Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.38 KB, 29 trang )

[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

PHẦN 11. BÀI THƠ “TÂY TIẾN” CỦA QUANG DŨNG
Đề 11.1. Khái quát tác giả, tác phẩm: bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng
Đề 11.2. Phân tích bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng.
Đề 11.3. Cảm nhận của anh (chị) về hình ảnh người lính Tây Tiến trong
bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Đề 11.4. Bình giảng đoạn thơ sau trong bài " Tây Tiến" của Quang Dũng:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
…..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Đề 11.5. Bình giảng đoạn thơ:
''Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành''
Đề 11.6. Cảm nhận về đoạn thơ đầu của bài Tây Tiến
" Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".
***
Đề 11.1. Khái quát tác giả, tác phẩm: bài thơ “Tây Tiến” của Quang
Dũng
Quang Dũng (1921-1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở làng
Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây. Ông học đến bậc Trung học ở Hà
Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, Quang Dũng tham gia quân đội. Từ sau năm
1954, ông là biên tập viên Nhà xuất bản Văn học.
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.
Nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn
hậu, lãng mạn và tài hoa- đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ
Đoài (Sơn Tây) của mình. Năm 2001, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về
văn học nghệ thuật. Tác phẩm chính: ''Mây đầu ô'' (thơ,1986), ''Thơ văn Quang


Dũng'' (tuyển thơ văn, 1988).
Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng
quân đội Pháp ở thượng lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ VN. Địa bàn đóng
quân và hđộng của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai
Châu, Hoà Bình, miền tây Thanh Hoá và cả Sầm Nưa (Lào). Chiến sĩ Tây Tiến
1


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

phần đông là thanh niên Hà Nội, trog đó có nhiều học sinh, sinh viên (như
Quang Dũng), chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn
về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành giữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và
chiến đấu rất dũng cảm. Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hđộng ở Lào,
trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển
sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh (1 làng
thuộc tỉnh Hà Đông cũ), Quang Dũng viết bài thơ ''Nhớ Tây Tiến''. Khi in lại,
tác giả đổi tên bài thơ là ''Tây Tiến''.
Tây tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc
phong cách nghệ thuật của nhà thơ, được in trong tập ''Mây đầu ô''. Với cảm
hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình
tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền tây hùng
vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình ảnh người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm
chất bi tráng sẽ còn sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc.
***
Đề 11.2. Phân tích bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng.
Có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của
nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng
chiến chống Pháp. Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám

nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí
của một thời với hình ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là người chiến sĩ cụ
Hồ. Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng ra đời trong hoàn cảnh chung đó. Ra đi
kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng trở thành
người lính. Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng
đã chuyển đơn vị. Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở
đoàn quân Tây Tiến chưa lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây
Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác giả. Toàn bài thơ là một nỗi nhớ của tác giả
về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang
dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến.
Quang Dũng (1921-1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở làng
Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây. Ông học đến bậc Trung học ở Hà
Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, Quang Dũng tham gia quân đội. Từ sau năm
1954, ông là biên tập viên Nhà xuất bản Văn học. Quang Dũng là một nghệ sĩ đa
tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng Quang Dũng trước hết là một
nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa- đặc biệt khi
ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài (Sơn Tây) của mình. Năm 2001, ông
được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Tác phẩm chính: ''Mây
đầu ô'' (thơ,1986), ''Thơ văn Quang Dũng'' (tuyển thơ văn, 1988).
Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng
quân đội Pháp ở thượng lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ VN. Địa bàn đóng
2


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

quân và hđộng của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai
Châu, Hoà Bình, miền tây Thanh Hoá và cả Sầm Nưa (Lào). Chiến sĩ Tây Tiến
phần đông là thanh niên Hà Nội, trog đó có nhiều học sinh, sinh viên (như

Quang Dũng), chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn
về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành giữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và
chiến đấu rất dũng cảm. Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hđộng ở Lào,
trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển
sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh (1 làng
thuộc tỉnh Hà Đông cũ), Quang Dũng viết bài thơ ''Nhớ Tây Tiến''. Tác phẩm
sau khi ra đời đã được bao thế hệ thanh niên và bạn yêu thơ truyền tay tìm đọc.
Đến năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ "Mây đầu ô" ( xuất bản 1986). Khi
in lại, tác giả đổi tên bài thơ là ''Tây Tiến''.
Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để ghi nhớ lại, tác
giả phải bật lên: "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!" Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm
than cùng âm hưởng của vần ơi, tạo nên sức mạnh lớn. Hình ảnh đó là tiếng nói
của Quang Dũng vang vọng đến đoàn quân Tây Tíên? Không ! Đó là tiếng lòng
của tác giả "xa rồi Tây Tiến ơi!" nhưng tấm lòng thì vẫn tha thiết lắm ! Âm
hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng của Quang Dũng như xoáy vào
tâm hồn người đọc rung theo những xúc cảm do câu đầu mang lại để đến với nỗi
nhớ Tây Tiến: "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi" Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao?
"Nhớ chơi vơi" ! Hình như trong ca dao ta cũng từng bắt gặp: "Ra về nhớ bạn
chơi vơi" Nỗi nhớ "chơi vơi" là nỗi nhớ không định hình khó nắm bắt đã diễn tả
bằng lời. Nỗi nhớ ấy vừa bao la, bát ngát lại vừa có chiều sâu. Nó muốn tràn ra
không gian để xoáy vào lòng người. Một người ngoài cuộc hẳn không thể có nỗi
nhớ ấy. Chỉ có Quang Dũng với nỗi lòng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi.
Với tấm lòng tha thiết thì hẳn nổi "nhớ chơi vơi" là điều hoàn toàn có lí. Cùng
vẫn sử dụng vần "ơi", câu thơ có sức lan toả rộng. Vần "ơi" lan ra theo nỗi nhớ
"chơi vơi" của tác giả. Thông thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường
nhớ đến những kỉ niệm để lại dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên là
nhớ về rừng núi "Nhớ về rừng núi…" Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng
đội đã cùng sống, cùng chiến đấu Rừng núi in đậm bao nỗi khổ, bao nhiềm vui
nỗi buồn của những người chiến sĩ.
Hơn ai hết, tác giả là người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những

khó khăn gian khổ mà mình đã từng nếm trải:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."

3


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Mặc dù cuộc sống gian khổ không phải là điều nhà thơ chú trọng phác
hoạ nhưng trước mắt ta vẫn hiện ra cái khắc nghiệt của rừng núi. Nhà thơ Tố
Hữu đã từng có những câu thơ: "Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm,
mưa dầm, cơm vắt- Máu trộn bùn non Gan không núng, chí không mòn !" Tố
Hữu mô tả thẳng cảnh sống người lính. Quang Dũng không làm thế, Quang
Dũng chỉ mô tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua cảnh
đó ai cũng hiểu rằng đời lính là như thế đó. Họ sống giữa thiên nhiên như vậy
đó. Với những địa danh xa lạ "Sài Khao", "Mường Lát", "Pha Luông", rừng núi
như càng trở nên xa ngái, hoang vu hơn. Hơn thế, cần phải nhớ rằng đoàn quân
Tây Tiến hầu như toàn là những chàng trai trẻ Hà Nội theo tiếng gọi kháng
chiến ra đi, nhiều người còn là học sinh nên cảnh núi rừng càng xa lạ, đáng sợ
hơn. Quang Dũng là người trong cuộc sống hiểu tâm lý ấy rất rõ. Nỗi nhớ rừng
núi bắt đầu bằng những cuộc hành quân. "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi."
Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong
cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc
hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng cũng như rừng
sương "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi" sẽ in mãi dấu ấn, câu thơ chùng

xuống, đều đều gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải làm ta tưởng chừng như đoàn quân
Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại
vút lên bởi một câu vần bằng: "Mường lát hoa về trong đêm hơi" Câu thơ ấy đã
xoá đi cái mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến, để đoàn quân tiếp bước. Những khó
khăn lại cứ rải trên đường người lính đi qua:
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Hình ảnh "khúc khuỷu" làm nên cảm giác hình như con đường đi khó
khăn quá ! "Dốc thăm thẳm" lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn, dài ra
theo tính chất "thăm thẳm" của con dốc và trên những đường dốc ấy, "súng ngửi
trời". Chỉ riêng "heo hút cồn mây" đã gợi một không khí vắng vẻ, hoang sơ của
núi rừng, súng ngửi trời cộng vào cái vẻ đơn độc của những người lính khi đứng
giữa đèo cao. Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi vần
bằng tiếp sau: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi." Cứ như thế, với những câu vần
bằng xen vào giữa những câu vần trắc, âm hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp
hơn, âm điệu ấy cứ theo suốt bài thơ, cùng với cách dùng từ cổ kính của Quang
Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà hào hùng cho bài thơ. Cả khổ thơ đầu
là những khó khăn của vùng rừng núi thiên nhiên hoang sơ. Đứng trước bức
tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ: vậy người lính sống thế nào nhỉ?
Đã có những hi sinh mất mát:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
4


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."

Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn
quân Tây Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi
quan mà chỉ để ca ngợi người lính. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với người lính
cũng bằng ngòi bút rất thực ấy. Trước gian khổ, trên đường hành quân, nhiều
người đã nằm lại mảnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy: "Anh bạn dãi dầu
không bước nữa" Nhưng anh hùng làm sao những con người đã ngã xuống ấy!
Người lính không chịu nỗi gian khổ đã hi sinh nhưng cũng tìm được cho mình
một tư thế chết của người chiến sĩ: "Gục lên súng mũ bỏ quên đời" "Bỏ quên
đời" chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính từ
trần. Nhưng hình ảnh sử dụng, rất đắt là hình ảnh "gục lên súng mũ". Ta chợt
nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau: "Anh ngã xuống torng khi
đang đứng bắn- Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng" Dáng đứng của anh giải
phóng quân đi mãi vào lòng những người dân trong kháng chiến chống Mĩ thì
dáng ngã gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn
của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng
chiến. "Gục lên súng mũ" cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những
người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại
tiếp bước. Những khó khăn lại đến: "Chiều chiều oai linh thác gầm thét- Đêm
đêm Mường Hịch cọp trêu người." Hình như có ai đó đã nói về cách sử dụng từ
"Mường Hịch" của Quang Dũng. Địa danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân
cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn, nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi
xa xôi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là chủ thì khó khăn như tăng
thêm bội phần. Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn chẳng thể mất dọc
cuộc hành trình. "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói -Mai Châu mùa em thơm nếp
xôi."
Quang Dũng lại nhớ về những kỉ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp
điệu câu thơ hình như có cái gì nao nức, rộn rã:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa."
Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đầu như biến mất
đi sau những kỉ niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Nét nghịch ngợm, vui tươi
của những chàng thanh niên Hà Nội xúng xính trong xiêm áo giả làm con gái,
cùng tiếng nhạc và vẻ e ấp giả vờ. Câu thơ với hai chữ "kìa em" vừa mang vẻ
ngạc nhiên vừa mang nụ cười thoải mái của người chiến sĩ. Những kỉ niệm vui
5


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

đó hẳn sẽ không quên trong lòng người cũng như vẫn còn nguyên vẹn trong lòng
Quang Dũng vậy. Cùng với sự vui tươi, người lính Tây Tiến còn sống với bản
lĩnh lãng mạn, với tâm hồn giàu chất thơ, giàu cảm xúc của mình. Một dáng
người trên độc mộc vào buổi chiều sương, một khóm hoa đong đưa trên dòng
nước lũ… tất cả đi vào nhẹ nhàng cho cả đoạn thơ. Quang Dũng xa Tây Tiến
nhưng khoảng thời gian ấy chưa lâu nên kỉ niệm Tây Tiến vẫn như nguyên vẹn.
Nỗi nhớ "chơi vơi" trải khắp bài thơ nhưng cô đọng vẫn là ở nỗi nhớ về
người lính Tây Tiến. Có lẽ người lính Tây Tiến, hình ảnh của họ đã ăn sâu tận
trong máu thịt tác giả:
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Câu thơ đầu hoàn toàn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng bởi tên
gọi "Vệ trọc". Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là nạn mà người lính thường
mắc phải. Sốt rét đến nỗi trọc cả đầu chỉ còn một vài sợi tóc lưa thưa đến nỗi da
xanh xao "màu lá". Bệnh sốt rét ác nghiệt như Chính Hữu đã từng mô tả: "Sốt

run người vầng trán ướt mồ hôi." Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người
lính khi Quang Dũng nói về điều này, tác giả còn muốn cho ta biết, người lính
Tây Tiến sống như thế đấy! Họ chiến đấu với quân thù nhưng lại phải chiến đấu
với cả gian khổ, bệnh tật nữa. Giữa bao nhiêu khó khăn người lính vẫn "Quân
xanh màu lá dữ oai hùm" Nét dữ tợn của người chiến sĩ Tây Tiến ở đây không
làm nhạt đi tí nào hình ảnh người lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật, yếu đau
tưởng chừng làm người chiến sĩ yếu đuối nhưng ta bất ngờ vì dáng vẻ "dữ oai
hùm" của anh lính. "Dữ oai hùm" làm mất đi sự yếu đuối của "đoàn quân không
mọc tóc" và của "quân xanh màu lá", câu thơ trên giúp cho câu thơ sau tiếp tục:
"Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính Tây
Tiến và cũng là hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ. Người lính Tây Tiến sống
với hình ảnh của quê hương Hà Nội, chiến đấu với tương lai trước mặt. Hai câu
thơ vừa mang nét lãng mạn của người chiến sĩ vừa có nét hào hùng. Mắt người
lính "trừng" nhưng không hề mang nét dữ tợn, đấy chỉ là quyết tâm của họ. Họ
quyết tâm chiến đấu cho Tổ Quốc, đất nước, điều này là điều tâm niệm của mỗi
người. Hai câu thơ trên đã có thời bị đưa ra chỉ trích cùng với bài thơ là buồn
rớt, là bi quan, là tiểu tư sản. Đành rằng buồn; nhưng cái buồn ở đây không làm
mất đi quyết tâm củangười lính Tây Tiến. Quyết tâm đánh giặc và lãng mãn phãi
kết hợp hài hoà mới có thể taạ nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ một cách sâu
sắc. Đây là điểm mà đã có một thời vì hoàn cảnh lịch sử, vì một lý do nào đó
người ta đã quên đi hay cố tình quên đi. Người lính Tây Tiến chiến đấu cho ai?
Mục đích của họ hướng tới là gì nếu không phải quê hương mà cụ thể là Hà Nội.
Người lính mơ về Hà Nội, về người thiếu nữ Hà Nội thì chính những mộng mơ
ấy đã tiếp sức mạnh cho người chiến sĩ sống và chiến đấu. Hai câu thơ chính vì
thế lãng mạn mà rất hào hùng !
6



[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân
bao người đã ngã xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của rừng núi, vì đau ốm
bệnh tật và họ ngã xuống vì chiến đấu:
''Rải rác biên cương mồ viễn xứ.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành''
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ", câu thơ đọc lên nghe sao mà bi thảm
quá. Bao người nằm lại nơi xa lạ không người qua lại, chẳng bao giờ về. Từ "rải
rác" làm ta cảm giác người lính Tây Tiến ngã xuống, ngã xuống nhiều trong
cuộc chiến đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái lạnh khi những con người phải từ
giã cuộc đời. Từ "viễn xứ" tạo nên sự xa xôi, lạnh lẽo của rừngnúi, gợi sự cô
đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm xuống xoáy vào lòng ta nỗi buồn
không thể thốt nên lời, ta tưởng chừng câu thơ sau sẽ không cất nổi mình, nhưng
ngược lại: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" Câu thơ lại nhẹ nhàng như
không hề mang chút bi thảm của những nấm mồ viễn xứ. Câu thơ trước tạo nên
cái "bi", câu thơ sau tạo nên nét "tráng". Cái không khí bi quan bíên mất, chỉ còn
lại nét ngang tàng, chút thanh thản của người lính Tây Tiến. Bảo "chẳng tíêc đời
xanh" là cách nói của người thanh niên tri thức Hà Nội nhưng cũng mang cả
quan niệm về lí tưởng chiến đấu. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ. Không
phải "tuổi trẻ là mùa xuân" đó sao! Nhưng cao hơn cả tuổi trẻ họ còn có tự do,
quê hương. Còn người hậu phương gởi gấm cả nỗi lòng cho họ. Đó là lí do tại
sao người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ nhàng: "Áo bào
thay chiếu anh về đất- Sông Mã gầm lên khúc độc hành" Cách dùng từ "áo bào"
làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi mãi mãi nhưng anh ra đi là cho lẽ
sống của mình sống mãi nên cái chết của anh nhẹ nhàng như "về đất". Hơn thế,
có chăng Quang Dũng có lí khi dùng từ "về đất" ngoài ý giảm nhẹ sự đau
thương ? Quang Dũng không muốn có bất cứ giọt nước mắt nào rơi trên thi hài

người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến sống lãng mạn, hào hùng thì chết
cũng phải như vậy. Đấy chính là lí do tác giả có ý sử dụng từ cổ kính và nói theo
lối nói của người lính Tây Tiến. Quang Dũng muốn rằng người lính Tây Tiến
chiến đấu là cho quê hương thì sữ ra đi của họ là nhẹ nhàng, thanh thản: họ về
với đất. Đất như người mẹ giang tay ôm đứa con yêu vào lòng và người chiến sĩ
ngụ trong vòng tay mẹ. Như vậy anh hi sinh ở nơi xa nhưng linh hồn anh vẫn về
bên đất mẹ. Câu thơ vì thế mất đi nét bi thảm vốn có. Anh chiến sĩ chết đi, quê
hương ôm anh vào lòng, sông núi hát lên tiễn đưa anh: "Sông Mã gầm lên khúc
độc hành" Không hề có tiếng khóc giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sông,
đất mẹ chứng kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hoà vào núi sông, hoà
vào đất mẹ. Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ
mờ phai trong tâm trí con người. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm đậm
mãi trong lòng Quang Dũng và mỗi chúng ta.
Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta.
7


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về sầm nứa chẳng về xuôi."
Khi gấp trang ''Tây Tiến'' lại, nhiều người trong số chúng ta có thể tìm ra
lời giải đáp cho ranh giới giữa sự giống và khác nhau trong các tác phẩm văn
chương. Ở ''Tây Tiến'' nguời ta không thấy những đau thương mất mát đến bi
lụy, lại càng không thấy những lời cổ vũ hô hào đến sáo mòn. Người lính của
Quang Dũng đã bước từ khuôn mẫu gò bó để đến với đời thực, với hiện thực
kháng chiến gian khổ bộn bề. ''Tây Tiến'' đã tái tạo và bất tử được hình ảnh đoàn
binh Tây Tiến đẹp rạng ngời. Những người lính Thủ đô đi vào cuộc kháng chiến

mang theo vẹn nguyên cái mộng mơ của người con đất Hà thành. Bài thơ cứ
miên man trong nỗi nhơ, để rồi từ đây, một thời gian khổ, một thời say mê gợi
lại. Hình ảnh nguời lính Tây Tiến đến với chúng ta không chỉ với tư cách những
chiến sĩ từng trải qua khó khăn gian khổ mà còn với tư cách những chàng trai
lãng mạn nhưng không kém kiêu dũng. Đối với mỗi con người Việt Nam, họ đã
trở thành anh hùng trong trang sử vàng dân tộc.
Nhịp điệu trùng điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn
trong ta. Có những tác phẩm đã gặp nhiều mà ta lại quên đi nhưng có những tác
phẩm chỉ bắt gặp một lần lại sống mãi. Ấy là "Tây Tiến"! Hình ảnh người lính
Tây Tiến lung linh ngời sáng với cả hào khí dân tộc! "Tây Tiến" là bài thơ tiêu
biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà
thơ. Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc hoạ thành
công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng
miền tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình ảnh người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp
lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ còn sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc.
***
Đề 11.3. Cảm nhận của anh (chị) về hình ảnh người lính Tây Tiến
trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Hình ảnh người lính Việt Nam nói chung và những nguời lính thời kì
chống Pháp nói riêng từ lâu đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các
nhà thơ viết về người lính với tất cả niềm kiêu hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn
những tác phẩm như vậy, ''Tây Tiến'' là bài thơ có vị trí đặc biệt. Dù ra đời vào
năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, vậy mà hơn nửa thế kỉ sau, chất lãng
mạn- hào hùng của tác phẩm vẫn còn sức hấp dẫn lay động, làm say mê bao tâm
hồn. Trong ''Tây Tiến'' người ta thấy hiện lên rõ nét hình ảnh người lính. Những
con người rất thật, rất đẹp, rất có hồn, trường tồn, bất tử mãi mãi với không gian,
thời gian.
Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng
8



[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

quân đội Pháp ở thượng lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ VN. Địa bàn đóng
quân và hđộng của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai
Châu, Hoà Bình, miền tây Thanh Hoá và cả Sầm Nưa (Lào). Chiến sĩ Tây Tiến
phần đông là thanh niên Hà Nội, trog đó có nhiều học sinh, sinh viên (như
Quang Dũng), chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn
về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành giữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và
chiến đấu rất dũng cảm. Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hđộng ở Lào,
trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển
sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh (1 làng
thuộc tỉnh Hà Đông cũ), Quang Dũng viết bài thơ ''Nhớ Tây Tiến''. Tác phẩm
sau khi ra đời đã được bao thế hệ thanh niên và bạn yêu thơ truyền tay tìm đọc.
Đến năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ "Mây đầu ô" (xuất bản 1986). Khi
in lại, tác giả đổi tên bài thơ là ''Tây Tiến''.
Để khắc hoạ chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những chi
tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh đó lại được
diễn ta bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường tài hoa, đem đến cho
người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong một thời kì lịch sử.
Bài thơ được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương nên nó mở đầu bằng câu thơ
biểu hiện nỗi nhớ ấy.
''Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi''
Hình ảnh sông Mã anh hùng mở đầu bài thơ như hé mở cho người đọc
những câu chuyện oai hùng của binh đoàn Tây Tiến. Trên bước đường ra trận,
những người lính Tây Tiến có sông Mã đi cùng bởi vậy cũng thật tự nhiên mà
ngay từ đầu bài thơ, Quang Dũng gọi tên ''sông Mã''. Câu thơ giống như một
tiếng gọi tha thiết ám ảnh, khoảng cách địa lí thì xa xôi vời vợi mà nỗi nhớ lại

luôn thường trực. Trong lòng câu thơ thứ hai dùng hai chữ ''nhớ'', lại được ngắt
nhịp 4/3 đã diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi, khao khát nhung nhớ của
tác giả. Các đặc sắc chính là ở ba chữ ''nhớ chơi với'', chữ ''chơi vơi'' làm chi
người đọc có cảm nhận như lan toả vào không gian và thấm sâu vào lòng người
một chút chống chếnh, một chút hụt hẫng, một chút nao lòng. Nỗi nhớ Tây Tiến
tưởng như xa mà lại hoá gần, tưởng như dịu nhẹ mơn man mà lại có sức ám ảnh
khôn xiết. Không những thế, người đọc còn như nghe được trong những chữ
''nhớ chơi với'' ấy âm hưởng của núi rừng, của sông suối Tây Tiến. Câu thơ reo
vần ''ơi'' tạo ra được độ dịu nhẹ lâng lâng trong cảm xúc, ở đây cảm xúc nhớ
thương giống như một sợi tơ tình bện chặt lòng người. Ngay sau đó nhà thơ đã
cụ thể hoá nỗi nhớ của mình:
''Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi''
Các địa danh Sài Khao, Mường Lát trong nỗi nhớ của Quang Dũng trở
nên thân gần kì lạ, viết về hình ảnh ''đoàn quân mỏi'' Quang Dũng lại điểm thêm
vào đó hình ảnh ''sương lấp'', ''hoa về'', ''đêm hơi''. Rõ ràng là ở đây chất hiện
9


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

thực đã đi liền với chất lãng mạn tạo nên nét độc đáo về Tây Tiến. Trong cảm
xúc nhớ thương của nhà thơ, bức tranh Tây Tiến như được khoác sắc màu huyền
ảo, thơ mộng, giàu sắc thái lãng mạn khung cảnh rừng núi mà đoàn quân Tây
Tiến bước chân qua, vừa thơ mộng vừa hùng vĩ.
Trong nỗi nhớ, những kỉ niệm còn tươi nguyên như sống dậy, nhà thơ nhớ
đến hình ảnh một thời gian khổ:
''Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời''
Hai câu thơ mang giá trị tạo hình cao diễn tả một cách cụ thể và sinh động

nhất những gian khổ của người lính Tây Tiến trên đường ra trận. Câu thơ thứ
nhất ngắt nhịp 4/3 và chủ yếu được gieo thanh trắc đã gợi cho người đọc cảm
nhận về một sự trúc trắc gập ghềnh đầy hiểm nguy. Những cái hay của câu thơ
chính ở hai từ láy ''khúc khuỷu'', ''thăm thẳm'', nó gợi cho người đọc những cảm
nhận về một không gian được mở ra nhiều chiều; cao, rộng, sâu, xa, người đọc
như chia sẻ được cùng với người lính những vất vả, gian khó. Câu thơ thứ hai,
chữ ''heo hút'' được dùng rất đặc sắc, nó khác với hum hút, nếu ''hun hút'' chỉ gợi
được độ sâu thăm thẳm không giới hạn, bờ bến thì từ ''heo hút'' không chỉ gợi ra
độ sâu mà còn thấm cả cảm giác hoang vắng, lạnh lẽo, hiu quạng. Địa bàn chiến
đấu của người lính Tây Tiến quả thực đầy gian khó và nguy hiểm. Hơn thế nữa,
ba chữ ''súng ngửi trời'' được sử dụng thật độc đáo, nó cũng giống như hình ảnh
''đầu súng trăng treo'' của Chính Hữu bao trùm lên hình ảnh là một không gian
tưởng tượng lãng mạn, nhưng nó được bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực, từ con
mắt tinh tế và ngòi bút đa tài của nhà thơ. Nhờ hình ảnh ''súng ngửi trời'', câu thơ
nói về những gian khổ vất vả nhưng lại làm ngời lên khí phách ngạo nghễ và tư
thế hiên ngang của con người, ngoài ra nó còn thể hiện một chút dí dỏm tinh
nghịch, một phong cách lính trẻ trung và lãnh mạn. Giữa thiên nhiên hoang sơ
vắng lạnh, hình ảnh con người không cảm thấy bé nhỏ cô đớn mà lại khẳng định
tư thế làm chủ, khẳng định bản lĩnh của một chiến sĩ anh hùng và tinh thần lạc
quan của con người. Không những thế, hình ảnh một thời gian khổ còn được thể
hiện qua những câu thơ:
''Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người''
Hình ảnh ''oai linh thác gầm thét'' và ''Mường Hịch cọp trêu người'' là
những dẫn chứng sống động nhất về những gian khổ hiểm nguy mà người lính
Tây Tiến đã phải trải qua khoảng thời gian ''chiều chiều'', ''đêm đêm'' trở thành
một khoảng thời gian ước lệ, nó giống như một ám ảnh về Tây Tiến thời gian in
sâu trong tiềm thức của chíh tác giả.
Viết về những gian khổ của người lính, ngòi búy của Quang Dũng cũng
ghi lại những hình ảnh hết sức chân thực:

''Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời''
10


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Bao nhiêu vất vả nhọc nhằm của người lính được thể hiện qua hai chữ
''dãi dầu''. Tuy nhiên từ ''dãi dầu'' vẫn giúp cho người đọc cảm nhận được chú
phong trần giá bụi của người lính trên đường hành quân, phải chăng vì thế hình
ảnh của họ thấp thoáng bóng dáng của người tráng sĩ, chinh phu thuở nào. Qua
những chữ ''bỏ quên đời'' ta thấy khí phách bản lĩnh của người lính lại được ngời
sáng từ chíh những hiện thực tưởng chừng như gian khổ khốc liệu- một chút bất
cần phó mặc nhưng hơn hết là một tráng trí anh hùng, dẫu là mỏi mệt hay dẫu là
hi sinh thì họ vẫn con những biểu hiện ấy rất đỗi nhẹ nhành.
Những người lính Tây Tiến khi chiến đấu thật anh dũng quả cảm nhưng
những giây phúc nghỉ ngơi của họ cũng đầy lãng mạn, mê say:
''Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tựa bao giơ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ''
Họ bỏ lại sau lưng mình những hòn tên mũi đạn, gạt bỏ những lo lắng vấy
vả của cuộc chiến, giữa đời thường, người lính Tây Tiến hiện lên thật bình dị,
gần gũi. Một buổi liên hoan bỗng chốc biến thành một ngày hội tưng bừng náo
nhiệt qua lăng kính lãng mạn của người chiến sĩ không gian của đêm hội đuốc
hoa thật rực rỡ lung linh, câu thơ tràn đầy ánh sáng và màu sắc, trong thơ như có
hoạ. Chữ ''bừng'' được dùng rất hay, nó không chỉ là sự bừng lên của ánh sáng,
của bó đuốc đêm hội mà là sự bừng lên của niềm vui, niềm say mê kiêu hãnh.
Trong sự náo nức của đêm hội ấy, hình ảnh người em gái để mà ''kìa em xiêm ái
tự bao giờ''- một cảm xúc ngạc niên đến sững sờ nhưng đi liền ngay sau đó là

cảm xúc ngất ngây đắm đuối và say mê. Từ Hán Việt ''xiêm áo'' tạo ra nét trang
trọng, ở đây hình ảnh người em gái như được mỹ lệ hoá. Những chữ ''tự bao giờ''
như không giấu nổi cảm xúc ngây ngất của những người lính Tây Tiến, họ ngỡ
như hình ảnh của đêm hội với người em gái ấy đã có tự lâu lắm để rồi bất chợt
lại thấy ngỡ ngàng. Bức tranh đêm hội được lunh linh hoá, mỹ lệ hoá để rồi
người đọc tưởng người em gái ấy tựa như một nàng tiên bước ra từ cổ tích giữa
hiện thực khốc liệt dữ dội người ta bắt gặp hình ảnh như là huyền thoại, đây
chính là sắc thái lãng mạn của bài thơ. Điểm thêm vào bức tranh đêm hội ấy là
hình ảnh của nhạc, của khèn, nhịp thơ đồng thời là nhịp của tiếng lòng náo nức
mê say, tiếng nhạc của tâm hồn như lan toả ra từng câu chữ. Một thời mê say và
lãng mạn của người lính Tây Tiến còn được gợi nhắc qua hình ảnh rất đẹp đẽ:
''Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi''
Hình ảnh của cơm lên khói, hương vị của nếp xôi nồng nàn mà tha thiết
như quyện chặt tâm hồn người đi xa. Câu thơ chủ yếu gieo thành bằng tạo ra
một cảm xúc lâng lâng chơi với, một chút bâng khuâng nhung nhớ, một chút da
diết khắc khoải cũng đủ làm nao lòng người khi nhớ về Tây Tiến.
Viết về một thời say mê ấy, Quang Dũng có những câu thơ rất đỗi tài hoa:
11


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

''Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi''
Câu thơ thứ nhất như được bẻ gãy làm đôi, gợi ra cái trập trùng hiểm trở
của núi rừng nơi đoàn quân Tây Tiến đi qua. Còn câu thơ thứ hai giống như một
tiếng buông lơi thật dịu nhẹ chơi vơi. Câu thơ như đẩy tư duy người đọc về một
hoài niệm nào đó đã xa vắng trong nỗi niềm của tác giả: tưởng là mơ hồ không
xác định, tưởng là vu vơ bất chợt nhưng lại cứ ám ảnh và khắc khoải trong tâm

trí tác giả, không những thế, câu thơ còn có tiết tấu giai điệu rất rõ thể hiện tính
nhạc cao. Như vậy người chiến sĩ cũng chíh là người nghệ sĩ. Cuộc sống kháng
chiếm không chỉ có gian khổ mất mát mà còn đẹp lung linh trong tâm hồn người
lính. Chính cuộc sống này, cuộc sống đầy chất thơ và mộng này, đã xua tan đi
những mỏi mệt gian lao trong đời sống chiến đấu của người lính.
Tiếp đó, mạng cảm xúc đã có sự chuyển đổi: đang ở giọng náo nức giục
giã mê say chuyển sang giọng trầm lắng, bâng khuâng pha một chút hoài niệm
ngậm ngùi:
''Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa''
Hoài niệm của tác giả bắt đầu từ hình ảnh ''chiều sương ấy'', không gian
như thoáng phủ một nỗi buồn mênh mang. Chữ ''ấy'' có ý nghĩa định vị về mặt
không gian như muốn đẩy những kỉ niệm lùi về một nơi rất xa, nó giúp cho
người đọc cảm nhận được khoảng cách vời vợi của nhớ thương. Những câu thơ
gợi nhiều hơn ta, các hình ảnh được gợi ra không phải là những hình ảnh cụ thể
chi tiết mà chỉ là dáng, là hình, rất khó định hình, khó nắm bắt. Nhà thơ dường
như không miêu tả cảnh mà chỉ gợi lại cái linh hồn của nó, hay nói đúng hơn
cảnh vật được nhìn qua lăng kính nhơ thương, không rõ nét, mờ mờ ảo ảo, hư hư
thực thực. Không phải miêu tả lau mà là ''hồn lau'', không phải miêu tả người mà
là ''dáng người'', người đọc cảm nhận được một không gian hoang sơ vắng lặng
đợm một nỗi buồn mênh mang. Đặc sắc nhất của khổ thơ là việc sử dụng cấu
trúc câu ''có thấy'', ''có nhớ''. Đây không chỉ là câu hỏi mà còn giống như một lời
gợi nhắc, một lời nhắn nhủ tha thiết ân tình. Phải chăng hồn lau ấy, dáng người
ấy đã trở thành những hình ảnh ám ảnh tâm hồn tác giả, để rồi khi gợi nhắc về
nó giống như một điểm nhấn của xúc cảm. Đặc biệt, sự biến đổi trong cách sử
dụng các cụm từ ''có thấy'', ''có nhớ'' còn là sự thay đổi về giác quan, không chỉ
là cái nhìn mà còn là tâm hồn, trái tim được đánh thức. Câu thơ thứ tư khá độc
đáo, nó xuất hiện hình ảnh ''nước lũ'' đối lập với hình ảnh ''hoa đong đưa'': một

bên là cái mạnh mẽ dữ dội, một bên là cái nhẹ nhàng thật khẽ, thật êm. Có lẽ
hình ảnh ''hoa đong đưa'' không còn là hình ảnh tả thực mà đã trở thành hình ảnh
diễn ta tâm trạng nỗi niềm của tác giả. Từ láy ''đong đưa'' khác với từ láy ''đua
đưa'', nó không chỉ miêu tả dáng hình và sự chuyển động như từ ''đu đưa'' mà
12


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

còn là đầy tình ý, nó còn là sự đong đưa của ánh mắt đầy hoài niệm mê say, đấy
sắc thái lãng mạn và phong cách sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Quang Dũng.
Đọc ''Tây Tiến'', chúng ta như sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân
lừng tiếng đã đi vào lịch sử. Để khắc hoạ chân dung người lính, nhà thơ đã sử
dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến những hình ảnh đó
lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường, tài hoa, đem
đến cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong thời kì lịch
sử:
''Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm''
Nhà thơ Quang Dũng gọi tên binh đoàn của mình bằng tên gọi khá thú vị
''đoàn binh không mọc tóc''. Thật thú vị khi những con người ấy lại lấy chính
hiện thực gian khổ, khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh và tự tôn cho chính
mình. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên
bắt nguồn từ hiện thực thiếu thốn khắc nghiệt ''tiêu đội xe không kính'', qua đó ta
thấy được tinh thần lạc quan và chất lính dí dỏm, hài hước. Câu thơ thứ hai tạo
ra hai vế đối lập: ''quân xanh màu lá'' với ''dữ oai hùm'', một bên là cái thiếu thốn
khó khăn gian khổ, một bên là khí phách anh hùng của những người lính Tây
Tiến. Ba tiếng ''dữ oai hùm'' tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu
thơ, người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn quân ra trận, câu thơ ngắt nhịp
mạnh tô đậm nét hùng dũng.

Những người lính Tây Tiến cũg là những người lắm mộng nhiều mơ,
những người giàu khát vọng hoài bão. Đến đây nhà thơ đã tạo ra nét vẽ chân
thực về hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp:
''Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.''
Hai câu thơ đã nhấn mạnh chữ ''mộng'' và ''mơ''. Từ '' trừng được dùng
khá đặc sắc, nó cho thấy nhiều tâm nguyện, bao nhiêu khát vọng hoài bão tự đáy
lòng đều dâng cả lên ánh mắt. ''Mắt chừng'' chỉ một hành động mạnh, nhưng
không phải là trừng trộ, doạ nạt mà là cái nhìn đau đáu, khôn nguôi thể hiện
những nhung nhớ, ao ước đến khắc khoải. Chữ ''mộng'' khiến cho câu thơ như bị
trùng xuống, ẩn chứa cảm xúc bâng khuâng. Câu thơ của Quang Dũng gợi nhắc
người đọc tới một câu thơ của Nguyễn Đình Thi: ''Những đêm dài hành quân
nung nấu- Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu''. Nỗi nhớ ''người yêu'', nhớ ''dáng
kiều thơm'' nào đó thật đời thường, bình dị nhưng cũng thật cao quý, nó khiến
cho hình ảnh những người lính trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi nhớ ấy trong
hành trang của họ như tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu và chiến thắng,
nó như một điểm tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh Hà Nội rời ghế
nhà trường tham gia chiến trận- những con người ''lưng đeo gươm tay mềm mại
bút hoa''.
Những người lính Tây Tiến sống anh hùng mà chết cũng anh hùng:
13


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

''Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.''
Cái độc đáo là nhà thơ viết về sự ra đi của những người lính nhưng không

tô đạm sự sầu thương bi lụy, sự ai oán não nùng mà nhấn mạnh dũng khí hùng
tráng, khí phách anh hùng. Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ ấy đến đây âm
điệu câu thơ chợ trầm và trùng xuống, nó như một thước phim quay chậm. Còn
gì thiêng liêng vào cao cả hơn sự hi sinh, sự chấp nhận gian khổ của người lính.
Trên đuờng hành quân chiến đâu, đã biết bao người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống
ở nơi xa xôi, đất khách quê người. Những người chiến sĩ của chúng ta nhìn với
ánh mắt bình thản bởi họ chấp nhậm điều đó. Nếu câu thơ thứ nhất tô đậm cái
''bi'' thì câu thơ thú hai tô đậm nét ''tráng'', ''hùng''. Câu thơ thứ hai giống như
một cáu hất hàm ngạo nghễ của anh lính Tây Tiến: bất chấp khó khăn, bỏ mặc
chết chóc hiểm nguy cận kề, những người lính Tây Tiến vẫn kiên định trong ý
chí, dũng cảm trong hành động, ngạo nghễ trong khí phách người anh hùng. Tác
giả mượn hình ảnh ''áo bào'' để gợi tả sự ra đi của những người lính. Đặc biệt nó
còn gắn với hình ảnh thiêng liêng và tạo ra sắc thái trang trọng, giảm bớt nỗi
buồn thương bi lụy. Nó tạo ra một hình ảnh hết sức cảm động, giống như một sự
sẻ chia đồng cảm của nhà thơ đối với những người lính Tây Tiến. Câu thơ tiếp
lại xuất hiện hình ảnh sông Mã- chứng nhân của lịch sử. Sông Mã tấu lên ''khúc
độc hành''- khúc ca đơn độc buồn thương. Chữ ''gầm''- biện pháp nhân hoá, nỗi
nhớ thương của lòng người như hoá thân vào nỗi nhớ thương của dòng sông hay
dòng sông ấy đang chở đi những khúc ca đau đớn của con người. ''Anh về đất'' là
hoá thân cho dánh hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình.
Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt người con
yêu dấu của giống nòi.
Cuối cùng sau khi đã hồi tưởng lại hình ảnh đoàn binh Tây Tiến một thời
mê say lãng mạn, Quang Dũng đã bộc lộ nỗi niềm mong ước gặp lại Tây Tiến:
''Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi''
Câu thơ đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương
nhớ, nhưng vẫn mang trong nó âm hưởng tráng trí ngất ngời. Câu thơ nói về biệt

li, xa cách, có ngậm ngùi nuối tiếc nhưng vẫn đầy dũng khí, quyết tâm. Khoảng
cách càng xa thăm thẳm thì nỗi nhớ càng trở nên vời vợi bởi xa Tây Tiến không
biết bao giờ mới gặp lại. Người đọc cảm thấy nỗi nhớ thương như là đang đầy cả
câu thơ. Hai câu cuối, giọng điệu và mạch cảm xúc có sự chuyển hướng: câu thơ
giống như một lời mời gọi, một lời nhắn nhủ, ước hẹn tha thiết ân tình. Phải
chăng đây là lời hẹn gặp Tây Tiến vào mùa xuân- mùa của hội ngộ, mùa của
14


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

chiến thắng. Điều đó chứng tỏ tác giả mong ngày gặp lại Tây Tiến, trở về Tây
Tiến chính là ngày chiến thắng. Câu thơ kết vang lên đầy kiêu hãnh như một lời
thề, một lời hứa quyết tâm. Từ nỗi nhớ về một đoàn binh, về những con người
cụ thể đã hoá thân thành nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây Tiến đã
trở thành nỗi nhớ, niềm yêu tha thiết của Quang Dũng.
Khi gấp trang ''Tây Tiến'' lại, nhiều người trong số chúng ta có thể tìm ra
lời giải đáp cho ranh giới giữa sự giống và khác nhau trong các tác phẩm văn
chương. Ở ''Tây Tiến'' nguời ta không thấy những đau thương mất mát đến bi
lụy, lại càng không thấy những lời cổ vũ hô hào đến sáo mòn. Người lính của
Quang Dũng đã bước từ khuôn mẫu gò bó để đến với đời thực, với hiện thực
kháng chiến gian khổ bộn bề. ''Tây Tiến'' đã tái tạo và bất tử được hình ảnh đoàn
binh Tây Tiến đẹp rạng ngời. Những người lính Thủ đô đi vào cuộc kháng chiến
mang theo vẹn nguyên cái mộng mơ của người con đất Hà thành. Bài thơ cứ
miên man trong nỗi nhơ, để rồi từ đây, một thời gian khổ, một thời say mê gợi
lại. Hình ảnh nguời lính Tây Tiến đến với chúng ta không chỉ với tư cách những
chiến sĩ từng trải qua khó khăn gian khổ mà còn với tư cách những chàng trai
lãng mạn nhưng không kém kiêu dũng. Đối với mỗi con người Việt Nam, họ đã
trở thành anh hùng trong trang sử vàng dân tộc.
Nhịp điệu trùng điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn

trong ta. Có những tác phẩm đã gặp nhiều mà ta lại quên đi nhưng có những tác
phẩm chỉ bắt gặp một lần lại sống mãi. Ấy là "Tây Tiến"! Hình ảnh người lính
Tây Tiến lung linh ngời sáng với cả hào khí dân tộc! "Tây tiến" là bài thơ tiêu
biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà
thơ. Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc hoạ thành
công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng
miền tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình ảnh người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp
lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ còn sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc.
***
Đề 11.4. Bình giảng đoạn thơ sau trong bài " Tây Tiến" của Quang
Dũng:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
…..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của
nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng
chiến chống Pháp. Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám
nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí
của một thời với hình ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là người chiến sĩ cụ
Hồ. Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng ra đời trong hoàn cảnh chung đó. Ra đi
kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng trở thành
người lính. Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng
15


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

đã chuyển đơn vị. Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở
đoàn quân Tây Tiến chưa lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây
Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác giả. Toàn bài thơ là một nỗi nhớ của tác giả

về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang
dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến.
Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng
quân đội Pháp ở thượng lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ VN. Địa bàn đóng
quân và hđộng của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai
Châu, Hoà Bình, miền tây Thanh Hoá và cả Sầm Nưa (Lào). Chiến sĩ Tây Tiến
phần đông là thanh niên Hà Nội, trog đó có nhiều học sinh, sinh viên (như
Quang Dũng), chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn
về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành giữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và
chiến đấu rất dũng cảm. Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hđộng ở Lào,
trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển
sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh (1 làng
thuộc tỉnh Hà Đông cũ), Quang Dũng viết bài thơ ''Nhớ Tây Tiến''. Tác phẩm
sau khi ra đời đã được bao thế hệ thanh niên và bạn yêu thơ truyền tay tìm đọc.
Đến năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ "Mây đầu ô" ( xuất bản 1986). Khi
in lại, tác giả đổi tên bài thơ là ''Tây Tiến''.
Bài thơ "Tây Tiến" nói lên nỗi nhớ của tác giả sau một thời gian xa rời
đơn vị: "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! – Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi…" Bài
thơ gồm có 4 phần. Phần đầu nói về nỗi nhớ, nhớ sông Mã, nhớ núi rừng miền
Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến với những nẻo đường hành quân chiến đấu vô
cùng gian khổ… Ở phần đầu, sau hình ảnh "Anh bạn dãi dầu không bước nữa –
Gục lên súng mũ bỏ quên đời", người đọc ngạc nhiên, xúc động trước vần thơ
ấm áp, man mác, tình tứ, tài hoa:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Bát cơm tỏa khói nặng tình quân dân, tỏa hương của "thơm nếp xôi",
hương của núi rừng, của Mai Châu,… và hương của tình thương mến.
Đoạn thơ dưới đây gồm có 16 câu thơ, là phần hai và phần ba của bài thơ
ghi lại những kỉ niệm đẹp một thời gian khổ, những hình ảnh đầy tự hào về đồng

đội thân yêu:
"…Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
16


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Mở đầu phần hai là sự nối tiếp cái hương vị "thơm nếp xôi" ấy. "Hội đuốc
hoa" đã trở thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, và đã trở thành hành trang
trong tâm hồn các chiến binh Tây Tiến:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
"Đuốc hoa" là cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn, từ ngữ

được dùng trong văn học cũ: "Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa" (Truyện
Kiều – Câu 3096). Quang Dũng đã có một sự nhào nặn lại: hội đuốc hoa – đêm
lửa trại, đêm liên hoan trong doanh trại đoàn binh Tây Tiến. "Bừng" chỉ ánh
sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn,
tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Sự xuất hiện của "em", của "nắng" làm
cho hội đuốc hoa mãi mãi là kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến. Những thiếu nữ
Mường, những thiếu nữ Thái, những cô phù xao Lào xinh đẹp, duyên dáng "e
ấp", xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn "man điệu" đã "xây
hồn thơ" trong lòng các chàng lính trẻ. Chữ "kìa" là đại từ để trỏ, đứng đầu câu
"Kìa em xiêm áo tự bao giờ" như một tiếng trầm trồ, ngạc nhiên, tình tứ. Mọi
gian khổ, mọi thử thách,… như đã bị đẩy lùi và tiêu tan.
Xa Tây Tiến mới có bao ngày thế mà nhà thơ "nhớ chơi vơi", nhớ "hội
đuốc hoa", nhớ "chiều sương Châu Mộc ấy". Hỏi "người đi" hay tự hỏi mình "có
thấy" và "có nhớ". Bao kỉ niệm sâu sắc và thơ mộng lại hiện lên và ùa về:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"

17


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Chữ "ấy" bắt vần với chữ "thấy", một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ
trĩu xuống như một nốt nhấn, một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng
khuâng. Nữ sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ "hồn thu thảo", nay
Quang Dũng nhớ là nhớ "hồn lau", nhớ cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau
trắng trời. Có "nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi" thì mới có nhớ và "có thấy hồn
lau" trong kỉ niệm. "Có thấy"… rồi lại "có nhớ", một lối viết uyển chuyển tài

hoa, đúng là "câu thơ trước gọi câu thơ sau" như những kỉ niệm trở về… Nhớ
cảnh (hồn lau) rồi nhớ người (nhớ dáng người) cùng con thuyền độc mộc "trôi
dòng nước lũ hoa đong đưa". Hình ảnh "hoa đong đưa" là một nét vẽ lãng mạn
gợi tả cái "dáng người trên độc mộc" trôi theo thời gian và dòng hoài niệm.
Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền
"chiều sương ấy". Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man mác bâng
khuâng. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua
đoạn thơ này. Giữa những "bến bờ", "độc mộc", "dòng nước lũ" là "hồn lau", là
"dáng người", là "hoa đong đưa" tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của
một "chiều sương" hoài niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.
Phần ba bài thơ nói về đoàn binh Tây Tiến. Quang Dũng sử dụng bút
pháp hiện thực để tạo nên bức chân dung những đồng đội thân yêu của mình. Ở
phần một nói về con đường hành quân vô cùng gian khổ để khắc hoạ chí khí anh
hùng các chiến sĩ Tây Tiến; Phần hai, đi sâu miêu tả vẻ đẹp lãng mạn của những
chiến binh hào hoa, yêu đời. Phần ba này, người đọc cảm thấy nhà thơ dang nhớ,
đang ngắm nhìn, đang hồi tưởng, đang nghĩ về từng gương mặt thân yêu, đã
cùng mình vào sinh ra tử, nếm trải nhiều gian khổ một thời trận mạc. Như một
đoạn phim cận cảnh gợi tả cái dữ dội, cái khốc liệt một thời máu lửa oai hùng.
Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc hun đúc qua 4.000 năm lịch sử được nâng lên
tầm vóc mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau mà người đọc
vẫn cảm thấy trong khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt
kiêu hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. " Đoàn binh không mọc tóc", " Quân xanh
màu lá", tương phản với " dữ oai hùm". Cả ba nét vẻ đều sắc, góc cạnh hình ảnh
những " Vệ túm", "Vệ trọc" một thời gian khổ đươc nói đến một cách hồn nhiên.
Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế

mà quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà " dữ oai hùm" làm cho giặc
Pháp kinh hồn bạt vía " Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu" là hình ảnh các tráng sĩ "
Sát Thát", đời Trần; " Tướng sĩ kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh" là tầm
vóc các nghĩa sĩ Lam Sơn. " Quân xanh màu lá dữ oai hùm" là chí khí lẫm liệt
hiên ngang của anh bộ đội cụ hồ trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Gian
khổ và ác liệt thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ. " Mắt trừng gửi mộng qua biên
giới"; Mộng giết giặc, đánh tan lũ xâm lăng " xác thù chất đống xây thành chiến
18


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

công". Trên chiến trường, trong lửa đạn thì " mắt trừng", giữa đêm khuya trong
doanh trại có những cơn mơ đẹp: " đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Ba chữ "
dáng kiều thơm" từng in dấu vết trong văn lãng mạn thời tiền chiến, được Quang
Dũng đưa vào vần thơ mình diễn tả thật " đắt" cái phong độ hào hoa, đa tình của
những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn năm văn vật, giữa
khói lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ,
một tà áo trắng, một "dáng kiều thơm". Ngòi bút của Quang Dũng biến hoá, lúc
thì bình dị mộc mạc, lúc thì mộng ảo nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp hào hùng tài
hoa của một hồn thơ chiến sĩ.
Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa nhà thơ nói về sự hy
sinh tráng liệt của những anh hùng vô danh trong đoàn quân Tây Tiến. Câu thơ
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" vang lên như một lời thề "Quyết tử cho
Tổ quốc quyết sinh". Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên bờ
dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Một trời thương nhớ mênh mang: "Rải rác
biên cương mồ viễn xứ…" Các anh đã "về đất" một cách thanh thản, bình dị;
yên nghỉ trong lòng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu. Chẳng có "da ngựa bọc thây" như
các tráng sĩ ngày xưa, chỉ có "áo bào thay chiếu anh về đất", nhưng Tổ quốc và
nhân dân đời đời ghi nhớ công ơn các anh. Tiếng thác sông Mã "gầm lên" như

một loạt đại bác nổ xé trời, "khúc độc hành" ấy đã tạo nên không khí thiêng
liêng, bi tráng và cao cả:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Các từ Hán Việt xuất hiện bất ngờ trong đoạn thơ (biên cương, viễn xứ,
chiến trường, áo bào, khúc độc hành) gợi lên màu sắc cổ kính, tráng liệt và uy
nghiêm. Có mất mát hy sinh. Có xót xa thương tiếc. Không bi lụy yếu mềm, bởi
lẽ sự hy sinh đã được khẳng định bằng một lời thề: "Chiến trường đi chẳng tiếc
đời xanh". Biết bao xót thương và tự hào ẩn chứa trong vần thơ. Quang Dũng là
một trong những nhà thơ đầu tiên của nền thơ ca kháng chiến nói rất cảm động
về sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ vô danh. Hơn 20 năm sau, những thi sĩ
thời chống Mĩ mới viết được những vần thơ cảm động như thế:
"Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước"
("Đất nước" - Nguyễn Khoa Điềm)
Những tháng năm chiến tranh đã đi qua. Đoàn binh Tây Tiến những ai
còn ai mất, những ai đã "lấy đá ven rừng chép chiến công"? "Cổ lai chinh chiến
kỉ nhân hồi?" – xưa nay, buổi chiến tranh, mấy ai đi chinh chiến còn trở về?
19


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Đoạn thơ trên đây cho thấy cái tâm đẹp và cái tài hoa của Quang Dũng.
Nếu Chính Hữu, qua bài "Đồng Chí" đã nói rất hay về người nông dân mặc áo
lính, thì Quang Dũng, với bài thơ "Tây Tiến" đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ

uy nghiêm về những chàng trai Hà Nội "mang gươm đi giữ nước" dũng cảm,
can trường, trong gian khổ chiến đấu hy sinh vẫn lạc quan yêu đời. Anh hùng,
hào hoa là hình ảnh đoàn binh Tây Tiến. Đoạn thơ còn thể hiện cốt cách và bút
pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng. Nếu "thơ là sự thể hiện con
người và thời đại một cách cao đẹp" thì "Tây Tiến" đã cho ta cảm nhận về ấn
tượng ấy. "Tây Tiến" đã mang vẻ đẹp độc đáo của một bài thơ viết về người lính
– anh bộ đội cụ Hồ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ hội tụ mọi
vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca kháng chiến ca ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
***
Đề 11.5. Bình giảng đoạn thơ:
''Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành''
''Tây Tiến'' là bài thơ nổi tiếng của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca
kháng chiến chống Pháp nói chung, được sáng tác vào năm 1948. Thông qua
niềm thương nỗi nhơ, cảm hứng lãng mạn của tác giả, bức tranh thiên nhiên
miền Tây Tổ quốc hiện lên thật đa dạng về đường nét, phong phú về mầu sắc,
rất gợi cảm và gần gũi với cuộc sống người lính. Nổi bật lên trên bức tranh núi
rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ dữ dội vừa nên thơ ấy vẫn là hình ảnh những người
lính Tây Tiến thật oai phong lẫn liệt, thật sang trọng hào hoa. Điều này thể hiện
rõ nhất qua đoạn thơ:
''Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành''
Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng
quân đội Pháp ở thượng lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ VN. Địa bàn đóng
quân và hđộng của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai
Châu, Hoà Bình, miền tây Thanh Hoá và cả Sầm Nưa (Lào). Chiến sĩ Tây Tiến

phần đông là thanh niên Hà Nội, trog đó có nhiều học sinh, sinh viên (như
Quang Dũng), chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn
về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành giữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và
chiến đấu rất dũng cảm. Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hđộng ở Lào,
trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển
sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh (1 làng
thuộc tỉnh Hà Đông cũ), Quang Dũng viết bài thơ ''Nhớ Tây Tiến''. Tác phẩm
20


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

sau khi ra đời đã được bao thế hệ thanh niên và bạn yêu thơ truyền tay tìm đọc.
Đến năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ "Mây đầu ô" (xuất bản 1986). Khi
in lại, tác giả đổi tên bài thơ là ''Tây Tiến''.
Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến được thể hiện rất rõ qua những
vần thơ:
''Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm''
Những tháng ngày kháng chiến chống Pháp, những người lính Tây Tiến
phải đương đầu với muôn vàn khó khăn thiếu thốn, thường xuyên phải chống
chọi với đói rét, bệnh tật. Những câu thơ trên gợi cho ta biết bao thương cảm.
Những người lính bị sốt rét rừng hành hạ được tác giả phác hoạ bằng những nét
độc đáo có phần kì lạ. Sống ở vùng rừng núi Tây Bắc hoang vu, họ bị bệnh sốt
rét làm cho trụi tóc xanh da, thân hình tiều tụy: ''Tây Tiến đoàn binh không mọc
tóc''. Cũng có thể hiểu người lính phải cạo trọc đầu để thuận tiện hơn trong chiến
đấu. Nhưng người ta thường hiểu theo cách thứ nhất. Đây là một hình ảnh hoàn
toàn có cơ sở hiện thực. Chính Hữu trong bài ''Đồng Chí'' cũng đã viết ''Sốt run
người vừng chán ướt mồ hôi'' và Tố Hữu trong bài ''Cá nước'' đã có những câu
thơ rất hay: ''Giọt mồ hôi rơi- Trên má anh vàng nghệ- Anh vệ quốc quân ơiSao mà anh yêu thế!''. Nhưng cách diễn đạt của Quang Dũng đã làm nổi bật

được nỗi gian khổ của người lính và gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Biết
bao nhiêu khốc liệt được chứa đựng trong hình ảnh ''không mọc tóc'' và quân
xanh mà lá'' ấy. Chỉ riêng sự tồn tại được trong hoàn cảnh dáng vóc ấy cũng đã
là một chiến công phi thường rồi!
Tuy nhiên, người lính ốn mà không yếu, vẫn giữ được nguyên vẹn vẻ hào
hùng của họ: ''dữ oai hùm, mắt trừng''. Với bút pháp lãng mạn, tác giả đã nhấn
mạnh sự tương phản giữa ngoại hình và nội tâm, giữa hình thức có phần xanh
xao tiều tụy vì bệnh tật với sức mạnh tinh thần mãnh liệt bên trong. Biết bao sự
phẫn nộ và tư thế khí phách của người lính được chứa đựng trong hai từ ''mắt
trừng'' rất giản dị đó. Và cũng oai phong lẫm liệt biết chừng nào được thể hiện
trong hình ảnh ''dữ oai hùm'' ấy- oai hùm là oai của hổ, của chúa sơn lâm thường
ngự trị, tung hoành ngang dọc nơi chốn rừng thiêng:
''Trong hang tối mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Ta Biết ta là chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi''
(Thế Lữ)
Cho nên có thể nói ''dữ oai hùm'' của người lính Tây Tiến được tác giả mô
tả ở đây là nhằm để thích ứng với sự chế ngự một hoàn cảnh khắc nghiệt dữ dội
và làm cho quân thù khiếp sợ. Như thế là người lính Tây Tiến ngay trong khó
khăn, thiếu thốn, bệnh tật, ốm đau cũng đã bộc lộ phẩm chất lẫm liệt hào hùng
và rất đẹp.
21


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Nhưng có lẽ người lính còn đẹp ở một phương diện khác của phẩm chất
tinh thần. Đằng sau cái vẻ ''dữ oai hùm'' còn ẩn giấu những tâm hồn, những trái
tim giàu khát khao yêu thương, giàu lãng mạn, mộng mơ: ''Đêm mơ Hà Nội

dáng kiều thơm''. Ban ngày họ phải hành quân gian khổ, thường xuyên tiếp xúc
với thần chết mà đêm về họ đã mơ những giấc mơ dịu êm như thế đó. Hình ảnh
''dáng kiều thơm'' làm ta gợi nhớ tới những hình ảnh thơ tả người đẹp rất độc đáo
và nổi tiếng của Bích Khê:
''Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây?
Đến triển lãm cả thân hình kiều diễm
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi''
(Tranh Loã thể)
Chính những giấc mơ thấm đợm màu sắc lãng mạn hào hoa đó đã nâng đỡ
tinh thần người lính Tây Tiến vượt qua những khó khăn thử thách khốc liệt
tưởng chừng như không thể chịu đựng nổi. Đây là vẻ đẹp rất đáng yêu, đáng tự
hào của người lính Tây Tiến nói riêng và anh bộ đội Cụ Hồ nói chung. Nguyễn
Đình Thi đã từng viết:
''Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu''
Vì thế không nên có cái nhìn sai lầm cho người lính Tây Tiến còn những
''mộng rớt, mộng rơi'' mà phải xem đó là ''mộng mơ'' đầy cảm hứng lãng mạn
của những người lính Hà thành tài hoa thanh lịch.
Ngòi bút Quang Dũng không chỉ hướng về lãng mạn hào hoa mà còn
hướng về phía lãng mạn hào hùng, cảm xúc bi tráng. Người lính Tây Tiến đã ra
đi chiến đấu với tư thế, khí phách tuyệt đẹp:
''Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh''

Hình ảnh thơ đã trực tiếp nói đến những hy sinh mất mát. Thơ ca kháng
chiến nhìn chung ít nói đến mất mát hi sinh. Vì vậy đây là một đoạn thơ khá
hiếm hoi. Quang Dũng trực diện nói đến cả cái chết, không phải một cái chết mà
là nhiều cái chết: ''Rải rác biên cương mồ viễn xứ''. Riêng câu thơ này gợi cho ta
cảm giác có cái gì đó hơi bi thảm. Chẳng phải chỉ vì lời thơ nói đến nấm mồ mà
22


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

vì những nấm mồ nằm rải rác nơi miền viễn xứ ở một vùng núi rừng hoang vu
heo hút. Nõ dễ làm ta nhớ đến những câu thơ tả cảnh chiến địa của Đoàn Thì
Điểm:
''Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn''
Nhưng sang câu thơ thứ hai ''Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh'' đã
nâng ý thơ lên thành bi tráng, bi hùng. Chất bi hùng ấy được vút lên từ âm điệu
câu thơ gợi lên một thái độ tình cảm thật dứt khoát, thật mạnh mẽ.
Vì lí tưởng độc lập tự do cao quý, người chiến sỹ Tây Tiến sẵn sàng hi
sinh một cách thanh thản không hề luyến tiếc ''đời xanh''. Biết bao tương lai đầy
hứa hẹn của tuổi trẻ được chứa đựng trong hai chữ ''đời xanh'' ấy. Tố Hữu cũng
đã có những câu thơ nổi tiếng ca ngợi vẻ đẹp của tuổi trẻ:
''Hai mươi tuổi tim đang dào dạt máu
Hai mươi tuổi, hồn quay trong gió bão
Gân đang săn và thớ thịt căng da
Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa''
Hai câu thơ trên của Quang Dũng đã làm toả sáng một phương châm, một
triết lí, lẽ sống rất đẹp của tuổi trẻ thời ấy ''Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh''.

Với triết lí đó, người lính sẵn sàng chịu đựng mọi hi sinh, mọi thiệt thòi, kể cả
cái chết ''áo bào thay chiếu anh về đất''. Câu thơ trước hết gợi được cái không
khí rất thực của người lính Tây Tiến. Hoàng Lộc cũng đã viết về việc khâm liệm
người chiến sỹ:
''Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán''
Nhưng dẫu sao người lính trong bài thơ của Hoàng Lộc cũng còn có một
tấm chăn còn người lính của Quang Dũng phải ''áo bào thay chiếu'', nghĩa là ''Tử
sĩ nằm xuống không đủ manh chiếu để liệm'' (Lời kể của Quang Dũng). Song để
xoá đi cái bi thương, tạo nên niềm an ủi, trân trọng đối với người lính, Quang
Dũng phủ lên thi thể người lính một cái nhìn lãng mạn bằng hình ảnh ''áo bào''.
Đây là một sáng tạo từ ngữa độc đáo của Quang Dũng. Nó vừa miêu tả chiếc áo
người chiến sỹ chiến đấu, khi chết thay chiếu để chôn vừa gợi chiếc chiến bào
vua ban cho người tráng sỹ ngày xưa làm cho người lính Tây Tiến trở nên sang
trọng hơn:
''Giã nhà đeo bức chiến bào
23


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Thét roi Cầu Vị ào ào gió thu''
Với tấm ''áo bào'' ấy, người chiến sỹ đã thanh thản ''về'' trong lòng đất mẹ
thiêng liêng ấm áp vĩnh hằng. ''Anh về đất'' là hoá thân cho dáng hình xứ sở,
thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình.
Hình ảnh người chiến sỹ trong câu thơ này làm ta nhớ tới hình ảnh An
Dương Vương rẽ nước về với Long Vương hay chàng trai làng Gióng cưỡi ngựa
bay về trời sau khi dẹp xong giặc Ân. Đúng là một hình ảnh thơ đầy sức mạnh

ngợi ca. Biết bao yêu thương và trân trọng của đất nước, của đồng đội được
chứa đựng trong hình ảnh thơ ấy.
Người lính Tây Tiến qua cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng đã mang
được cái tư thế hiên ngang như người tráng sỹ thời Chiến quốc hay nguời chinh
phu trong ''Chinh phụ ngâm''... ra đi quyết không trở về, xem cái chết nhẹ tựa
lông hồng:
''Gió hiu hiu hề, nước sông Dịch lạnh tê
Tráng sĩ ra đi quyết không trở về''
Người lính của Quang Dũng cũng đã kế thừa và phát huy được phẩm chất
và vẻ đẹp lí tưởng của người chiến sĩ cộng sản được thể hiện trong văn học cách
mạng 1930- 1945. Vì lí tưởng cộng sản cao đẹp, người chiến sĩ sẵn sàng chấp
nhận mọi cái chết, thậm chí là cái chết bi thương:
''Dù phải chết, chết một thời trai trẻ
Liệm thân tàn bằng một mảnh chiếu con
Rồi chôn xương rục thối dưới chân cồn
Hay phơi xác cho một đàn quạ rỉa''
(Tố Hữu)
Và họ đã thanh thản đi vào cái chết như người nông dân vui vẻ trở về nhà
sau khi đã cày xong thửa ruộng:
''Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khoẻ nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngả mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh
Xuân nhẹ đến trên môi cuời hi vọng''
(Tố Hữu)
Người lính của Quang Dũng là biểu tượng của người chiến sĩ đi tiên
phong trong nghiệp giải phóng đất nước:
''Đoàn vệ Quốc Quân một lần ra đi
Là có sá chi đâu ngày trở về
Ôi ta biết cám ơn ai đã sáng tạo ra lên người chiến sĩ

24


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Vang tự hào của thế kỉ 200
Thước vàng đo mọi giá trị trên đời''
Người lính Tây Tiến chiến đấu cho một lí tưởng đẹp nhất của cuộc đời.
Đó là độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Cho nên, anh dù có phải
nếm trải mọi khó khăn thiếu thốn, thậm chí cả cái chết nhưng các anh không hề
nhỏ bé bi thương, trái lại vẫn oai hùng dữ dội. Các anh dù ngã xuống cũng ngã
xuống trong tiếng nhạc của núi sông ''Sông mã gầm lên khúc độc hành. Sông Mã
tấu lên ''khúc độc hành''- khúc ca đơn độc buồn thương. Chữ ''gầm''- biện pháp
nhân hoá, nỗi nhớ thương của lòng người như hoá thân vào nỗi nhớ thương của
dòng sông hay dòng sông ấy đang chở đi những khúc ca đau đớn của con người.
Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt người con
yêu dấu của giống nòi.
Chỉ qua tám câu thơ trong bài thơ ''Tây Tiến'', Quang Dũng đã mô tả được
khá đầy đủ về chân dung tập thể người lính Tây Tiến từ diện mạo đến tâm hồn,
khí phách thái độ trước cái chết cũng như vẻ hào hoa rất Hà Nội của họ. Đoạn
thơ xứng đáng là một tượng đài bằng ngôn ngữ đã bất tử hoá phẩm chất anh
hùng của anh bộ đội Cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp rất đỗi gian khổ
mà vui tươi hào hùng. Qua đó, bài thơ "Tây Tiến" đã mang vẻ đẹp độc đáo của
một bài thơ viết về người lính những năm đầu kháng chiến chống Pháp, hội tụ
mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca kháng chiến ca ngợi chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
***
Đề 11.6. Cảm nhận về đoạn thơ đầu của bài Tây Tiến
" Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!


Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".
Quang Dũng ( 1921-1988) là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng
khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. "Tây Tiến" là bài thơ tiêu biểu cho đời
thơ và thể hiện sâu sắc phong cách thơ Quang Dũng. Có thể nói, tinh hoa của bài
thơ được hội tụ lại trong khổ thơ đầu tiên. Khổ thơ đã dựng lên bức tranh thiên
nhiên hùng vĩ, mĩ lệ của núi rừng miền Tây, nơi nhà thơ cũng đoàn quân Tây
Tiến đã từng hoạt động, chiến đấu.
" Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây,súng ngửi trời
25


×