Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.34 KB, 42 trang )

Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự

LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, cải cách tư pháp đang được Đảng và Nhà nước quan tâm, là nhân tố
quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh mà cụ thể là Nghị quyết số 49-NQ/TƯ ngày 02/06/2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Nghị quyết trên đã chỉ rõ vấn đề cần cụ thể hóa về tố tụng hình sự cần được
nghiên cứu một cách toàn diện để thể chế vào quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự,
tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lượng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án hình sự.
Với quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân,
mọi quyền lực thuộc về nhân dân nên quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn
được Pháp luật trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam quy định rõ ràng nhằm bảo vệ
quyền của công dân được công bằng.
Để đạt được mục đích đó, trước hết trong công tác xử lý tin báo tố giác tội
phạm và phân loại việc tạm, giữ người vi phạm pháp luật cần phải được chú trọng và
tăng cường nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử bảo đảm tính trung thực,
công minh, đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt kẻ
phạm tội. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua đã xảy ra rất nhiều vụ việc cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vi phạm nghiêm trọng thủ tục tạm giữ người, gây
lên những hậu quả nghiêm trọng đến quyền của người bị tạm giữ. Hệ lụy đó là tình
trạng tạm oan người vô tội, vi phạm các quyền con người, xâm phạm quyền tự do thân
thể,… không đảm bảo đúng quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Pháp luật.
Mặc dù, các cơ quan truyền thông vẫn liên tục thông tin về các vấn đề đảm bảo
các quyền và lợi ích chính đáng của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự nhưng thực tế vẫn xảy ra những trường hợp vi phạm các quyền và lợi ích
đã nêu của người bị tạm giữ. Vì vậy, chúng ta cần nghiên cứu một cách có hệ thống,


chuyên biệt và toàn diện hơn nữa về đề tài này.
Đó là lý do người viết chọn đề tài: “Quyền của người bị tạm giữ theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. Phạm vi nghiên cứu
GVHD: Trần Hồng Ca

1

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
a. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu những lý luận chung và tình hình thực
tiễn về người bị tạm giữ trong Pháp luật về tố tụng hình sự của Việt Nam.
b. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu chuyên sâu về các quyền của người bị tạm
giữ trong Pháp luật về tố tụng hình sự Việt Nam. Đồng thời đưa ra những giải pháp
nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, khắc phục những hạn
chế, vướng mắc đối với quy định của Pháp luật về người bị tạm giữ trong tố tụng hình
sự.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về người bị tạm giữ trong Pháp luật về
tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục những
hạn chế, vướng mắc và nâng cao hiệu quả áp dụng Pháp luật đối với người bị tạm giữ.
Đặc biệt là đảm bảo cho việc phân loại đối tượng bị tạm giữ. Sau đó chuyển khởi tố
đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội trong hoạt động tố tụng hình sự.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn này phải giải quyết các vấn đề sau:
a. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về người bị tạm giữ;
b. Thông tin rõ những quy định của Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người
bị tạm giữ trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
c. Đánh giá thực tiễn, tình trạng người bị tạm giữ trong những năm gần đây ở

Việt Nam để có cái nhìn bao quát về quyền của người bị tạm giữ.
d. Đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện, đảm bảo những quyền của người bị
tạm giữ theo đúng các quy định của Pháp luật.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích,
khảo sát thực tế, so sánh để làm rõ hơn về đề tài.
5. Bố cục đề tài
Ngoài lời nói đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn
được bố cục gồm có 03 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền của người bị tạm giữ
Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền của người bị tạm giữ
Chương 3: Thực trạng, bất cập và giải pháp nhằm nâng cao quyền của người bị
tạm giữ.

GVHD: Trần Hồng Ca

2

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm và đặc điểm về quyền của người bị tạm giữ
1.1.1. Khái niệm về quyền của người bị tạm giữ
1.1.1.1. Tạm giữ
Trong cuộc sống hiện tại, khi một công dân bình thường mà bị cơ quan điều tra
tạm giữ thì trong mắt những người xung quanh đều nghĩ rằng anh ta, chị ta là người

phạm tội. Tuy nhiên, dưới gốc độ Pháp luật thì người bị tạm giữ không phải là người
phạm tội mà chỉ ở góc độ hoài nghi hoặc nghi vấn cần phải điều tra,…
Và để làm rõ vấn đề này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu khái niệm về người bị
tạm giữ và trước nhất là tạm giữ. Theo người viết thì tạm giữ người là biện pháp ngăn
chặn do người có thẩm quyền áp dụng và được quy định cụ thể trong Pháp luật.
Theo quy định của Pháp luật thì tạm giữ người có hai loại được phân biệt rõ
ràng là tạm giữ người theo thủ tục tố tụng hình sự và tạm giữ người theo thủ tục hành
chính. Trong đó, tạm giữ người theo thủ tục tố tụng hình sự được quy định cụ thể theo
Bộ luật Tố tụng Hình sự và tạm giữ người theo thủ tục hành chính thì được quy định
cụ thể theo Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Tạm giữ người theo thủ tục tố tụng hình sự là biện pháp ngăn chặn được quy
định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, do người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc
đối với người bị bắt theo quyết định truy nã nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn
người bị bắt trốn tránh việc điều tra; để xác minh tội phạm và để quyết định việc truy
cứu trách nhiệm hình sự (khởi tố bị can) đối với họ.
Còn tạm giữ người theo thủ tục hành chính 1 là một trong những biện pháp ngăn
chặn hành chính và bảo đảm cho việc xử lý vi phạm hành chính do người có thẩm
quyền theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính áp dụng trong trường hợp cần
ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho
người khác hoặc cần thu thập, xác minh những tình tiết quan trọng làm căn cứ để
quyết định xử lý vi phạm hành chính.

1

Điều 122 Luật Xử lý vi phạm hành chính

GVHD: Trần Hồng Ca

3


SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 được Quốc hội thông qua
ngày 20/6/2012 tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/7/2013.
Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 112/2013/NĐ-CP ngày 02/10/2013 để
quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm
theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam
trong thời gian làm thủ tục trục xuất.
Với khái niệm trên, so với tạm giữ người theo thủ tục hành chính thì tạm giữ
người theo thủ tục tố tụng hình sự có một số điểm khác nhau sau đây:
Thứ nhất, đối tượng có thể bị tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự là những
người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Còn đối tượng bị áp dụng biện
pháp tạm giữ theo thủ tục hành chính là những người thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật hành chính.
Thứ hai, mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung theo quy định của
Bộ luật Tố tụng Hình sự là để kịp thời ngăn chặn tội phạm và để bảo đảm cho việc
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Mục đích áp dụng biện pháp tạm giữ (theo thủ
tục tố tụng hình sự) nói riêng là để xác định căn cứ khởi tố bị can đối với người bị bắt
hoặc giao người bị truy nã cho cơ quan đã ra lệnh truy nã. Còn mục đích tạm giữ
người theo thủ tục hành chính là ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật
tự công cộng, gây thương tích cho người khác hoặc để thu thập, xác minh những tình
tiết quan trọng làm căn cứ để quyết định xử lý vi phạm hành chính.
Thứ ba, những người sau đây có quyền ra lệnh tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình
sự: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Người chỉ huy đơn vị quân
đội độc lập cấp Trung đoàn và tương đương; Người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo
và biên giới; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay,

bến cảng; Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển. Ngoài Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp
huyện, người chỉ huy tàu bay, tàu biển, thì còn rất nhiều người có thẩm quyền tạm giữ
người theo thủ tục hành chính. Như vậy, thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục tố
tụng hình sự hạn chế hơn thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính.
Thứ tư, về thủ tục thì cả tạm giữ người theo thủ tục tố tụng hình sự và tạm giữ
người theo thủ tục hành chính đều phải có quyết định tạm giữ của người có thẩm
quyền. Nhưng sau khi ra quyết định tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự, thì người có
thẩm quyền phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra
quyết định tạm giữ. Viện kiểm sát có quyền xem xét và nếu xét thấy việc tạm giữ
GVHD: Trần Hồng Ca

4

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
không có căn cứ, thì huỷ bỏ quyết định tạm giữ; khi đó người ra quyết định tạm giữ
phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Còn quyết định tạm giữ người theo thủ tục
hành chính không phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Người bị tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự bị tạm giữ ở nhà tạm giữ, hoặc
buồng tạm giữ của trại tạm giam. Còn người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính không
bị giữ ở nhà tạm giữ, hoặc buồng tạm giữ của trại tạm giam.
Thứ năm, thời hạn tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự là 03 ngày 2 và có thể gia
hạn hai lần mỗi lần không quá ba ngày3. Còn thời hạn tạm giữ theo thủ tục hành chính
là 12 giờ và có thể kéo dài đến 24 giờ; đối với người vi phạm quy chế biên giới hoặc vi
phạm hành chính ở vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh, hải đảo thì thời hạn tạm giữ có thể
kéo dài hơn nhưng không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm bắt đầu giữ người vi phạm.
1.1.1.2. Người bị tạm giữ
Theo Từ điển luật học, địa vị pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối

quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Địa vị
pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt
động của mình. Thông qua địa vị pháp lý, ta có thể phân biệt được chủ thể pháp luật
này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời cũng có thể xem xét vị trí, tầm quan trọng
của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ pháp lý4.
Do vậy, việc nắm vững địa vị pháp lý của các chủ thể trong quan hệ pháp luật
có vai trò vô cùng quan trọng đối với mọi chủ thể. Đối với chủ thể có địa vị pháp lý, sẽ
giúp họ thực hiện tốt hơn các quyền và nghĩa vụ của mình. Còn đối với các chủ thể
khác, việc nắm vững địa vị pháp lý của chủ thể trong quan hệ pháp luật sẽ giúp họ
không xâm phạm đến quyền và nghĩa vụ của người khác.
Trong tố tụng hình sự, việc nắm vững địa vị pháp lý của các chủ thể càng có vai
trò quan trọng hơn hết. Bởi vì, khi giải quyết một vụ án hình sự phải trải qua rất nhiều
giai đoạn khác nhau. Và tại mỗi giai đoạn, địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tố
tụng cũng không giống nhau. Việc xác định một người bị coi là tạm giữ từ khi nào rất
quan trọng, khi đó xác định vị trí của người đó là người tham gia vào quá trình tố tụng
hình sự, xác lập quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ.
Tuy nhiên, việc xác định thời điểm một người bị coi là người bị tạm giữ là rất
khó, bởi vì, đối tượng của người bị tạm giữ trong đó bao gồm cả người chưa bị khởi tố
2

Khoản 1 Điều 118 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
Khoản 2 Điều 118 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
4
Dòng 27 Trang 244 Từ điển Luật học
3

GVHD: Trần Hồng Ca

5


SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
hình sự và cả những người đã bị khởi tố hình sự. Tư cách tố tụng của người bị tạm giữ
bắt đầu từ khi có quyết định tạm giữ và chấm dứt chuyển sang vai trò của một chủ thể
khác khi hết thời hạn tạm giữ hoặc hết thời hạn gia hạn tạm giữ. Có thể xảy ra một số
trường hợp khi chấm dứt tư cách tố tụng của người bị tạm giữ như sau:
- Bị khởi tố bị can và có quyết định tạm giam thay thế;
- Bị khởi tố và có quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ, thay thế biện pháp
ngăn chặn khác;
- Có quyết định trả tự do cho người bị tạm giữ chuyển xử lý hành chính;
- Có quyết định trả tự do cho người bị tạm giữ, không xử lý hành chính;
- Viện kiểm sát trả tự do theo Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014 5.
Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cho đến nay chưa có một khái niệm pháp lý
nào về địa vị pháp lý của người bị tạm giữ. Từ những phân tích trên theo người viết có
thể hiểu: Địa vị pháp lý của người bị tạm giữ là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của
một người khi có quyết định tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
hình sự.
Trong tố tụng hình sự Việt Nam, người bị tạm giữ là người tham gia tố tụng có
quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
đưa ra khái niệm về người bị tạm giữ như sau: “Người bị tạm giữ là người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định
truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ”.
Người bị tạm giữ có thể là người chưa bị khởi tố về hình sự, đó là những người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, trường hợp phạm tội tự thú trước khi
hành vi phạm tội bị phát hiện và khởi tố, và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Mặc
dù, họ chưa bị khởi tố về hình sự nhưng trên thực tế họ vẫn phải chịu sự cưỡng chế
của cơ quan đã tạm giữ họ. Họ bị hạn chế một số quyền tự do, bị buộc phải khai báo

hoặc trả lời các câu hỏi của cán bộ điều tra.
Người bị tạm giữ cũng có thể là người đã bị khởi tố về hình sự bao gồm: bị can,
bị cáo, người đã bị kết án nhưng bỏ trốn, người đang chấp hành án bỏ trốn nhưng bị
bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội ra đầu thú và đã có quyết định tạm
giữ đối với họ. Do đó, pháp luật coi người bị tạm giữ là người tham gia tố tụng hình
sự, có các quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ theo quy định của pháp luật.

5

Điểm d Khoản 1 Điều 22 và Điểm c Khoản 2 Điều 25 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014

GVHD: Trần Hồng Ca

6

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
Hay nói cách khác, người bị tạm giữ là người bị nghi đã thực hiện tội phạm và
đối với họ đã có quyết định tạm giữ của người có thẩm quyền. Để trở thành người bị
tạm giữ cần có đủ hai điều kiện:
1. Điều kiện về nội dung:
Khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm
trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; người mà bị người khác có mặt tại nơi xảy
ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm và
thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn; người mà thấy có dấu vết của tội phạm
ở người hoặc nơi ở nên cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng
cứ; người bị phát hiện đang thực hiện tội phạm; người có lệnh truy nã hoặc người tự
thú, đầu thú sau khi thực hiện tội phạm.

Đối với trường hợp bắt khẩn cấp, bị bắt do phạm tội quả tang, người tự thú, đầu
thú, người bị tạm giữ bị nghi thực hiện tội phạm, nhưng chưa bị cơ quan có thẩm
quyền truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, để kịp thời ngăn chặn tội phạm, không
để người đó tiếp tục phạm tội hay phạm tội mới, để người đó không có điều kiện cản
trở việc tiến hành điều tra, xác minh,… của cơ quan điều tra thì Bộ luật Tố tụng Hình
sự quy định cần phải cách ly họ trong thời hạn nhất định.
Đối với trường hợp người bị tạm giữ bị bắt theo lệnh truy nã, tuy người bị tạm
giữ đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng việc truy cứu trách nhiệm hình sự đó
không phải do người có thẩm quyền quyết định tạm giữ thực hiện. Vì thế cho nên đối
với người đó chỉ được (và cũng chỉ cần) tạm giữ trong một thời hạn ngắn để chuyển
giao cho người có trách nhiệm truy cứu trách nhiệm hình sự xử lý vụ án theo quy định
của pháp luật.
2. Điều kiện về hình thức:
Tạm giữ chỉ được tiến hành khi đáp ứng về hình thức tức là người bị tạm giữ đã
có quyết định tạm giữ của người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng
Hình sự.
Từ những phân tích ở trên, theo quan điểm của cá nhân, người viết có thể đưa
ra khái niệm khoa học về người bị tạm giữ như sau: Người bị tạm giữ là người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã
hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ của người
có thẩm quyền tố tụng; có quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật.
1.1.1.3. Quyền của người bị tạm giữ

GVHD: Trần Hồng Ca

7

SVTH: Lý Quang Trung



Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
Thực chất người bị tạm giữ vẫn là công dân bình thường mà chỉ bị cơ quan điều
tra đại diện cho Pháp luật đang nghi ngờ chứ chưa phải là tội phạm (chưa bị Tòa án kết
án là tội phạm) nên người bị tạm giữ vẫn có một số quyền và bị hạn chế một số quyền.
Nói về “Quyền” dưới gốc độ ngôn ngữ học thì: Quyền là cái mà luật pháp, xã
hội, phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành,... và khi thiếu được
yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại6.
Dưới gốc độ pháp lý thì: Quyền là những việc mà một người được làm mà
không bị ai ngăn cản, hạn chế.
Từ đó những khái niệm trên, người viết có thể đưa ra khái niệm: Quyền của
người bị tạm giữ là những việc mà người bị tạm giữ được làm, được Pháp luật bảo hộ
và không ai được ngăn cản những việc đó trong thời gian bị tạm giữ.
1.1.2. Đặc điểm về quyền của người bị tạm giữ
Mọi công dân Việt Nam đều có đầy đủ các quyền công dân mà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã định thông qua Hiến pháp. Một công dân bị tạm giữ
theo đúng quy định của Pháp luật thì dĩ nhiên sẽ bị Pháp luật hạn chế một số quyền.
Tuy nhiên, người bị tạm giữ vẫn được đảm bảo một số quyền có đặc điểm như sau:
1.1.2.1. Tính tôn trọng và bảo vệ
Đây là đặc điểm quan trọng nhất và tiên quyết nhất trong quá trình tạm giữ
người theo quy định của Pháp luật. Người bị tạm giữ chỉ là người bị hoài nghi, nghi
ngờ có hành vi phạm tội vì vậy, khi tiến hành các hoạt động tạm giữ người thì trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm
giữ.
Đó là những quy định, những yêu cầu mà Pháp luật đặt ra và kỳ vọng người
thực thi Pháp luật nói chung và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nói riêng có thể
thực hiện được đặc điểm về tính tôn trọng và bảo vệ đối với người bị tạm giữ.
Thực tế thì người có thẩm quyền tiến hành tố tụng luôn có định kiến người bị
tạm giữ là tội phạm do người bị tạm giữ có thể là do vô tình hoặc nhầm lẫn liên quan
đến một chứng cứ nào đó.

Ngoài ra, cơ quan và người có thẩm quyền cần phải thường xuyên kiểm tra tính
hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng từ đó kịp thời hủy bỏ hoặc
6

Đại từ điển Tiếng Việt (năm 1999), NXB Văn hóa thông tin

GVHD: Trần Hồng Ca

8

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần
thiết nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ.
1.1.2.2. Tính bình đẳng
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (do Hoàng Phê chủ biên) được
nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học phát hành năm 1997 thì bình đẳng có
nghĩa là: “Ngang hàng nhau về địa vị và quyền lợi”.
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Nam nữ bình đẳng. Đối xử bình
đẳng" và "quyền" có nghĩa là cái mà pháp luật, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép
hưởng thụ, vận dụng, thi hành ... và khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có
thể đòi hỏi để giành lại.
Theo người viết nghiên cứu thì nhận thấy quyền của người bị tạm giữ có tính
bình đẳng vì các quyền được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự không phân biệt
chủ thể nào, đều bình đẳng như nhau.
Chính vì vậy, bình đẳng là nguyên tắc cơ bản mà Bộ luật Tố tụng Hình sự năm
2015 đề cập đến:
Đảm bảo quyền bình đẳng trước Pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính,

tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội là đặc điểm về quyền của người bị
tạm giữ.
Bất cứ người bị tạm giữ nào, dù là thành phần nào, địa vị xã hội như thế nào,…
thì cũng có quyền và nghĩa vụ giống nhau. Pháp luật không đặc cách đối với một chủ
thể nào, đối tượng nào với sự ưu ái hay cá biệt7.
1.1.2.3. Tính bất khả xâm phạm
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể 8. Không ai bị tạm giữ nếu
không có quyết định tạm giữ của cơ quan chức năng, trừ trường hợp phạm tội quả
tang.
Khi tạm giữ thì cơ quan tiến hành tạm giữ người phải theo quy định của Pháp
luật và nghiêm cấm cơ quan điều tra tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người đối với
người đang bị tạm giữ.

7
8

Điều 9 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
Điều 10 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015

GVHD: Trần Hồng Ca

9

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
Quyền con người trong thế hệ ngày nay ngày càng được quan tâm đến khi dần
xóa bỏ những hành động điều tra bằng các biện pháp như bức cung, dùng nhục hình

của thời chế độ phong kiến.
1.1.2.4. Tính bảo hộ của Pháp luật
Tất cả mọi người đều có quyền được Pháp luật bảo hộ về danh dự, nhân phẩm
và tài sản kể cả người bị tạm giữ. Cơ quan đại diện cho sự bảo hộ này của Nhà nước là
cơ quan công an. Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật đến danh dự, nhân phẩm, tài
sản của người bị tạm giữ đều bị xử lý theo pháp luật.
1.1.2.5. Tính phản biện
Bất cứ hành vi ép cung hay dùng nhục hình đều vi phạm Pháp luật, song song
đó quyền của người bị tạm giữ còn có đặc điểm là phản biện để nói lên sự thật điều
mình muốn nói để làm cơ sở kêu oan (nếu có).
Chính vì vậy, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định:
Người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải
thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào
chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
1.2. Mục đích và ý nghĩa của quyền của người bị tạm giữ
1.2.1. Mục đích về quyền của người bị tạm giữ
Mục đích tạm giữ là nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc hành vi cản trở
việc điều tra khám phá tội phạm của người bi nghi là thực hiện hành vi phạm tội, tạo
điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền đủ thời gian để xác định tính chất, mức độ của
hành vi, nhân thân của người thực hiện hảnh vi nguy hiểm cho xã hội để từ đó có thể
quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc không khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can hoặc các quyết định quản lý cần thiết khác như, tạm giữ áp dụng các
biện pháp ngăn chặn khác hay trả tự do cho người bị tạm.
Như vậy, mục đích của tạm giữ nhằm phục vụ công tác điều tra khám phá tội
phạm. Vì vậy, người bị tạm giữ bị hạn chế một số quyền. Tuy nhiên, Pháp luật Tố tụng
Hình sự quy định “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp


GVHD: Trần Hồng Ca

10

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi
những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết 9”.
Do đó, mục đích về quyền của người bị tạm giữ là bảo vệ người bị tạm giữ có
những quyền cơ bản của con người tuy rằng có một số quyền bị hạn chế trong quá
trình tạm giữ nhưng cơ bản người bị tạm giữ vẫn là con người, vẫn là công dân nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nên phải đảm bảo những quyền cơ bản đó.
1.2.2. Ý nghĩa về quyền của người bị tạm giữ
Như đã nêu tại khái niệm về quyền của người bị tạm giữ thì người bị tạm giữ là
người bị nghi đã thực hiện phạm tội và đối với họ đã có quyết định tạm giữ của người
có thẩm quyền.
Như vậy, người bị tạm giữ chưa được xác định là phạm tội hoặc chưa bị kết án
phạm tội thì họ vẫn là những người công dân nên họ vẫn được đảm bảo một số quyền
của công dân.
Thực tế hiện nay thì tình trạng tạm giữ người trái pháp luật và tạm giữ người
không đảm bảo các quyền đối với người bị tạm giữ đang diễn ra khá nhiều. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến các hệ lụy trên là cán bộ điều tra không thực hiện đúng
trình tự thủ tục tạm giữ, do trình độ chuyên môn, năng lực còn hạn chế nên đã không
đảm bảo những quyền đối với người bị tạm giữ.
Đối với người bị tạm giữ thì đảm bảo quyền của người bị tạm giữ có ý nghĩa sự
công khai, minh bạch và tạo điều kiện cho người bị tạm giữ có thể nói lên ý kiến của
mình, có thể là phản biện hoặc ngụy biện nhưng chủ đích là bảo vệ bản thân của họ.
Đối với người tiến hành tố tụng thì quyền của người bị tạm giữ được quy định

cụ thể thì công tác chuyên môn nghiệp vụ sẽ càng chính xác, chuyên nghiệp và được
lòng tin của nhân dân đến các cơ quan công quyền. Đó hướng xây dựng các quyền của
người bị tạm giữ theo quy định của Pháp luật về tố tụng hình sự.
1.3. Lịch sử về quyền của người bị tạm giữ từ năm 1988 đến nay
1.3.1. Giai đoạn từ 1988 đến trước năm 2003
Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được Quốc hội thông qua ngày 18/06/1988, có hiệu lực ngày 01/01/1989 đánh dấu
bước phát triển mới trong quá trình pháp điển hóa Luật tố tụng hình sự ở nước ta. Qua
3 lần sửa đổi (năm 1990, 1992 và 2000), các quy định về người bị tạm giữ đã từng
bước được hoàn thiện.
9

Điều 8 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015

GVHD: Trần Hồng Ca

11

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
Lần đầu tiên, khái niệm về người bị tạm giữ cùng quy định về quyền và nghĩa
vụ của người bị tạm giữ được đề cập trong luật. Tại Điều 38 Bộ luật Tố tụng Hình sự
năm 1988 quy định: Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc
phạm tội quả tang và đối với họ đã có quyết định tạm giữ, nhưng chưa bị khởi tố.
Người bị tạm giữ có quyền được biết lý do mình bị tạm giữ; được giải thích quyền và
nghĩa vụ; trình bày lời khai; đưa ra những yêu cầu; khiếu nại về việc tạm giữ và những
quyết định khác có liên quan. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về
tạm giữ.

Bên cạnh đó, các văn bản dưới luật như: Thông tư liên ngành 02/TTLN ngày
06/9/1989 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ; Thông tư số 01/TTLN ngày
20/03/1993 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp,
Bộ nội vụ. Chế độ tạm giữ, tạm giam cũng ban thành kèm theo Nghị định số
149/HĐBT ngày 05/05/1982, được thay thế bằng chế độ tạm giữ, tạm giam ban hành
kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998 của Chính phủ, quy định chi
tiết, cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự.
Hơn nữa với sự ra đời của Hiến pháp 1992, đã xác định tầm quan trọng của việc
bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Điều 71 Hiến pháp năm 1992 quy định: Công dân có quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của
Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người
phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình xúc phạm danh dự,
nhân phẩm của công dân.
Điều 72 Hiến pháp năm 1992 cũng nhấn mạnh: Người bị bắt, bị giam giữ, bị
truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục
hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt
hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.
Những quy định trên của Hiến pháp nhằm ngăn ngừa sự vi phạm quyền con
người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự
của công dân từ phía các cơ quan, cán bộ nhà nước. Các quy định tại Điều 71 và Điều
72 cũng là cơ sở để xây dựng các quy định của Luật Tố tụng hình sự về người bị tạm
giữ.
1.3.2. Giai đoạn từ 2003 đến nay

GVHD: Trần Hồng Ca

12


SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
Ngày 26/11/2003, Quốc hội đã ban hành Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003
(Luật số 19/2003/QH11), được thông qua tại kỳ họp thứ 4 của Quốc hội khóa XI, có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2004.
Theo đó, người bị tạm giữ được Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đề cập đến
ở Điều 48 với ba điều khoản về khái niệm về người bị tạm giữ, các quyền của người bị
tạm giữ và nghĩa vụ thực hiện của người khi bị tạm giữ.
Trong đó, người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội
quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và
đối với họ đã có quyết định tạm giữ10.
So sánh khái niệm về người bị tạm giữ được đề cập trong Bộ luật Tố tụng Hình
sự năm 1988 thì Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 được bổ sung “người bị bắt theo
quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú”.
Còn về quyền của người bị tạm giữ thì Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 được
bổ sung các quyền như:
(1) Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
(2) Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật;
(3) Quyền khiếu nại những hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng.
Có thể nói Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã cải tiến rất nhiều so với Bộ
luật Tố tụng Hình sự năm 1988 khi bổ sung quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa.
Vì bản chất tạm giữ chỉ là biện pháp ngăn chặn tức thời, người bị tạm giữ cần
phải có tiếng nói để minh oan cho mình vì vậy, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 bổ
sung Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật để minh chứng cho cái oan của chính bản thân mình
(nếu có).
Ngoài ra, người bị tạm giữ còn có quyền khiếu nại đối với những hành vi tố

tụng không đúng quy trình tạm giữ người của các cơ quan tố tụng hoặc người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Thực chất, chưa hẳn cơ quan điều tra nào cũng làm đúng quy
trình tạm giữ người đúng quy định của Pháp luật về tố tụng hình sự nên việc bổ sung
quyền khiếu nại đối với những hành vi này là hoàn toàn hợp lý để bảo vệ đúng quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ.
10

Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003

GVHD: Trần Hồng Ca

13

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật
Tố tụng Hình sự năm 2015 số 101/2015/QH13. Dự kiến Bộ luật Tố tụng Hình sự năm
2015 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016.
Tuy nhiên, do Bộ luật Hình sự năm 2015 có nhiều điểm sơ sót nên Quốc hội đã
ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 về việc lùi hiệu lực thi hành
của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, Bộ luật Tố tụng Hình sự số 101/2015/QH13,
Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm
giam số 94/2015/QH13 và bổ sung dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật Hình sự số 100/2015/QH13 vào chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm
2016.
Nghị quyết nêu trên đã lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm
2015 do Bộ luật Tố tụng Hình sự đi song hành với Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, phần
quyền của người bị tạm giữ không bị ảnh hưởng đến Bộ luật Hình sự năm 2015 mà

Quốc hội cần chỉnh sửa cho phù hợp nên người viết vẫn phân tích các điều khoản về
quyền của người bị tạm giữ theo Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Quy định chi tiết về quyền của người bị tạm giữ theo Bộ luật Tố tụng Hình sự
năm 2015 được phân tích ở Chương 2 của luận văn này.

GVHD: Trần Hồng Ca

14

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự

CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ

Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 số 101/2015/QH13 được ban hành ngày
27/11/2015 tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 gồm có chín phần và 510 điều khoản.
Bộ luật tố tụng hình sự là bộ luật quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết
nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án
hình sự.
Như đã trình bày ở trên, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 có rất nhiều điểm
mới. Đặc biệt là ở phần Quyền của người bị tạm giữ được quy định tại Điều 59 của Bộ
luật này. Cụ thể các quyền mới được bổ sung nhằm tạo điều kiện cho người bị tạm giữ
có thể nói lên sự thật, minh oan (nếu có).
Vì vậy, chúng ta có thể tìm hiểu và phân tích từng quyền của người bị tạm giữ
mà được Bộ luật đề cập đến.
2.1. Nhóm quyền được thông tin

Ở Việt Nam, quyền được thông tin của công dân theo Hiến pháp năm 1992 và
quyền tiếp cận thông tin của công dân theo Hiến pháp năm 2013 đã được Pháp luật ghi
nhận. Vì vậy, mọi công dân Việt Nam đều có quyền được thông tin. Pháp luật Việt
Nam đã ghi nhận quyền tiếp cận thông tin ở những mức độ khác nhau, trong đó có
quyền tiếp cận thông tin thông qua việc các cơ quan nhà nước công bố, công khai
thông tin do mình nắm giữ hoặc bằng cách yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông
tin (trừ các thông tin thuộc bí mật nhà nước).
Người bị tạm giữ khi bị tạm giữ thì dĩ nhiên muốn được cơ quan nhà nước cung
cấp thông tin để biết bản thân người bị tạm giữ có đúng quy định của Pháp luật hay
không và có đúng những gì mà cơ quan điều tra nghi vấn về bản thân hay không. Vì
vậy, nhóm quyền được thông tin được người viết tổng hợp, nhóm lại bởi nhiều quyền
khác nhau nhưng cùng nhóm về thông tin.
2.1.1. Quyền được biết lý do mình bị tạm giữ
Đây là quyền đầu tiên của người bị tạm giữ được pháp luật quy định. Quyền
này thể hiện tính chất quan trọng của việc một người bị nghi ngờ phạm tội cần phải
biết mình bị cơ quan có thẩm quyền tạm giữ về hành vi gì, điều luật tội phạm nào của

GVHD: Trần Hồng Ca

15

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
Bộ luật Hình sự. Bởi vì, mục đích của việc tiến hành các trình tự tố tụng là nhằm xác
định một người có phạm tội hay không và nếu phạm tội thì phải chịu hình phạt như thế
nào. Do vậy, người bị nghi ngờ phạm tội cần phải biết rằng mình bị tạm giữ về hành vi
gì để họ có thể tự bào chữa, để gỡ tội cho mình. Nếu không biết mình bị tạm giữ về
hành vi gì thì họ khó có thể đưa ra các chứng cứ gỡ tội cho mình.

Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang,
người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ
đã có quyết định tạm giữ. Vì việc tạm giữ là hậu quả tố tụng của việc bắt quả tang, bắt
khẩn cấp, truy nã, đầu thú hoặc tự thú; cho nên, người bị tạm giữ có quyền được biết
tại sao họ bị bắt quả tang, bị bắt khẩn cấp, quyết định truy nã hoặc việc tự thú, đầu thú
của họ.
Đối với người bị tạm giữ trong những trường hợp bắt nêu trên có quyền được
đọc biên bản bắt người và có quyền ghi ý kiến không đồng ý của mình vào biên bản và
ký xác nhận. Sau khi nhận người bị bắt khẩn cấp, bắt quả tang, theo quyết định truy nã
hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú thì cơ quan có thẩm quyền phải ra ngay quyết
định tạm giữ.
Quyết định tạm giữ phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người bị tạm giữ, lý do tạm
giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm giữ một bản. Trên cơ sở pháp
luật quy định việc người bị tạm giữ được giao một bản quyết định tạm giữ là hiện thực
hóa quyền được biết lý do mình bị tạm giữ của người bị tạm giữ.
Đây là một quyền rất quan trọng và cũng là quyền ảnh hưởng rất lớn đến việc
thực hiện các quyền khác của người bị tạm giữ; đồng thời cũng thể hiện sự công bằng,
bình đẳng và tiến bộ của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật xã hội chủ nghĩa
nói riêng. Bởi lẽ các cơ quan tiến hành tố tụng là những người nhân danh Nhà nước,
sử dụng quyền lực của Nhà nước để tiến hành các hoạt động tố tụng đối với người bị
tạm giữ, cho nên việc người bị tạm giữ được biết lý do mình bị tạm giữ căn cứ theo
điều, khoản nào của Bộ luật Tố tụng Hình sự một cách công khai, minh bạch thì mới
có thể tiến hành tự bào chữa cho mình hoặc nhờ người bào chữa.
Quyền được biết lý do mình bị tạm giữ của người bị tạm giữ trên thực tế có
được đảm bảo hay không phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của cơ quan tiến hành tố
tụng và người tiến hành tố tụng thông qua việc giao quyết định tạm giữ cho người bị
tạm giữ và giải thích quyền và nghĩa vụ cho họ.
Pháp luật quy định việc người bị tạm giữ được giao một bản quyết định tạm giữ
với mục đích để người bị tạm giữ được đọc và biết lý do mình bị tạm giữ. Tuy nhiên,
GVHD: Trần Hồng Ca


16

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
trên thực tế việc được giao quyết định tạm giữ cho người bị tạm giữ thường chỉ được
tiến hành một cách rất hình thức là giao quyết định tạm giữ cho người bị tạm giữ để
người bị tạm giữ ký vào quyết định tạm giữ, phục vụ cho việc hợp thức hóa đầy đủ thủ
tục là đã giao quyết định cho người bị tạm giữ và làm căn cứ pháp lý lưu trong hồ sơ
của cơ quan điều tra.
Pháp luật Tố tụng hình sự đã có những qui định khá cụ thể, đầy đủ về quyền
được biết lý do mình bị tạm giữ của người bị tạm giữ nhưng trên thực tiễn áp dụng các
qui định về quyền này của người bị tạm giữ vẫn chưa thực sự được đảm bảo. Một số lý
do phát sinh từ các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vì đã không giải
thích và cho người bị tạm giữ biết lý do họ bị tạm giữ. Và lý do khác lại phát sinh từ
phía người bị tạm giữ do trình độ và hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế … Do đó
dẫn đến tình trạng người bị tạm giữ không có được sự chuẩn bị chu đáo về các chứng
cứ, giấy tờ, tài liệu, lời khai… có lợi nhất để bảo vệ cho quyền lợi của mình hay tìm sự
trợ giúp về pháp luật để bào chữa cho mình. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho chủ
thể tiến hành tố tụng khó có thể xác định được hành vi vi phạm pháp luật của người bị
tạm giữ là vi phạm hình sự hay vi phạm hành chính, nhiều trường hợp dẫn đến bắt
người vô tội và cũng có thể khiến cơ quan tiến hành tố tụng bỏ lọt tội phạm.
2.1.2. Quyền nhận quyết định tạm giữ, quyết định gia hạn tạm giữ, quyết
định phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và các quyết định tố tụng khác
2.1.2.1. Quyết định tạm giữ
Như đã đề cập tại mục 2.1.1. về quyền được biết lý do mình bị tạm giữ thì trình
thủ, thủ tục tạm giữ phải có Quyết định tạm giữ. Cụ thể, theo quy định của Bộ luật Tố
tụng Hình sự năm 2015 thì người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ là:

(1) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
(2) Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn
biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên
phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ
đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng,
Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng;
Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực
lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực
lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;

GVHD: Trần Hồng Ca

17

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
(3) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay,
bến cảng11.
Về nội dung của Quyết định tạm giữ thì phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị
tạm giữ, lý do tạm giữ, giờ, ngày bắt đầu và giờ, ngày hết thời hạn tạm giữ và các nội
dung quy định12. Quyết định tạm giữ phải giao cho người bị tạm giữ.
Bởi nếu người bị tạm giữ không được giao Quyết định tạm giữ thì người bị tạm
giữ sẽ không thể nào biết nguyên nhân tại sao mình bị tạm giữ (?). Từ đó, thông qua
việc được biết lý do mình bị tạm giữ thì quyền nhận quyết định tạm giữ là dĩ nhiên vì
quyết định tạm giữ là cơ sở để người tạm giữ thực hiện quyền khiếu nại nếu như quyết
định tạm giữ không đúng các quy định của Pháp luật.
Về thời gian tạm giữ được căn cứ trên Quyết định tạm giữ nhưng thời hạn tạm
giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị
giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm
giữ người phạm tội tự thú, đầu thú13.
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm
giữ phải gửi quyết định tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho Viện
kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc tạm giữ không
có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm
giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Trong thời gian tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do
ngay cho người bị tạm giữ.
Khi hết thời gian tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ
và đảm bảo theo các yêu cầu của Pháp luật tại mục 2.1.2.2.
2.1.2.2. Quyết định gia hạn tạm giữ và quyết định phê chuẩn quyết định gia hạn
tạm giữ và các quyết định tố tụng khác
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì thời hạn tạm giữ
không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ,

11

Khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
Khoản 2 Điều 117 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
13
Khoản 1 Điều 118 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
12

GVHD: Trần Hồng Ca

18


SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ
người phạm tội tự thú, đầu thú14.
Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng
không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn
tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày.
Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp hoặc
Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ sơ
đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định
không phê chuẩn.
Như vậy, trường hợp tạm giữ bình thường tối đa là 03 ngày. Trường hợp cần
thiết thì thời gian tạm giữ tối đa là 06 ngày và trường hợp đặc biệt thì thời gian tạm giữ
tối đa là 09 ngày.
Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay cho
người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả tự do ngay
cho người bị tạm giữ15.
Cũng tương tự như quyết định tạm giữ thì những quyết định như quyết định phê
chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và các quyết định tố tụng khác thì người bị tạm giữ
được nhận. Đây là quyền mà người bị tạm giữ cần được đảm bảo và thực thi chứ
không phải là yêu cầu hay đề nghị thì mới được thực hiện.
Như đã trình bày các tình huống sau khi kết thúc quá trình tạm giữ thì người bị
tạm giữ sẽ có thể chính thức bị khởi tố bị can và có quyết định tạm giam thay thế hoặc
người bị tạm giữ chính thức bị khởi tố và có quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ,
thay thế biện pháp ngăn chặn khác hoặc người bị tạm giữ có quyết định trả tự do cho
người bị tạm giữ chuyển sang xử lý hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm

hành chính nếu như cơ quan điều tra đã xác định được vụ việc chưa tới mức độ truy
cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị tạm giữ có quyết định trả tự do cho người bị
tạm giữ, không xử lý hành chính nếu như cơ quan điều tra đã xác định chưa đủ các
bằng chứng để cấu thành tội phạm và không xử lý ở mức độ vi phạm hành chính.
“Các quyết định tố tụng khác” mà Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đề cập
đến trong quyền của người bị tạm giữ theo Khoản 2 Điều 59 là những quyết định mà

14
15

Khoản 1 Điều 118 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
Khoản 3 Điều 118 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015

GVHD: Trần Hồng Ca

19

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
cơ quan điều tra thay thế quyết định tạm giữ, ví dụ như quyết định tạm giam, quyết
định trả tự do,…
2.1.3. Quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ
Đặt mình vào vị thế của người bị tạm giữ, khi bị cơ quan có thẩm quyền tạm
giữ, bị hạn chế các quyền nhân thân, quyền tự do ... thì chúng ta sẽ rất mong muốn biết
được mình có những quyền và nghĩa vụ gì để giúp cho mình có thể tự bảo vệ hoặc nhờ
người khác bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Nhưng không phải ai khi ở trong tình
trạng bị tạm giữ cũng có đủ sự chín chắn và hiểu biết để yêu cầu được biết mình có
quyền và nghĩa vụ gì.

Vì vậy, quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ của người bị
tạm giữ đã được Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định. Việc thực hiện được
quyền này của người bị tạm giữ đồng nghĩa với việc cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. Đó là nghĩa vụ thông báo, giải
thích cho người bị tạm giữ hiểu rõ họ có những quyền và nghĩa vụ gì khi tham gia vào
quá trình tố tụng, để khiến họ yên tâm, tin tưởng vào pháp luật và có thể sử dụng pháp
luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc đảm bảo quyền này của người bị tạm giữ cũng có ý nghĩa rất lớn trong
việc đảm bảo quyền con người của người bị tạm giữ cũng như góp phần nhanh chóng
kịp thời giải quyết vụ án, xác minh sự thật vụ án.
Tuy nhiên, trên thực tế, quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ
của người bị tạm giữ không phải lúc nào cũng được đảm bảo. Như đã nói ở trên, để
thực hiện tốt quyền này của người bị tạm giữ thì cơ quan tiến hành tố tụng và người
tiến hành tố tụng đều phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình là thông báo, giải thích cho
người bị tạm giữ biết rõ mình có quyền và nghĩa vụ gì. Nhưng thực tế cho thấy, vì
nhiều lý do khác nhau mà quyền này của người bị tạm giữ gần như khó được bảo đảm.
Trong nhiều trường hợp là do sự yếu kém trong chuyên môn, nghiệp vụ của người tiến
hành tố tụng đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Cũng có trường hợp là do
sự thiếu hiểu biết về pháp luật, sự “yếu thế” trong quá trình tham gia tiến hành tố tụng
của người bị tạm giữ nên mặc dù không được giải thích về quyền và nghĩa vụ của
mình nhưng người bị tạm giữ cũng không “dám” yêu cầu được biết mình có quyền và
nghĩa vụ gì khi bị tạm giữ.

GVHD: Trần Hồng Ca

20

SVTH: Lý Quang Trung



Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
Theo Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 thì người bị tạm giữ “được giải thích
về quyền và nghĩa vụ16”. Còn Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì người bị tạm giữ
“được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ 17”.
Như vậy, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 được bổ sung hai từ “thông báo”.
Với việc bổ sung hai từ “thông báo” này đã làm ý nghĩa trở nên khác nhau. Chúng ta
có thể thấy nếu dùng từ “được giải thích” thì có nghĩa là khi nào người bị tạm giữ đề
nghị hoặc yêu cầu thì người thi hành quyết định tạm giữ mới giải thích những quyền
và nghĩa vụ khi bị tạm giữ. Còn khi bổ sung thêm hai từ “thông báo” thì chúng ta thấy
trách nhiệm “thông báo” này thuộc về người thi hành quyết định tạm giữ. Đó là nghĩa
vụ mà người thi hành quyết định tạm giữ phải thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ
của người bị tạm giữ quy định tại Điều 59 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 18.
2.2. Nhóm quyền được giải thích, trình bày
2.2.1. Quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì người bị tạm giữ có
quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến về những vấn đề liên quan đến việc họ bị bắt
giữ, bị truy nã, tự thú, đầu thú.
Trong lời khai trước cơ quan điều tra, người bị tạm giữ trình bày về những tình
tiết liên quan đến việc họ bị tình nghi thực hiện tội phạm. Cơ quan ra quyết định tạm
giữ có trách nhiệm lập biên bản ghi lời khai của người bị tạm giữ. Lời khai đó chỉ
được coi là một loại nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự, khi nó được thể hiện hợp
pháp bằng biên bản ghi lời khai của người bị tạm giữ được điều tra viên đọc lại cho
người bị tạm giữ nghe hoặc người bị tạm giữ tự đọc lại lời khai và có chữ ký của điều
tra viên, chữ ký hoặc điểm chỉ của người bị tạm giữ (nếu người bị tạm giữ không biết
chữ) vào biên bản.
Đối với người bị tạm giữ là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất thì việc lấy lời khai những người này phải có mặt đại diện của gia
đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố tình vắng mặt mà không có lý do chính đáng.
Việc trình bày lời khai, trình bày ý kiến của người bị tạm giữ là quyền chứ
không phải nghĩa vụ. Theo đó, người bị tạm giữ sử dụng quyền này của mình để khai

báo những tình tiết có lợi cho mình nhằm chứng minh mình vô tội hoặc là phạm tội ở
mức độ nhẹ hơn tội đã bị khởi tố hay đưa ra những tình tiết, lý do để giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho mình. Cũng có trường hợp người bị tạm giữ từ chối không khai báo
16

Điểm b Khoản 2 Điều 48 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003
Điểm b Khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
18
Khoản 3 Điều 117 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
17

GVHD: Trần Hồng Ca

21

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
về hành vi của mình. Trong những trường hợp mà họ từ chối khai báo hay khai báo
gian dối thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó. Trong trường
hợp nào thì cơ quan điều tra cũng cần phải tôn trọng quyền được trình bày lời khai của
người bị tạm giữ. Bởi vì, qua lời khai của người bị tạm giữ - người bị tình nghi là đã
thực hiện hành vi trái pháp luật, ta có thể xác định sự thật một cách khách quan, không
phiếm diện.
Tuy nhiên, thực tế có những người tố tụng hình sự không quan tâm hoặc cố tình
“quên mất” việc trình bày lời khai, trình bày ý kiến là quyền của người bị tạm giữ chứ
không phải nghĩa vụ mà người bị tạm giữ phải thực hiện.
Qua khảo sát thực tế tại các cơ quan thực hiện tố tụng thì ngay cả những điều
tra viên, kiểm sát viên có kinh nghiệm cũng vẫn coi việc trình bày lời khai của người

bị tạm giữ như là nghĩa vụ phải khai báo tình tiết, hành vi mà họ thực hiện. Điều này,
là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng mớm cung, bức cung đối với
người bị tạm giữ, khiến cho họ cảm thấy việc quy định của pháp luật rằng đây là
quyền của họ gần như phi thực tế. Vì trong thời gian bị tạm giữ, nếu chưa có đủ cơ sở
để xác định hành vi vi phạm pháp luật của họ thì người thực hiện tố tụng liên tục
“thẩm vấn, lấy lời khai” đối với người bị tạm giữ, nhằm gây áp lực trong thời gian họ
bị tạm giữ, nhiều khi buộc họ phải khai nhận những hành vi mà họ không thực hiện ...
Điều đó, dẫn đến sai lầm trong kết quả điều tra vụ án và nghiêm trọng hơn là
việc làm đó của người tiến hành tố tụng đã vi phạm pháp luật, xâm hại đến quyền của
người bị tạm giữ. Thực tế hiện nay cho thấy, quyền được trình bày lời khai, ý kiến của
người bị tạm giữ chưa thực sự được đảm bảo.
2.3. Nhóm quyền được bảo vệ
2.3.1. Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa
Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của người bị tạm giữ được
quy định tại điểm d khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, hướng dẫn
chi tiết thủ tục nhờ người bào chữa cho người bị tạm giữ trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự tại Điều 4 Thông tư số 70/2011/TT-BCA, ngày 10/10/2011 của Bộ Công an.
Theo quy định pháp luật, khi giao quyết định tạm giữ cho người bị tạm giữ,
Điều tra viên phải đọc và giải thích cho họ biết rõ về quyền, nghĩa vụ của người bị tạm
giữ theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và lập biên bản giao nhận
quyết định tạm giữ. Trong biên bản phải ghi rõ ý kiến của người bị tạm giữ, về việc có
nhờ người bào chữa hay không.

GVHD: Trần Hồng Ca

22

SVTH: Lý Quang Trung



Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
Theo Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì “Người bào chữa là người được
người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định
và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào
chữa. Người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; Bào
chữa viên nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc
đối tượng được trợ giúp pháp lý19.
Nếu người bị tạm giữ, cần nhờ người bào chữa thì cần tiến hành như sau:
- Trường hợp người bị tạm giữ là thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam hoặc các tổ chức thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc đề nghị tổ chức mà họ
là thành viên cử người bào chữa cho họ thì Điều tra viên phải ghi ý kiến của người bị
tạm giữ vào biên bản và hướng dẫn họ viết đề nghị bằng văn bản. Trong thời hạn 24
giờ, Cơ quan điều tra có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị cử người bào chữa của họ
cho tổ chức đó bằng thư bảo đảm hoặc chuyển phát nhanh;
- Trường hợp người bị tạm giữ nhờ người bào chữa là người đại diện hợp pháp
của họ thì Điều tra viên hướng dẫn họ viết văn bản đề nghị, trong văn bản ghi rõ họ
tên, tuổi, địa chỉ của người đại diện hợp pháp. Trong thời hạn 24 giờ, Cơ quan điều tra
có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị của người bị tạm giữ cho người đại diện hợp pháp
đó bằng thư bảo đảm hoặc chuyển phát nhanh;
- Trường hợp người bị tạm giữ nhờ người bào chữa là luật sư thì Điều tra viên
hướng dẫn họ viết giấy yêu cầu luật sư, nếu yêu cầu đích danh luật sư bào chữa thì
trong thời hạn 24 giờ, Cơ quan Điều tra có trách nhiệm gửi giấy yêu cầu luật sư của
người bị tạm giữ cho luật sư mà họ nhờ bào chữa bằng thư bảo đảm hoặc chuyển phát
nhanh; trường hợp người bị tạm giữ viết giấy nhờ người thân liên hệ nhờ luật sư bào
chữa thì trong thời gian hạn 24 giờ kể từ khi có giấy nhờ người thân, Cơ quan điều tra
có trách nhiệm gửi giấy đó cho người thân của người bị tạm giữ bằng thư bảo đảm
hoặc chuyển phát nhanh;
- Trường hợp người bị tạm giữ chưa nhờ người bào chữa thì trong lần đầu lấy
lời khai người bị tạm giữ, Điều tra viên phải hỏi rõ người bị tạm giữ có nhờ người bào
chữa không và phải ghi ý kiến của họ vào biên bản. Nếu người bị tạm giữ nhờ người

bào chữa thì thực hiện theo quy định nêu trên.
Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa là một quyền quan trọng của
người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự. Theo đó, người bị tạm giữ có quyền đưa ra
những lý lẽ chứng minh mình không phạm tội, không liên quan đến sự việc họ bị bắt
19

Khoản 1 và Khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015

GVHD: Trần Hồng Ca

23

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
giữ và để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình tham gia tố tụng.
Quyền tự bào chữa không phải là một quyền độc lập, tách rời với các quyền khác của
người bị tạm giữ mà quyền tự bào chữa chính là sự tổng hòa các quyền của người bị
tạm giữ trong tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bởi vì,
khi tham gia vào quá trình tố tụng, ngoài việc người bị tạm giữ đưa ra những lý lẽ,
chứng cứ để “gỡ tội” cho mình thì người bị tạm giữ còn thực hiện quyền tự bào chữa
của mình thông qua việc thực hiện các quyền như quyền trình bày lời khai, quyền đưa
ra tài liệu đồ vật, yêu cầu …
Việc thực hiện các quyền này, không chỉ nhằm “gỡ tội” mà còn nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp khác của người bị tạm giữ. Thông qua quyền tự bào chữa
của người bị tạm giữ, Nhà nước đã cho phép người bị tạm giữ tự vệ, chống lại sự
“buộc tội” của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Có thể thấy, quy
định này của pháp luật đã thể hiện sự bình đẳng giữa người bị tạm giữ với những
người tiến hành tố tụng. Mặc dù, một bên là người bị buộc tội, không có quyền lực với

một bên là những người mang quyền lực nhà nước.
Tuy nhiên, do hạn chế về kiến thức pháp luật, kỹ năng bào chữa và có thể đang
bị tạm giữ nên người bị tạm giữ không thể thực hiện được việc tự bào chữa có hiệu
quả. Họ cần có người khác có khả năng để bào chữa, do đó, bên cạnh quyền tự bào
chữa, pháp luật đã quy định quyền nhờ người khác bào chữa cho mình. Quyền này thể
hiện sự đảm bảo của pháp luật cho quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ. Pháp luật
đảm bảo cho người bị tạm giữ được người khác bào chữa cho mình nếu không thể tự
mình bào chữa. Người được người bị tạm giữ nhờ bào chữa phải là người có đủ tiêu
chuẩn theo quy định của pháp luật.
2.3.2. Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Theo quy định này của pháp luật thì người bị tạm giữ có quyền đưa ra những
chứng cứ, tài liệu, đồ vật nhằm chứng minh họ không liên quan đến vụ việc mà vì đó
họ bị bắt giữ, họ cũng có quyền yêu cầu xác minh lại sự việc, yêu cầu cơ quan điều tra
đưa ra những bằng chứng được coi là có căn cứ bắt giữ họ.
Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 thì người bị tạm giữ có
quyền đưa ra “những yêu cầu”, còn theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm
2003 thì người bị tạm giữ có quyền đưa ra “tài liệu, đồ vật, yêu cầu” và Bộ luật Tố
tụng Hình sự năm 2015 thì người bị tạm giữ có quyền đưa ra “chứng cứ, tài liệu, đồ
vật, yêu cầu”. Như vậy, đã có sự bổ sung trong quy định của pháp luật từ việc người bị
tạm giữ có quyền đưa ra những yêu cầu thì nay chuyển thành quyền được đưa ra tài

GVHD: Trần Hồng Ca

24

SVTH: Lý Quang Trung


Đề tài: Quyền của người bị tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
liệu, đồ vật, yêu cầu và đến các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Sự thay đổi này

trong quy định của pháp luật là hoàn toàn hợp lý, góp phần hoàn thiện hơn quy định
pháp luật về người bị tạm giữ. Bởi vì, người bị tạm giữ được quyền đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật hoặc những yêu cầu phù hợp sẽ giúp cho cơ quan điều tra xác minh có
hay không có hành vi phạm tội của người bị tạm giữ một cách nhanh chóng, kịp thời
hơn, đáp ứng được yêu cầu trong việc phân loại, xử lý người bị tạm giữ của cơ quan
điều tra.
Hiện nay, quyền này của người bị tạm giữ vẫn chưa thực sự được đảm bảo.
Nguyên nhân xuất phát từ chính những người tiến hành tố tụng, khi họ không thấy hết
được tầm quan trọng của việc đảm bảo thực hiện tốt quyền này. Do vậy, trong nhiều
trường hợp người tiến hành tố tụng đã vi phạm một cách nghiêm trọng khi không xem
xét một cách khách quan những tài liệu, đồ vật, yêu cầu mà người bị tạm giữ đưa ra
mà đã vội vàng bác bỏ khi thấy chúng không phù hợp với hướng điều tra của mình.
Cụ thể như những vi phạm đó có thể thấy ngay trong cách đặt câu hỏi với người
bị tạm giữ. Những câu hỏi chỉ có dạng trả lời là “có” hay “không” đã không tạo điều
kiện cho người bị tạm giữ có cơ hội được đưa ra những tài liệu, đồ vật, yêu cầu của
mình. Thậm chí, sự không tôn trọng quyền của người bị tạm giữ có thể dẫn đến việc
mớm cung, bức cung và dùng nhục hình. Không ít cán bộ điều tra đã muốn rằng những
lời khai của người bị tạm giữ phải phù hợp với chứng cứ mà họ thu thập được, mà
không phải là những lời khai phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.
Nếu việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bị tạm giữ đưa ra mâu thuẫn
với những tài liệu mà cơ quan điều tra thu thập được sẽ gây khó khăn cho cơ quan điều
tra trong quá trình tiến hành tố tụng. Do vậy, quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của
người bị tạm giữ cũng cần được bảo đảm thực hiện hơn trên thực tế.
2.3.3. Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu
cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá
Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố
tụng Hình sự quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi
phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong
việc giải quyết vụ án20.
Chúng ta có thể thấy các thuộc tính của chứng cứ bao gồm: tính khách quan (có

thật), hợp pháp và liên quan đến vụ án đều vẫn là những nội hàm chính trong khái
niệm chứng cứ như trong Bộ luật năm 2003. Tuy nhiên trong khái niệm chứng cứ có
20

Điều 86 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015

GVHD: Trần Hồng Ca

25

SVTH: Lý Quang Trung


×