
Khó khăn tâm lý
Số Lượng
Thứ Bậc
Nhà xuất bản
Trung học phổ thông

DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
2.1
3.1

Tên bảng
Phân bố khách thể nghiên cứu
Tự đánh giá của SV ĐHSP ĐHĐN năm thứ nhất về KKTL trong

Trang
33
39


4

4
4

3.2
3.3
3.4
3.5

3.6
3.7
3.8
3.9
3.10
3.11
3.12
3.13
3.14
3.15
3.16
3.17
3.18
3.19
3.20

học tập (xét theo khối học)
Mức độ KKTL trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất(xét theo khối học)
Tự đánh giá của SV ĐHSP Đà Nẵng năm thứ nhất về KKTL
trong học tập(xét theo giới tính)
Mức độ KKTL trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất (xét theo giới tính)
Thực trạng KKTL biểu hiện ở mặt nhận thức trong hoạt động
học tập của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHSP Đà Nẵng
Thực trạng KKTL biểu hiện ở mặt thái độ trong hoạt động học
tập của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHSP Đà Nẵng
Thực trạng KKTL của sinh viên năm thứ nhất xét theo khối học
Thực trạng KKTL của sinh viên năm thứ nhất xét theo giới tính
Thực trạng khó khăn tâm lý trong kỹ năng học tập của sinh viên

năm thứ nhất trường ĐHSP Đà Nẵng
Thực trạng khó khăn tâm lý trong kỹ năng học tập của sinh viên
năm thứ nhất trường ĐHSP Đà Nẵng
Thực trạng khó khăn tâm lý trong kỹ năng học tập của sinh viên
năm thứ nhất trường ĐHSP Đà Nẵng
Thực trạng hiệu quả hoạt động học tập do ảnh hưởng của khó
khăn tâm lý của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHSP ĐN.
Thực trạng hiệu quả hoạt động học tập do ảnh hưởng của khó
khăn tâm lý của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHSP ĐN.
Thực trạng hiệu quả hoạt động học tập do ảnh hưởng của khó
khăn tâm lý của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHSP ĐN.
Tổng quan thực trạng nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý trong
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHSP ĐN.
Các nguyên nhân khách quan gây nên khó khăn tâm lý trong học
tập của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHSP ĐN.
Các nguyên nhân chủ quan gây nên khó khăn tâm lý ở sinh viên
năm thứ nhất trường ĐHSP Đà Nẵng.
Tổng quan thực trạng các biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý
trong hoạt động học tập của sinh viên.
Thực trạng giờ tự học trong ngày của sinh viên năm thứ nhất
trường ĐHSP ĐN.
Kết quả học tập HKI năm học 2012-2013 của SV N.T.L.T

41
42
43
45
46
48
50

52
56
58
60
61
63
64
67
68
70
71
74

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT
3.1
3.2

Tên biểu đồ
Trang
Biểu đồ thể hiện tự đánh giá của SV ĐHSP - ĐHĐN năm thứ
39
nhất về KKTL trong học tập (xét theo khối học)
Mức độ KKTL trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
41


5

5

55

3.3
3.4
3.5
3.6
3.7
3.8
3.9
3.10

nhất(xét theo khối học)
Tự đánh giá của SV ĐHSP - ĐHĐN năm thứ nhất về KKTL
trong học tập (xét theo giới tính)
Mức độ KKTL trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất (xét theo giới tính)
Thực trạng khó khăn tâm lý trong kỹ năng học tập của sinh viên
năm thứ nhất trường ĐHSP Đà Nẵng
Thực trạng hiệu quả hoạt động học tập do ảnh hưởng của khó
khăn tâm lý của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHSP – ĐHĐN
So sánh hiệu quả hoạt động học tập do ảnh hưởng của khó khăn
tâm lý của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHSP ĐHĐN (xét theo
khối học)
So sánh hiệu quả hoạt động học tập do ảnh hưởng của khó khăn
tâm lý của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHSP ĐHĐN (xét theo
giới tính)
Tổng quan thực trạng nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý trong
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHSP –
ĐHĐN
Tổng quan thực trạng các biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý

trong hoạt động học tập của sinh viên.

43
44
54
60
62
64
65
71


6

6
66

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong cuộc sống, con người muốn tồn tại và phát triển phải tham gia vào các
hoạt động, bằng hoạt động và thông qua hoạt động nhân cách con người được hình
thành và phát triển. Tùy vào mục đích, nhiệm vụ, vị trí và hoàn cảnh khác nhau mà
mỗi cá nhân, trong hoạt động của mình sẽ gặp phải những khó khăn nhất định đòi
hỏi cá nhân phải nỗ lực vượt qua để hoạt động được diễn ra cũng như đạt được mục
đích của mình. Do đó, việc tìm hiểu những khó khăn và có biện pháp giảm bớt nó là
hết sức cần thiết.
Đối với con người, học tập là một trong những hình thức hoạt động chính,
không thể thiếu, nhằm tiếp thu, lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội lịch sử của xã
hội loài người đã được tích lũy qua nhiều thế hệ.

Đối với sinh viên ở trường đại học, học tập là một dạng hoạt động cơ bản mà
thông qua nó người SV “nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành về
nghề, có khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên
ngành đào tạo”[4], để trở thành chuyên gia trong lĩnh vực được đào tạo, có khả
năng lao động nghề, nuôi sống bản thân, phục vụ xã hội trong tương lai. Do đó, hoạt
động học tập cần sự quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu nhằm mục đích tạo điều kiện
thuận lợi cũng như giảm bớt khó khăn nảy sinh trong học tập của SV.
Thực tế cho thấy, SV năm thứ nhất nói chung, SV năm thứ nhất trường đại
học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng nói riêng, phần lớn là học sinh đang thực hiện
bước chuyển tiếp từ môi trường học tập ở phổ thông sang môi trường học tập ở bậc
đại học với nhiều khác biệt về khối lượng, nội dung tri thức, phương pháp giảng
dạy, hình thức học tập,…vv. Ngoài ra, hầu hết SV đại học xuất thân từ những vùng
miền khác nhau, với môi trường hoàn cảnh sống, điều kiện kinh tế có nhiều khác
biệt so với nhịp sống ở các thành phố lớn, là nơi tập trung của đa số các trường đại
học. Tất cả những sự khác biệt đó đã gây không ít khó khăn tâm lý khiến SV rất dễ
chán nản, bỏ bê việc học tập hoặc không theo kịp, không đáp ứng được các yêu cầu
học tập.


7

7
77

Vì vậy, việc phát hiện khó khăn tâm lý cụ thể và tìm ra biện pháp khắc phục
những khó khăn tâm lý này trong hoạt động học tập của SV năm thứ nhất là việc
làm cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả học tập của họ.
Trường Đại học sư phạm – Đại học Đà Nẵng là trường có số lượng lớn SV
tuyển sinh đào tạo hàng năm, vấn đề chất lượng đào tạo luôn được quan tâm hàng
đầu nên việc tìm hiểu những khó khăn tâm lý trong học tập của sinh viên và hỗ trợ

họ là điều hết sức cần thiết và cấp bách.
Xuất phát từ những yêu cầu lý luận và thực tiển trên, chúng tôi đã lựa chọn
và nghiên cứu đề tài: “Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
năm thứ nhất trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng”.
2. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu một số khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của SV năm thứ
nhất trường Đại học sư phạm – Đại học Đà Nẵng. Từ đó đề xuất một số biện pháp
nhằm giúp đỡ SV vượt qua khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập, góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động học tập của SV và từng bước thích nghi với cuộc sống và
môi trường mới.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu : Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của SV
năm thứ nhất trường Đại học sư phạm – Đại học Đà Nẵng.
3.2 Khách thể nghiên cứu : Sinh viên năm nhất trường Đại học sư phạm –
Đại học Đà Nẵng.
3.3 Phạm vi nghiên cứu : Đề tài tập trung nghiên cứu trên 200 sinh viên năm
nhất trường Đại học sư phạm – Đại học Đà Nẵng, thuộc hai khối tự nhiên và xã hội.
Không gian nghiên cứu : Trường Đại học sư phạm – Đại học Đà Nẵng.
Thời gian nghiên cứu : 01.02.2013 – 02.05.2013.
4. Giả thuyết khoa học
Đa số sinh viên năm nhất trường Đại học sư phạm – Đại học Đà Nẵng đều
gặp phải những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập do nhiều nguyên nhân
khác nhau. Nếu có những phương pháp tác động tích cực, phù hợp thì sẽ giúp


8

8

88

những sinh viên năm nhất trường Đại học sư phạm giảm bớt những khó khăn tâm lý
đó.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1 Xây dựng cơ sở lí luận của đề tài : Khó khăn tâm lý; hoạt động học tập;
hoạt động học tập của sinh viên Sư phạm; khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập
của sinh viên Sư phạm năm nhất.
5.2 Khảo sát thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất trường Đại học sư phạm – Đại học Đà Nẵng, cũng như xác định
các nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của họ.
5.3 Đề xuất biện pháp tác động nhằm giảm bớt khó khăn tâm lý trong học tập
của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học sư phạm – Đại học Đà Nẵng.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận : Tham khảo các công trình
nghiên cứu, sách, báo, tạp chí chuyên ngành về các vấn đề liên quan như: khó khăn
tâm lý, hoạt động học tập của sinh viên…Từ đó hệ thống và khái quát hóa các khái
niệm công cụ làm cơ sở lý luận cho đề tài.
6.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
6.2.1 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
6.2.2 Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện
6.2.3 Phương pháp quan sát
6.2.4 Phương pháp nghiên cứu điển hình
6.2.5 Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
7. Đóng góp mới của đề tài
Nghiên cứu khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng .Đề tài chỉ ra mức độ khó khăn
tâm lý cũng như nguyên nhân của nó.Từ đó đề xuất biện pháp tác động giúp sinh
viên vượt qua khó khăn tâm lý, giúp các em học tập hiệu quả hơn.



9

9
99

NỘI DUNG
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trong lịch sử nghiên cứu tâm lý, vấn đề khó khăn tâm lý nói chung, khó
khăn tâm lý trong hoạt động học tập nói riêng đã được nhiều nhà nghiên cứu tâm lý
xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều khách thể khác nhau. Sau đây là vài nét sơ lược
một số công trình nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập trong và
ngoài nước.
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài

1.1.

Đối với con người, học tập là phương thức để tiếp thu tri thức, kỹ năng nhằm
mục đích nhận biết, tác động, cải tạo thế giới hiện thực, phũc vụ cho lợi ích của con
người. Lịch sử loài người đã chứng minh, chỉ thông qua con đường học tập, thì
những di sản văn hoá vật chất, tinh thần từ thế hệ trước mới được lưu truyền cho thế
hệ sau và cũng nhờ đó mà những giá trị này mới còn tồn tại. Tuy nhiên, học tập
không phải là một hoạt động đơn giản. Trong quá trình biến tri thức của nhân loại
thành vốn kinh nghiệm riêng của cá nhân con người đã gặp không ít khó khăn,
trong đó có nhưng khó khăn về mặt tâm lý.
Khi bàn về khó khăn tâm lí trong học tập, tác giả A.V.Pêtrốpxki hướng đến
đối tượng là khó khăn tâm lý của trẻ em khi đi vào lớp một. Ông chia những khó

khăn này ra làm ba loại :
Loại 1: Nhưng khó khăn có liên quan đến đặc điểm của chế độ học tập mới.
Loại 2: Khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ giao tiếp mới với thầy cô và
bạn bè.
Loại 3: Khó khăn trong việc thích nghi với hoạt động mới. Lúc đầu trẻ được sự
chuẩn bị của gia đình, nhà trường, xã hội nên có tâm lý vui thích và sẵn sàng đi học.
Về sau trẻ giảm dần khát vọng và chán học.
Bên cạnh đó, tác giả đề cập những nguyên nhân dẫn đến khó khăn và ảnh
hưởng của chúng đến đời sống của trẻ đồng thời đề xuất biện pháp giải quyết khó
khăn cho trẻ.


10

10
10

Cũng đề cập đến vấn đề khó khăn tâm lý của trẻ em khi vào lớp một, nhà tâm
lý học Mauricè Debesse trong công trình nghiên cứu của mình đã gọi lớp một là
“trang sử mới của cuộc đời đứa trẻ”. Đồng thời Mauricè Debesse cũng chỉ ra rằng,
đứng trước ngưỡng cửa lớp một trẻ em gặp rất nhiều khó khăn tâm lý. Chính những
khó khăn này làm cản trơ tới sự thích ứng với hoạt động học tập của trẻ, làm trẻ sợ
học, không muốn đến trường và kết quả học tập không cao.
Bianka Zazzo, nhà tâm lý học và giáo dục học người Pháp, cùng với các
cộng sự của mình thuộc trung tâm nghiên cứu trẻ em của Đại học Paris 10 đã tiến
hành nghiên cứu về bước chuyển từ mẫu giáo lên cấp một của trẻ em. Tác giả đã chỉ
ra rằng, khó khăn tâm lý lớn nhất mà trẻ gặp phải làm cản trở đến sự thích ứng với
hoạt động học tập của trẻ là “sự thay đổi môi trường hoạt động một cách triệt để,
gọi là chuyển dạng hoạt động chủ đạo. Mẫu giáo lấy hoạt động vui chơi làm chủ
đạo, vừa học vừa chơi, hoạt động đa dạng, tính tự do tùy hứng cá nhân nặng hơn

tính chỉ đạo của giáo viên. Bước vào lớp một, học tập là chủ đạo, học sinh phải học
nghiêm chỉnh theo sự chỉ đạo của giáo viên, theo nguyên tắc lớp học”[27].
Tóm lại, khó khăn tâm lý trong hoc tập là một hiện tượng tâm lý phức tạp
nhưng được ít các nhà tâm lý học nước ngoài quan tâm nghiên cứu. Mặc dù trong
công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã có những đóng góp nhất định trong
việc phát hiện và nêu ra một số khó khăn tâm lý, đồng thời chỉ ra nguyên nhân của
những khó khăn tâm lý đó.
Tuy nhiên đối tượng mà các công trình nghiên cứu này hướng tới chủ yếu là
những khó khăn tâm lý của trẻ vào lớp một, đồng thời họ cũng chưa nêu được định
nghĩa cũng như vạch ra bản chất của những khó khăn tâm lý đó.
Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam

1.2.

Trong tác phẩm “Nỗi khổ của con em chúng ta”, bác sỹ Nguyễn Khắc Viện
đã nêu ra những khó khăn tâm lý mà học sinh lớp một gặp phải đó là:
- Trẻ phải giữ kỷ luật lớp học.
- Trẻ phải học một chương trình nặng hơn so với tuổi mẫu giáo.
- Trẻ ít được bố mẹ vỗ về âu yếm hơn trước và trẻ luôn chịu sự kiểm tra, đánh
giá của bố mẹ…[32]


11

11
11

Nhà giáo dục Nguyễn Thị Nhất trong tác phẩm “ 6 tuổi vào lớp 1” đã phát
hiện ra nhiều khó khăn tâm lý mà trẻ lớp một phải vượt qua. Tác giả cho rằng
“trong quá trình lớn lên của trẻ em có những bước ngoặt chuyển tư giai đoạn này

sang giai đoạn khác đòi hỏi trẻ em phải thay đổi phương thức sinh hoạt một cách
triệt để.” Đồng thời tác giả cũng nêu ra một số khó khăn tâm lý cụ thể mà trẻ lớp
một phải vượt qua :
- Trẻ phải rời bỏ cuộc sống thoải mái, đa dạng, vui nhộn, hoạt động tùy hứng ở
mẫu giáo và khép mình với kỉ luật nghiêm khắc ở lớp học phổ thong
- Trẻ gặp khó khăn trong quan hệ với giáo viên
- Trẻ bị “vỡ mộng” khi vào học lớp một vì sự hân hoan hồi hộp chờ đón những
điều hấp dẫn được thay bằng những điều khác xa với tưởng tượng của trẻ [23].
Năm 1995, tác giả Nguyễn Minh Hải trong bài “Những khó khăn tâm lý
trong quá trình giải toán của học sinh tiểu học” đã đề cập đến các nguyên nhân khác
nhau hạn chế năng lực giải toán của học sinh tiểu học.[11, tr.25]
Tác giả Nguyễn Thanh Sơn, trong bài viết “Những khó khăn của học sinh
miền núi khi học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam” [26], đã phân tích những khó
khăn của của học sinh miền núi khi học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam và chỉ
ra những khó khăn mà học sinh gặp phải là:
- Hoàn cảnh giao tiếp thông tin của học sinh miền núi bị hạn chế.
- Vốn từ ngữ của học sinh miền núi còn thiếu và yếu.
- Năng lực cảm thụ một câu thơ, một đoạn thơ yếu…
Theo tác giả, nguyên nhân của những khó khăn của học sinh miền núi khi
học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam là do tầm văn hoá, vốn sống, vốn hiểu biết
của các em còn hạn chế. Vì vậy muốn nâng cao năng lực cảm thụ văn học của các
em phải mở rộng tầm hiểu biết cuộc sống, xã hội cho các em. Những hoạt động
ngoại khoá, du lịch, câu lạc bộ văn hoá.. là những hoạt động có tác dụng tốt đối với
học sinh.
Trong bài viết “Một số trở ngại tâm lý của trẻ em khi vào học lớp một” [8,
tr.57 - 58], tác giả Vũ Ngọc Hà đã nêu ra một số trơ ngại tâm lư mà khi vào học lớp
một trẻ em thường gặp phải. Đó là:


12


12
12

- Khó khăn trong việc thích nghi với môi trường mới.
- Khó khăn trong các mối quan hệ.
- Khó khăn khi phải đến trường.
Tác giả Nguyễn Xuân Thức, trong bài viết “Các nguyên nhân dẫn đến khó
khăn tâm lý của học sinh đi học lớp một” đã nêu ra các nguyên nhân cụ thể sau:
- Các nguyên nhân chủ quan:
+ Trẻ chưa hiểu rõ nội quy.
+ Trẻ được chuẩn bị quá kĩ trước khi tới trường.
+ Trẻ không được chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đi học.
+ Do tính cách của trẻ.
+ Do trẻ chưa đủ tuổi đến trường.
+ Do trẻ mắc một số bệnh bẩm sinh.
- Các nguyên nhân khách quan:
+ Nhóm nguyên nhân thuộc về gia đình.
+ Nhóm nguyên nhân thuộc về nhà trường.
+ Nhóm nguyên nhân thuộc về xã hội.
Tác giả cho rằng, các nguyên nhân chủ quan là những nguyên nhân gây ra
khó khăn tâm lý nhiều hơn cho học sinh lớp một. Ngoài ra tác giả cũng đưa ra một
số giải pháp sư phạm để tháo gỡ những khó khăn tâm lý cho trẻ[29, tr.32-35].
Những năm gần đây có một số luận văn thạc sỹ đã quan tâm nghiên cứu về
khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh – sinh viên như:
- Năm 2001, luận văn thạc sỹ “ Tìm hiểu những khó khăn tâm lý trong quá
trình giải bài tập hình học của học sinh lớp 11 trung học phổ thông” của tác giả
Nguyễn Thị Nhân Ai [2].
- Năm 2002, tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền với đề tài “Thực trạng khó khăn
tâm lý trong quá trình giải bài tập thực hành các thao tác kỹ thuật của sinh viên

trường CĐSP Kỹ Thuật Vinh” [15].
Tóm lại, khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập là một hiện tượng tâm lý
phức tạp nhưng vấn đề này vẫn còn ít được quan tâm nghiên cứu. Các công trình
nghiên cứu về vấn đề này như đã nêu trên ít nhiều ðã xây dựng được cơ sở lý luận


13

13
13

và đưa ra những dữ kiện thực tiễn. Tuy nhiên, khách thể nghiên cứu trong các công
trình trên còn giới hạn, chủ yếu tập trung vào học sinh mà chưa chú ý đến sinh viên,
đặc biệt là SV năm thứ nhất, những người vừa rời khỏi ghế nhà trường phổ thông để
bước vào một môi trường học tập mới. Ngoài ra, khi nghiên cứu về vấn đề khó khăn
tâm lý trong hoạt động học tập, các công trình trên chỉ tập trung nghiên cứu một
cách chung chung, khái quát mà chưa đi sâu tìm hiểu khó khăn tâm lý biểu hiện một
cách cụ thể trong hoạt động học tập
2. Cơ sở lí luận
2.1.
Hoạt động học tập của sinh viên sư phạm
2.1.1.
Sinh viên sư phạm
2.1.1.1.
Thuật ngữ sinh viên

Thuật ngữ “ sinh viên “ có nguồn gốc từ tiếng la tinh “students”, có nghĩa là
người làm việc, học tập nhiệt tình, người tìm kiếm và khai thác tri thức [27, tr.44]
Sinh viên là người làm việc nhưng nói chung vẫn chưa là một lao động độc lập
trong xã hội. Họ chỉ là những người đang trong quá trình tích lũy phẩm chất, tri

thức, kĩ năng…về nghề để đáp ứng yêu cầu của xã hội trong tương lai. Để có thể
thực hiện được điều này thì bản thân người sinh viên phải tự nỗ lực, khắc phục khó
khăn học tập, rèn luyện dưới sự hướng dẫn của giảng viên.
2.1.1.2 Sinh viên sư phạm
Sinh viên Sư phạm là những sinh viên đang theo học tại các trường Cao
đẳng và Đại học Sư phạm. Họ tiến hành hoạt động học tập, rèn luyện về chuyên
môn nghiệp vụ nhằm mục đích trở thành người giáo viên trong tương lai.
Ngoài đặc điểm chung của SV thì SV Sư phạm cần phải có những năng lực
và phẩm chất riêng đặc trưng đòi hỏi cần thiết phải có của nghề dạy học. Cụ thể
như:
- Xu hướng sư phạm: biểu hiện ở nhu cầu dạy học, mong muốn được làm
giáo viên, ý thức đầy đủ ý nghĩa của nghề đối với bản thân và xã hội.
- Hứng thú với nghề dạy học: biểu hiện ở sự yêu thích nghề dạy học và phát
triển sự yêu thích này thành lòng yêu nghề sâu sắc.
- Niềm tin về nghề dạy học: biểu hiện ở việc có lòng tin mạnh mẽ vào những
giá trị tốt đẹp của nghề dạy học, vào sức mạnh tác động đến nhân cách con người


14

14
14

của nghề.
- Thế giới quan khoa học: biểu hiện ở việc xây dựng được cho mình thế giới
quan khoa học biện chứng về tự nhiên, xã hội và con người.
- Lý tưởng nghề cao đẹp: đó là lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ. Biểu hiện ở niềm
say mê học tập, rèn luyện chuyên môn, tác phong sư phạm, thể hiện tinh thần trách
nhiệm, lối sống tích cực…vv
Nghề dạy học có đối tượng trực tiếp là con người đang cần sự tác động của

quá trình giáo dục nhằm mục đích phát triển và hoàn thiện nhân cách
Nghề dạy học là nghề không cho phép có “phế phẩm”. Do trách nhiệm cao
cả của nghề mà người giáo viên không chỉ cần có chuyên môn vững vàng mà còn
cần những phẩm chất đạo đức, tình cảm sâu sắc. Từ đó yêu cầu mỗi SV sư phạm
trong những năm tháng ở trường đại hoc phải hình thành, phát triển tình cảm nghề
nghiệp bên cạnh chuyên môn nghiệp vụ nhằm hoàn thiện nhân cách người giáo viên
[1], [24].
Đặc điểm tâm lý lứa tuổi sinh viên

2.1.1.3.

Theo các nhà tâm lý học, SV, những người thuộc lứa tuổi từ 18 đến 25, đã
đạt đến mức độ trưởng thành cơ bản của con người cả về thể chất lẫn tinh thần.
Chính sự hoàn thiện này cho phép SV có thể chọn lựa và thực hiện những gì có ảnh
hưởng đến sự phát triển nhân cách của họ một cách độc lập như chọn nghề sau khi
kết thúc học tập ở trường phổ thông, xác định lý tưởng…vv. B.G.Ananhev đã nhận
định, SV có khả năng lập kế hoạch và thực hiện hoạt động một cách độc lập, có sự
biến đổi mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội có liên quan đến nghề nghiệp,
xác định con đường sống tích cực, nắm vững nghề nghiệp tương lai, bắt đầu thể
nghiệm mình trong mọi lĩnh vực của cuộc sống [27, tr.61].
Đặc điểm tâm lý quan trọng nhất của lứa tuổi SV là sự tự ý thức phát triển
manh mẽ. Tự ý thức bao gồm: khả năng tự đánh giá, tự kiểm tra, tự nhận thức về
bản thân. SV có khả năng đánh giá, nhìn nhận một cách tương đối toàn diện về bản
thân từ khả năng nhận thức, xác định tư tưởng, tình cảm, động cơ, hành vi cũng như
vị trí của bản thân trong nhóm, trong tập thể. Chính nhờ sự tự ý thức đó SV mới có
thể tự điều chỉnh hành vi, cử chỉ, thái độ của mình. Thành phần quan trọng nhất để


15


15
15

tạo nên sự phát triển tự ý thức của SV là năng lực tự đánh giá, thể hiện thái độ đối
với bản thân. Tự đánh giá sẽ hình thành nên lòng tự trọng của cá nhân, bảo đảm cho
tính tích cực của nhân cách được thể hiện trong đời sống cá nhân cũng như trong
mối quan hệ liên nhân cách. Tự đánh giá phản ánh mức độ thoả mãn của chủ thể về
trình độ phát triển các thuộc tính nhân cách của cá nhân. Vì thế sự tự đánh giá của
cá nhân có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả của hoạt động, đặc biệt là tự đánh giá về
trí tuệ. Nó có tác dụng rất lớn đối với sự hình thành và phát triển các phẩm chất trí
tuệ trong quá trình học tập ở đại học. Nếu SV tự đánh giá đặc điểm trí tuệ ở mức
thấp sẽ gây ra những khó khăn trong quá trình học tập, ngược lại những đặc điểm trí
tuệ được đánh giá đúng mức cho đến cao là cơ sở tốt cho hoạt động học tập ở đại
học
Nhưng một điều cần lưu ý trong nhân cách của SV trong giai đoạn này chính
là sự tự đánh giá còn mâu thuẫn và thậm chí thiếu thực tế. Nó thể hiện qua việc so
sánh “cái tôi lý tưởng” với “cái tôi thực tế” trong khi “cái tôi lý tưởng” la một hình
mẫu mẫu đã được đóng khung, không được thay đổi cho phù hợp với từng hoàn
cảnh cụ thể. Chính từ sự so sánh thiếu thực tế và cứng nhắc này đã làm sinh viên,
đặc biệt là SV năm thứ nhất thiếu lòng tin ở bản thân, làm ảnh hưởng đến các hoạt
động của bản thân, trong đó có hoạt động học tập.
Điểm đặc biệt khác trong sự phát triển tâm lý của SV chính là sự phát triển
của tình cảm nghĩa vụ, ý thức trách nhiệm, tính độc lập trong các hoạt động ở mức
độ cao. SV dần có lập trường của bản thân một cách vững vàng, có cách giải quyết
vấn đề chính xác, đúng đắn và tự chủ hơn. Sự trưởng thành về mặt xã hội, tâm thế
sẵn sàng cho việc lĩnh hội kinh nghiệm xã hội và kiến thức nghề nghiệp một cách
độc lập được củng cố.
Bước vào tuổi SV, khi mà việc xác định nghề nghiệp đã rõ ràng, người thanh
niên – sinh viên bắt đầu với các hình thức hoạt động mới. giai đoạn này, người SV
phải đối mặt với những khó khăn nhất định cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong Sự

thay đổi của môi trường, sự thay đổi của phương thức hoạt động…vv đòi hỏi người
SV phải giải quyết để có thể học tập tốt nhằm hình thành cơ sở vững chắc cho nghề
nghiệp tương lai.


16

16
16

Việc giải quyết hiệu quả những khó khăn giúp cho người SV có niềm tin
đúng đắn cho việc chọn nghề, là cơ sở củng co nghề nghiệp tương lai cũng như tạo
điều kiện cho sự phát triển nhân cách được thuận lợi.
Tuổi SV là thời gian quan trọng nhất cho sự phát triển nhân cách, nhân cách
nghề nghiệp. Đây là lứa tuổi mà các chức năng tâm lý, đặc biệt là sự phát triển các
năng lực trí tuệ diễn ra hiệu quả nhất. Tuy nhiên, để phát triển nhân cách toàn diện,
điều quan trọng là người SV phải hiểu được tính không lặp lại trong tính cách của
mình. Với lứa tuổi sinh viên B.G.Ananhiev đã viết: “Lứa tuổi sinh viên là thời kỳ
phát triển tích cực nhất về tình cảm đạo đức và thẩm mỹ, là giai đoạn hình thành và
ổn định tính cách. Đặc biệt là vai trò xã hội của người lớn” [27, tr.61]. Sự phát triển
nhân cách của SV diễn ra trong suốt quá trình học tập ở đại học – cao đẳng diễn ra
với mục đích trở thành một người chuyên gia có trình độ năng lực và đạo đức nghề
nghiệp trong tương lai. Vốn hiểu biết, kinh nhiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp…
vv được hoàn thiện và dần dần nghề nghiệp hoá.
Trong sự phát triển nhân cách của SV, cho dù đã dần đi vào ổn định nhưng
nóvẫn là một quá trình phức tạp, nảy sinh nhiều mâu thuẫn cần giải quyết đặc biệt
trong quá trình chuyển hoá những tri thức về nghề từ bên ngoài thành tri thức, kỹ
năng về nghề của bản thân. Trong quá trình chuyển hoá những cái bên ngoài thành
cái bên trong, yếu tố quyết định cho sự phát triển này chính là bản thân của chủ thể,
của người SV. Chỉ khi nào bản thân người SV nhận thức được những khó khăn và

nỗ lực tìm cách khắc phục những khó khăn đó thì mới có thể đạt được hiệu quả
mong muốn trong các hoạt động của mình và ngày càng hoàn thiện nhân cách người
SV.
Tóm lại, tuổi SV là giai đoạn phát triển đạt đến độ trưởng thành cả về sinh lý
và tâm lý. Tuy nhiên, sự phát triển nhân cách của SV không phải là một con đường
bằng phẳng, hoàn toàn thuận lợi mà gặp phải nhiều khó khăn vướng mắc, đòi hỏi sự
nỗ lực khắc phục của chính bản thân người SV. Chính sự tích cực, tự giác của sinh
viên sẽ là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển các phẩm
chất nhân cách của người chuyên gia trong tương lai.
2.1.1.4. Một số khái quát về sinh viên năm thứ nhất


17

17
17

SV năm thứ nhất, họ là những người vừa rời khỏi ghế nhà trường Phổ thông
bước vào ngưỡng cửa Đại học, Cao đẳng. Thông thường họ có độ tuổi 17, 18 với
đầy sức trẻ, hoài bão và có ý chí vươn lên. Nhân cách của họ đã và đang phát triển
mạnh, họ đã có ý thức về những hành vi của mình
SV năm thứ nhất chưa có được phẩm chất nghề nghiệp chuyên biệt thuộc
một ngành nhất định. Họ là con em thuộc các tầng lớp xă hội khác nhau, ở nông
thôn và thành thị. Do đó, các yếu tố bẩm sinh di truyền đã được biến đổi dưới ảnh
hưởng của giáo dục gia đình, trường phổ thông, các phong tục tập quán địa phương
và những điều kiện sống, sinh hoạt nói chung. Vào trường Đại học, Cao đẳng họ đã
có một số phẩm chất tương đối ổn định, đại biểu cho lối sống của tầng lớp, giai cấp
và của địa phương mình. Do vậy, trong tập thể SV năm thứ nhất thường có va chạm
mạnh do tính độc đáo của nhân cách con người trẻ. Trong quá trình làm quen với
cuộc sống tập thể đầu tiên ở trường Đại học, Cao đẳng SV thường có hành vi bắt

chước lẫn nhau thể hiện bước đầu đồng nhất xã hội. Ở đây, SV chưa có quan điểm
phân hóa đối với các vai tṛò của mình. Việc nắm được đặc điểm nhân cách SV năm
thứ nhất có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nội dung, hình thức và phương
pháp tác động đến họ theo hướng hình thành nhân cách người chuyên gia tương lai
trong trường Đại học, Cao đẳng. Hình thành nhân cách người chuyên gia không thể
nằm ngoài quy luật chung là: nhân cách được bộc lộ, hình thành và phát triển trong
hoạt động. Trong đó, hoạt động học tập đóng vai trò là hoạt động chủ đạo, có ảnh
hưởng quyết định đến nhận thức nghề nghiệp và hoàn thiện nhân cách của SV.
2.1.2.

Hoạt động học tập

2.1.2.1. Khái niệm hoạt động học tập
Khi bàn về vấn đề học tập có rất nhiều quan điểm khác nhau tùy vào cách
tiếp cận của các nhà nghiên cứu.
I.B.Intenxơn cho rằng, học tập là loại học tập đặc biệt của con người nhằm
mục đích nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và các hình thức nhất định của
hành vi. Nó bao gồm cả ý nghĩa nhận thức và thực tiễn.


18

18
18

A.N.Lêônchiev, P.Iaganpêrin và N.Phatalưđina lại coi học tập xuất phát từ
mục đích trực tiếp và từ nhiệm vụ giảng dạy được biểu hiện ở hình thức tâm lý bên
ngoài và bên trong của hoạt động.
V.V.Đavưdov quan niệm học tập dựa trên cơ sở nâng cao trình độ tư duy lý
luận.

A.V.Petrôvxki lại có một quan niệm khác khi cho rằng hoạt động học tập là
vấn đề phẩm chất tư duy và kết hợp các loại hoạt động trong việc thực hiện mục
đích và nhiệm vụ giảng dạy.
N.V.Cudomina lại coi hoạt động học tập là loại học tập nhận thức cơ bản của
sinh viên được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy. Trong quá trình
này việc nắm vững nội dung cơ bản các thông tin mà thiếu nó thì không thể tiến
hành được hoạt động nghề nghiệp tương lai. [27, tr.89]
Các quan niệm trên về hoạt động học tập mặc dù chưa có sự thống nhất giữa
các tác giả song các tác giả khác nhau ít nhiều đều xem xét hoạt động học tập có
liên quan đến nhận thức hoặc tư duy và sâu hơn nữa là liên quan đến yếu tố nghề
nghiệp. Do cách tiếp cận khác nhau nên hoạt động học tập cũng được các tác giả
nhấn mạnh ở những khía cạnh khác nhau nhưng họ vẫn gặp nhau ở một điểm chung
đó là xem hoat động học tập là hoạt động có mục đích tự giác, có ý thức về động cơ
và trong đó diễn ra quá trình nhận thức, đặc biệt là quá trình tư duy.
Về phía các tác giả Việt Nam, như tác giả Lê Văn Hồng và Lê Ngọc Lan, khi
nghiên cứu về hoạt động học tập đã có quan niệm như sau: hoạt động học tập là
hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự giác và lĩnh hội
những tri thức, kỹ xảo mới, những phương thức hành vi và nhưng dạng hoạt động
nhất định [14, tr.106].
Tóm lại, hoạt động học tập có thể hiểu khái quát như sau: hoạt động học tập
là một hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm lĩnh hội, tiếp thu những tri thức,
kinh nghiệm của xã hoi loài người được kết tinh trong nền văn hoá xã hội, qua đó
giúp chủ thể phát triển và hoàn thiện nhân cách.


19

19
19


2.1.2.2. Đặc điểm hoạt động học tập
Được thể hiện ở những điểm sau:
Đối tượng của hoạt động học tập là hệ thống kiến thức khoa học, kỹ năng, kỹ
xảo mới tương ứng. Hoạt động học tập là loại học tập mà ở đó bằng sự tự giác và có
mục đích của mình, chủ thể biến những tri thức chung của nhân loại thành cái của
riêng mình. Trong quá trình ấy, người học không sáng tạo ra tri thức mà chỉ tái tạo
lại những tri thức đã có. Và việc tái tạo tri thức này được diễn ra dưới sự tổ chức,
hướng dẫn của người dạy. Vì vậy hoạt động học tập sẽ không có kết quả nếu người
học chỉ thụ động tiếp nhận các tác động sư phạm. Do đó để việc học tập hiệu quả,
người học phải là chủ thể tích cực, tự giác và có năng lực trí tuệ để lĩnh hội những
tri thức mà giáo viên truyền thụ.
Thông thường các hoạt động khác hướng vào làm thay đổi khách thể để cải
tạo và biến đổi nó phục vụ cho con người thì hoạt động học tập chủ yếu tác động,
làm biến đổi chính bản thân chủ thể thì hoạt động học là hoạt động hướng vào làm
thay đổi tương đối lâu bền chính bản thân chủ thể. Hoạt động học không làm biến
đổi nội dung của tri thức khi nó được lĩnh hội mà chỉ làm thay đổi chính bản thân
chủ thể hoạt động học. Đây chính là điểm độc đáo, khác biệt giữa hoạt động học tập
với các loại hoạt động khác. Có thể hoạt động học cũng làm thay đổi khách thể ở
một mức độ nhất định nhưng mục đích mà hoạt động học tập hướng vào là làm thay
đổi nhận thức của người học và hướng vào tiếp thu cả những tri thức của chính bản
thân hoạt động, có nghĩa là hướng vào học cách tiến hành hoạt động học tập, học
phương pháp học tập.
Hoạt động học tập luôn được tiến hành một cách có định hướng, được thúc
đẩy và điều khiển một cách có ý thức, tự giác cao.
Hoạt động học chỉ có thể thực hiện được khi con người phát triển ở một trình
độ nhất định, có khả năng điều chỉnh những hành động của mình theo mục đích đã
được ý thức.


20


20
20

2.1.3. Hoạt động học tập của SV sư phạm
2.1.3.1.
Khái niệm hoạt động học tập của SV

“Hoạt động học tập của sinh viên là một loại hoạt động nhận thức cơ bản của
sinh viên, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy, nhằm lĩnh hội,
nắm vững hệ thống kiến thức, kỹ năng về một loại nghề nào đó, làm cơ sở cho hoạt
động nghề nghiệp trong tương lai” [27, tr.89]
Đặc điểm hoạt động học tập của SV

2.1.3.2.

Xuất phát từ mục tiêu giáo dục, đào tạo ở bậc Cao đẳng - Đại học là đào tạo
nguồn nhân lực có chuyên môn cao về nghề để đáp ứng yêu cầu xã hội. Do đó việc
học tập của sinh viên ngoài việc mang những đặc điểm của hoạt động học tập nói
chung còn có những đặc điểm riêng sau đây [17, tr127-175]:
- Tính chuyên nghiệp: thể hiện trong mục đích của hoạt động học tập ở SV là
nhằm hướng vào việc hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách người chuyên
gia trong các lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng. Vì vậy học tập ở đại học có sự khác
biệt rất lớn so với học ở phổ thông. Học tập của SV mang tính đặc trưng của hoạt
động nghề nghiệp tương lai. Ơ đại học người SV không chỉ chiếm lĩnh những kiến
thức tổng quát, nền tảng (một phần trong quá trình học) mà mục tiêu chính là chiếm
lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng và thái độ về nghề nghiệp, hình thành những phẩm
chất của người chuyên gia trong tương lai. Tóm lại, trong quá trình học tập, SV phải
xây dựng cho mình một nhân cách đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp sau này.
- Tính độc lập cao trong học tập: Do yêu cầu cao của việc học để trở thành

chuyê gia trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định nên trong hoạt động học tập
người SV đòi hỏi phải có sự độc lập cao, sự tự ý thức đầy đủ về học tập của bản
thân. Đó là sự nhận thức được mình là chủ thể của hoạt động học tập, là người định
hướng, tổ chức và kiểm tra đánh giá hoạt động học tập của bản thân dưới sự hướng
dẫn, trợ giúp của giảng viên. Tính độc lập trong học tập của SV thể hiện trong suốt
quá trình học tập, từ việc tích cực giải quyết các nhiệm vụ học tập đen việc tìm
kiếm tài liệu phục vụ cho việc học, lập kế hoạch học tập phù hợp và nỗ lực ý chí
thực hiện nó. Bên cạnh đó, việc học tập của SV mang tính chất nghiên cứu khoa học
nên buộc SV phải có tính đoc lập cao trong học tập.


21

21
21

- Tính thực tiễn: thể hiện ở việc chú trọng phương pháp học bộ môn, chuyên
ngành, cách thức tiến hành nghiên cứu khoa học, làm thí nghiệm…vv phục vụ cho
nghề nghiệp tương lai. Học tập của SV trên cơ sở nắm vững hệ thống tri thức lý
luận, phát triển kỹ năng ứng dụng và năng lực sáng tạo trong chuyên môn của mình.
Tính thực tiễn trong học tập của sinh viên còn thể hiện ở sự đáp ứng về những đòi
hỏi của xã hội trong việc đào tạo một lực lượng chuyên gia về nghề phục vụ cho xã
hội trong tương lai.
- Tính sáng tạo: Tính sáng tạo trong hoạt động học tập của SV thể hiện ở
việc tham gia nghiên cứu khoa học. Tính sáng tạo của SV một mặt xuất phát từ kết
quả của sự phát triển của tuổi trưởng thành vừa là yêu cầu của bản thân hoạt động
học tập của SV trong thời đại mới.
Từ những đặc điểm riêng trên trong hoạt động học tập của SV đã kéo theo
một sự thay đổi lớn về nội dung, phương pháp, điều kiện học tập cần có ở bậc Đại
học. Học tập của SV diễn ra không chỉ trên lớp mà còn ở ngoài lớp; không chỉ tiến

hành dưới sự hướng dẫn của giảng viên mà còn được tiến hành một cách độc lập, do
bản thân mình tự sắp xếp, tổ chức thực hiện và kiểm tra đánh giá. Nội dung học tập
bao gồm việc tiếp nhận kiến thức, học kỹ năng, học các thái độ…vv. Chính sự thay
đổi về tính chất, mục tiêu của học tập ở đại học so với phổ thông đã dẫn đến việc
hoạt động học tập của SV mang tính chuyên nghiệp, tính độc lập cao, tính thực tiễn
và tính sáng tạo.
Hoạt động học tập của SV sư phạm

2.1.3.3.

Hoạt động học tập của SV Sư phạm về cơ bản điễn ra như hoạt động học tập
của SV các trường, các ngành nghề khác. Tuy nhiên nó vẫn có những đặc điểm
riêng, đặc thù của nghề. Đó là, SV Sư phạm bên cạnh việc học tập tích lũy tri thức,
hình thành kỹ năng, kỹ xảo tương ứng theo chuyên ngành, chuyên môn sâu còn phải
tích cực rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm để đáp ứng được yêu cầu trơ thành
người người giáo viên trong tương lai, không chỉ “dạy chữ” mà còn “dạy người”.
Chính vì mục tiêu này mà bên cạnh những đặc điểm về hoạt động học tập của SV
nói chung, hoạt động học tập của SV Sư phạm có một số đặc điểm nổi bật sau:


22

22
22

Thứ nhất, việc học tập của SV Sư phạm không chỉ đáp ứng yêu cầu chuyên
môn chuyên sâu mà còn phải đáp ứng yêu cầu “sư phạm”, hình thành và phát triển
nhân cách người giáo viên tương lai. Hoạt động học tập của SV sư phạm bên cạnh
việc học chữ còn phải học làm thầy. Bởi trong tương lai, “công cụ nghề nghiệp” của
SV Sư phạm không chỉ là kiến thức mà còn là nhân cách của mình như K.D.Usinxki

đã từng nhấn mạnh “dùng nhân cách để giáo dục nhân cách” [14, tr.195].
Vì thế đối tượng học tập của SV Sư phạm là một hệ thống kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo, bao gồm những phần sau:
- Các môn khoa học cơ ban: Triết học, Lịch sử Đảng, Kinh tế chính trị học,
Mỹ học, Xã hội học…vv, nhằm trang bị hệ thống kiến thức làm cơ sở hình thành
củng cố thế giới quan khoa học.
- Các môn khoa học chuyên ngành: Toán học, Văn học, Vật lý học…vv,
trang bị những kiến thức chuyên sâu của việc đào tạo chuyên gia về từng lĩnh vực
cụ thể, làm cơ sở để sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học và học tập suốt đời.
- Các môn nghiệp vụ sư phạm: Tâm lý học, Giáo dục học, Phương pháp
giảng dạy bộ môn, giao tiếp sư phạm, kiến tập, thực tập sư phạm nhằm trang bị hệ
thống tri thức, kỹ năng về nghề dạy học, làm cơ sở cho công tác dạy học và giáo
dục học sinh sau này.
- Các môn ngoại ngữ, tin học: nhằm trang bị phương tiện học tập phục vụ
việc nghiên cứu, công tác giảng dạy cũng như trang bị phương tiện phục vụ cho xu
thế học tập suốt đời.
- Các môn thể dục, giáo dục quốc phòng: nhằm rèn luyện sức khoẻ, nâng cao
tinh thần kỷ luật, ý thức công dân.
- Các môn học tự chọn: Nữ công, nhạc, hoạ…vv nhằm phát triển năng khiếu,
nâng cao trình độ thẫm mỹ.
Như vậy, đối tượng hoạt động học tập của SV sư phạm là hệ thong kiến thức,
kỹ năng, kỹ xảo và cách thức chiếm lĩnh chúng thuộc các lĩnh vực khoa học chuyên
ngành và nghiệp vụ sư phạm.
Thứ hai, trong thời đại hiện nay, với sự phát triển về mọi mặt của xã hội loài
người và xu thế toàn cầu hoá đã đặt ra nhiều yêu cầu mới cho nền giáo dục Việt


23

23

23

Nam, đặc biệt là giáo dục ở bậc đại học. Do đó hoạt động học tập của SV sư phạm
cũng không nằm ngoài sự tác động này. Trong thế kỷ XXI, thế kỷ của công nghệ
thông tin, một mô hình giáo dục mới đã ra đời. Việc học tập trên mạng sẽ ngày càng
phát triển và dần chiếm một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển giao tri thức.
Vì vậy vai trò, vị trí của người giáo viên cũng có sự thay đổi. Không gian, thời gian
giáo dục cũng không bị bó hẹp và chịu nhiều ràng buộc như hiện nay mà sẽ được
mở rộng để phục vụ cho nhu cầu học tập mọi lúc, mọi nơi của con người…vv. Từ
đó, SV Sư phạm trong quá trình học tập phải học cách dạy học nói chung và dạy bộ
môn nói riêng thông qua việc học tập lý luận dạy học và phương pháp dạy học mỗi
bộ môn cụ thể, học cách chuyển tải, tổ chức cho người học lĩnh hội kiến thức một
cách dễ dàng, có hệ thống và học cách sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại.
Đồng thời để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học và giáo dục, SV sư phạm
cần phải tích cực học tập, rèn luyện khả năng giao tiếp sư phạm, trau dồi vốn ngôn
ngữ, khả năng diễn đạt trước học sinh, trau dồi phong thái…vv
Tóm lại, hoạt động học tập của SV Sư phạm là một quá trình vất vả, học tập
và rèn luyện về nhiều mặt để có thể đáp ứng yêu cầu của nghề là “dạy chữ, dạy
người” đồng thời đáp ứng được những yêu cầu do sự phát triển của xã hội đặt ra. Vì
thế trong quá trình học tập của mình, SV Sư phạm phải thực sự là người làm chủ,
tích cực, chủ động, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, nhằm đạt tới
việc tự học không chỉ trong một giai đoạn nhất định mà còn diễn ra suốt đời. Có
như thế SV sư phạm mới có thể đáp ứng những yêu cầu về nghề dạy học trong thời
đại tiến bộ không ngừng về mọi phương diện như hiện nay.
2.2.
KKTL trong hoạt động học tập của sinh viên sư phạm
2.2.1. Khó khăn tâm lý

Theo từ điển Tiếng Việt thì “khó khăn” có nghĩa là sự trở ngại làm mất
nhiều công sức hoặc thiếu thốn [34, tr.357].

Theo từ điển láy Việt thì “khó khăn” có nghĩa có nhiều trở ngại [9, tr.571].
Từ điển Anh – Việt thì “difficulty” hoặc “hardship” đều dùng để chỉ sự khó
khăn, gay go, khắc nghiệt đòi hỏi nhiều nỗ lực để khắc phục [35].


24

24
24

Như vậy, từ cách định nghĩa của các từ điển trên ta có thể thấy khi nói đến
khó khăn có nghĩa là nói đến những gì cản trở, trở ngại, đòi hỏi nhiều nỗ lực để
vượt qua.
Trong thực tiễn, khi tiến hành bất cứ một hoạt động nào con người đều gặp
phải những khó khăn, làm cho hoạt động chệch hướng, làm giảm đi hiệu quả mà
con người mong muốn, thậm chí không đạt hiệu quả hoạt động. Những khó khăn
này, được gọi chung là những khó khăn trong quá trình hoạt động của con người
được tạo nên bởi các yếu tố mang tính chất tiêu cực. Đó là những yếu tố khách quan
(bên ngoài) và yếu tố chủ quan (bên trong).
Những yếu tố bên ngoài, được hiểu là những điều kiện, phương tiện, môi
trường…vv. Đây là những yếu tố có ảnh hưởng gián tiếp đến tiến trình hoạt động
của con người.
Những yếu tố bên trong, chính là những yếu tố xuất phát từ bản thân mỗi cá
nhân khi tham gia vào hoạt động đó, như nhận thức, thái độ tình cảm, nãng lực, vốn
kinh nghiệm, thao tác kỹ năng tiến hành hoạt động. Xét theo phương diện nguồn
goc xuất phát, các yếu tố bên trong có thể chia làm hai loại: yếu tố sinh học và yếu
tố tâm lý. Những khó khăn do yếu tố tâm lý tạo nên gọi là những KKTL. Chính yếu
tố bên trong này ảnh hưởng trực tiếp đen tiến trình và kết quả hoạt động của con
người.
Xuất phát từ quan điểm trên, KKTL trong đề tài này được hiểu như sau:

KKTL là những nét tâm lý cá nhân, nảy sinh trong quá trình hoạt động của chủ
thể, gây cản trở, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình và hiệu quả hoạt động của chủ
thể.
2.2.2. KKTL trong hoạt động học tập của sinh viên sư phạm

Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của SV. Nó là một loại hoạt động
nhận thức, lao động trí óc căng thẳng có cường độ cao. Đây là một hoạt động đặc
thù giúp con người hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách. Do vậy, trong quá
trình tham gia vào hoạt động học tập, khi gặp những khó khăn, đặc biệt là những
khó khăn về mặt tâm lý, đòi hỏi người học phải tích cực, chủ động huy động tối đa


25

25
25

những phẩm chất và năng lực của cá nhân để khắc phục nhằm đạt hiệu quả cao
trong hoạt động học tập của mình.
Đối với SV năm thứ nhất nói chung, SV Sư phạm năm thứ nhất nói riêng, để
phát triển, xây dựng và hoàn thiện nhân cách, hình thành bước đầu kinh nghiệm về
tương lai, họ phải tiến hành hoạt động học tập với sự làm quen, thích nghi với một
môi trường học tập mới hoàn toàn so với ở bậc phổ thông. Trong quá trình này sẽ
nảy sinh ra nhiều KKTL, gây cản trở sự thích ứng với hoạt động học tập của SV
năm thứ nhất, dẫn đến hiệu quả hoạt động học tập không cao.
KKTL trong hoạt động học tập là một hiện tượng tâm lý phức tạp, nảy sinh
trong quá trình học tập của con người nói chung, của SV phạm năm thứ nhất nói
riêng.
Bàn về KKTL trong hoạt động học tập, người nghiên cứu cho rằng: KKTL
trong hoạt động học tập là những nét tâm lý cá nhân, nảy sinh, tồn tại trong hoạt

động học tập của người sinh viên, gây cản trở, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình và
hiệu quả hoạt động học tập của chính người SV đó.
Đặc trưng của hoạt động học tập ở bậc Cao đẳng – Đại học so với bậc phổ
thông được xác định bởi sự khác biệt trong phương pháp học tập, cách thức tổ chức
học tập mà trong đó vai trò của người SV là tích cực chủ động dưới sự hướng dẫn
của giáo viên.
Và như đã trình bày ở các phần trên, chúng ta thấy rằng tính độc lập cao
trong học tập là một trong những đặc điểm của hoạt động học tập của SV. Chính vì
thế, khi gặp những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của mình, hầu như
người SV cũng tự mình tìm cách khắc phục. Việc khắc phục những khó khăn tâm lý
này có lúc là sự ngẫu nhiên, là việc rút kinh nghiệm sau những lần thất bại trong
học tập ở trường Sư phạm. Điều này cũng làm mất không ít thời gian trong quá
trình học tập. Nhưng cũng có khi người SV không ý thức được những khó khăn tâm
lý mà mình gặp phải để rút ra bài học kinh nghiệm nhằm cải thiện hoạt động học tập
của mình. Đặc biệt đối với SV năm thứ nhất, phần lớn mới kết thúc bậc phổ thông.
Họ bước vào Đại học với nhiều bỡ ngỡ, lạ lẫm. Họ đồng thời vừa làm quen với
cuộc sống mới, trường mới, bạn mới, những môn học mới, cách thức tổ chức học


×