LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng, Nhà nước ta đặt mục tiêu “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và
công nghệ thực sự là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức,
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và
là nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI” [1].
Quan điểm phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 cũng khẳng định vai trò quan
trọng của khoa học và công nghệ đối với lực lượng sản xuất “khoa học và công nghệ phải đóng vai trò chủ
đạo để tạo được bước phát triển đột phá về lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [18].
Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển
DNNVV trong đó có các cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ phát triển DNNVV trong các lĩnh vực: tài chính,
tín dụng; đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật; phát triển nguồn lực; mặt bằng sản xuất
kinh doanh; xúc tiến mở rộng thị trường. Đặc biệt, ngày 10/5/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 677/QĐ-TTg về việc phê duyệt chương trình ĐMCN quốc gia đến năm 2020, trong đó mục
tiêu của chương trình đến năm 2015 là số lượng doanh nghiệp thực hiện ĐMCN tăng trung bình 10% và
đến năm 2020 số lượng doanh nghiệp thực hiện ĐMCN tăng trung bình 15%, trong đó có 5% doanh
nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Các bộ, ngành, địa phương, tổ chức hiệp hội cũng như cộng đồng các nhà
tài trợ quốc tế cũng đã xây dựng và thực hiện nhiều chương trình, dự án trợ giúp phát triển DNNVV trong
các lĩnh vực tài chính, xúc tiến mở rộng thị trường, phát triển nguồn nhân lực. Điều đó chứng tỏ ĐMCN
đang là vấn đề được thực tiễn quan tâm.
Vì những lý do trên, luận văn đã lựa chọn nghiên cứu về chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ đối
với DNNVV ở Việt Nam nhằm đóng góp phần nhỏ vào việc nghiên cứu; đề xuất, kiến nghị, giải pháp chính
sách về đổi mới công nghệ cho DNNVV.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có một số bài báo, chuyên đề, đề tài nghiên cứu về các vấn đề liên quan tới chính sách hỗ trợ đổi
mới công nghệ cho các doanh nghiệp Việt Nam như:
- Bài báo “Về chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ” [17] của TS
Nguyễn Văn Thu đăng trên Tạp chí hoạt động khoa học và công nghệ năm 2007. Trong bài này, tác giả đã
nêu khái quát những yếu tố cản trở đối với quá trình đổi mới công nghệ, các hình thức hỗ trợ DNNVV, một
số lưu ý trong việc hỗ trợ thực hiện quá trình đổi mới công nghệ.
- Đề tài cấp bộ: “Nghiên cứu, đánh giá thực trạng và định hướng hoạt động đổi mới công nghệ của
doanh nghiệp trong một số ngành kinh tế” của Phạm Thế Dũng. Bộ Khoa học và Công nghệ, 2009. Trong
đề tài này, tác giả đã đánh giá về thực trạng yếu kém của công tác đổi mới công nghệ trong các ngành cơ
điện tử, sinh học, thực phẩm; chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản của các yếu kém. Nhiều nguyên nhân có
liên quan tới quá trình ban hành và thực hiện các chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp
Việt Nam. Trong đó: về phía chủ quan, các doanh nghiệp Việt Nam với đa số là các doanh nghiệp nhỏ và
vừa không có đủ năng lực và nguồn lực để đổi mới công nghệ một cách bài bản và liên tục; về phía Chính
phủ, các bộ ngành và địa phương, các chính sách vĩ mô như chính sách ưu đãi thuế nhập khẩu, chính sách
1
hỗ trợ nghiên cứu khoa học và công nghệ chưa hướng tới các doanh nghiệp cụ thể mà chủ yếu tập trung cho
các viện nghiên cứu và các trường đại học.
- Chuyên đề nghiên cứu “Tổng quan các chính sách của Nhà nước khuyến khích hoạt động đổi mới
công nghệ trong sản xuất giai đoạn 1995-2005” của tác giả Nghiêm Công, Viện Chiến lược và Chính sách
Khoa học và Công nghệ, 2006. Chuyên đề đã tập hợp chính sách trong giai đoạn 1995-2005, đưa ra một số
đánh giá, phân tích và kiến nghị điều chỉnh chính sách. Chuyên đề đã góp phần làm rõ các vấn đề cơ bản về
chính sách khuyến khích đổi mới công nghệ, có giá trị tham khảo.
- Sách tham khảo “Quản lý đổi mới công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa” của TS. Trần Ngọc Ca, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000 [3]. Nội dung sách có
giá trị tham khảo các vấn đề lý luận về quản lý doanh nghiệp, đổi mới doanh nghiệp.
- “Chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Hà Nội” luận văn
thạc sỹ kinh tế chính trị của tác giả Nguyễn Thị Minh Thùy, 2012. Trong luận văn này, tác giả đã trình bày
một số lý luận cơ bản, khái niệm về chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ; đánh giá tình hình ban hành và
thực hiện chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của Hà Nội và đề xuất một số
giải pháp. Tuy nhiên, các kiến nghị chính sách mới chỉ dừng ở nhóm chính sách thông tin, tuyên truyền…
luận văn chưa tập trung đánh giá nhóm chính sách cơ bản như vốn, tín dụng, bảo hộ sở hữu công nghiệp,
phát triển thị trường khoa học và công nghệ.
Các nghiên cứu trên mới chỉ xem xét, đặt vấn đề về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công
nghệ với tư cách là một đối tượng chính sách nghiên cứu riêng rẽ, bộ phận, có nghiên cứu chưa đề xuất
được các biện pháp cụ thể; hoặc các chính sách được nghiên cứu chưa được cập nhật; đặc biệt chưa có công
trình nghiên cứu cụ thể nào xem xét chính sách này trong mối quan hệ tổng thể với các chính sách khác theo
góc độ của chuyên ngành quản lý kinh tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có những mục đích nghiên cứu sau đây: (i) tập hợp và xem xét nhóm chính sách hỗ trợ
ĐMCN theo những tiêu chí được xây dựng; (ii) phân tích thực trạng ĐMCN cho DNNVV, đánh giá những
hạn chế, bất cập của chính sách hỗ trợ ĐMCN; (iii) kiến nghị điều chỉnh, hoàn thiện chính sách ĐMCN cho
DNNVV.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Thứ nhất, tìm hiểu, nghiên cứu các đề tài công trình nghiên cứu liên quan tới chính sách hỗ trợ
ĐMCN cho doanh nghiệp.
- Thứ hai, hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách hỗ trợ ĐMCN cho DNNVV. Rút ra những bài
học từ kinh nghiệm quốc tế cho Việt Nam.
- Thứ ba, phân tích thực trạng ĐMCN của các DNNVV, từ đó chỉ ra những thành tựu, những nhược
điểm và nguyên nhân hạn chế hoạt động ĐMCN của DNNVV. Đánh giá các chính sách hỗ trợ ĐMCN.
- Thứ tư, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách hỗ trợ ĐMCN cho DNNVV.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các chính sách hỗ trợ ĐMCN và hoạt động ĐMCN của
DNNVV.
4.2 Về phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các DNNVV trên lãnh thổ Việt Nam và những chính
sách có hiệu lực thi hành.
2
5. Phương pháp nghiên cứu
Tập hợp các chính sách hỗ trợ hỗ trợ DNNVV nói riêng đang có hiệu lực thi hành; xem xét, đánh
giá các chính sách theo phạm vi riêng lẻ và tổng thể, áp dụng các phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp
nghiên cứu lý luận với thực tiễn; phân tích chính sách. Kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và các số
liệu thu thập thứ cấp.
Nguồn thông tin, dữ liệu được lấy từ nhiều nguồn như từ các khảo sát, báo cáo về doanh nghiệp nhỏ
và vừa, bài nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế, thông tin trên Internet, số liệu của Bộ Khoa học và Công
nghệ, Bộ Tài chính, Tổng cục Thống kê và Cục Phát triển doanh nghiệp.
6. Những đóng góp của luận văn:
Thứ nhất, Luận văn đã hệ thống, làm rõ khái niệm đổi mới công nghệ và chính sách hỗ trợ đổi mới
công nghệ. Thứ hai, luận văn đã đánh giá tổng hợp các chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ kết quả đạt
được, ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân và tác động của chính sách đến hoạt động đổi mới công nghệ của
DNNVV. Thứ ba, luận văn đã đề xuất 4 giải pháp: (i) tăng cường hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ngành, địa
phương trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ ĐMCN; (ii) Giải pháp kinh tế; (iii) Giải pháp truyền thông,
nâng cao nhận thức; (iv) Giải pháp về phía DNNVV.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm 3 Chương, kết cấu tuần tự từ cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và trình bày giải
pháp.
Chương 1 trình bày cơ sở lý luận về chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho DNNVV, trong đó
làm rõ các khái niệm về công nghệ, đổi mới công nghệ, vai trò đối với sự phát triển kinh tế xã hội cũng như
tìm hiểu các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình đổi mới công nghệ của các DNNVV. Chương 1 cũng
nêu các khái niệm về chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ, nội dung và mục tiêu của chính sách hỗ trợ
ĐMCN. Trong Chương 1, một số tiêu chí cơ bản khi xem xét đánh giá chính sách và kinh nghiệm quốc tế
cũng đã được trình bày khái quát.
Chương 2, cơ bản trình bày về thực trạng và đánh giá thực trạng của chính sách hỗ trợ ĐMCN đối
với DNNVV ở Việt Nam. Trong đó điểm lại những kết quả của chính sách hỗ trợ DNNVV đổi mới công
nghệ, đánh giá những hạn chế, bất cập trong quá trình đổi mới công nghệ và chỉ ra nguyên nhân của những
hạn chế.
Chương 3 trình bày khái quát về bối cảnh, cơ hội và thách thức đối với DNNVV đổi mới công
nghệ trong giai đoạn hiện nay, đồng thời với kinh nghiệm quốc tế và nguyên nhân đã được nêu trong
Chương 1 và Chương 2, một số giải pháp đã được xác định bao gồm (i) tạo động lực về kinh tế đối với
DNNVV; (ii) phát triển thị trường khoa học và công nghệ; (iii) tăng cường hiệu quả phối hợp giữa các bộ,
ngành, địa phương trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ ĐMCN; (iv) đẩy mạnh truyền thông, nâng cao
nhận thức; và (v) những nhiệm vụ đề xuất với hiệp hội DNNVV.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ CHO DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA
1.1 Công nghệ và đổi mới công nghệ
1.1.1 Khái niệm công nghệ và đổi mới công nghệ
1.1.1.1 Khái niệm về công nghệ
Thuật ngữ công nghệ hiện đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới, tuy nhiên việc đưa ra định
nghĩa công nghệ lại chưa có sự thống nhất. Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam có đến sáu khái niệm về
công nghệ
Luật Khoa học và công nghệ (ban hành năm 2000 và luật sửa đổi năm 2013) giải thích “công nghệ
là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn
lực thành sản phẩm”. Khái niệm này gần với định nghĩa của ESCAP và phù hợp với các nước đang phát
triển và được sử dụng trong luận văn làm cơ sở phân tích về chính sách ĐMCN.
1.1.1.2 Khái niệm về đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ cũng là một khái niệm còn nhiều tranh luận, trong hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật của Việt Nam cũng chưa có định nghĩa về ĐMCN. Trên thế giới, các nước OECD quan niệm
ĐMCN là việc tạo ra sản phẩm hoặc quy trình sản xuất mới hoặc có những cải tiến đáng kể về sản phẩm
hay quy trình sản xuất, ĐMCN diễn ra khi đưa ra thị trường sản phẩm mới (đổi mới sản phẩm) hoặc công
nghệ mới được sử dụng trong quá trình sản xuất (đổi mới quy trình). ĐMCN gồm nhiều hoạt động khác
nhau như hoạt động khoa học, công nghệ, tổ chức, tài chính và thương mại, qua đó một doanh nghiệp được
coi là ĐMCN nếu doanh nghiệp đó sản xuất ra sản phẩm mới hoặc có quy trình sản xuất mới hoặc có những
cải tiến đáng kể về sản phẩm hay quy trình sản xuất trong thời kỳ xem xét [26]. Quan niệm này có nội hàm
rất rộng, chưa phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay do năng lực công nghệ của các
doanh nghiệp đặc biệt là DNNVV còn rất hạn chế.
Quan điểm của luận văn về ĐMCN bao gồm: (i) việc thay đổi toàn bộ hoặc một phần dây chuyền
máy móc thiết bị; (ii) đổi mới quy trình và sản phẩm để đưa sản phẩm ra thị trường.
1.1.2 Vai trò của công nghệ và đổi mới công nghệ đến sự phát triển kinh tế - xã hội và doanh
nghiệp nhỏ và vừa
1.1.2.1 Vai trò của công nghệ và đổi mới công nghệ đên sự phát triển kinh tế xã hội
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo cách gia tăng đầu vào sản xuất – nhân tố lao động và vốn – sẽ đẩy
nhanh tăng trưởng kinh tế, nhưng với tốc độ giảm dần. Do đó, để tăng trưởng bền vững đòi hỏi phải đầu tư
vào tiến bộ công nghệ, nghĩa là cách thức hàng hóa và dịch vụ được tạo ra, phương pháp cũng như quy
trình tổ chức đầu vào.
Theo số liệu và nhận định của Bộ Khoa học và công nghệ, tăng trưởng GDP có phần đóng góp của
yếu tố TFP bao gồm các hoạt động Cơ cấu lại nền kinh tế + Kích thích tăng nhu cầu sản phẩm, hàng hóa +
Tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ, cụ thể giai đoạn 2001-2005 là 21,44%; giai đoạn 2006-2010 là
14,44% và giai đoạn 2001-2010 là 17,94% [21].
4
Hình 1.1. Tốc độ tăng GDP, vốn, lao động và TFP giai đoạn 2001-2000
Nguồn: Báo cáo Năng suất Việt Nam năm 2010 – Trung tâm Năng suất Việt Nam
Trong giai đoạn 2006-2008, bình quân đóng góp của khoa học và công nghệ vào tăng GDP khoảng
10,2%.
Bảng 1.1 Đóng góp của khoa học và công nghệ vào tăng TFP của Việt Nam giai đoạn 2006 –
2008
Nguồn: Kết quả đề tài nghiên cứu “Đóng góp của yếu tố khoa học và công nghệ vào TFP và tốc độ tăng
GDP” năm 2010 do Trung tâm Năng suất Việt Nam – Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng phối hợp
Viện Khoa học Thống kê và các chuyên gia kinh tế thực hiện
Như vậy, công nghệ có tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của kinh tế xã hội. Việc phát triển, ứng
dụng công nghệ thành công sẽ mang lại sự phát triển kinh tế và ngược lại khi kinh tế tăng trưởng thì xã hội
sẽ có nguồn lực đầu tư cho sự phát triển của công nghệ, tạo ra động lực ĐMCN. ĐMCN lại có vai trò quan
trọng trong sự thay đổi cơ cấu kinh tế của một quốc gia, là biện pháp để đưa đất nước chuyển sang thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.1.2.2 Vai trò của công nghệ và đổi mới công nghệ đối với sự phát triển của doanh nghiệp
Công nghệ làm thay đổi hiệu quả sản xuất kinh doanh tạo ra các sản phẩm có chất lượng tốt hơn với
chi phí thấp hơn, nói cách khác tức là tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp cũng như đáp ứng tốt hơn nhu
cầu của khách hàng. ĐMCN tức là nâng cao trình độ công nghệ của doanh nghiệp, làm tăng khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Việc ĐMCN của một doanh nghiệp sẽ tạo ra các tác động tích cực
đến doanh nghiệp khác và cộng đồng các doanh nghiệp ở Việt Nam, tác động này được gọi là “hiệu ứng lan
tỏa”.
5
Bảng 1.2 Phân loại các hình thức lan tỏa công nghệ
Hình thức lan tỏa Mô tả
Lan tỏa theo chiều
dọc: liên kết xuôi
Doanh nghiệp tại Việt Nam là khách hàng Công nghệ được chuyển giao từ
những nhà cung cấp là các doanh nghiệp quốc tế hay doanh nghiệp FDI cho
các doanh nghiệp tại Việt Nam.
Lan tỏa theo chiều
dọc: liên kết ngược
Doanh nghiệp tại Việt Nam là nhà cung cấp Công nghệ được chuyển giao từ
những khách hàng là các doanh nghiệp quốc tế hay doanh nghiệp FDI cho các
doanh nghiệp tại Việt Nam
Lan tỏa theo chiều
ngang: cạnh tranh
Doanh nghiệp tại Việt Nam là một đối thủ cạnh tranh
Công nghệ được chuyển giao từ doanh nghiệp nước ngoài/ đối thủ cạnh tranh
trong nước có vốn đầu tư nước ngoài cho các doanh nghiệp tại Việt Nam.
Nguồn: Báo cáo “Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp (DN) tại Việt Nam:
Kết quả điều tra năm 2012”
1.1.2.3 Doanh nghiệp nhỏ và vừa với đổi mới công nghệ
Để xác định quy mô doanh nghiệp, nhìn chung các quốc gia căn cứ vào các tiêu chuẩn khác nhau
như số lao động, vốn sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng. Doanh nghiệp nhỏ và vừa hay SMEs
(Small and Medium Enterprises) là những doanh nghiệp có số lao động hay doanh số ở dưới một mức giới
hạn nào đó.
Tại Việt Nam, Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định
pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương
đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân
năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)[4].
Bảng 1.3: Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP
Do những yếu kém nội tại của DNNVV, sự phát triển của DNNVV và hoạt động đổi mới công nghệ
ở DNNVV không thực hiện một cách tự phát mà thiếu tác động của Nhà nước, bởi lẽ tác động của chính
sách rất quan trọng, rất cơ bản, thậm chí có tính quyết định. Chính phủ các nước không chỉ đối xử với
DNNVV bình đẳng như với doanh nghiệp lớn, mà còn dành ưu đãi rõ rệt cho DNNVV.
6
1.1.3 Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nhỏ và vừa
ĐMCN của DNNVV chịu nhiều yếu tố ảnh hưởng như năng lực tài chính, năng lực nghiên cứu và
triển khai, trình độ nguồn nhân lực, áp lực cạnh tranh, các chính sách của nhà nước. Có thể chia các yếu tố
này thành các nhóm yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan.
1.1.3.1 Nhóm các yếu tố chủ quan
- Năng lực công nghệ của DNNVV: bao gồm bốn loại năng lực (i) năng lực vận hành công nghệ, (ii)
năng lực tiếp nhận công nghệ, (iii) năng lực hỗ trợ tiếp nhận công nghệ, (iv) năng lực đổi mới công nghệ.
- Năng lực tài chính của DNNVV: thể hiện qua nguồn vốn tự có của doanh nghiệp và năng lực huy
động vốn cho ĐMCN của doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp hình thành từ lợi nhuận của doanh nghiệp trong quá trình sản
xuất kinh doanh hoặc từ vốn của các cổ đông.
+ Năng lực huy động vốn cho ĐMCN thể hiện ở khả năng tiếp cận các nguồn hỗ trợ cho ĐMCN từ
ngân hàng, Quỹ ĐMCN quốc gia, Quỹ phát triển KH&CN quốc gia, các Quỹ đầu tư mạo hiểm và các đối
tác, cá nhân khác. Năng lực huy động vốn này phụ thuộc nhiều vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, còn một số yếu tố chủ quan khác như quy mô doanh nghiệp, ngành, lĩnh vực doanh nghiệp
hoạt động, định hướng chiến lược của doanh nghiệp, nhận thức của chủ doanh nghiệp và người lao động về
ĐMCN.
1.1.3.2 Nhóm các yếu tố khách quan
- Áp lực cạnh tranh: áp lực cạnh tranh càng cao, đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao năng
lực cạnh tranh. Trong đó, ĐMCN là biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh hiệu quả do tạo ra sản phẩm có
chất lượng cao hơn, chi phí thấp hơn từ đó hạ giá thành sản phẩm.
- Chính sách của nhà nước về ĐMCN: chính sách phù hợp sẽ có vai trò thúc đẩy doanh nghiệp thực
hiện ĐMCN và ngược lại có thể kìm hãm doanh nghiệp thực hiện ĐMCN. Đây chính là đối tượng nghiên
cứu của luận văn và được phân tích cụ thể tại chương 2.
1.2 Chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ
1.2.1 Khái niệm và vai trò của chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ
Thuật ngữ “chính sách” đang được sử dụng phổ biến trên báo chí, các phương tiện truyền thông và
đời sống xã hội, hiểu quan điểm phổ biến này, chính sách là phương thức hành động được một chủ thể
khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại; còn chính sách kinh tế - xã hội là
tổng thể các quan điểm, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế
- xã hội nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội lặp đi lặp lại, thực hiện những mục tiêu nhất định
theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước.
Về phía Nhà nước, chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định; đặt ra
phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở những nhà quản lý quyết định nào là có thể
và những quyết định nào là không thể. Bằng cách đó, các chính sách hướng suy nghĩ và hành động của mọi
thành viên trong bộ máy nhà nước vào việc thực hiện các mục tiêu chung.
Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới khoa học và công nghệ, Luật Khoa học và
công nghệ nêu vấn đề cơ bản của chính sách đổi mới công nghệ là “khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi
để doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ”
(Khoản 6 Điều 6 Luật Khoa học và công nghệ 2000). Chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ là tổng thể các
quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để nhằm khuyến khích, thúc đẩy sự
đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp, góp phần phát huy và nâng cao hiệu quả cho hệ thống các doanh
7
nghiệp này, nhằm phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.2.2 Mục tiêu chính sách hỗ trợ ĐMCN
Theo quan điểm của Nhà nước, mục tiêu chính sách hỗ trợ ĐMCN bao gồm:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc
gia.
- Đạt được hiệu ứng lan tỏa qua việc cải tiến, ĐMCN của một doanh nghiệp, cộng đồng doanh
nghiệp sẽ tăng đầu tư ĐMCN qua đó xã hội thu được lợi ích, nâng cao dân trí, giảm ô nhiễm môi trường.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thể hiện qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm,
giảm chi phí, giá thành sản phẩm, tăng năng suất lao động.
- Nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp bao gồm năng lực vận hành, tiếp nhận và làm chủ
công nghệ, năng lực hỗ trợ tiếp nhận công nghệ, khả năng cải tiến, sao chép công nghệ nhập và sáng tạo ra
sản phẩm/quy trình mới.
- Mục tiêu về quản lý nhà nước bao gồm: (i) nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về ĐMCN; (ii)
gia tăng số lượng doanh nghiệp ĐMCN; (iii) nâng cao mức đầu tư của doanh nghiệp cho hoạt động ĐMCN.
Như vậy, qua việc đạt được các mục tiêu chính sách ĐMCN, về phía Nhà nước sẽ đảm bảo nguồn
thu ngân sách do các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, đồng thời đạt mục tiêu quản lý nhà nước khi
giảm các tác động xấu do công nghệ cũ gây ra. Về phía doanh nghiệp, ĐMCN tạo khả năng thu được lợi
nhuận lớn hơn, nâng cao chất lượng sản phẩm, năng lực công nghệ, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.3 Nội dung chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ
Các chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ không tồn tại một cách riêng lẻ mà là một hệ thống các
chính sách được quy định từ Luật cho đến văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ. Để hệ
thống hóa, luận văn phân loại thành hai (02) nhóm: nhóm chính sách hỗ trợ gián tiếp và nhóm chính sách hỗ
trợ trực tiếp.
Chính sách hỗ trợ gián tiếp là việc sử dụng các biện pháp thuế, ưu đãi sử dụng đất và những biện
pháp khuyến khích khác được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp,
đất đai và được quy định tại một số điều, khoản trong văn bản quy phạm chuyên ngành khác.
Chính sách hỗ trợ trực tiếp là việc nhà nước kết hợp đầu tư trực tiếp vào một số ngành và doanh
nghiệp cụ thể từ nguồn vốn ngân sách nhà nước để đầu tư tài trợ các đề án, dự án, chương trình nghiên cứu
đổi mới công nghệ đối với DNNVV phần lớn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh
vực khoa học và công nghệ.
1.2.3.1 Chính sách thuế
Thu nhập được miễn thuế:
Thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, sản phẩm đang
trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm, sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu áp dụng tại Việt Nam. (Khoản
3 Điều 4 Luật thu nhập doanh nghiệp).
Luật công nghệ cao có chính sách miễn thuế trong các trường hợp chuyển giao công nghệ (các
Khoản 2, 3, 4, 5 Điều 44 Luật Chuyển giao công nghệ.
Ưu đãi về thuế suất:
Áp dụng thuế suất 10% trong thời gian mười lăm năm đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực
hiện dự án đầu tư mới.
Theo Luật công nghệ cao thì doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao; doanh nghiệp thực hiện dự án nghiên cứu phát triển; dự án ứng dụng công nghệ cao; dự án ươm
8
tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư xây dựng, kinh doanh cơ sở ươm tạo công
nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao thuộc danh
mục công nghệ cao được ưu tiên phát triển theo quy định của pháp luật về công nghệ cao được hưởng ưu đãi
ở mức cao nhất theo quy định của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
1.1.6.3 Chính sách tín dụng khuyến khích ĐMCN
Nhà nước thường sử dụng hai loại tín dụng nhằm hỗ trợ ĐMCN cho DNNVV gồm tín dụng thương
mại của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác; tín dụng ưu đãi của Quỹ ĐMCN quốc gia và Quỹ phát triển
KH&CN.
Tín dụng thương mại của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác: Đây là hình thức tín dụng đáp
ứng nhanh các yêu cầu về vốn để doanh nghiệp đầu tư cho việc nâng cấp máy móc, trang thiết bị để mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, để được hưởng ưu đãi, DNNVV phải đáp ứng các điều kiện theo
thông lệ của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
Tín dụng ưu đãi của các Quỹ cấp quốc gia, cấp bộ, cấp tỉnh, thành phố theo Điều 57 Luật Khoa học
và công nghệ năm 2013 quy định về ưu đãi doanh nghiệp vay vốn để khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng
kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Doanh nghiệp cũng được lập Quỹ phát triển KH&CN để chủ động đầu tư cho KH&CN theo yêu cầu
phát triển của doanh nghiệp. Nguồn vốn của Quỹnày được hình thành từ lợi nhuận trước thuế của doanh
nghiệp và các nguồn khác nếu có. Người môi giới cho việc ứng dụng kết quả KH&CN được tạo ra bằng
ngân sách nhà nước được hưởng tối đa 10% giá thanh toán CGCN, mức cụ thể và trách nhiệm thanh toán
khoản kinh phí này do các bên thoả thuận.
Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia được thành lập theo Quyết định số1342/QĐ-TTg ngày 5 tháng 8
năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ cho phép doanh nghiệp tiếp cận có điều kiện tín dụng ưu đãi với một số
cơ chế bảo lãnh đặc biệt nhằm cấp vốn để doanh nghiệp nâng cấp trang thiết bị sản xuất.
1.1.6.4 Chính sách phát triển thị trường công nghệ
Đề án phát triển thị trường công nghệ ban hành theo Quyết định 214/2005/QĐ-TTg và các giải pháp
chính sách liên quan đã tạo lập cơ sở pháp lý quan trọng cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động nhập
công nghệ vào Việt Nam.
1.1.6.5 Các chính sách hỗ trợ trực tiếp
Bên cạnh những chính sách hỗ trợ gián tiếp nêu trên, Chính phủ và các Bộ, ngành còn áp dụng các
biện pháp hỗ trợ trực tiếp, có khả năng phát huy tác dụng nhanh đối với DNNVV. Cụ thể, qua các chương
trình, đề án hỗ trợ như:
Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp (Chương trình 68): Chương trình này
có 03 nội dung chính là nâng cao nhận thức của xã hội, hỗ trợ xác lập bảo hộ và thực thi quyền, khai thác
thông tin sở hữu trí tuệ (thương mại hóa tài sản trí tuệ) [19].
Chương trình quốc gia nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm sản phẩm, hàng hóa của doanh
nghiệp Việt Nam đến năm 2020 (Chương trình 712) [20]: Hiện Bộ Khoa học và Công nghệ đang triển khai
02 dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt gồm Dự án “xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật” và Dự án “thúc đẩy hoạt động năng suất và chất lượng”.
Các chương trình khác: Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020, Chương trình hỗ
trợ thí điểm các DNNVV áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và các tiêu chuẩn
quốc tế khác.
9
1.1.6.5 Chính sách đào tạo, truyền thông nâng cao nhận thức về đổi mới công nghệ
Nguồn nhân lực có trình độ là yếu tố quan trọng để thực hiện đổi mới công nghệ. Vấn đề này được
nhà nước quan tâm qua các chính sách về đào tạo, thu hút, sử dụng có hiệu quả nhân lực có trình độ, nhân
lực chất lượng cao nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và chủ động đề xuất, tham gia vào quá trình ĐMCN
ở doanh nghiệp. Ngoài ra, qua việc truyền thông, nhà nước nâng cao nhận thức của xã hội và cộng đồng
doanh nghiệp, từ đó tạo thành sức ép đối với doanh nghiệp trong hoạt động ĐMCN nhằm tạo ra các sản
phẩm thân thiện với môi trường, được thị trường chấp nhận.
1.2 Các tiêu chí đánh giá chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ
Qua nghiên cứu văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam có liên quan tới chính sách và tài liệu
nước ngoài [27] về đánh giá chính sách, có thể xác định được những tiêu chí cơ bản sau:
- Tính hiệu quả của chính sách (efficiency) phản ánh tương quan so sánh giữa kết quả do chính sách
mang lại với nguồn lực (resources) đã bỏ ra. Phương pháp phân tích chi phí - lợi ích thường được sử dụng
để xác định hiệu quả của chính sách. Nếu không quan tâm tính toán hiệu quả sẽ dẫn đến lãng phí các nguồn
lực thực thi chính sách. Đây là một tiêu chí rất quan trọng trong đánh giá chính sách công. Song việc đánh
giá hiệu quả của chính sách cũng là khâu khó khăn trong đánh giá chính sách, bởi lẽ các hiệu quả (thể hiện
qua hiện trạng, kết quả đạt được) đôi khi định tính, rất khó đo lường.
- Tính hiệu lực của chính sách (effectiveness) phản ánh mức độ tác động, ảnh hưởng của chính sách
đó đạt được các mục tiêu chính sách đề ra. Trên thực tếm mục tiêu được đề ra thường quá rộng, chung
chung, không rõ ràng, khi đó dù các chính sách có được thực thi trên thực tế theo mục tiêu đề ra, thì cũng
rất khó xác định vấn đề chính sách đã được giải quyết đến đâu. Mặt khác khi xem xét tính hiệu lực của
chính sách, chúng ta không biết những gì sẽ xảy ra nếu chính sách không được ban hành (giả thiết ngược).
Cả hai tiêu chí trên hiện nay đều thu được sự đồng thuận của những người đánh giá chính sách quốc
tế, gộp thành tiêu chí ảnh hưởng (impact) và tiêu chí tương quan (relevance), từ đó hình thành khái niệm,
phương pháp đánh giá ảnh hưởng của chính sách (Impact Assessment).
- Tính bền vững, ổn định của chính sách, tiêu chí này phản ánh hiệu lực, hiệu quả của chính sách
được duy trì trong thời kỳ, giai đoạn mà chính sách được thực hiện.
- Ngoài ra, ở Việt Nam còn xem xét chính sách theo các tiêu chí kỹ thuật, quy trình ban hành chính
sách, tiêu chí này đánh giá: (i) về sự cần thiết ban hành chính sách; (ii) tiêu chí về sự phù hợp của nội dung
chính sách dự kiến ban hành với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; (iii) đánh giá tính khả thi của
chính sách, xem xét sự phù hợp giữa chính sách với điều kiện kinh tế - xã hội; có cơ chế bảo đảm thực thi
chính sách theo hướng xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục thực hiện.
1.3 Một số kinh nghiệm, bài học quốc tế về hỗ trợ DNNVV đổi mới công nghệ
Kinh nghiệm của các nước cho thấy các nước phát triển, đại diện là Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, có những
thành tựu lớn về kinh tế, xã hội đều có mức đầu tư cho đổi mới công nghệ trên 3% GDP. Các nước đang phát
triển, đại diện là Trung Quốc cũng đầu tư cho cho khoa học và công nghệ với tỷ lệ trên 2%. Trong đó, tỷ lệ
doanh nghiệp đầu tư cho đổi mới công nghệ sẽ đóng vai trò chính, quan trọng trong việc phát triển khoa học
và công nghệ quốc gia.
Sau đây là nội dung cơ bản về chính sách hỗ trợ đối với các DNNVV đổi mới công nghệ đã được áp
dụng với các nước trên trong thời gian qua:
- Về pháp lý đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa:
10
Một số nước đã ban hành đạo luật riêng về DNNVV, trong đó chỉ quy định những vấn đề riêng có
liên quan trực tiếp đến DNNVV, như xác định quy mô nào là DNNVV, đường lối chính sách chủ yếu đối với
DNNVV.
- Về chính sách khuyến khích việc thành lập các DNNVV sử dụng công nghệ:
Xây dựng các khu công nghiệp tập trung dành cho DNNVV để khuyến khích các DNNVV phát triển
sản xuất, tránh sự tập trung quá mức ở các đô thị và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động hỗ trợ tập
trung khác, cũng như để kiểm soát môi trường.
- Về chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa:
Miễn hoặc giảm thuế cho DNNVV với các loại sau: Thuế thu nhập, thuế môn bài, thuế lợi tức công
ty, thuế tài sản với mức tối đa đến 50%, thời hạn từ 02 đến 05 năm kể từ khi thành lập đối với doanh nghiệp
khoa học và công nghệ. Cho phép khấu trừ 1,5% thu nhập hay khoảng 20% doanh thu trước khi tính thuế để
khuyến khích phát triển công nghệ.
- Về chính sách tài chính, tín dụng, đầu tư:
+ Hỗ trợ tài chính cho việc hiện đại hóa máy móc thiết bị.
+ Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới thành lập có áp dụng công nghệ thông tin
vào công tác quản lý và phân tích kinh tế.
+ Hỗ trợ tài chính cho DNNVV mới thành lập ứng dụng công nghệ mới.
+ Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển mạng lưới thông tin tiếp thị.
- Về các quỹ của Chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới công nghệ:
+ Quỹ bảo lãnh tín dụng công nghiệp cho DNNVV.
+ Quỹ hỗ trợ DNNVV mới thành lập
+ Quỹ bảo lãnh tín dụng nói chung giúp các DNNVV sử dụng công nghệ mới và phát triển công
nghệ.
- Thông tin công nghệ:
+ Hỗ trợ về thông tin thị trường, tiếp thị.
+ Thành lập Viện công nghệ chuyên nghiên cứu hỗ trợ phát triển công nghệ cho DNNVV.
+ Chính phủ lập kế hoạch phát triển công nghệ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua việc dành
một số vốn ngân sách sản xuất sản phẩm mới; liên quan tới sản xuất và sử dụng nguyên vật liệu mới; liên
quan đến tự động hóa hay các máy móc thiết bị có năng suất cao; liên quan đến các phần mềm tin học…
- Về hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực:
+ Các tổ chức hỗ trợ DNNVV của Nhà nước tuyển chuyên gia về công nghệ, kỹ thuật và quản lý
nước ngoài để hỗ trợ cho DNNVV.
+ Lựa chọn và tổ chức đội ngũ chuyên gia trong nước để đáp ứng nhu cầu tư vấn cho DNNVV.
+ Chọn một số tổ chức nghiên cứu, các trường đại học làm “các đơn vị hướng dẫn chuyên ngành” và
khuyến khích các cơ quan này tự tổ chức và cung cấp dịch vụ hỗ trợ DNNVV.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ CHO DNNVV Ở VIỆT NAM
2.1 Sự hình thành chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ
2.1.1 Chủ trương, đường lối của Đảng về hỗ trợ đổi mới công nghệ
Đảng và Nhà nước ta đã luôn nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ
gắn với việc tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của đất nước.
11
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) nêu yêu cầu đối với lĩnh vực hoạt động khoa học
tự nhiên và công nghệ là “phải tập trung vào việc cải tạo, đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong
nước hiện có, hiện đại hóa những công nghệ truyền thống có ý nghĩa kinh tế, xã hội cao, lựa chọn tiếp thu
công nghệ mới. Tập trung phát triển trọng điểm một số lượng công nghệ hiện đại…”. Nghị quyết Đại hội đã
đề ra mục tiêu phải đạt tốc độ đổi mới công nghệ hàng năm của các ngành sản xuất từ 10% trở lên, trong đó
tập trung vào việc ứng dụng công nghệ tiến bộ.
Nghị quyết lần thứ 2 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 12/1996) đã tập trung
nêu định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ này và nhiệm vụ đến năm 2000,
trong đó nêu rõ giai đoạn 1996-2000 ứng dụng, chuyển giao công nghệ là hoạt động chính về công nghệ.
Tạo được khả năng lựa chọn, thích nghi và làm chủ các công nghệ nhập khẩu; đi thẳng vào công nghệ tiên
tiến nhất; đồng thời đổi mới công nghệ từng phần, hiện đại hóa từng khâu đối với những lĩnh vực có cơ sở
vật chất kỹ thuật và sản xuất có hiệu quả.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001) đã xác định phương hướng đổi mới công nghệ ở
nước ta đến năm 2010 là: “Việc đổi mới công nghệ sẽ hướng vào chuyển giao công nghệ, tiếp thu, làm chủ
công nghệ mới; đặc biệt lựa chọn những công nghệ cơ bản, có vai trò quyết định đối với nâng cao trình độ
công nghệ của nhiều ngành, tạo ra bước nhảy vọt về chất lượng và hiệu quả phát triển của nền kinh tế”.
Hội nghị Trung ương 6 Khóa IX (tháng 7/2002) đã đề ra phương hướng phát triển khoa học và công
nghệ đến năm 2005 và đến năm 2010. Hội nghị đã nêu rõ những nhiệm vụ cụ thể là:
- Đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân; chú trọng chuyển
giao tiến bộ kỹ thuật và thành tựu khoa học và công nghệ.
- Đổi mới tổ chức và cơ chế pháp lý, nâng cao trình độ quản lý khoa học và công nghệ, tạo động lực
phát huy mạnh mẽ năng lực nội sinh, giải phóng sức sáng tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động
khoa học và công nghệ.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 20-NQ/TW
ngày 01/11/2012) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đặt ra nhiệm vụ và giải
pháp về đổi mới công nghệ, cụ thể là “có cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ theo hướng ứng dụng công
nghệ mới, công nghệ hiện đại; hỗ trợ nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao, mua thiết kế, thuê chuyên
gia trong nước và nước ngoài thuộc các lĩnh vực ưu tiên, doanh nghiệp mua công nghệ từ các viện nghiên
cứu, trường đại học trong nước”.
Về cơ bản, những chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về đổi mới công nghệ là nền tảng
quan trọng để các chính sách hỗ trợ cụ thể được xây dựng, ban hành và triển khai trong thực tiễn.
2.1.2 Thể chế hóa đường lối chính sách thành pháp luật về đổi mới công nghệ
Thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng về ĐMCN. Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong đó có các chính sách hỗ trợ,
ưu đãi DNNVV đổi mới công nghệ. Hệ thống chính sách hỗ trợ DNNVV đổi mới công nghệ được quy định
từ Luật của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư của Bộ
trưởng. Các văn bản luật có nội dung hỗ trợ ĐMCN cho DNNVV: Luật Khoa học và công nghệ; Luật Sở
hữu trí tuệ; Luật Chuyển giao công nghệ; Luật Công nghệ cao; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp; Luật Đầu
tư; Luật Đất đai. Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách cụ thể để thúc đẩy hoạt động này ở DNNVV trong
các Nghị định, Quyết định Thủ tướng và Thông tư của các Bộ trưởng.
12
2.2 Thực trạng chính sách hỗ trợ ĐMCN cho DNNVV
2.2.1 Thực trạng ĐMCN của các doanh nghiệp Việt Nam
2.2.1.1 Thực trạng trình độ công nghệ của DNNVV
Theo báo cáo của WEF, trình độ công nghệ của Việt Nam còn hạn chế, đứng thứ 98/142 năm 2011;
báo cáo đánh gia theo tiêu chuẩn công nghệ (UNIDO, 2006) thì trình độ công nghệ sản xuất của Việt Nam
tương đối thấp, chỉ có 20,6% doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến, 20,7% doanh nghiệp sử dụng công
nghệ trung bình và 58,7% doanh nghiệp sử dụng công nghệ thấp. Theo kết quả điều tra về nhu cầu cần trợ
giúp của các DNNVV ở các tỉnh phía bắc (30 tỉnh) do Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật DNNVV, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư (2007) thực hiện với sự hỗ trợ về kinh phí của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) cho
thấy:
- Trong tổng số 10.994 doanh nghiệp sản xuất chỉ có 879 doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến
(chiếm 8%), có 5.501 doanh nghiệp sử dụng công nghệ trung bình (50%) và có 4.614 doanh nghiệp còn lại
sử dụng công nghệ lạc hậu (42%).
- Về nhu cầu tư vấn, đào tạo công nghệ: trong tổng số 10.994 doanh nghiệp điều tra chỉ có 621
doanh nghiệp có nhu cầu đạo tạo về tự động hóa, 540 doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về kỹ thuật điện,
456 doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về công nghệ tạo khuôn, 440 doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về
công nghệ hàn, 396 doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về công nghệ chế tạo máy.
- Về nhu cầu thông tin công nghệ: có 39,6 doanh nghiệp có nhu cầu cung cấp thông tin về chính
sách liên quan đến doanh nghiệp, có 25,94% số doanh nghiệp có nhu cầu cung cấp thông tin về công nghệ
mới, có 21,8% doanh nghiệp có nhu cầu cung cấp thông tin về trang thiết bị tiên tiến và có 2,06% số doanh
nghiệp có nhu cầu cung cấp thông tin kỹ thuật cụ thể khác, số doanh nghiệp còn lại yêu cầu cung cập thông
tin về thị trường, năng lực sản xuất hàng hóa cũng chủng loại.
Theo báo cáo của Bộ Khoa học và công nghệ, trong năm 2012 ước tính đầu tư đổi mới công nghệ từ
nguồn doanh nghiệp nhà nước và nguồn ngoài ngân sách đạt khoảng 300 triệu USD, đạt 33% so với tổng đầu
tư toàn xã hội về khoa học và công nghệ.
Kết quả điều tra 8.000 DNNVV của CIEM (2012) chứng tỏ rằng các doanh nghiệp Việt Nam đang
nỗ lực sản xuất các sản phẩm cũ một cách hiệu quả hơn qua việc cải thiện quy trình thực hiện và chất lượng
sản phẩm, thay vì mở rộng sang các ngành mới.
Hình 2.4 Chiến lược nâng cấp của các doanh nghiệp
Nguồn: Khảo sát của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
13
2.2.1.2 Về ưu đãi miễn, giảm thuế, ưu đãi sử dụng đất cho DNNVV
Theo số liệu của Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê, c tính trong c c u thu ngânướ ơ ấ
sách nh n c thì DNNVV nà ướ ăm 2014 theo chính sách thuế TNDN thì tổng thu dự kiến giảm
khoảng 2.000 tỷ đồng do áp dụng thuế suất 20% đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, khoảng 2.080
tỷ đồng do bổ sung đối tượng ưu đãi và ưu đãi đối với đầu tư mở rộng trong đó có phần hỗ trợ DNNVV đổi
mới công nghệ [5].
Kể từ khi Luật Đất đai 2003 có hiệu lực, với các cơ chế chính sách mới được ban hành, các doanh
nghiệp đã tạo được nhiều điều kiện hơn để tiếp cận đất đai, mặt bằng.
2.2.2 Thực trạng chính sách phát triển thị trường công nghệ
Tổng số các Hợp đồng chuyển giao công nghệ đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận hoặc phê
duyệt từ năm 1999 đến tháng 6/2012 trên toàn quốc là 838 hợp đồng. Trong đó, số hợp đồng CGCN thuộc
các dự án FDI chiếm trên 50%. Nội dung các hợp đồng CGCN thường tập trung vào việc chuyển giao quy
trình công nghệ 82%; bí quyết công nghệ 80%; trợ giúp kỹ thuật 87%; đào tạo 78%; chuyển giao quyền sở
hữu công nghiệp 21%, (trong đó, có nhiều Hợp đồng chuyển giao đồng thời nhiều đối tượng công nghệ nêu
trên). Số liệu thống kê Hợp đồng CGCN các năm còn cho thấy, đa số các Hợp đồng CGCN thuộc các dự án
FDI.
Nhiều hoạt động xúc tiến phát triển thị trường công nghệ đã được triển khai, điển hình là chợ công
nghệ và thiết bị (Techmart). Số lượng giao dịch mua bán công nghệ giai đoạn 2006 - 2010 đã tăng hơn 3 lần,
tổng giá trị giao dịch thông qua các hợp đồng được ký kết đã tăng gần 2,5 lần so với giai đoạn 2001-2005 và
đạt gần 6.000 tỷ đồng. Nếu tính cả công nghệ, thiết bị được giao dịch thông qua các Hội chợ sản phẩm mới
thì tổng giá trị các hợp đồng mua bán công nghệ ước tính đạt khoảng 20.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, số Hợp đồng chuyển giao công nghệ được đăng ký/phê duyệt lại chiếm tỷ lệ rất thấp,
trong đó khoảng trên 90% các dự án FDI là có nội dung công nghệ, nhưng chưa được xem xét đúng mức
trong quá trình thẩm định do quy định về hồ sơ ngày càng đơn giản (không có nội dung giải trình về công
nghệ trong hồ sơ dự án) [2].
2.2.1.4 Thực trạng chính sách hỗ trợ trực tiếp ĐMCN
Trong giai đoạn 2002-2007, các cơ quan thực hiện chính sách đã nhận được 500 đề xuất nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp và thực hiện triển khai được 111 đề tài với
tổng kinh phí hỗ trợ là 105,8 tỷ đồng. Từ 2008 đến nay, đã và đang triển khai hỗ trợ cho 30 đề tài nghiên cứu
khoa học và đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp (chủ yếu là DNNVV) thực hiện với tổng kinh phí khoảng
38 tỷ đồng và hiện đã giải ngân trên 15 tỷ đồng [7].
Bộ Khoa học và Công nghệ đã hỗ trợ bảo lãnh vay vốn cho 54 dự án sử dụng tiết kiệm và hiệu quả
năng lượng do 53 đơn vị thực hiện từ năm 2007 đến nay với tổng kinh phí bảo lãnh nguồn vốn vay khoảng
35 tỷ đồng.
Về hỗ trợ doanh nghiệp bảo hộ sở hữu công nghiệp, theo thống kê của Ban Thư ký Chương trình 68,
tính đến tháng 8/2013 đã có 325/579 dự án được phê duyệt và 212/325 dự án được hỗ trợ triển khai (chiếm
56,23%), với tổng kinh phí gần 70 tỷ đồng, tăng 31.35 % so với giai đoạn 2005 -2010; có 34 dự án trung
ương quản lý được đánh giá, nghiệm thu (16 dự án xây dựng, quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý; 9 dự án tạo
lập, quản lý và phát triển nhãn hiện chứng nhận; 8 dự án tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu tập thể; 1 dự
án ứng dụng) và 61 dự án được ủy quyền cho địa phương quản lý.
Tính đến hết năm 2011, đã có 6 danh mục dự án được phê duyệt với tổng số 144 dự án; đã tổ chức 6
đợt tiếp nhận với tổng số 177 hồ sơ đăng ký chủ trì thực hiện dự án, 112 dự án được tuyển chọn thực hiện,
14
trong đó 54 dự án đã kết thúc. Tổng kinh phí hỗ trợ từ Chương trình tính đến hết tháng 12/2011 là 74,705 tỷ
đồng.
2.2.1.5 Thực trạng nguồn nhân lực cho ĐMCN
Theo các số liệu điều tra gần đây cho thấy nguồn nhân lực chất lượng cao trong các DNNVV chiếm
7,24% lực lượng lao động, trong đó có 71,9% trình độ đại học, 26,9% cao đẳng, 0,9% thạc sĩ, trình độ tiến sĩ
là 0,14% [10].
Số liệu điều tra 8.000 DNNVV phản ánh có tới 82% doanh nghiệp cho rằng người lao động chính
mang lại chuyển giao công nghệ là người Việt Nam, 17% cho rằng chuyển giao công nghệ từ lao động nước
ngoài, số ít còn lại nhận được chuyển giao từ người Việt Nam hồi hương. Tương tự, tỷ lệ chuyển giao trung
bình đến từ lao động Việt Nam từng làm việc cho doanh nghiệp FDI là 29%, so với 81% đến từ lao động
Việt Nam từng làm việc cho doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nhà nước[15].
Điều này cho thấy khu vực tư nhân trong nước cũng có thể là nguồn chuyển giao hoặc lan tỏa công nghệ
mạnh mẽ thông qua hiệu ứng dịch chuyển lao động.
2.3 Đánh giá chính sách hỗ trợ DNNVV đổi mới công nghệ
2.3.1 Những ưu điểm của chính sách hỗ trợ DNNVV đổi mới công nghệ
Trong công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ngày nay, kết quả ĐMCN ở nước ta đã
có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các cơ quan ban hành và
thực thi chính sách đã nỗ lực cải cách, đổi mới trong hệ thống quản lý khoa học và công nghệ hòa nhịp với
sự đổi mới chung về kinh tế - xã hội, đặc biệt trong 10 năm gần đây với những tiến bộ trong quản lý Nhà
nước bằng công cụ chính sách, pháp luật, đổi mới phương thức thực hiện chính sách đổi mới công nghệ, phát
huy tính tự chủ, phát triển doanh nghiệp khoa học và thị trường công nghệ, hình thành hành lang pháp lý
thuận lợi và đồng bộ cho hoạt động đổi mới công nghệ.
2.3.2 Những hạn chế, bất cập trong quá trình đổi mới công nghệ
2.3.2.1 Trình độ công nghệ của các ngành kinh tế còn thấp
Trình độ công nghệ của nền kinh tế nói chung, kể cả của ngành công nghiệp nói riêng cũng còn rất
thấp. Tỷ trọng doanh nghiệp có công nghệ cao của Việt Nam mới đạt khoảng 20,6%, thấp xa so với con
số tương ứng Thái Lan là 31%, Malayxia 51% và Singapore là 73%. Các dự án đầu tư nước ngoài vào các
khu công nghiệp chủ yếu có quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD/1 dự án). Lĩnh vực đầu tư chủ yếu là các ngành
công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động như dệt, may, các ngành có công nghệ cao còn rất ít.
Trình độ công nghệ thấp chính là lý do hạn chế hiệu quả tăng trưởng kinh tế, hạn chế tốc độ tăng
trưởng giá trị gia tăng, làm cho doanh nghiệp Việt Nam luôn chịu thua thiệt trong quan hệ thương mại quốc
tế, và cũng ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng trong dài hạn khi các dấu hiệu lợi thế về lao động rẻ ở nước
ta đang mất dần và năng lực cạnh tranh tăng trưởng bị giảm đi một cách tương đối.
2.3.2.2 Hoạt động chuyển giao công nghệ kém hiệu quả
Trong thời gian qua, Việt Nam cũng đã xây dựng nhiêu cơ chế, chính sách ưu đãi tới việc chuyển
giao công nghệ qua thu hút FDI. Tuy nhiên quy mô và hiệu quả không cao. Trình độ lao động thấp, năng lực
công nghệ yếu kém của doanh nghiệp trong nước, và sự thiếu liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh
nghiệp trong nước là những hạn chế cho quá trình chuyển giao công nghệ thông qua FDI ở Việt Nam. Các
doanh nghiệp chỉ thực hiện những khâu đơn giản nhất trong dây chuyền sản xuất tại Việt Nam, còn việc thiết
kế, xác định dung lượng và các khâu tinh vi khác đều được quyết định bởi công ty mẹ ở nước ngoài. Đây
là mô hình gia công giản đơn điển hình, dựa vào nguồn lao động rẻ, tiêu tốn năng lượng, đòi hỏi giao thông
15
và hạ tầng logistic tốt và cạnh tranh dựa trên giá. Với mô hình này thì sẽ rất khó có thể tạo ra tác động tràn
tích cực từ khu vực FDI.
2.3.2.3 DNNVV nghiên cứu và triển khai trong nước hạn chế
Mặc dù số lượng các tổ chức khoa học công nghệ tăng lên đáng kể, nhưng chất lượng hoạt động
và năng lực sáng tạo công nghệ của các tổ chức này còn thấp và số tổ chức KHCN trong các trường đại học
và khu vực ngoài nhà nước còn rất thấp. Đầu tư hàng năm cho hoạt động khoa học và công nghệ chỉ chiếm
dưới 2% tổng chi ngân sách nhà nước, kết quả nghiên cứu khoa học được ứng dụng vào thực tiễn chỉ rất ít do
lỗi thời hoặc không còn phù hợp.
Về đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam rất thấp so với yêu cầu phát
triển nền kinh tế và nhịp độ tăng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian gần đây.
Theo kết quả tham khảo ý kiến các nhà khoa học, công nghệ do Bộ Khoa học và công nghệ thực hiện
năm 2013. Vấn đề gây khó khăn nhất đối với người làm công tác nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ ở Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư, có đến 81% ý kiến cho rằng thủ tục đầu tư còn rườm rà, tốn thời
gian, 79% ý kiến cho rằng đầu tư từ ngân sách nhà nước còn dàn trải, nhỏ lẻ.
Bảng 2.1: Kết quả khảo sát ý kiến chuyên gia, nhà khoa học về đầu tư nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ
Đầu tư dàn
trải nhỏ lẻ
Thủ tục rườm rà,
tốn thời gian
Đầu tư không
có mục tiêu
Đầu thầu tốn
thời gian
Tham
nhũng
34/43 35/43 10/43 16/43 5/43
79% 81% 23% 37% 11%
Nguồn: Bộ Khoa học và công nghệ, 2013
Hạn chế nữa thể hiện thông qua việc thương mại hóa các sản phẩm công nghệ còn khiêm tốn. Muốn
có công nghệ mới cần phải có đầu tư và tạo lập liên kết với các trường đại học. Hiện tại, số bằng phát minh
sáng chế của các trường đại học với tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới là 0, trong khi đó Singapore là 995, Thái
Lan 158, Malaysia 147, Philippin 76[6].
2.3.3 Nguyên nhân những hạn chế của chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ
Các chính sách hỗ trợ DNNVV đổi mới công nghệ chưa chú ý tới đặc điểm về quy mô nhỏ và rất nhỏ
của phần lớn các DNNVV tại Việt Nam. Chính sách miễn, giảm thuế và ưu đãi sử dụng đất mới chỉ là điều
kiện cần nhưng không đủ sức hấp dẫn hoặc bù đắp lại những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải khi đầu tư
vào lĩnh vực khoa học công nghệ tại các vùng khó khăn hoặc phải đầu tư dài hạn như về nguồn nhân lực, cơ
sở hạ tầng, các hoạt động khoa học và công nghệ liên kết với các trường đại học, viện nghiên cứu.
DNNVV cần liên kết ngang mạnh mẽ hơn quan việc sử dụng các dịch vụ thuê ngoài, có thể từ các
viện nghiên cứu, trung tâm của các trường đại học, các công ty tư vấn, các nhà cung cấp dịch vụ để tự tìm
biện pháp thích hợp để đổi mới công nghệ hoặc sáng tạo ra các sản phẩm mới cho thị trường.
DNNVV cũng cần tạo cơ chế áp dụng hình thức đối tác công - tư (PPP) trong những nghiên cứu
quan trọng, có khả năng ứng dụng, lan tỏa làm đổi mới công nghệ của DNNVV.
Về các chính sách ứng dụng và chuyển giao công nghệ: Theo báo cáo điều tra năm 2011 của Viện
nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương, chỉ có khoảng 8% doanh nghiệp chỉ tiến hành hoạt động R&D,
trong khi khoảng 5% chỉ cải tiến công nghệ sẵn có.
16
Hình 2.5: R&D và cải tiến công nghệ
Nguồn: Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương 2011
Ngoài ra, các DNNVV thường thiếu vốn cho đổi mới công nghệ, việc vay vốn ngân hàng rất khó
khăn, phải có tài sản để thế chấp theo thông lệ chung. Mặt khác, thông thường vay ngân hàng thì phải trả
sớm, trước khi công nghệ mới phát huy tác dụng. Trong khi đó, các quỹ của nhà nước và vốn đầu tư mạo
hiểm rất khó tiếp cận. Khảo sát của Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương năm 2012 có cho thấy
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ thường bằng nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Hình 2.6: Huy động vốn cho cải tiến công nghệ
Nguồn: Báo cáo “Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp (DN) tại Việt Nam: Kết
quả điều tra năm 2012”
Khi có nhu cầu đổi mới công nghệ, DNNVV thường thực hiện theo cách thức doanh nghiệp tự tìm
hiểu áp dụng công nghệ đã được sử dụng bởi các doanh nghiệp trong cùng ngành hàng hoặc tự tìm kiếm
công nghệ ở nước ngoài theo hiệu ứng lan tỏa. Tuy nhiên, do thiếu thông tin về công nghệ, thiếu chuyên gia
đánh giá và tư vấn công nghệ cũng như các tổ chức môi giới công nghệ trong nước nên khả năng doanh
nghiệp gặp rủi ro rất cao.
Công nghệ chuyển giao theo kênh FDI từ các công ty nước ngoài vào Việt Nam thường chỉ được
triển khai để sản xuất các mặt hàng cụ thể, nhưng hầu như không được chuyển giao hẳn cho đối tác Việt
Nam. Chỉ có một số lĩnh vực, công nghệ nhập được đánh giá là tiên tiến so với các nước trong khu vực. Đa
số bên giao công nghệ theo kênh FDI có quyền sắp đặt hợp đồng chuyển giao công nghệ với các điều khoản
có lợi cho bên giao, đặt giá thành cao cho chuyển giao công nghệ. Hầu như không có doanh nghiệp FDI đặt
các tổ chức nghiên cứu và phát triển của mình tại Việt Nam. Theo đánh giá của các chuyên gia, hiệu ứng lan
tỏa công nghệ của doanh nghiệp FDI vào Việt Nam rất thấp.
17
Về các chương trình thúc đẩy sáng tạo, bảo hộ sở hữu trí tuệ, thị trường công nghệ: Ngoài hoạt
động tương đối sôi động tại các chợ công nghệ và thiết bị, nhìn chung hoạt động của thị trường công nghệ
còn chưa phát triển. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn cung công nghệ trong nước còn nghèo nàn; số lượng
và chất lượng giao dịch công nghệ còn hạn chế; mạng lưới tổ chức dịch vụ mua bán, chuyển giao công nghệ
chưa phát triển; môi trường pháp lý để thị trường công nghệ vận hành còn chưa đầy đủ.
Mặt khác, công nghệ được mua bán chủ yếu trên thị trường là thiết bị, máy móc và dây chuyền công
nghệ toàn bộ. Các giao dịch mua bán công nghệ ở dạng tài sản trí tuệ như các pa-tăng, li-xăng và bí quyết
công nghệ còn rất hạn chế. Các tổ chức khoa học và công nghệ trong nước chỉ đáp ứng được một phần rất
nhỏ nhu cầu công nghệ của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu của các tổ chức khoa học và công nghệ trong
nước được áp dụng vào sản xuất kinh doanh không cao. Ngay cả các đề tài có kết quả nghiên cứu khoa học
được áp dụng vào sản xuất kinh doanh cũng không có nhiều đề tài đăng ký được văn bằng sáng chế; có nghĩa
là các đề tài nghiên cứu dẫn đến công nghệ mới rất ít.
Chương trình 68 chủ yếu chỉ tập trung hỗ trợ tạo lập, quản lý và phát triển đối tượng quyền SHTT,
một số tài sản trí tuệ có giá trị khác chưa được đưa vào Chương trình. Để có thể nâng cao giá trị và khả năng
cạnh tranh của sản phẩm nói chung và tài sản trí tuệ nói riêng, việc chỉ sử dụng công cụ pháp luật về bảo hộ
quyền SHTT là chưa đủ, cần phải sử dụng đồng thời nhiều các biện pháp khác như áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng, khai thác giá trị thương mại
Phạm vi hỗ trợ các hoạt động nhằm thương mại hóa sản phẩm còn chưa bám sát nhu cầu của
DNNVV như không huy động được các nguồn tài trợ để hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết
bị…, điều này đã gây khó khăn trong công tác hỗ trợ phát triển và khai thác thương mại đối với các đặc sản
của địa phương. Vì vậy, cần mở rộng phạm vi và tăng cường công tác “hỗ trợ triển khai các hoạt động nhằm
thương mại hóa sản phẩm được bảo hộ quyền SHTT”, đặc biệt là các đặc sản địa phương có tính chiến lược,
có tiềm năng xuất khẩu.
Về chính sách nguồn nhân lực có trình độ: Nhận thức về các cơ hội và thách thức của DNNVV về
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của các doanh nghiệp còn chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, trình độ
nguồn nhân lực trực tiếp sản xuất, cung cấp dịch vụ của các DNNVV còn thấp, chủ yếu chỉ có nhân lực để
tiếp nhận công nghệ, lắp đặt, vận hành thiết bị mà chưa hoàn toàn làm chủ công nghệ, thiết bị. Trong khi đó,
cơ cấu đào tạo nước ta hiện nay vẫn còn bất cập, chưa hợp lý, bình quân cơ cấu đào tạo của thế giới là 01
sinh viên đại học, 04 trung cấp và 10 công nhân kỹ thuật, nhưng ở Việt Nam tỷ lệ là 01 đại học 1,3 trung cấp
và 0,9 công nhân kỹ thuật. Như vậy, trong thời gian tới cơ cấu lao động trẻ ở Việt Nam còn thiếu cả thầy, cả
thợ.
Việc hoạch định chính sách về đổi mới công nghệ chưa được chủ động thực hiện một cách khoa học.
Chính sách là những định hướng lớn để xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật. Việc hoạch định các chính
sách về đổi mới công nghệ phải đặt trong mối quan hệ với các chính sách về kinh tế, công nghiệp, thương
mại. Hoạch định chính sách đúng đắn về đổi mới công nghệ có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ trong xây
dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật về đổi mới công nghệ khuyến khích phát triển giao dịch giữa
các doanh nghiệp với doanh nghiệp và doanh nghiệp với cơ quan thực hiện chính sách.
Một trong những biểu hiện là việc Chính phủ chậm trễ ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng
dẫn thi hành luật; Bộ, cơ quan ngang bộ chậm trong hướng dẫn thi hành nghị định của Chính phủ. Ngay cả
trong quá trình hoạch định chính sách các Bộ cũng không thống nhất với nhau về cơ chế tài chính trong phát
triển khoa học và đổi mới công nghệ giữa Bộ Khoa học và Công nghệ với Bộ Tài chính. Việc triển khai cũng
18
gặp chậm trễ như trường hợp Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia được thành lập từ năm 2003
nhưng sau 5 năm mới chính thức đi vào hoạt động.
Năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức hoạch định, thực hiện chính sách còn
thấp và không đồng đều. Cán bộ, công chức chính là người thực hiện các nhiệm vụ của cơ quan nhà nước
nên chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức quyết định chất lượng hoạt động của các cơ quan. Chính sách về
hỗ trợ đổi mới công nghệ cũng do các cơ quan của Chính phủ trình ban hành, hoặc ban hành theo thẩm
quyền nên chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tham gia xây dựng chính sách trong cơ quan hành chính, mà
chủ yếu là trong Bộ, cơ quan ngang Bộ đóng vai trò quyết định. Sự hạn chế về năng lực cũng không cho
phép cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật xử lý thông tin chính xác, dự báo được xu hướng
vận động khách quan qua đó truyền tải những nội dung chính sách vào trong một văn bản quy phạm pháp
luật phù hợp.
Qua phân tích kết quả đạt được cũng như những hạn chế, tồn tại của các chính sách hỗ trợ DNNVV
đổi mới khoa học và công nghệ, có thể nhận thấy các chính sách còn nhiều vấn đề thực tiễn chưa giải quyết,
chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp đặc biệt là DNNVV. Điều này không chỉ giảm tính bền vững
của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay mà còn làm chậm quá trình chuyển đổi mô hình phát triển của nước
ta từ cách thức phát triển theo chiều rộng dựa trên chi phí lao động thấp và phân bổ lại lao động từ nông
nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ cũng như ảnh hưởng tới mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DNNVV ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
3.1 Bối cảnh, cơ hội và thách thức đối với DNNVV đổi mới công nghệ
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng, biểu hiện quá trình hợp tác để
phát triển vừa là quá trình đấu tranh giữa các nước để duy trì sự cạnh tranh và lợi ích của quốc gia.
Để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, những yêu cầu về tăng
năng suất lao động, thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, đổi mới
phương thức tổ chức quản lý, đang được đặt ra ngày càng cấp thiết hơn. Đặc biệt, các thành tựu to lớn của
công nghệ thông tin - truyền thông, xu hướng phổ cập Internet, phát triển thương mại điện tử, kinh doanh
điện tử, ngân hàng điện tử, Chính phủ điện tử, v.v đang tạo ra các lợi thế cạnh tranh mới của các quốc gia
và từng doanh nghiệp.
Đối với các nước đang phát triển nếu không chủ động tự đổi mới, cải cách hành chính, chuẩn bị hạ
tầng cho việc phát triển kinh tế thì nguy cơ tụt hậu ngày càng xa và hệ quả là các DNNVV chậm đổi mới
công nghệ, chất lượng sản phẩm không đạt tiêu chuẩn của các thị trường quốc tế dẫn tới thua thiệt trong việc
xuất khẩu vào thị trường quốc tế.
Để thích ứng với bối cảnh trên, các nước phát triển đang điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng
nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường; đẩy
mạnh chuyển giao những công nghệ tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm cho các nước đang
phát triển. Nhiều nước đang phát triển dành ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực KH&CN trình độ cao, tăng mức
đầu tư cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ cho DN đặc biệt là DNNVV theo một số hướng công nghệ cao
chọn lọc; tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - truyền thông; nhằm tạo lợi thế cạnh tranh và thu hẹp khoảng
cách phát triển.
19
Sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, làm nền tảng cho giai
đoạn phát triển mới. Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định con đường đổi mới theo hướng đẩy mạnh
CNH, HĐH để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020; chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, cam kết thực hiện các thoả thuận trong khuôn khổ AFTA, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ, tích cực chuẩn bị tham gia WTO; tăng cường đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh, phát triển kinh tế tập
thể, khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là hỗ trợ mạnh mẽ khu vực DNNVV; đẩy mạnh cải cách
hành chính, v.v
Trong bối cảnh đó, việc các DNNVV đổi mới công nghệ chính là những đóng góp thiết thực vào
việc nâng cao hiệu quả và sức khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đáp ứng các mục tiêu chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2010.
3.1.3 Cơ hội và thách thức
3.1.3.1 Cơ hội
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, với đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, các
DNNVV ở nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp thu tri thức khoa học, công nghệ, các nguồn lực và kinh
nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của nước ngoài để nhanh chóng tăng cường năng lực công nghệ, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại, các doanh nghiệp trong nước có
thể đi thẳng vào những công nghệ hiện đại để rút ngắn khoảng cách về trình độ công nghệ và hiệu quả kinh
tế so với doanh nghiệp ở các nước đi trước. Với tiềm năng trí tuệ dồi dào, nếu có một chiến lược phát triển
nguồn nhân lực đúng đắn, nước ta có thể sớm đi vào một số lĩnh vực của kinh tế tri thức.
Quá trình đổi mới đất nước đã tạo ra những tiền đề mới cho sự phát triển của DNNVV ở nước ta
trong thời gian tới, đặc biệt là sự cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế đã thúc đẩy
DNNVV đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất, kinh doanh.
3.1.3.2 Thách thức
Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái đã ảnh hưởng sâu, rộng đến tất cả các khâu của quá trình
sản xuất kinh doanh của DN: giá đầu vào tăng cao, việc huy động các nguồn lực bị hạn chế, khó khăn trong
lao động và nguồn vốn vay, bất ổn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm và cuối cùng là kết quả, hiệu quả hoạt
động của DN bị giảm sút. Thách thức lớn nhất đối với quá trình đổi mới công nghệ ở các DNNVV nước ta
hiện nay là phải nâng cao năng lực về công nghệ trong bối cảnh suy thoái kinh tế, điều kiện kinh tế - xã hội
còn nhiều khó khăn, vốn đầu tư từ ngân sách còn hạn chế, trình độ phát triển kinh tế và khoa học công nghệ
còn có khoảng cách khá xa so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực.
Tuy nhiên, trong xu thế phát triển của kinh tế tri thức, lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá
lao động rẻ sẽ tiếp tục dần nhường chỗ cho lợi thế về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn giỏi, có năng
lực sáng tạo. Vì vậy, các chính sách nếu không có tác dụng sớm chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của lực lượng lao động thì sẽ không có khả năng cạnh tranh với các nước
trong khu vực về thu hút đầu tư và các công nghệ tiên tiến từ bên ngoài.
Trong quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế, nước ta đang đứng trước những khó khăn về chuyển đổi
và xây dựng những thể chế mới về kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, sở hữu trí tuệ, v.v phù hợp
với thông lệ quốc tế. Tình trạng này nếu không sớm vượt qua sẽ cản trở sự thành công của quá trình hội nhập
khu vực và quốc tế.
Trước những cơ hội và thách thức trên đây, nếu không có những quyết sách đột phá về đổi mới thể
chế kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý KH&CN, những biện pháp mạnh mẽ tăng cường năng lực KH&CN
20
quốc gia, thì nguy cơ tụt hậu kinh tế và công nghệ lạc hậu ngày càng xa và tình trạng lệ thuộc lâu dài vào
nguồn công nghệ nhập là khó tránh khỏi.
3.2 Giải pháp
Để có hệ thống các chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho DNNVV, cần phải triển khai đồng bộ
nhiều giải pháp chính sách khác nhau, từ các giải pháp chính sách về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan ban
hành, thực thi chính sách, điều chỉnh các chính sách hỗ trợ trực tiếp, hỗ trợ gián tiếp và tiếp thu các bài học
kinh nghiệm quốc tế.
3.2.1 Giải pháp tạo động lực về kinh tế đối với DNNVV
3.2.1.1 Tạo thuận lợi về chính sách thuế cho DNNVV đổi mới công nghệ
Thứ nhất, bên cạnh việc duy trì, tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi thuế cho DNNVV, cần thiết
lập kênh thông tin thường xuyên giữa cơ quan thuế và DNNVV, qua đó DNNVV sẽ phản ánh nhanh và kịp
thời những khó khăn, vướng mắc cũng như đề xuất, kiến nghị của doanh nghiệp trong quá trình làm thủ tục
hưởng ưu đãi hay những bất cập về cơ chế ưu đãi thuế cho ĐMCN hiện nay. Cơ quan thuế qua phản ánh,
kiến nghị của DNNVV sẽ hoàn thiện, điều chỉnh phù hợp giữa mục tiêu quản lý nhà nước và mong muốn của
DNNVV.
Thứ hai, Chính phủ cần xác định hiệu quả của các ưu đãi thuế cho ĐMCN tại các DNNVV, tránh
tình trạng tạo ra cơ chế trợ cấp cho doanh nghiệp. Khi thực hiện ưu đãi thuế, cơ quan nhà nước phải theo dõi
hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp có tăng lên hay không, từ đó có thể đánh giá được tính hiệu quả, hiệu lực
trong việc thực thi chính sách ưu đãi thuế, xác định được tỷ lệ miễn, giảm thuế hợp lý đối với các loại hình
DNNVV.
3.2.1.2 Ưu đãi tín dụng cho DNNVV đổi mới công nghệ
Thứ nhất, Chính phủ cần thực thi một cách bình đẳng chính sách tín dụng cho mọi doanh nghiệp,
không phân biệt doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân.
Thứ hai, khuyến khích thành lập các tổ chức dịch vụ có chức năng thẩm định dự án ĐMCN độc lập,
các tổ chức này sẽ cung cấp những thông tin cần thiết về dự án ĐMCN của DNNVV cho ngân hàng, tư vấn
cho doanh nghiệp đàm phán với ngân hàng để vay vốn do DNNVV thông thường có tài sản giá trị thế chấp
không cao. Trên cơ sở đó, DNNVV có thể vay được vốn với điều kiện thuận lợi nhất.
Thứ ba, khuyến khích thành lập các công ty cho thuê tài chính và hoàn thiện pháp luật đối với hoạt
động cho thuê tài chính để các DNNVV có thể tiếp cận, sử dụng thiết bị, dây chuyền công nghệ mà không
phải đầu tư mua sắm toàn bộ. Việc sử dụng tài sản cho thuê và thanh toán tiền thuê căn cứ theo từng giai
đoạn của thời gian thuê thỏa thuận trong hợp đồng.
Thứ tư, nghiên cứu và ban hành văn bản pháp luật cho hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm. Trong đó,
khuyến khích thành lập hiệp hội các nhà đầu tư vốn mạo hiểm Việt Nam. Trước mắt, Chính phủ cần có
những qui định cụ thể hướng dẫn hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm như: phạm vi đầu tư mạo hiểm, các lĩnh
vực khuyến khích đầu tư, cơ cấu tài sản đầu tư của các quỹ, quy chế thành lập và hoạt động của quỹ đầu tư
mạo hiểm, các biện pháp quản lý nhà nước về hoạt động này. Đồng thời, Chính phủ cần khuyến khích phát
triển các hình thức đầu tư vốn mạo hiểm thông qua các chính sách ưu đãi thuế.
3.2.1.3 Tăng cường mức hỗ trợ vay không lãi tại các Quỹ nhà nước quản lý
Để thực hiện chính sách hỗ trợ cho hoạt động chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ, cần có
chính sách cho vay không lấy lãi hoặc cho vay với mức lãi suất cao nhất không quá 50% mức lãi suất vay
thương mại thấp nhất tại thời điểm cho vay; Hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ lãi suất chênh lệch giữa vay ưu
đãi của Quỹ với vay tại ngân hàng thương mại; Bảo lãnh để vay vốn một phần hoặc toàn bộ vốn thực hiện
21
các dự án chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ có tính khả thi, hiệu quả kinh tế cao; Hỗ trợ một phần
hoặc toàn bộ vốn không thu hồi cho các dự án xin tài trợ thông qua Quỹ. Khuyến khích doanh nghiệp tư
nhân thành lập hoặc liên kết với nhà nước để thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm phát triển công nghệ mới,
công nghệ cao.
3.2.1.4 Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho DNNVV
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quy định trình tự, thủ tục giao quyền sở hữu, quyền sử
dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước cho tổ chức chủ trì
và các tổ chức khác trong đó có DNNVV có khả năng ứng dụng kết quả đó theo quy định của Điều 41, Luật
khoa học và công nghệ (KH&CN). Đây cũng là kinh nghiệm của các nước phát triển như Anh, Mỹ, Nhật,
Hàn Quốc và các nước châu Âu, những quy định tương tự về giao quyền đối với kết quả nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước đã đạt được thành công đáng kể trong việc thúc
đẩy sự phát triển của thị trường khoa học và công nghệ ở các nước đó.
Hoàn thiện cơ chế thúc đẩy hợp tác công tư, liên kết tổ chức khoa học và công nghệ với doanh
nghiệp để thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu, đổi mới công nghệ. Khuyến khích, hỗ trợ thành lập
các tổ chức nghiên cứu phát triển, thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ để thực hiện vai trò truyền
dẫn công nghệ, thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ.
Tăng cường khai thác các nguồn vốn từ hợp tác quốc tế cho phát triển khoa học và công nghệ. Nhà
nước tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức khoa học và công nghệ khai thác nguồn vốn ngoài nước từ hoạt động
hợp tác quốc tế bằng nhiều hình thức khác nhau: hợp tác nghiên cứu, đào tạo song phương, đa phương;
khuyến khích tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư, thành lập tổ chức khoa học và công nghệ tại Việt Nam
dưới nhiều hình thức (hợp tác, liên kết giữa bên Việt Nam và các bên nước ngoài; các tổ chức khoa học và
công nghệ 100% vốn nước ngoài…).
Ưu tiên nguồn vốn ODA đầu tư phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, đặc biệt trong các lĩnh
vực khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia, như: các tổ chức nghiên cứu và phát triển trọng điểm, các
phòng thí nghiệm trọng điểm, các khu công nghệ cao.
3.2.2 Phát triển thị trường công nghệ
Thứ nhất, gắn kết đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế, xã hội với thúc đẩy tiến bộ khoa học và công
nghệ và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống
Xây dựng chương trình liên kết giữa khoa học và công nghệ với đào tạo và sản xuất, kinh doanh để
hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực quản lý, hiện đại hoá, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh
tranh và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cải cách mạnh mẽ doanh nghiệp nhà nước theo hướng đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá, không áp
dụng các biện pháp khoanh nợ, dãn nợ đối với doanh nghiệp. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng nhằm
thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm thực sự đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh và xem xét hiệu quả khi lựa
chọn công nghệ. Ban hành các chính sách về kiểm soát độc quyền, giải thể, phá sản doanh nghiệp đồng thời
đẩy nhanh quá trình chủ động hội nhập quốc tế tạo sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp áp dụng các thành tựu
khoa học và công nghệ, đổi mới sản phẩm.
Thứ hai, nâng cao chất lượng và khả năng thương mại hoá của các sản phẩm khoa học và công nghệ
Dành tỷ lệ thích đáng kinh phí từ ngân sách nhà nước cho việc hỗ trợ hoàn thiện sản phẩm nghiên
cứu có khả năng thương mại hoá. Xây dựng cơ chế đánh giá sau nghiệm thu và cơ chế hỗ trợ kinh phí để
hoàn thiện và thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu. Hình thành các tổ chức tư vấn, giám định về chất
lượng và giá cả của công nghệ trước khi chuyển giao hoặc bán cho sản xuất công nghiệp.
22
Thứ ba, phát triển các tổ chức trung gian, môi giới công nghệ
Phát triển các tổ chức môi giới công nghệ, tư vấn chuyển giao công nghệ, các tổ chức cung cấp
thông tin thị trường công nghệ; hình thành các tổ chức xúc tiến thị trường công nghệ; tổ chức các chợ công
nghệ - thiết bị. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh các dịch vụ môi giới về thị trường
công nghệ.
Thứ tư, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực của pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ
Hoàn thiện hệ thống pháp luật cho thị trường công nghệ. Rà soát, bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan tới sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ.
Quy định rõ cơ chế khuyến khích chuyển giao kết quả nghiên cứu có sử dụng kinh phí từ ngân sách
nhà nước theo hướng trao quyền sử dụng cho tổ chức thực hiện nghiên cứu trong một thời gian hợp lý để
khai thác, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Quy định rõ về thời hạn sử dụng, nghĩa vụ và lợi ích của tổ
chức, cá nhân được trao quyền sử dụng, đặc biệt khi kết quả nghiên cứu có giá trị kinh tế, xã hội lớn.
Hoàn thiện nội dung Chương trình phát triển thị trường công nghệ đến năm 2020; Khẩn trương
nghiên cứu xây dựng Kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn 2011-2015; Xây dựng Đề án
những giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận và ứng dụng tiến bộ công nghệ vào sản xuất của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ; Sửa đổi và bổ sung Nghị định số 119/1999/NĐ-CP của Chính phủ về một số chính sách
và cơ chế tài chính khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào KH&CN (như cho phép hỗ trợ tối đa từ ngân sách
Nhà nước 30% tổng kinh phí để thực hiện đề tài nghiên cứu của doanh nghiệp vừa và nhỏ)…
3.2.3 Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện chính
sách hỗ trợ ĐMCN
Chính phủ cần ban hành quy chế phối hợp giữa các cơ quan thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV đổi
mới công nghệ. Do hiện nay, để thực hiện chương trình hỗ trợ DNNVV, hệ thống các tổ chức đầu mối triển
khai thực hiện các chính sách, chương trình trợ giúp phát triển DNNVV bắt đầu được hình thành bao gồm
Cục Phát triển doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và đầu tư và các địa phương (đặt tại các sở KHĐT), liên quan tới
vấn đề đổi mới công nghệ Bộ Khoa học và công nghệ cũng đã thành lập Cục phát triển thị trường công nghệ
và các Sở Khoa học và công nghệ ở địa phương. Ngoài ra, cần có cơ chế chia sẻ thông tin giữa Quỹ phát
triển khoa học và công nghệ và Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia để tránh chồng chéo, phân định rõ việc hỗ
trợ trong trường hợp có cùng đối tượng hỗ trợ là các doanh nghiệp.
Đồng thời, cải cách thủ tục hành chính để đẩy nhanh quá trình cấp phát kinh phí, tăng hiệu quả đầu
tư, tạo động lực tích cực cho các DNNVV trong trường hợp DNNVV thực hiện thủ tục xin tài trợ để đổi mới
công nghệ cũng như các thủ tục kiểm soát chi, quyết toán. Các cơ quan quản lý nhà nước về thuế, hải quan,
khoa học và công nghệ cần phải liên thông trong việc giải quyết các thủ tục hành chính của doanh nghiệp khi
thực hiện đổi mới công nghệ như nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ mới hoặc đã qua sử
dụng.
3.2.4 Đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức của người làm chính sách và nhà quản trị
doanh nghiệp
Để hạn chế độ trễ của các chính sách, đưa chính sách hỗ trợ DNNVV đi vào đời sống sản xuất nhanh
và hiệu quả, thì cần thiết phải đẩy mạnh tuyên truyền và nâng cao nhận thức của cả người làm chính sách lẫn
các nhà quản trị DNNVV.
Các nhà quản trị DNNVV còn có thể có nhiều hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm và nguồn lực tiến
hành đổi mới công nghệ và nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhưng các hạn chế này có thể được khắc phục
23
nếu có cơ chế, chính sách cụ thể và các cơ quan chức năng thực hiện truyền thông qua các kênh khác nhau,
giúp cho chủ DNNVV nâng cao khả năng tiếp cận với các chính sách hỗ trợ.
Đẩy mạnh công tác truyền thông về các thủ tục tiếp cận nguồn tài chính cho doanh nghiệp, xóa bỏ
suy nghĩ về những khó khăn trong vướng mắc tiếp cận vốn để DNNVV có thể mạnh dạn thay đổi phương
pháp sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ. Các cơ quan quản lý nhà nước tăng cường đối thoại
chính sách với doanh nghiệp, trong đó lưu ý đến các DNNVV bàn về vấn đề sử dụng các quỹ hỗ trợ đổi mới
công nghệ, giải đáp những khó khăn vướng mắc trong hiểu biết và tiếp cận nguồn vốn của DNNVV.
3.2.5 Những nhiệm vụ đề xuất với Hiệp hội DNNVV
Các DNNVV cần có sự hợp tác với nhau để chủ động đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh
của sản phẩm hàng hóa trong nước, khắc phục những hạn chế vốn có của quy mô nhỏ và vừa. Thông qua các
Hiệp hội, DNNVV sẽ được trợ giúp, định hướng, chỉ dẫn, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc đổi mới và
nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp.
Hiệp hội các DNNVV cần tập hợp các doanh nghiệp quan tâm, có hoạt động đổi mới sáng tạo; các
chuyên gia, các viện nghiên cứu, trường kết nối với các cơ quan chức năng của Bộ Khoa học và Công nghệ,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp về chuyên môn, về nguồn lực (tài
chính, nhân lực, giải pháp…). Tổ chức tọa đàm cho doanh nghiệp, giữa các doanh nghiệp với nhau để trang
bị kiến thức, hướng dẫn, giải quyết các trường hợp bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
DNNVV và cộng đồng DNNVV chủ động xúc tiến thị trường công nghệ, tìm nguồn vốn cho hoạt
động ĐMCN từ ngân sách Nhà nước và các nguồn khác; thử nghiệm hình thức gọi vốn trong cộng đồng DN.
Tổ chức các hoạt động họp báo giới thiệu về kết quả ĐMCN của DN, tại các hội chợ triển lãm phù hợp.
KẾT LUẬN
Luận văn “Chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” đã
thực hiện được mục tiêu nghiên cứu, thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra ở phần mở
đầu.
Thứ nhất, luận văn đã hệ thống, làm rõ khái niệm đổi mới công nghệ và chính sách hỗ trợ đổi mới
công nghệ trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu các tài liệu, tư liệu, các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài
nước liên quan tới công nghệ và chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ.
Thứ hai, luận văn đã đánh giá tổng hợp các chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ kết quả đạt được,
ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. Tác động của chính sách đến hoạt động đổi mới công nghệ của DNNVV.
Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, thực trạng chính sách đổi mới công nghệ cho
DNNVV ở Việt Nam. Luận văn đã đưa ra 05 giải pháp: (i) tạo động lực về kinh tế đối với DNNVV; (ii) phát
triển thị trường khoa học và công nghệ; (iii) tăng cường hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương
trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ ĐMCN; (iv) đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức; và (v)
những nhiệm vụ đề xuất với hiệp hội DNNVV.
Để tiếp tục nghiên cứu, các hướng nghiên cứu trong tương lai có thể tập trung vào một số nội dung
sau:
- Nghiên cứu một số mô hình, phương pháp đánh giá chính sách của các nước, các học giả quốc tế có
kinh nghiệm về xây dựng chính sách, đánh giá chính sách từ đó xây dựng một mô hình phù hợp với Việt
Nam và áp dụng đánh giá một nhóm chính sách cụ thể.
- Nghiên cứu chính sách hỗ trợ ĐMCN theo phạm vi vùng miền hoặc địa phương, hoặc chỉ nghiên
cứu sâu về chính sách tài chính, tín dụng.
- Nghiên cứu chính sách hỗ trợ ĐMCN cho từng ngành, lĩnh vực cụ thể.
24