Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Phân tích các bài thơ: Vội vàng, Đây mùa thu tới, Thơ duyên của Xuân Diệu hồn thơ thiết tha, rạo rực, băn khoăn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.02 KB, 5 trang )

[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Đề 15.3. Hoài Thanh đã nhận xét về Xuân Diệu trong ''Thi nhân Việt
Nam'': đó là một hồn thơ ''tha thiết, rạo rực, băn khoăn''. Hãy chứng tỏ điều
đó qua các bài thơ ''Vội vàng'', ''Đây mùa thu tới'', ''Thơ duyên'' của ông.
Cái tôi được khẳng định đã đem đến cho Thơ mới 1930-1945 sự đa dạng,
phong phú các gương mặt thi nhân, như Hoài Thanh từng nhận xét trong ''Thi
nhân Việt Nam'': ''Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ
rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông,
trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn
Bính, kì dị như Chế Lan Viên... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu''.
Trong khi mỗi hồn thơ chỉ được nói đến bằng một tính từ thì nhà phê bình lại đặc
biệt dùng đến ba tính từ để nhận xét cái riêng của Xuân Diệu: một hồn thơ rạo rực
băn khoăn. Vì sao lại có sự ưu ái như vậy? Vì ông là ''nhà thơ mới nhất trong các
nhà thơ mới''. Và điều này ta có thể dễ dàng tìm thấy qua ba bài thơ tiêu biểu của
ông: ''Vội vàng'', ''Đây mùa thu tới'', ''Thơ duyên''.
Bước vào thế giới thơ ca của Xuân Diệu thật muôn hình vạn trạng. Có biết
bao cái hay, cái đẹp trong cuộc sống này được nhà thơ gửi gắm trong từng bài thơ,
từng câu thơ, chữ thơ của một hồn thơ ''tha thiết, rạo rực, băn khoăn''. Rõ ràng khi
ta đọc thơ, đi sâu vào tìm hiểu thơ của thi sĩ, ta thấy thấp thoáng có một ngọn lửa
khát vọng, ngọn lửa của cuộc sống đang rạo rực khát khao với đời, với người.
Nhưng thoảng qua tấm lòng yêu đời lại gợn lên một chút băn khoăn buồn thảm
của một thi nhân trước thời cuộc. Nỗi băn khoăn đó làm cho ''nhà thơ như bị giam
hãm trong một môi trường thiếu năng lượng, thiếu chất đốt của lòng tin, làm sao
thơ ông có đủ chất sáng? Nhưng thật đáng quý là trong nhà thơ vẫn lập loè ''ngọn
lửa Đan-cô'' trên thảo nguyên mịt mùng của cuộc đời: ngọ lửa của tình yêu, yêu
non sông đất nước, yêu tiếng mẹ đẻ...''. Và ta biết chắc một điều là: trong thơ Xuân
Diệu ''khi vui cũng như khi buồn đều nồng nàn tha thiết''.
Có lẽ cũng chính vì điều đó mà nhà thơ đã nhìn cuộc sống với một tình yru
trẻ trung dạt dào bằng một cặp mắt ''xanh non'', ''biếc rờn'', đem đến cho đời và cho
thơ một quan niệm sống hoàn toàn mới lạ:


''Sống toàn tim, toàn trí, sống toàn hồn
Sống toàn thân và thức nhọn giác quan''
(Thanh niên)
Một sự ham muốn cuồng nhiệt luôn luôn được sống là mình, sống mê say,
vồ vập. Cuộc sống ''thiên đường'' ấy hiện ra trong bài ''Vội vàng'' của nhà thơ như
lung linh và đầy sức hấp dẫn. Ở đó có ''ong bướm'' với ''tuần trăng mật'', có hoa
trong ''đồng nội xanh rì'', có ''cành tơ phơ phất'' rồi ''khúc tình si'' và cả ánh bình
minh rực rỡ... Từng câu, từng chữ, từng dòng nhanh gấp như muốn liệt kê, muốn
nói to lên hết thảy những cái đẹp đẽ trong cuộc sống ấy. Tiếng nói tâm tình của
nhà thơ về bức tranh muà xuân như một người dẫn chương trình. Từng bước chân
của tác giả như kéo ta đến gần, khám phá ra những cái tuyệt diệu nhất của cuộc
sống:
''Của ong bướm này đay tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
1


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si...''
Nếu Thế Lữ còn nuôi giấc mộng lên tiên thì ''Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai
và xua ai nấy về hạ giới'' (Hoài Thanh). Nhà thơ đã phát hiện ra một thiên đường
nơi mặt đất, ngay trong tầm tay của chúng ta. Con người cứ phải đi tìm kiếm ở tận
đâu? Nó ngay trong cuộc sống quanh ta đây: những hoa thơm trái ngọt và mùa
xuân rực rỡ. Vậy còn chờ gì nữa? Hãy yêu mến và gắn bó với thực tại này.
Cuộc sống đẹp và kì diệu như vậy, nên nhà thơ không những đón nhận nó,
mà còn muốn hoà tan nó theo từng hơi thở của mình:
''Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu.
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều...''
Có nhà thơ đã nói: ''Thơ chỉ tràn ra khi cuộc sống trong tim đã ứ đầy''. Có lẽ
tình yêu cuộc sống của nhà thơ Xuân Diệu đã tăng lên dần theo từng từ ''muốn''.
Rồi ''ôm'' đến ''riết'' là đã ghì chặt hơn. Và đã ''say??- sự ngây ngất đến bất tỉnh vẫn
chưa thoả lòng- còn muốn ''thâu'' nghĩa là muốn thu hết tất cả để có sự hoà nhập
làm một. Để cuối cùng là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt chưa bao giờ có trong
thơ:
''Hỡi xuân hồng, ta muố cắn vào người!''
Đây đúng là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng
nhiệt'' có lẽ chính vì ''cuộc sống nơi trần thế là thiên đường tuyệt diệu nhất'' của thi
sĩ Xuân Diệu. Hồn thơ yêu đời ấy lúc hối hả ''vội vàng'', khi lại đằm thắm lắng sâu,
nhưng bao giờ cũng thiết tha, rạo rực. Đó là cái thiết tha rạo rực như con sóng bạc
đầu trên biển cả trong ''Vội vàng'', lại có những lượn sóng ngầm cũng không kém
phần rạo rực thiết tha dưới lòng sâu. Đó là bài ''Thơ duyên'', một sự hoà hợp tuyệt
diệu giữa thiên nhiên- thời tiết- lòng người, một bức tranh thu hứng chứa chan sức
sống, rạo rực tình yêu của thi sĩ.
Một buổi ''chiều mộng'' với biết bao âm thanh sinh động, ảnh hình đẹp đẽ đã
tác động đến tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống của nhà thơ khiến thi nhân đã phải
thốt lên những tiếng tơ lòng:
''Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.''
Thi sĩ nhìn vạn vật bằng con mắt và tấm lòng đồng cảm của mình. Dưới con
mắt ấy, cảnh thiên nhiên sao mà có duyên đến thế, đẹp đến thế. Đọc lên câu thơ
thứ nhất ta đã thấy như có một sự gắn bó vô hình nào đó của chiều thu, của thơ và
của ''nhánh duyên''. Thiên nhiên cùng cảnh vật đều mang một sức sống sinh động
và tuơi vui: cây thì như đang ''ríu rít'' cùng cặp chim chuyền, lá thì như tan ra trong

sắc màu xanh trong như ngọc của bầu trời, âm thanh du dương ''tiếng huyền'' của
mùa thu như hoà thành một bản nhạc kì lạ và tấu lên một khúc tương giao gắn bó
của thiên nhiên đất trời. Đúng là nhờ có một tâm hồn nghệ sĩ khát kaho giao cảm
2


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

với đời đã giúp Xuân Diệu khám phá được nhiều biến thái tinh vi của tự nhiên và
thể hiện nó trên những vần thơ đậm sắc màu lãng mạn. Ta như nghe thấy cái thiết
tha rạo rực của lòng thi nhân đang dâng đầy ăn ắp trong cảnh ''chiều mộng'', trong
''tiếng huyền'' của mùa thu. Bức tranh thiên nhiên đã được khúc xã qua tấm lòng
yêu đời của thi sĩ. Tấm lòng yêu đời ấy lại càng rạo rực thiết tha trong mối tình
đầu e ấp. Ở đây có sự giao hoà tuyệt đẹp giữa cảnh và tình, giữa thiên nhiên và
lòng người:
''Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Ần đầu rung động nỗi thương yêu''
Và càng đẹp hơn là sự hoà hợp của hai trái tim đang yêu như ''1 cặp vần''
trong ''bài thơ dịu'', càng rạo rực hơn trong làn mây biếc ''bay gấp gấp'', càng thiết
tha cháy bỏng hơn trong ''chim nghe trời rộng giang thêm cánh''. Làn mây và cánh
chim của tình yêu trong thơ Xuân Diệu thật mới lạ, mãnh liệt và táo bạo- nó là sản
phẩm của một hồn thơ yêu đời, thiết tha với cuộc sống. Hồn thơ ấy luôn mở rộng,
giao hoà với con người và vạn vật giống như ''1 cây đàn Bá Nha nhưng không
muốn chỉ có một Chung Tử Kì mà khát khao hàng vạn hàng triệu tri âm tri kỉ''.
Một hồn thơ yêu đời như thế nhưng sao nhà phê bình lại ghi thêm hai chữ
''băn khoăn'' tiếp liền với ''thiết tha, rạo rực''? Đây là hai tâm trạng dường như trái
nguợc nhau nhưng thực ra lại có mỗi liên quan nhân quả với nhau: chính vì yêu
đời thiết tha nên mới băn khoăn khi chưa được cuộc đời đền đáp (''Cho rất nhiều

song nhận chẳng bao nhiêu''), và băn khoăn lại là biểu hiện rõ nét và chân thành
nhất của lòng yêu đời rạo rực. Đó là hai mặt của một hồn thơ thống nhất Xuân
Diệu, và phải chăng chính thi sĩ đã tự bộc lộ mình trong ''Thơ duyên'':
''Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân.”
Nhưng vì sao lại có nỗ ''băn khoăn'' ấy? Vì sao cuộc đời đánh yêu như thế,
đầy hương sắc như thế mà nhà thơ lại buồn? Phải chăng là sống trong xã hội hỗn
loại, nước mất nhà tan, những con người ''chưa đủ dũng khí để chống lại chế độ
thực dân'' đã mang một nỗi lòng u hoài và thường tìm đến thiên nhiên tâm sự. Thật
là đúng khi Hoài Thanh trong ''Thi nhân Việt Nam'' đã nói: ''Ta thoát lên tiên cùng
thế lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn
Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép,
tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ''.
Hiện thực cuộc sống của các nhà thơ mới đáng sợ làm sao! Nó ngăn chặn
mọi ước mơ tốt đẹp về cuộc sống của con người. Nó không thể làm cho người ta
sống đẹp lên, vì hiện thực của đất nước là đang trong vòng lầm than nô lệ. Ta
hiểu vì sao Xuân Diệu ''say đắm'' mà vẫn ''bơ vơ''. Lắng nghe bước đi của thời gian
chuyển từ hạ sang thu, lòng nhà thơ dâng lên một nỗi buồn tê tái thê lương- nỗi
buồn đã vỡ ra thành tiếng khóc và đọng lại thành hàng ngàn giọt lệ:
''Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng''.

3


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Một bức tranh thu tuyệt đẹp với rặng liễu thu buồn. Song có lẽ không phải
''rặng liễu thiên nhiên'' buồn mà dường như đó chính là ''rặng liễu tâm hồn'' của tác
giả. Bởi chính tác giả cũng đã từng có một nỗi niềm: ''Buồn ơi xa vắng mênh

mông là buồn''. Xuân Diệu đã dẫn hồn ta vào thế giới cô đơn buồn chán tuyệt
vọng:
''Tôi là con nai bị chiều giăng lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối...''
(Khi chiều giăng lưới)
Hai câu thơ mà chứa đựng biết bao tâm trạng của kẻ thiết tha yêu đời nhưng
lại như đang phải tự giam mình trong nỗi cô đơn sầu thảm. Đến nỗi trước cảnh
mùa thu ào đến, nhà thơ đã phải thốt lên những tiếng reo mừng khe khẽ: ''Đây mùa
thu tới, mùa thu tới'' nhưng rồi cảm giác vui mừng lại bị xoá nhoà đi, nhường chỗ
cho cảm giác buốt lạnh cô đơn. Thu đến chỉ thấy có gió rét luồn lách qua từng
ngọn cỏ thành cây, chỉ thấy cảnh vật mang một nỗi buồn tâm trạng trước thời
cuộc, nó lan toả ra không gian và đọng lại trong khí uất của bầu trời và lòng
người:
''Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hạn chia li
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì''
Cả một không gian bao la lúc này đã thấm đẫ nỗi buồn của lòng người và
hiển hiện lên khuôn mặt của các cô thiếu nữ. Đúng là tâm trạng trước cảnh ''nước
mất nhà tan'' của những lớp người chưa xác định được hướng đi cho mình, dường
như cũng không thể giải thích nổi. Nó chỉ phảng phất trên cảnh vật, vương vấn
hiện hình lên gương mặt những người thiếu nữ và đọng lại trên sắc thu tê tái, thấm
sâu nỗi niềm băn khoăn của thi sĩ.
Như chúg ta đã biết, Xuân Diệu khát khao ước mơ nhiều. Nhưng khát khao
sống bình thường hạnh phúc mà cũng chẳng được. Có lẽ vì vậy mà nhà thơ đã đưa
mình đến với những thế giới đầy xuân sắc và tình tứ, cố tạo ra những mộng mơ để
tự huyễn hoặc mình? Nhà thơ cũng đã một lần ao ước:
''Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm''
(Giục giã)

Nhà thơ yêu đời, tha thiết gắn bó với đời, nhưng thực tế cuộc sống xã hội lại
không được như ý nguyện, nhà thơ muốn san sẻ ước muốn với nguời khác cũng
không xong. Trách chi nhà thơ chẳng buồn, chẳng cô đơn lẻ loi như cánh chim
chiều thu đang phân vân đôi cánh trong bài ''Thơ duyên'': ''Con cò trên ruộng cách
phân vân''. Phân vân không biết bay đi hay đậu, bay cao hay thấp, tâm trạng của
nhà thơ cũng vậy, cũng bối rối, ''băn khoăn'' trước ngã ba của cuộc đời. Điều này
đã làm cho ta hiểu thêm về nỗi đau của một trái tim say đắm, nồng nhiệt mà không
được đền đáp xứng đáng. Đó là cảm giác cô đơn lạnh giá trước thái độ nhạt nhẽo
của cuộc đời. Ta hiểu vì sao trong thế giới nghệ thuật của Xuân Diệu mùa xuân và
bình minh đi liền với những chiều thu tàn và những đêm trăng lạnh. Sự nồng nàn
đi với cảm giác bơ vơ. Cái hạt nhân cơ bản để tạo ra cái đẹp trong hồn thơ Xuân
4


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Diệu chính là nỗi ''yêu đời'' và ''đau đời''. Phải chăng vì thế nên thơ ông đã tồn tại
qua bao lớn bụi của thời gian?
Nhà phê bình Hoài Thanh quả đã rất tinh tế khi nhận xét hồn thơ Xuân Diệu
bằng sáu chữ: ''tha thiết, rạo rực, băn khoăn''. Sáu chữ nói trên hai mặt đồng thời
cũng là hai vẻ đẹp của hồn thơ lãnh mạn ấy. Hai vẻ đẹp này tưởng như tách rời
nhau nhưng lại kết hợp biện chứng thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau để làm
nên vẻ đẹp riêng của hồn thơ Xuân Diệu. Hồn thơ ấy đã hơn nửa thế kỉ trôi qua
vẫn có bao lớp người đang say và ngẩn ngơ!
***

5




×