Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Quản lý đời sống văn hóa cho nhóm di dân nông thôn – đô thị (nghiên cứu trường hợp làng đồng vàng, xã hoàng long, huyện phú xuyên, thành phố hà nội)tóm tắt luận án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.63 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Anh Tuấn

QUẢN LÝ ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CHO NHÓM DI DÂN
NÔNG THÔN – ĐÔ THỊ
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP LÀNG ĐỒNG VÀNG,
XÃ HOÀNG LONG, HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Chuyên ngành: Quản lý văn hóa
Mã số: 62 31 06 42

Hà Nội, 2017


Công trình được hoàn thành tại:
Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam
Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Văn Tiến
Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Thị Phương Châm
Viện Nghiên cứu văn hóa
Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Thị Song Hà
Học viện Khoa học Xã hội
Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Quốc Hùng,
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án họp tại:
Vào lúc..........giờ..........ngày..........tháng........ năm 2017



Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam


1
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Đời sống văn hóa và quản lý đời sống văn hóa là một vấn để
nhận được nhiều sự quan tâm tại Việt Nam, đặc biệt càng quan trọng
hơn khi đặt vào bối cảnh di dân nông thôn – đô thị.
Hà Nội là một đô thị tiêu biểu, nơi chứng kiến các luồng di dân,
đặc biệt là di dân tự do từ nông thôn tìm đến với mong muốn thay
đổi chất lượng cuộc sống.Nghiên cứu vấn đề quản lý đời sống văn
hóa của nhóm di dân nông thôn – đô thị sẽ cung cấp một cái nhìn cụ
thể hơn về sự tác động qua lại giữa khu vực nông thôn với thành thị
thông qua bộ phận di dân, cũng như những biến đổi về đời sống văn
hóa ở cả hai khu vực. Bên cạnh đó, thực tế này cũng đặt ra những
vấn đề về quản lý đời sống văn hóa của nhóm di dân, đòi hỏi phải có
những nghiên cứu cụ thể và đưa ra được những giải pháp có tính khả
thi. Luận án của nghiên cứu sinh không nằm ngoài mục đích này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản
lý đời sống văn hóa cho nhóm di dân nông thôn – đô thị, góp phần
hoàn thiện lý luận về quản lý đời sống văn hoá nói chung, quản lý
đời sống văn hóa tại các khu vực nông thôn và đô thị nói riêng dưới
tác động của quá trình gia tăng chuyển cư nông thôn - đô thị.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Tổng kết cơ sở lý luận về quản lý di dân, quản lý đời sống văn
hóa của nhóm di dân nông thôn – đô thị; nghiên cứu thực trạng đời
sống văn hóa của nhóm di dân nông thôn – đô thị, từ đó phân tích
thực trạng quản lý đời sống văn hóa của nhóm di dân này; Đề xuất


2
những định hướng và giải pháp nhằm quản lý tốt hơn đời sống văn
hóa cho nhóm di dân nông thôn – đô thị trong bối cảnh hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các vấn đề về quản lý đời
sống văn hóa của nhóm di dân nông thôn – đô thị.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: gồm 2 không gian nghiên cứu chính là
làng Đồng Vàng, xã Hoàng Long, huyện Phú Xuyên, và phường Cầu
Dền, quận Hai Bà Trưng.
Phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu quá trình di cư của
người làng Đồng Vàng từ năm 1990 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Với hướng tiếp cận liên ngành, trong đó khoa học quản lý và
văn hóa học sẽ là cốt lõi, luận án chủ yếu sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp điền dã dân tộc học: tác giả sử dụng phương
pháp điền dã dân tộc học tìm hiểu về làng Đồng Vàng cũng như đặc
điểm, cách thức thực hành các nhóm di cư có công việc mưu sinh
khác nhau của bộ phận người làng Đồng Vàng tại khu vực nội thành
Hà Nội.
Trong quá trình điền dã, để có được những thông tin định lượng
về đời sống văn hóa của người dân, các kỹ thuật nghiên cứu như
phỏng vấn sâu được áp dụng thông qua một số cá thể và hộ gia đình

người Đồng Vàng dựa trên đặc điểm 3 loại hình nhóm công việc: xe
ôm, bán hàng rong và hàng xáo (bán gạo). Ngoài ra, tác giả còn kết
hợp sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh


3
và phương pháp dự báo nhằm có hướng tiếp cận tổng thể, sâu rộng
về vấn đề nghiên cứu.
5. Đóng góp của Luận án
Về hướng tiếp cận: Luận án nghiên cứu vấn đề quản lý văn hóa
dựa vào những biến đổi về đời sống văn hóa của nhóm di dân nông
thôn – đô thị. Từ đó, các vấn đề về quản lý đời sống văn hóa nông
thôn và đô thị được gợi mở.
Về lý thuyết nghiên cứu: Tổng kết lý thuyết nghiên cứu về di
dân, quản lý di dân, quản lý văn hóa, quản lý đời sống văn hóa làm
cơ sở lý luận cho những luận giải, kết luận.
Trên khía cạnh mô hình di dân, nghiên cứu chỉ ra cộng đồng di
dân Đồng Vàng đã trải qua từng bước các mô hình di dân: con lắc,
mùa vụ, tạm thời đến lâu dài và có xu hướng định cư tại khu vực
trung tâm Hà Nội. Từ đó phân tích thực trạng đời sống văn hóa, đưa
ra các gợi ý về định hướng, chính sách quản lý.
Về địa bàn nghiên cứu: Luận án lựa chọn địa bàn nghiên cứu
với quy mô nhỏ để nghiên cứu, phân tích sâu sắc hơn về đối tượng
nghiên cứu trong các đặc điểm về đời sống kinh tế, văn hóa tinh thần
và các mối quan hệ xã hội của họ.
6. Bố cục nội dung của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo,
luận án được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Tổng quan về cơ sở lý luận và tình hình nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng quản lý đời sống văn hóa nhóm di dân

nông thôn – đô thị
Chương 3: Định hướng quản lý đời sống văn hóa nhóm di dân
nông thôn – đô thị


4
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ LÝ LUẬN VÀ TÌNH HÌNHNGHIÊN CỨU
1.1. Di dân và quản lý di dân
1.1.1. Lý luận về di dân
1.1.1.1.Khái niệm di dân
Là một hiện tượng khách quan, đóng vai trò quan trọng trong
lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người, di dân trở
thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành, nhiều nhà khoa học, từ
đó có nhiều cách giải thích, định nghĩa thuật ngữ này. Tại Việt Nam,
các nhà khoa học với các chuyên ngành khác nhau cũng đưa ra
những định nghĩa về di dân. Nói chung, từ các định nghĩa có thể rút
ra rằng: Di dân là một hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với lịch sử
phát triển của xã hội loài người với những thay đổi của tự nhiên, xã
hội và sự phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội. Di dân làm
thay đổi bức tranh phân bố dân, ảnh hưởng tới sự phân bố loại lao
động theo lãnh thổ và ảnh hưởng đến hàng loạt các vấn đề kinh tế xã hội, cũng như môi trường.
1.1.1.2.Các loại hình di dân
Nếu xét theo không gian, có thể chia di dân thành các loại hình:
Di dân nông thôn – nông thôn; Di dân nông thôn – đô thị; Di dân đô
thị - đô thị; Di dân đô thị - nông thôn.Nếu xét tiêu chí về tính chất, có
thể chia thành di dân tự nguyện và di dân ép buộc. Ngoài ra, xét theo
tiêu chí thời gian, di dân có thể được phân chia thành: Di dân “con
lắc, Di dân tạm thời, Di dân theo mùa vụ, Di dân lâu dài.
1.1.1.3. Lý thuyết về di dân

Đã có nhiều lý thuyết được các nhà nghiên cứu sử dụng nhằm
lý giải về hiện tượng di dân đã và đang diễn ra trong các xã


5
hội.Trong đó, lý thuyết đẩy – hút được áp dụng phổ biến. Tại Việt
Nam, lý thuyết này được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu nhằm
lý giải cho các nguyên nhân dẫn đến các luồng di cư đang diễn ra.
Bên cạnh đó là lý thuyết về mạng lưới xã hội trong việc giải thích
các nguồn lực xã hội nói chung và động lực dẫn tới các cuộc di cư
nói riêng.
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về di dân và quản lý di
dân
1.1.2.1. Những vấn đề chung về di dân
Di dân là một chủ đề được các học giả và những người làm
chính sách ở Việt Nam quan tâm. Những nghiên cứu này tập trung
vào các vấn đề như: di dân với vấn đề kinh tế; di dân với vấn đề xã
hội; di dân với các vấn đề về chính trị, chính sách và hướng tiếp cận
di dân và vấn đề tái định cư, môi trường. Những công trình theo
hướng này như “Di dân trong nước: vận hội và thách thức đối với
công cuộc đổi mới và phát triển ở Việt Nam”, “Bảo trợ xã hội cho
những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam” của tác giả Đặng Nguyên Anh
(2005), Trần Đình Hằng với đề tài cấp Bộ (Bộ Văn hóa Thể thao và
Du Lịch) “Bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số vùng di
dân tái định cư ở miền Trung do xây dựng các công trình thủy điện”
(2014),“Sự hòa nhập lối sống đô thị của dân nhập cư tại Tp. Hồ Chí
Minh” của Lê Sĩ Hải (2016)...
1.1.2.2. Quản lý di dân
Về phương diện pháp lý, vấn đề quản lý di dân đã được thể hiện
trong Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

(sửa đổi ngày 28/11/2013), Luật Cư trú (sửa đổi bổ sung năm 2013).


6
Các nhà nghiên cứu cũng từ giác độ khoa học của mình mà có
những cách tiếp cận khác nhau: tiếp cận trên góc độ chính sách quản
lý nhưLê Văn Định (2004), Một số giải pháp chủ yếu quản lý quá
trình di dân ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung hiện nay; tiếp cận
di dân và tái định cư với vấn đề môi trường với các tác giả: Nguyễn
Đình Hòe (2001),Dân số, định cư và môi trường ; Nguyễn Thị
Thiềng (2001); Bùi Minh Thuận (2010),…
Hiện tượng di dân nông thôn – đô thị ở Hà Nội cũng được quan
tâm nghiên cứu và chỉ ra các phương diện tích cực, tiêu cực. Về mặt
tích cực, quyết định di chuyển đến Hà Nội mưu sinh của bộ phận lao
động nông thôn có vai trò quan trọng với việc ổn định đời sống kinh
tế, mức chi tiêu sinh hoạt của các gia đình tại nông thôn cũng như
bản thân họ (Vũ Quế Hương, (2000); Rolf Jensen, Donald M.
Peppard JR., Vũ Thị Minh Thắng (2009))…Về mặt hạn chế, di dân
tự do nông thôn vào Hà Nội tạo ra nhiều sức ép về việc làm, an ninh
trật tự, ô nhiễm môi trường của thủ đô… (Vũ Quế Hương (2000);
Đinh Văn Thông (2010); Hoàng Văn Chức (2004)…).
1.2. Đời sống văn hóa và quản lý đời sống văn hóa
1.2.1 Đời sống văn hóa
“Đời sống văn hóa” có thể hiểu một cách cơ bản là toàn bộ
những hoạt động gắn liền với sự tồn tại của con người. Cụm từ này
cũng xuất hiện trong các văn kiện của các Đại hội Đảng. Ngoài ra,
đời sống văn hóa cũng có thể hiểu là bao hàm tất cả những hoạt động
để tồn tại của con người từ lúc sinh ra cho đến lúc chết. Theo các nhà
văn hóa học, con người thường có 6 nhu cầu cơ bản sau: nhu cầu
sinh sống vật chất, lưu truyền huyết thống, sinh hoạt chính trị, hiểu

biết, tâm linh, tín ngưỡng, sáng tạo và giải trí.Xã hội càng phát triển


7
thì biểu thị càng đa dạng, trình độ văn hóa khác nhau thì biểu thị
cũng có thể tinh tế hoặc thô thiển khác nhau.
1.2.2. Quản lý đời sống văn hóa
Quản lý văn hóa là sự tác động chủ quan bằng nhiều hình thức,
phương pháp của chủ thể quản đối với khách thể nhằm đạt được mục
tiêu mong muốn.Nội dung quản lý văn hóa bao gồm: Xác lập quan hệ
chủ đạo (hệ tư tưởng chính trị, kinh tế, xã hội, đạo đức…), những
nguyên tắc cơ bản xây dựng và phát triển văn hóa; Bộ máy tổ chức,
cán bộ thực hiện chức năng quản lý văn hóa từ Trung ương đến địa
phương và theo các lĩnh vực; cơ chế phối hợp liên ngành (bộ, ban,
ngành, đoàn thể, cơ cấu dân sự…); hệ thống pháp luật (luật, pháp lệnh,
nghị định, thông tư, chỉ thị…); Hệ thống chính sách trên từng lĩnh vực
(lối sống, nếp sống, văn học, di sản văn hóa,…) và theo địa bàn lãnh
thổ; Công tác giám sát, kiểm tra, khen thưởng và xử lý vi phạm.
1.3. Giới thiệu địa bàn nghiên cứu
1.3.1. Khái quát về làng Đồng Vàng, xã Hoàng Long
1.3.1.1. Xã Hoàng Long
Xã Hoàng Long là một xã thuần nông nằm ở phía Tây Nam
huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây cũ, phía Bắc giáp xã Tri Trung, phía
Nam giáp huyện Ứng Hòa, phía Đông giáp xã Văn Hoàng, Tân Dân,
Chuyên Mỹ, phía Tây giáp xã Phú Túc. Đây là một xã nông nghiệp
với phần lớn diện tích đất trồng lúa và mặt nước nuôi trồng thủy sản.
Đồng Vàng là 1 trong 9 thôn thuộc xã này.
1.3.1.2. Làng Đồng Vàng
Làng Đồng Vàng (Đường Hoàng) thuộc xã Hoàng Long, huyện
Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây cũ, nay vào địa phận thủ đô Hà Nội. Là một

làng nông nghiệp, kinh tế chủ đạo của làng là nông nghiệp trồng lúa.


8
Bên cạnh nghề nông, “đi chợ” từ lâu đã được coi là nghề truyền
thống của cả làng. Vốn nổi tiếng với nghề hàng Ngài, hàng xay, hàng
xáo, người Đồng Vàng có cuộc sống no đủ hơn và có sản phẩm để
giao dịch khắp các chợ trong và ngoài vùng. Và cứ như thế, cái
“máu” đi tứ phương buôn bán đã hình thành và tuôn chảy trong
huyết quản người dân Đồng Vàng, từ đó đào luyện bản lĩnh và tạo
động lực để người Đồng Vàng dễ dàng ra ngoài “thiên hạ” làm ăn,
sinh sống và có khả năng thích ứng nhanh với cuộc sống mới bên
ngoài.
1.3.2. Phường Cầu Dền
Phường Cầu Dền nằm ở phía Nam Quận Hai Bà Trưng với bốn
tuyến phố chính là: Bạch Mai, Đại Cồ Việt, Lê Thanh Nghị và Trần
Khát Chân. Đây là không gian sinh sống của một bộ phận không nhỏ
người di cư từ làng Đồng Vàng. Nghiên cứu không gian này sẽ tạo
điều kiện để nhận diện những tương tác nông thôn – đô thị, các vấn
đề về quản lý đời sống văn hóa của nhóm di dân tại khu vực đô thị.
Tiểu kết
Di dân là một hiện tượng khách quan trong sự vận động của lịch
sử loài người. Trong bối cảnh hiện tại, quá trình này càng được đẩy
mạnh do những tác động từ lực đẩy – lực hút mà chủ yếu là từ vấn đề
kinh tế. Người làng Đồng Vàng di dân ra Hà Nội cũng không nằm
ngoài quy luật này. Quá trình di dân tạo nên những tương tác văn hóa
nông thôn – đô thị, đưa đến những biến đổi về đời sống văn hóa của
cộng đồng.. Trong bối cảnh này, quản lý đời sống văn hóa là tiến
trình quản lý thực thi các cơ chế chính sách, thiết lập mạng lưới thiết
chế văn hóa và xây dựng các nguồn lực nhằm đáp ứng nhu cầu văn

hóa của bộ phận dân di cư từ nông thôn ra đô thị, tạo ra những hiệu


9
ứng phát triển đối với bản thân nhóm di dân và ở hai cộng đồng xuất
và nhập cư.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
NHÓM DI DÂN NÔNG THÔN – ĐÔ THỊ
2.1. Tổng quan về nhóm di dân người làng Đồng Vàng
2.1.1. Quá trình di dân và đặc điểm chung của nhóm di dân
làng Đồng Vàng
Phần lớn số hộ ở làng Đồng Vàng có thành viên đang sinh sống
và lao động tại khu vực trung tâm Hà Nội.Tại đây, họ làm chủ yếu
các công việc: chạy xe ôm, bán gạo, bán hàng rong để cải thiện thu
nhập. Trước đây, di dân chủ yếu là di dân con lắc. Cho đến những
năm đầu tiên của thời kỳ Đổi mới, những người dân làng Đồng Vàng
“đổ” về Hà Nội nhiều hơn. Lúc này, họ không đi – về giữa quê Đồng
Vàng và Hà Nội liên tục trong một vài ngày, họ quyết định ở lại Hà
Nội kiếm việc làm. Từ 1995 đến đầu những năm 2000, người làng
Đồng Vàng sau một thời gian lao động tại Hà Nội quyết định mua
đất, xây nhà tại nội thành. Một bộ phận không nhỏ trong số đó đang
sinh sống tại khu vực ngõ Đỗ Thuận, ngõ Chùa Liên Phái, phường
Cầu Dền, quận Hai Bà Trưng ngày nay.
2.1.2. Đặc điểm nhóm di cư làm nghề xe ôm làng Đồng Vàng
Nhóm xe ôm làng Đồng Vàng được chia thành nhiều lớp tuổi
khác nhau, trong đó chủ yếu là nhóm tuổi sinh vào những năm 1960.
Họ làm việc bằng cách đứng bắt khách tại một địa điểm nhất định
hoặc bắt khách dọc đường. Trong quá trình làm việc, họ cũng khó
tránh khỏi những mâu thuẫn, bon chen nhưng vẫn tìm được cách



10
thích ứng. Nhiều người có được những mối khách ruột, nhận được sự
tin tưởng của họ.
2.1.3. Đặc điểm nhóm di cư làm nghề bán hàng rong làng
Đồng Vàng
Nhóm những người di cư bán hàng rong của làng Đồng Vàng
100% là nữ giới. Họ bán nhiều mặt hàng khác nhau, tùy thuộc vào
địa điểm họ thường xuyên đến “rao” bán.Theo thống kê của tác giả,
có thể phân chia nhóm những người di cư bán hàng rong người làng
Đồng Vàng thành 3 lớp tuổi: 1950 – 1959: 3 người; 1960 – 1969: 11
người; 1970 – 1989: 9 người. Họ di chuyển ra khu vực nội đô Hà
Nội kiếm việc làm tương đối sớm: 1990 – 1999: 16 người; 2000 –
nay: 7 người. Đặc biệt, trong 22 người được hỏi, có 18 người đã tự
mua được nhà tại Hà Nội (khoảng 81,8%), 4 trường hợp đang ở nhờ
nhà người thân hoặc được bố mẹ thừa kế lại.
2.1.4. Đặc điểm nhóm di cư làng Đồng Vàng làm nghề bán
gạo
Nhiều người Đồng Vàng coi bán gạo như nghề truyền thống của
làng. Họ thường chọn một ví trí thích hợp để vừa không phạm luật,
vừa thuận lợi cho việc buôn bán. Đôi khi, họ còn nhận vận chuyển
gạo đến tận nhà theo sự đặt hàng của khách.Theo số liệu thống kê
của tác giá, có thể chia ra các thành viên bán gạo làng Đồng Vàng
theo các nhóm tuổi như sau: 1950 – 1959: 8 người; 1960 – 1969: 19
người; 1970 – 1989: 8 người. Căn cứ vào thời gian bắt đầu đến Hà
Nội kiếm việc làm/học hành, có thể chia ra như sau: 1980 – 1999: 19
người; 2000 – nay: 16 người. Đặc biệt, trong 35 thành viên bán gạo
người làng Đồng Vàng, có 34 thành viên đã có nhà riêng để ở chiếm
tỷ lệ 97%, còn 01 trường hợp đang ở nhà của bố mẹ để lại.



11
2.1.5. Vai trò của mạng lưới xã hội đối với quá trình di dân
làng Đồng Vàng
Đối với người dân Đồng Vàng, truyền thống quê hương và sự
cố kết cộng đồng là những yếu tố quan trọng tạo ra động lực để
người dân làng Đồng Vàng di chuyển đến một miền xa như khu vực
nội thành Hà Nội để kiếm sống và tạo được thành quả như hôm
nay.Tại Hà Nội, họ đã xây dựng được một mạng lưới các mối liên
kết giữa các những người di dân với nhau và những người di dân với
những người còn sống tại quê.Tuy làm việc và có nhiều người định
cư tại Hà Nội nhưng những người di cư làng Đồng Vàng thường
xuyên giữ mối liên hệ với quê gốc, đây là hình thức di dân ly nông
bất ly hương. Họ trở về quê vào những dịp có sự kiện. Họ thường có
những khoản đóng góp để xây dựng những công trình công ích của
làng. Tại khu vực nội thành Hà Nội, các thành viên, hộ gia đình
người làng Đồng Vàng vẫn giữ các mối liên hệ mật thiết với nhau.
2.2 Thực trạng đời sống văn hóa nhóm di dân nông thôn –
đô thị
2.2.1. Đời sống văn hóa
Nghề nghiệp
Đồng Vàng có những điều kiện thuận lợi cho người dân Đồng
Vàng phát triển nông nghiệp toàn diện. Dù hiện nay đã áp dụng khoa
học kỹ thuật vào sản xuất nhưng nguồn thu từ nông nghiệp khó đảm
bảo được đời sống. Do đó, người làng Đồng Vàng cũng di dân để tìm
kiếm các chiến lược sinh kế mới. Các sinh kế như vừa nêu đều cho
hiệu quả hơn sinh kế nông nghiệp truyền thống, từ đóđang hình
thành một tâm lý coi nhẹ vai trò của kinh tế nông nghiệp của người
Đồng Vàng. Vẫn còn tâm lý coi trọng ruộng đất tại một bộ phận



12
người dân. Tuy nhiên, việc tiếp tục công việc đồng ruộng của nhiều
hộ gia đình chỉ như một dạng thức giữ đất, tạo sự yên tâm cho các
thành viên. Giới trẻ thì mong muốn thoát ly nông nghiệp còn bản
thân những người lớn tuổi cũng mong con cái từ bỏ việc làm ruộng
khi có điều kiện. Điều đó cho thấy sự suy giảm vai trò của kinh tế
nông nghiệp, cũng như những đóng góp thực tế của ngành nghề này
đối với đời sống sinh hoạt, tâm lý của nhiều hộ gia đình người làng
Đồng Vàng.
Sự quay vòng của đồng tiền: Di cư ra đô thị là biện pháp sinh kế
mà nhiều lao động, hộ gia đình tiến hành nhằm giải quyết những khó
khăn, tăng thu nhập. Nguồn tiền này được tích góp, ưu tiên luân
chuyển về quê để sắm sửa các vật dụng sinh hoạt cần thiết, chi tiêu
cho các nhu cầu cuộc sống. Ngoài ra, họ còn đầu tư vào vàng để tích
lũy và kiếm lời. Bên cạnh đó, họ còn dùng để mua nhà định cư tại Hà
Nội. Nói chung, nguồn tiền được lưu chuyển về quê thông qua di cư
nông thôn – đô thị còn là phương tiện cho sự tương tác giữa văn hóa
nông thôn và đô thị, nâng cao chất lượng cuộc sống cho các hộ gia
đình, cũng như thu hẹp dần khoảng cách giữa khu vực nông thôn với
khu vực đô thị.
Không gian sống
Hiện nay, không gian sống của người dân làng Đồng Vàng có
sự thay đổi rõ rệt, từ cảnh quan làng đến ngôi nhà của người dân so
với đặc thù làng vùng Đồng bằng sông Hồng. Đây là hệ quả của sự
vận động phát triển tự nhiên của kinh tế - xã hội, cũng là sự biến đổi
đến từ hệ quả của sự tương tác văn hóa của khu vực nông thôn với đô
thị.



13
Không gian sống của người dân làng Đồng Vàng còn bao gồm
ngôi nhà ngoài Hà Nội.Vì mục tiêu kinh tế, các hộ gia đình người
Đồng Vàng chấp nhận rời bỏ quê hương, với diện tích đất ở rộng;
nhà cửa thông thoáng, để tiến ra Hà Nội, sống trong những căn nhà
chật hẹp (20 – 30m2). Hai ngôi nhà, một ở quê, một ở Hà Nội đều có
vai trò nhất định trong đời sống văn hóa của người dân.
Liên kết xã hội (quan hệ với cộng đồng gốc)
Người làng Đồng Vàng sau khi rời làng vẫn giữ một mối quan
hệ mật thiết với quê hương. Ở đây, có một sự mâu thuẫn giữa nhu
cầu/mong muốn và thực tế đang diễn ra của một bộ phận người di cư
làng Đồng Vàng. Họ cố gắng thay đổi cuộc sống, vị trí xã hội (nông
dân – thị dân), bám trụ lại khu vực trung tâm Hà Nội, nhưng luôn tự
xác định sự thâu thuộc của bản thân họ và con cái - những người
không có hộ khẩu tại Đồng Vàng, đối với quê hương Đồng Vàng.
Điều mà chúng tôi muốn đề cập tới ở đây là sự tự gắn bó sâu sắc của
các thành viên với quê gốc. Sự gắn bó này đến từ đặc điểm tâm lý,
hình thành qua quá trình cộng cư (tuổi thơ, giáo dục) cũng như
không thể đánh giá thông qua mật độ số lần họ trở về thăm quê.
Khuôn mẫu văn hóa
Khuôn mẫu văn hóa như là những nguyên tắc trong hành vi văn
hóa mà các thành viên của cộng đồng “chấp hành” theo. Những
khuôn mẫu văn hóa được thể hiện trên các nghi thức ma chay, cưới
hỏi, tổ chức giỗ chạp… không mang tính cưỡng chế hành vi mà được
thực hiện dựa theo ý thức, tâm linh của mỗi thành viên, cũng như sự
“đánh giá” của cộng đồng. Đối với các khuôn mẫu này, đã có một số
thay đổi. Đặc biệt, trong đám cưới, nhiều người đã tổ chức hoặc có ý



14
định tổ chức tiệc cưới ngoài Hà Nội và thực hiện với cách thức khác
ở quê. Cách thức tổ chức, món ăn cũng có sự thay đổi.
2.3. Thực trạng quản lý đời sống văn hóa nhóm di dân nông
thôn – đô thị
2.3.1. Cơ chế, chính sách
Từ nghiên cứu nội dung cơ chế, chính sách có thể thấy: Đảng
và Nhà nước dành sự quan tâm tới vấn đề quản lý, phát triển đời
sống văn hóa cơ sở. Tuy nhiên, các văn bản chưa phân biệt cụ thể
các nhóm đối tượng dân cư; các chính sách chưa có những nội dung
cụ thể đề cập tới nhóm di dân nông thôn – đô thị; trong quá trình
tuyên truyền, phổ biến các chính sách xuống cơ sở thì nhóm di dân
nông thôn – đô thị chưa có điều kiện để tiếp xúc và nắm bắt được
những chủ trương chung.
2.3.2. Thiết chế văn hóa
Tại làng Đồng Vàng, các thiết chế nhà văn hóa, trung tâm văn
hóa cũng nằm trong tình hình phát triển chung của thành phố. Tuy
các thiết chế văn hóa, thể thao trên địa bàn thành phố được đánh giá
từng bước đổi mới về phương thức tổ chức và hoạt động, cơ sở vật
chất được tăng cường, tổ chức hoạt động và khai thác có hiệu quả,
phục vụ nhu cầu của người dân. Tuy nhiên, hệ thống thiết chế văn
hóa chưa đồng bộ, hoạt động còn chưa hiệu quả.
Tại phường Cầu Dền, mức độ quan hệ, tạo sự kết nối giữa các
cá thể/gia đình người làng Đồng Vàng với những cá thể/gia đình
khác (không phải là người làng Đồng Vàng) là không cao. Họ vẫn có
sự ngại ngùng/không thoải mái khi trao đổi, hòa nhập với những
thành viên gia đình liền kề. Nhiều hộ gia đình người Đồng Vàng
không tham gia các buổi sinh hoạt văn hóa tại nhà văn hóa phường.



15
2.3.3. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực ở đây chính là hệ thống cán bộ của nhà nước
quản lý chuyên trách về lĩnh vực văn hóa và đời sống văn hóa. Tuy
nhiên, về cơ bản, chúng ta còn thiếu nhân lực, chưa bàn tới chất
lượng nguồn nhân lực.
Tiểu kết
Cần nhìn nhận các nhóm di dân, trong đó có nhóm người làng
Đồng Vàng là một bộ phận dân cư có những tác động nhiều chiều tới
đời sống văn hóa đô thị. Cùng với quá trình di cư, đời sống văn hóa
của bản thân các cá nhân trong nhóm di dân nông thôn – đô thị cũng
như gia đình và cộng đồng của họ đang có những sự biến đổi. Tại
nông thôn, nhóm lao động di dân đang xa dần với sự liên kết xã hội
truyền thống, ít tham gia hơn và các sinh hoạt đời sống văn hóa của
cộng đồng. Tại đô thị, nhóm lao động này chưa có môi trường thuận
lợi đề xây dựng, mở rộng những mối liên kết xã hội mới cũng như
tham gia tích cực vào các hoạt động văn hóa xã hội trên địa bàn.
Thực tế này đặt ra bài toán cho chính quyền các cấp trong việc định
hướng cụ thể hơn về quản lý đời sống văn hóa của người dân nói
chung, đối với các nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội, như nhóm
di dân nông thôn – đô thị nói riêng.


16
Chương 3
HOÀN THIỆN ĐỊNH HƯỚNG QUẢN LÝ ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA NHÓM DI DÂN NÔNG THÔN – ĐÔ THỊ
3.1. Cơ sở thực tiễn của việc hoàn thiện quản lý đời sống
văn hóa
3.1.1. Sự thay đổi cấu trúc xã hội truyền thống

Những thay đổi này diễn ra trong phạm vi gia đình, làng xã.
Trong gia đình là sự thiếu vắng thành viên, đặc biệt là trụ cột gia
đình như người bố hoặc mẹ. Trong làng xã, quá trình di cư khiến cho
mật độ dân số của làng Đồng Vàng giảm đi và chỉ được đẩy lên mỗi
khi làng có sự kiện. Sự suy giảm dân số dẫn đến sự suy giảm lực
lượng lao động thường xuyên. Quá trình này ảnh hưởng trực tiếp đến
các mối quan hệ xóm giềng truyền thống.
3.1.2. Sự thay đổi đối với cá nhân người di cư
Quá trình di cư đã ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc và làm biến đổi
nhận thức, hành vi văn hóa của người di cư làng Đồng Vàng. Sự biến
đổi này diễn ra một cách từ từ theo sự làm quen dần với nhịp sống đô
thị, ổn định nguồn thu nhập, song song với nó là sự suy giảm vai trò
của kinh tế nông nghiệp đối với người di cư. Quá trình này được hiện
thực hóa từng bước, từ thuê nhà, mua nhà định cư và di chuyển toàn
bộ các thành viên gia đình đến khu vực đô thị Hà Nội.
3.2. Hoàn thiện định hướng quản lý đời sống văn hóa
3.2.1. Nguyên tắc quản lý
Một nguyên tắc căn bản trong việc xây dựng hoàn thiện định
hướng quản lý đời sống văn hóa nói chung, nhóm di dân nông thôn –


17
đô thị nói riêng phải vận hành theo đường lối của Đảng và chính
sách của Nhà nước về lĩnh vực này.
Các nhà quản lý cần nhìn nhận đúng về các nhóm di dân nông
thôn – đô thị, coi đây là một cộng đồng đặc thù trong xã hội.
Ngoài ra, cần tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
Bên cạnh đó, cần có cơ chế khen thưởng cũng có chế tài, các
hình thức xử lý kỷ luật đối với những hành vi mang tính phá hoại,

làm ảnh hưởng không tốt đến sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
3.2.2. Mục tiêu quản lý
Nâng cao chất lượng đời sống văn hóa nhóm di nông thôn – đô
thị trên cơ sở gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống
của cộng đồng tại cả hai khu vực.
Tại khu vực nông thôn: nâng cao hơn nữa tính gắn kết giữa các
thành viên tại cộng đồng cũng như bộ phận người dân chuyển cư với
cộng đồng gốc; phát huy đời sống văn hóa cơ sở, đặc biệt các hình
thức sinh hoạt cộng đồng.
Tại khu vực đô thị: nâng cao nhận thức về văn hóa, lối sống đô
thị cho người dân, đặc biệt đối với bộ phận người lao động nông thôn
chuyển cư ra Hà Nội tìm kiếm cơ hội việc làm; phát triển đời sống
văn hóa đô thị theo xu hướng văn minh, hiện đại; tạo môi trường để
người lao động nông thôn có điều kiện hòa nhập vào đời sống văn
hóa đô thị, trở thành một bộ phận thúc đẩy sự phát triển của đô thị.
Các chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước nhanh chóng
được triển khai, thông báo, tuyên truyền tới cộng đồng dân cư; Các
thiết chế văn hóa cần phát huy được tính hiệu quả; Các nội dung và
hình thức sinh hoạt đời sống văn hóa cơ sở cần đảm bảo chất lượng,


18
bình đẳng, dân chủ, thu hút được đông đảo người dân tham gia cũng
như đáp ứng được nhu cầu của nhiều nhóm đối tượng, lứa tuổi khác
nhau.
3.2.3. Nội dung quản lý
Việc xây dựng nội dung quản lý đời sống văn hóa gồm những
bước như sau:
Đánh giá về nhận thức của người dân về các chính sách của
Nhà nước đưa ra về các hoạt động sinh hoạt văn hóa cơ sở.

Quản lý nội dung của các hoạt động văn hóa.
Quản lý, đánh giá chất lượng của các hình thức sinh hoạt văn
hóa.
Quản lý, đánh giá số lượng người dân tham gia.
3.2.4. Công cụ và phương pháp quản lý
Hoàn thiện chính sách, các văn bản Nhà nước, bổ sung thêm
những nội dung liên quan trực tiếp về đời sống văn hóa và quản lý
đời sống văn hóa cho nhóm di dân nói chung, di dân nông thôn – đô
thị nói riêng, về quản lý đời sống văn hóa ở cả khu vực nông thôn và
khu vực đô thị
Hoàn thiện thể chế và đảm bảo nguồn lực đầu tư cho văn hóa.
Nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp, đạo đức nghề nghiệp
của đội ngũ cán bộ ngành Văn hóa đáp ứng nhu cầu phát triển ngày
càng cao của ngành và đất nước.
Khai thác triệt để vai trò mạng lưới xã hội của các nhóm di dân
nông thôn – đô thị nói chung, và người làng Đồng Vàng nói riêng.
Coi đây là một công cụ hữu hiệu trong việc tiếp cận đối với các
nhóm cư dân cũng như cá nhân, gia đình những người di dân.
Về mặt phương pháp, các nhà quản lý cần:


19
Khảo sát, nghiên cứu đánh giá đặc điểm dân cư và đời sống văn
hóa dân cư trên địa bàn (cả khu vực nông thôn và khu vực đô thị).
Trên cơ sở quản lý hành chính theo ngành dọc, cần thống nhất
chủ trương thông suốt từ trên xuống. Các cấp cơ sở cần nắm bắt đầy
đủ định hướng của các cấp quản lý cao hơn, từ đó phổ biến thông tin
tới người dân.
Chính quyền cần thường xuyên tổ chức các buổi họp mặt, nói
chuyện, trao đổi với cộng đồng người dân trên địa bàn để lắng nghe

những ý kiến, tham vấn từ cộng đồng về nhu cầu cũng như cơ chế
quản lý.
Khuyến khích cộng đồng xây dựng, tổ chức, tham gia các hoạt
động sinh hoạt văn hóa lành mạnh. Bên cạnh đó, cần có những hình
phạt, chế tài phù hợp đối với các hoạt động phá hoại đời sống văn
hóa.
3.3. Hoàn thiện mô hình quản lý đời sống văn hóa
Cần coi các nhóm di dân nông thôn – đô thị, trong đó có di dân
người làng Đồng Vàng là là một bộ phận cấu thành nên sự hoàn
chỉnh của một xã hội đô thị. Ngoài ra, đây cũng là một nhóm yếu thế,
do đó cần có những chính sách quản lý, bảo vệ và tạo môi trường
lành mạnh để có thể từng bước hòa nhập vào xã hội đô thị, đóng góp
những yếu tố tích cực hơn vào sự phát triển của Hà Nội.
Xây dựng một chính sách quản lý về đời sống văn hóa cụ thể,
có chiều sâu, tạo môi trường cho nhiều thành phần dân cư tham gia,
góp phần thúc đẩy xây dựng lối sống đô thị văn minh của mỗi người
dân, nhóm, cộng đồng và của thủ đô.
Cần đẩy mạnh hơn nữa phong trào xây dựng đời sống văn hóa
cơ sở.


20
Tại mỗi địa bàn dân cư, chính quyền chắc chắn đã có những sự
kiểm soát về mặt nhân khẩu, kể cả đối với các trường hợp nhập cư,
tạm trú, tạm vắng. Trên cơ sở những số liệu đã thống kê, quản lý,
chính quyền cơ sở cần phân lập các nhóm đối tượng trong khu dân
cư. Đối với từng nhóm đối tượng cụ thể, ví dụ đối với nhóm di dân
nông thôn – đô thị, cần có những sự thông báo, gửi giấy mời… tổ
chức những buổi nói chuyện, tuyên truyền về đời sống văn hóa đô
thị, khuyến khích họ tham gia vào các sinh hoạt văn hóa trên địa bàn,

do tổ dân phố tổ chức. Điều này sẽ tạo môi trường thuận lợi cho quá
trình hòa nhập của các nhóm di dân/yếu thế vào môi trường văn hóa
đô thị.
Cần có sự thống nhất trong nhận thức của lãnh đạo các ban,
ngành, đoàn thể, khu dân cư về vai trò, tầm quan trọng cũng như tiến
trình thực hành của toàn cuộc vận động.
Bên cạnh đó, quá trình xây dựng đời sống văn hóa cần hình
thành và triển khai tốt hệ thống cấu trúc hai chiều “đưa văn hóa về cơ
sở” và “xây dựng mô hình hoạt động tại chỗ” theo phương châm
“Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
3.3.1. Áp dụng mô hình quản lý vào trường hợp nhóm di dân
người làng Đồng Vàng
3.3.1.1. Tại làng Đồng Vàng
Cần tận dụng triệt để các sự kiện văn hóa cộng đồng thu hút
đông đảo người dân trở về. Vào những sự kiện này, chính quyền thôn
cần phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội chức các hoạt động văn
hóa ngoài lề. Với những người di cư là những người thuộc độ tuổi
trung niên thì chính quyền thôn và người đứng đầu các tổ chức chính


21
trị xã hội cố gắng vận động để họ tham gia vào các tổ chức trên cũng
như tham gia vào các chương trình của tổ chức.
3.3.1.2.Tại phường Cầu Dền
Chính quyền phường liên kết với người đứng đầu hội đồng
hương Đồng Vàng tại Hà Nội, thông qua tổ chức phnày, chính quyền
phường Cầu Dền, bộ phận phụ trách về văn hóa sẽ làm giấy mời, tổ
chức buổi gặp mặt, trao đổi với nhóm di dân người làng Đồng Vàng
đang sinh sống tại phường.
Nâng cao vai trò, tính hiệu quả của nhà văn hóa phường. Chính

quyền phường Cầu Dền cần thường xuyên trao đổi với tổ trưởng, tổ
phó dân phố xây dưng các hình thức sinh hoạt văn hóa của cộng
đồng dân cư, là nơi trao đổi gặp mặt của cán bộ hưu trí, người cao
tuổi… Xây dựng các tổ đội văn nghệ tổ dân phố phục vụ biểu diễn.
Công tác dân vận đối với lực lượng lao động người làng Đồng
Vàng có thể gây ra những khó khăn đối với nhà quản lý bởi nó đòi
hỏi thời gian và sự kiên trì. Ngoài ra, tổ dân phố có thể thu hút sự
thạm gia của họ thông qua việc lôi kéo được sự tham gia của con,
cháu của họ.
Tiểu kết
Quá trình di dân nông thôn – đô thị dẫn đến sự biến đổi trong
đời sống văn hóa của nhóm di dân và gia đình họ. Nhóm di dân trở
thành một bộ phận yếu thế trong xã hội khi tách khỏi cộng đồng gốc
và chưa có sự chuẩn bị đầy đủ để hòa nhập với xã hội đô thị hiện đại.
Điều này dẫn đến những hạn chế trong việc thụ hưởng và góp phần
xây dựng đời sống văn hóa cho chính bản thân, gia đình họ cũng như
trên địa bàn sinh sống. Từ đó, đòi hỏi có những chính sách, định
hướng quản lý nhằm nâng cao đời sống văn hóa cho nhóm di dân


22
nông thôn – đô thị dựa trên nguyên tắc vận hành theo chủ trương của
Đảng và Nhà nước, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Nội dung
và hình thức sinh hoạt đời sống văn hóa phải phong phú, đa dạng
đảm bảo về thuần phong, mỹ tục đáp ứng nhu cầu thụ hưởng văn hóa
của nhóm di dân.
KẾT LUẬN
Quản lý đời sống văn hóa là một nhiệm vụ quan trọng. Trong
nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước nhấn mạnh trách nhiệm, mục tiêu
của các nhà quản lý là thúc đẩy sự phát triển đời sống văn hóa cơ sở,

thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các khu vực trong cả nước, cũng
như khoảng cách phát triển giữa nông thôn và đô thị. Vai trò của
quản lý, định hướng của nhà nước càng quan trọng hơn đặt trong bối
cảnh quá trình di dân nông thôn – đô thị nói chung và Hà Nội nói
riêng đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay.
Di dân nói chung là sự vận động khách quan gắn liền với sự
phát triển của xã hội mà hình thái di dân nông thôn – đô thị hiện nay
diễn ra phổ biến nhất. Trường hợp Làng Đồng Vàng, xã Hoàng
Long, huyện Phú Xuyên, một địa phương thuộc khu vực ngoại thành
Hà Nội là một ví dụ tiêu biểu. Với nhiều điều kiện thuận lợi về
khoảng cách địa lý, truyền thống “đòn gánh trên vai, chạy chợ”,
người làng Đồng Vàng đã tiến hành việc di chuyển ra khu vực đô thị
Hà Nội “làm kinh tế” tăng thu nhập từ rất sớm. Quá trình này đã giúp
họ cải thiện sinh kế, và có những bước đi thành công cho việc bám
trụ lại đô thị Hà Nội.


23
Cùng với quá trình chuyển cư, chuyển nghề đã dẫn đến sự
biến đổi về đời sống văn hóa của nhóm di dân. Đặt chung trong hệ
thống nhóm lao động nông thôn tại đô thị, các nhóm lao động này
đang có những tác động lớn cho sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã
hội của thủ đô. Tuy nhiên, trên thực tế, đây vẫn là lực lượng yếu thế
tại đô thị, họ ít có điều kiện tham gia vào các dịch vụ của đô thị.
Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm đến quản lý đời
sống văn hóa của người dân. Nhiều chính sách, văn bản Luật, dưới
Luật, các chương trình, kế hoạch được đưa ra nhằm định hướng, triển
khai phát triển văn hóa đến cấp cơ sở. Nhưng các văn bản, chương
trình chưa có những nội dung cụ thể đề cập đến nhóm đối tượng di
dân nông thôn – đô thị.

Tại Thủ đô, thành phần dân cư luôn đa dạng và đông đảo về
mặt số lượng nhân khẩu, có sự phân hóa rõ nét giữa các nhóm dân
cư tại khu vực trung tâm Hà Nội. Tất cả tạo nên một bức tranh rất đa
dạng, nhiều sắc màu về văn hóa, xã hội của khu vực đô thị nói
chung, trung tâm Hà Nội nói riêng. Từ đó, đặt ra những vấn đề cần
thực hiện liên quan đến vấn đề quản lý văn hóa, xã hội đối với các
cộng đồng dân cư. Trong trường hợp này là các nhóm di dân nông
thôn – đô thị người làng Đồng Vàng.
Vấn đề quản lý đời sống văn hóa nhóm di dân nông thôn –
đô thị, đặt trong bối cảnh hiện nay là một nhiệm vụ quan trọng cần
đặt ra hiện nay nhằm ổn định, phát triển đời sống văn hóa của người
dân theo xu hướng xã hội hiện đại và gìn giữ, phát huy những giá trị


×