Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Phát triển vốn từ cho trẻ mầm non thông qua truyện ngắn của tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
----------

ĐOÀN TUYẾT TRINH

PHÁT TRIỂN VỐN TỪ
CHO TRẺ MẦM NON THÔNG QUA
TRUYỆN NGẮN CỦA TÔ HOÀI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp phát triển ngôn ngữ

Người hướng dẫn khoa học
Th.S VŨ THỊ TUYẾT

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ của các thầy, cô giáo
trong khoa Giáo dục Mầm non đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá
trình làm khóa luận này. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô
giáo Vũ Thị Tuyết - người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình để em có
thể hoàn thành khóa luận.
Trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận, dù đã cố gắng nhưng do
thời gian và năng lực có hạn nên em vẫn chưa đi sâu khai thác hết được, vẫn
còn nhiều thiếu xót và hạn chế. Vì vậy, em mong nhận được sự tham gia đóng
góp ý kiến của các thầy, cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2015


Sinh viên

Đoàn Tuyết Trinh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 2
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 2
6. Cấu trúc khóa luận ..................................................................................... 2
NỘI DUNG ....................................................................................................... 3
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.............................................. 3
1.1. Cơ sở tâm lí ............................................................................................. 3
1.2. Cơ sở sinh lí ............................................................................................ 7
1.3. Cơ sở ngôn ngữ ....................................................................................... 9
1.3.1. Đặc điểm ngôn ngữ của trẻ mầm non ............................................... 9
1.3.2. Đặc điểm vốn từ của trẻ mầm non .................................................. 14
1.4. Vài nét về tác giả Tô Hoài .................................................................... 17
1.4.1. Cuộc đời và sự nghiệp .................................................................... 17
1.4.2. Đặc điểm từ ngữ trong một số truyện ngắn viết cho thiếu nhi
của Tô Hoài............................................................................................... 19
Chương 2. BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ MẦM
NON THÔNG QUA TRUYỆN NGẮN CỦA TÔ HOÀI ............................... 32
2.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp ............................................................... 32
2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích................................................. 32
2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính tích cực của trẻ ...................................... 34
2.1.3 Nguyên tắc đảm bảo phù hợp với vốn sống và kinh nghiệm của

trẻ .............................................................................................................. 36


2.2. Biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ thông qua truyện ngắn của Tô
Hoài .............................................................................................................. 37
2.2.1. Biện pháp đọc, kể chuyện cho trẻ nghe .......................................... 37
2.2.2. Biện pháp giải nghĩa của từ............................................................ 44
2.2.3. Biện pháp tổ chức trò chơi đóng kịch ............................................. 48
2.2.4. Biện pháp sử dụng trò chơi ngôn ngữ ............................................ 54
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 59


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhìn vào lịch sử phát triển của loài người có hai động lực lớn nhất để
con người phát triển từ loài người nguyên thủy, phân biệt con người với con
vật là lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ. Sở dĩ ngôn ngữ có vai
trò quan trọng như vậy bởi ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất
giữa con người với con người và là phương tiện, công cụ để tư duy.
Cũng như các lĩnh vực phát triển khác, ngôn ngữ cũng có những giai
đoạn phát triển với đặc trưng khác nhau trong đó lứa tuổi mầm non được coi
là giai đoạn vàng để phát triển ngôn ngữ. Bởi vậy, phát triển ngôn ngữ là một
trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là
công cụ cơ bản nhất để giúp trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi, là phương tiện
giáo dục toàn diện về đạo đức, tư duy, nhận thức và chuẩn mực hành vi văn
hóa… Ngôn ngữ còn là phương tiện giúp trẻ lĩnh hội kiến thức sơ đẳng nhất ở
trường mầm non trước khi trẻ bước vào bậc tiểu học.
Phát triển vốn từ là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong lĩnh
vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Trong ngôn ngữ, từ là đơn vị trung

tâm, là vật liệu để tạo ý, tạo lời và tạo câu. Để tiếp nhận, giao tiếp, bộc lộ suy
nghĩ, thể hiện ý tưởng một cách hiệu quả nhất trẻ phải có vốn từ chuẩn mực,
phong phú.
Trong các nhà văn viết cho thiếu nhi chúng ta không thể không kể đến
Tô Hoài. Ông sáng tác văn học thiếu nhi ở nhiều thể loại nhưng thành công
nhất phải kể đến truyện ngắn. Nét nổi bật trong các tác phẩm của Tô Hoài là
năng lực quan sát, miêu tả tinh tế, vốn hiểu biết phong phú đặc biệt là vốn từ
giàu hình ảnh, sáng tạo, linh hoạt và được trẻ em yêu thích.
Trong chương trình mầm non hiện nay, truyện của Tô Hoài chưa được
đưa nhiều vào giảng dạy. Với mong muốn đưa truyện của Tô Hoài đến gần

1


hơn với trẻ mầm non, góp phần mở rộng vốn từ cho trẻ chúng tôi lựa chọn đề
tài “Phát triển vốn từ cho trẻ mầm non thông qua truyện ngắn của Tô Hoài”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mầm non thông qua
truyện ngắn của Tô Hoài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc mở rộng vốn từ cho trẻ Mầm non thông qua truyện ngắn của Tô
Hoài.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc mở rộng vốn từ cho trẻ Mầm non.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc phát triển vốn từ cho trẻ mầm non
thông qua truyện ngắn của Tô Hoài.
- Đề xuất biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mầm non thông qua truyện
ngắn của Tô Hoài.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết.
- Phương pháp tra cứu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm sư phạm.
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung của khóa luận được chia
thành 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài.
Chương 2: Các biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ thông qua truyện
ngắn của Tô Hoài.

2


NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở tâm lí
Quan điểm tâm lí học duy vật biện chứng cho rằng con người trở thành
người không bằng cơ chế di truyền sinh học mà bằng cơ chế lĩnh hội nền văn
hóa. Bằng hoạt động, bằng tác động của nền văn hóa xã hội con người hình
thành, phát triển và hoàn thiện chính mình.
Tâm lí người mang tính quy luật về sự chuyển đoạn trong tiến trình
phát triển. Sự phát triển ngôn ngữ trẻ em lứa tuổi mầm non cũng không nằm
ngoài những quy luật của tâm lí con người. Ngôn ngữ không phải là một hiện
tượng tự nhiên, trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ thông qua giao tiếp hoạt động chứ
không phải qua cơ chế di truyền và ứng với mỗi giai đoạn lứa tuổi lại có
những đặc trưng khác nhau.
Ngay từ giai đoạn hài nhi, ở trẻ đã có những tiền đề của sự lĩnh hội
ngôn ngữ. Nhu cầu giao tiếp xúc cảm trực tiếp với người lớn và nhu cầu tiếp
nhận ấn tượng từ thế giới bên ngoài làm nảy sinh khả năng lĩnh hội ngôn ngữ.

Trẻ không có ý thức về ngôn ngữ nhưng bằng cách bắt chước có tính bản
năng, trẻ học được cách nói năng của những người xung quanh. Ngay từ thuở
lọt lòng, trẻ đã được tiếp xúc với những câu hát ru của bà, của mẹ. Lớn lên
một chút, khi nhu cầu giao tiếp của trẻ phát triển trẻ biết hóng chuyện với
những người xung quanh. Sau ba tháng, một đứa trẻ bình thường có khả năng
phát ra những âm thanh nhỏ “gừ gừ”, thỉnh thoảng có thể bắt gặp những âm
thanh “ô, a” của trẻ. Càng về cuối năm đầu trẻ càng thích giao tiếp với người
lớn bằng những âm thanh bập bẹ của mình. Nếu những trạng thái xúc cảm
tích cực này của trẻ được người lớn đáp ứng thì trẻ càng thích thú phát ra
nhiều âm thanh bập bẹ hơn, điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
sự phát triển ngôn ngữ của trẻ ở những giai đoạn sau.

3


Ở giai đoạn ấu nhi (15 - 36 tháng) cùng với hứng thú hoạt động với đồ
vật ngày càng gia tăng càng kích thích trẻ hướng tới người lớn và làm nảy
sinh ở trẻ nhu cầu giao tiếp với người lớn bằng ngôn ngữ. Sự phát triển ngôn
ngữ của trẻ ở giai đoạn này đi theo hai hướng chính: hoàn thiện sự thông hiểu
lời nói của người lớn và hình thành ngôn ngữ tích cực ở trẻ. Tuy vậy, sự phát
triển ngôn ngữ ở lứa tuổi này phần lớn tùy thuộc vào sự dạy bảo của người
lớn. Những đứa trẻ mà người lớn ít giao tiếp hay ít được thỏa mãn nhu cầu
giao tiếp thì thường nói rất chậm. Để kích thích trẻ nói, người lớn cần đòi trẻ
phải bày tỏ nguyện vọng của mình bằng lời nói mới đáp ứng nguyện vọng đó.
Trẻ lứa tuổi mẫu giáo có nét đặc sắc tâm lí là sự tò mò, trẻ luôn muốn
được tìm hiểu, khám phá môi trường xung quanh. Trẻ luôn đặt câu hỏi “cái
gì?”, “vì sao?”, “tại sao?” và mong muốn người lớn giải đáp. Tư duy của trẻ
mầm non phát triển trên cơ sở kinh nghiệm cảm tính ngày càng tăng, trong
quá trình giao tiếp với người lớn bằng ngôn ngữ các hình thức tư duy cũng
dần được hoàn thiện khi hiểu biết của trẻ ngày càng mở rộng. Sự phát triển tư

duy gắn liền với sự phát triển ngôn ngữ và sự tăng vốn từ. Ở trẻ các quá trình
khái quát hóa, trừu tượng hóa cần thiết để hình thành các khái niệm. Nhìn
chung trước khi bước vào tuổi học sinh trẻ đã có khả năng nắm được ý nghĩa
của từ vựng thông dụng, phát âm theo sự phát âm của người lớn, biết dùng
ngữ điệu với hoàn cảnh giao tiếp và nói đúng hệ thống ngữ pháp.
Từ lọt lòng đến 6 tuổi là chặng đường đầu tiên, buổi bình minh của
cuộc đời. Giai đoạn này trẻ có những đặc điểm quy luật phát triển độc đáo
không giống với bất cứ một giai đoạn nào trong đời và có tầm quan trọng đặc
biệt trong quá trình phát triển chung của trẻ. Việc cho trẻ tiếp xúc nhiều với
các tác phẩm văn chương phù hợp sẽ hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển ngôn ngữ,
phát triễn vốn từ và dần hình thành nhân cách cho trẻ thơ.

4


Con người khác xa con vật nhờ có ngôn ngữ. Ngôn ngữ vừa là phương
tiện vừa là điều kiện để con người hoạt động và giao lưu. Trong hoạt động
học tập ngôn ngữ là công cụ có giá trị, có tác dụng vô cùng to lớn. Ngôn ngữ
vừa là công cụ thực hiện hóa tư duy, lĩnh hội tri thức, vừa nói lên khả năng trí
tuệ của con người. Ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại với nhau, người có tư duy tốt sẽ nói năng mạch lạc trôi chảy; nếu
trau dồi ngôn ngữ tỉ mỉ, chu đáo sẽ tạo điều kiện cho tư duy phát triển tốt.
Đứng ở góc độ tâm lí học, các nhà ngôn ngữ thấy rằng: Việc tiếp thu
ngôn ngữ có nhiều điểm khác so với tiếp thu kiến thức trong lĩnh vực khác.
Ngôn ngữ được hình thành rất sớm, ngay từ giai đoạn hài nhi đã hình thành
những tiền đề của sự lĩnh hội ngôn ngữ. Nhu cầu giao tiếp với người lớn ngày
càng tăng làm xuất hiện nhu cầu nói năng của trẻ. Trẻ không có ý thức về
ngôn ngữ nhưng bằng cách bắt chước có tính chất bản năng, trẻ sẽ học được
cách nói năng của người xung quanh mình. Sự phát triển của trẻ mầm non còn
non nớt, chưa hoàn thiện. Hoạt động học tập đòi hỏi sự căng thẳng về trí tuệ

và thể lực, đòi hỏi sự chú ý có chủ định kéo dài, đòi hỏi sự hoạt động nhiều
mặt của trẻ. Trẻ mầm non, chú ý không chủ định phát triển, chú ý có chủ định
đã xuất hiện nhưng còn hạn chế. Đặc điểm trí nhớ của trẻ mầm non là tính
trực quan hình tượng, tính không chủ định nhờ tác động một cách tự nhiên
của những ấn tượng hấp dẫn bên ngoài. Trí nhớ trực quan phát triển mạnh hơn
trí nhớ từ ngữ - logic. Ghi nhớ máy móc là đặc điểm nổi bật, trẻ ghi nhớ trong
những sự vật hiện tượng cụ thể dễ dàng hơn nhiều so với lời giải thích dài
dòng. Vào cuối tuổi mẫu giáo, trí nhớ của trẻ có một bước phát triển mạnh về
chất: trí nhớ chủ định xuất hiện và phát triển mạnh. Đó là loại trí nhớ có mục
đích và cần phải nhờ đến công cụ tâm lí như sơ đồ và chữ viết. Biểu tượng
của trí nhớ ở tuổi mẫu giáo lớn mang tính khái quát hơn. Trong quá trình
tưởng tượng, trẻ sử dụng các biểu tượng của trí nhớ.

5


Ngôn ngữ giúp trẻ biết điều khiển chú ý của mình, biết tự giác hướng
chú ý của mình vào đối tượng nhất định, khối lượng chú ý tăng và sức tập
trung chú ý trở nên bền vững hơn. Ghi nhớ của trẻ mẫu giáo lớn cũng ngày
càng có tính chủ định hơn so với lứa tuổi trước đó. Tuy vậy, cho đến cuối tuổi
mầm non, các quá trình tâm lí không chủ định vẫn chiếm ưu thế trong hoạt
động tâm lí và ngay cả trong hoạt động trí tuệ.
Tư duy và tưởng tượng không thể tách rời ngôn ngữ. Ngôn ngữ là
phương tiện của tư duy, ngôn ngữ chính là “dòng tư duy”. Tư duy của trẻ: Tư
duy trực quan - hành động và trực quan hình ảnh, chưa hình thành tư duy
ngôn ngữ - logic nên ngôn ngữ của trẻ mầm non còn hạn chế so với lứa tuổi
khác. Ở tuổi ấu nhi, hầu hết trẻ em đều rất tích cực hoạt động với đồ vật nhờ
đó trí tuệ, đặc biệt là tư duy phát triển khá mạnh, đó là tư duy trực quan - hành
động. Nhưng đó chỉ mới là hành động bên ngoài, làm tiền đề cho sự hình
thành những hành động định hướng bên trong. Đến tuổi mẫu giáo, tư duy của

trẻ có một bước ngoặt rất cơ bản, chuyển từ kiểu tư duy trực quan - hành động
sang kiểu tư duy trực quan - hình tượng. Đầu tuổi mẫu giáo trẻ đã biết tư duy
bằng những hình ảnh trong đầu, nhưng biểu tượng còn nghèo nàn và tư duy
mới được chuyển từ bình diện bên ngoài vào bình diện bên trong nên trẻ mới
chỉ giải quyết một số bài toán hết sức đơn giản theo kiểu tư duy trực quan hình tượng. Ở tuổi mẫu giáo nhỡ, trẻ phải giải quyết những bài toán ngày
càng phức tạp và đa dạng, đòi hỏi phải tách biệt và sử dụng mối liên hệ giữa
các sự vật, hiện tượng và hành động. Trẻ mẫu giáo nhỡ đã bắt đầu đề ra
những bài toán nhận thức, tìm tòi cách giải thích những hiện tượng mà mình
nhìn thấy được, kiểu tư duy trực quan - hình tượng đã bắt đầu chiếm lĩnh. Đến
tuổi mẫu giáo lớn, khi ngôn ngữ trở thành phương tiện của tư duy cho phép
trẻ giải những bài toán trí tuệ mà không cần sử dụng trực tiếp hành động và
biểu tượng, cũng là lúc trẻ lĩnh hội những khái niệm mà loài người đã xây

6


dựng nên, tức là những tri thức về các dấu hiệu chung và bản chất của sự vật
cũng như hiện tượng trong hiện thực đã được củng cố. Trẻ biểu hiện năng lực
trí tuệ qua hoạt động tổng hợp của lời nói, qua quan sát, chú ý và suy nghĩ
bằng năng lực ghi nhớ liên tưởng và khả năng giải quyết các nhiệm vụ thông
qua vui chơi sáng tạo. Tư duy trực quan giải thích việc trẻ em mẫu giáo bé và
đầu mẫu giáo nhỡ có vốn từ biểu danh là chủ yếu. Tư duy trừu tượng và tư
duy logic xuất hiện ở tuổi thứ 5 cho phép trẻ em lĩnh hội những khái niệm đầu
tiên - đó những khái niệm về sự vật hiện tượng gần gũi xung quanh trẻ.
Việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học từ đó phát triển vốn từ và
việc giáo dục đạo đứa cho trẻ thông qua ý nghĩa của các câu chuyện là hai
hướng đi song song nhất quán thúc đẩy, hỗ trợ phát triển cho trẻ và dần hình
thành nhân cách trẻ thơ.
1.2. Cơ sở sinh lí
Điều kiện sinh học là cơ sở vật chất, là phương tiện để nảy sinh và phát

triển tâm lí. Từ lúc sinh ra, trẻ lớn lên và phát triển không ngừng. Cấu tạo của
các cơ quan, hệ cơ quan dần hoàn thiện nhưng không giống nhau về mức độ
phát triển. Học thuyết về các hệ thống tín hiệu khẳng định việc phát triển
ngôn ngữ liên quan mật thiết đến sự phát triển của não bộ, hệ thần kinh và bộ
máy phát âm.
Các nhà sinh lí và giải phẫu học chứng minh cơ sở vật chất của đời
sống trẻ phụ thuộc vào não bộ và hoạt động của hệ thần kinh cấp cao. Học
thuyết về các hệ thống tín hiệu cũng khẳng định: Ngôn ngữ là hệ thống tín
hiệu thứ 2, có liên quan mật thiết đến bán cầu đại não và hệ thần kinh. Cho
đến khi ra đời, bộ não của trẻ chưa phát triển hoàn thiện, dù hình thái và cấu
tạo giải phẫu không có nhiều khác biệt so với người trưởng thành. Não bộ trẻ
sơ sinh có kích thước nhỏ, trọng lượng khoảng 370 - 392g (1/9 - 1/8 trọng
lượng cơ thể). 9 năm đầu đời trọng lượng não tăng lên nhanh chóng, 6 tháng

7


tăng gấp đôi, 3 tuổi tăng gấp 3 so với lúc mới sinh. Não trẻ có 1000 tỉ tế bào
nhưng tế bào thần kinh vỏ não chưa được biệt hóa. Khi trẻ 3 tuổi đã có các tế
bào thần kinh được biệt hóa. Trẻ mới sinh các sợi thần kinh chưa được myelin
hóa, quá trình myelin hóa bắt đầu từ khoảng tháng thứ 3 và hoàn thiện dần khi
trẻ được 2 tuổi. Quá trình này có ý nghĩa to lớn vì nó góp phần làm cho hưng
phấn được truyền cách riêng biệt theo sợi dây thần kinh, giúp trẻ thể hiện năng
lực trí tuệ qua hoạt động tổng hợp của lời nói, qua chú ý, quan sát, suy nghĩ.
Để có thể giao tiếp tốt, chúng ta không thể không kể đến bộ máy phát
âm. Mỗi người sinh ra đều có sẵn bộ máy phát âm, đó là tiền đề vật chất để
sản sinh âm thanh ngôn ngữ. Đây là một trong những điều kiện vật chất quan
trọng nhất mà thiếu nó không thể có ngôn ngữ nói. Nếu như cấu tạo của nó có
một khiếm khuyết nào đó (chẳng hạn như sứt môi, hở hàm ếch, ngắn lưỡi…)
thì việc hình thành lời nói cũng hết sức khó khăn. Khi sinh ra bộ máy phát âm

chưa hoàn chỉnh, nó được hoàn thiện dần: sự xuất hiện, hoàn thiện của hàm
răng, sự vận động của môi, lưỡi, của hàm dưới… Quá trình đó diễn ra tự
nhiên theo các quy luật sinh học, nó phát triển và hoàn thiện cùng với quá
trình lớn lên của trẻ. Trong thực tế có những em cùng sinh ra nhưng có em
phát triển tốt, có em nói ngọng. Sự khác nhau như vậy là do bộ máy điều kiện
vật chất khác nhau và quá trình chăm sóc giáo dục khác nhau. Trẻ nói ngọng
là do bộ máy phát âm chưa hoàn thiện. Tuy nhiên bộ máy phát âm mới chỉ là
tiền đề vật chất. Cùng với thời gian, quá trình học tập, rèn luyện một cách hệ
thống sẽ làm cho bộ máy phát âm đáp ứng được nhu cầu thực hiện các chuẩn
mực âm thanh ngôn ngữ. Cấu tạo bộ máy phát âm gồm: Dây thanh và các hộp
cộng hưởng phía trên thanh hầu. Âm sắc và tiếng nói do tính chất của âm xác
định và phụ thuộc vào các khoang cộng hưởng của phần trên các bộ phận
thanh quản, họng, khoang miệng, mũi. Bộ máy phát âm của trẻ chưa phát
triển đầy đủ, các bộ phận tạo tiếng nói chưa liên kết chặt chẽ nên trẻ phát âm

8


còn chưa chuẩn, chưa chính xác. Ở cuối tuổi mẫu giáo, do việc mở rộng giao
tiếp bằng ngôn ngữ được mở rộng trong những năm trước đây, tai nghe ngữ
âm được rèn luyện thường xuyên để tiếp nhận ngữ âm khi nghe người lớn nói.
Mặt khác, cơ quan phát âm đã trưởng thành đến mức trẻ có thể phát âm tương
đối chuẩn kể cả những âm khó của tiếng mẹ đẻ khi nói năng và sử dụng ngữ
điệu phù hợp hoàn cảnh.
Quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ có liên quan mật thiết tới
quá trình hoàn thiện của não bộ, hệ thần kinh và bộ máy phát âm. Do đó, việc
nghiên cứu qua trình hoàn thiện của não bộ, hệ thần kinh và bộ máy phát âm để
phát triển vốn từ cho trẻ mầm non là hoàn toàn có cơ sở và mang tính khoa học.
1.3. Cơ sở ngôn ngữ
1.3.1. Đặc điểm ngôn ngữ của trẻ mầm non

Tron cuốn sách “Phát triển ngôn ngữ trẻ thơ” Otto Beverly - một
chuyên gia trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ trẻ em của đại học ILLinoos,
Hoa kỳ đã nhìn nhận ngôn ngữ trẻ em là một sự biểu hiện tích hớp của các
thành tố ngôn ngữ: ngữ âm, nghĩa của từ và cấu tạo từ, ngữ pháp và ngữ dụng.
Bà cũng chỉ 3 cấp độ của việc phát triển ngôn ngữ của trẻ là:
- Cấp độ 1: Biết nói.
- Cấp độ 2: Biết nói một cách có hiểu biết.
- Cấp độ 3: Bày tỏ bằng lời nói một cách có hiểu biết.
Như vậy, Otto nhìn nhận ngôn ngữ trẻ ở cả hai phương diện cấu trúc và
chỉnh thể. Về mặt cấu trúc, ngôn ngữ được tạo bởi các đơn vị ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp và ngữ dụng. Về mặt chỉnh thể, ngôn ngữ được thể hiện trong
đơn vị giao tiếp. Như vậy, phát triển ngôn ngữ cho trẻ là phát triển từng mặt
các đơn vị ngôn ngữ nhưng lại phải đạt đến sự tích hợp các thành tố đó trong
một đơn vị giao tiếp chỉnh thể là ngôn bản, lời nói mạch lạc mà nó biểu hiện ở
hai dạng là đối thoại và độc thoại. Lời nói đối thoại ở trẻ là khả năng tương

9


tác ngôn ngữ của trẻ với những người xung quanh còn độc thoại là khả năng
kể chuyện, bày tỏ ý nghĩ của mình, trình bày một cái gì đó để cho người khác
có thể hiểu được. Chính vì vậy, khi đánh giá kết quả giáo dục của trường
mầm non, các nhà giáo dục Australia có nêu ra một chuẩn về khả năng giao
tiếp của trẻ: Trẻ phải trở thành một người có thể giao tiếp ngôn ngữ tích cực.
Xu hướng đánh giá ngôn ngữ của trẻ hiện nay ở nhiều nước cũng đều đánh
giá khả năng giao tiếp của trẻ mà ít khi quan tâm đến các thành tố đơn lẻ của
ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Tuy nhiên, các nhà bác học Hoa Kì
lại đánh giá ngôn ngữ của trẻ dựa vào ngôn ngữ trên cả hai phương diện cấu
trúc và chỉnh thể.
Nói đến ngôn ngữ của tuổi mầm non, chúng ta không thể không nhắc

đến ngôn ngữ viết bao gồm khả năng tiền đọc - viết của trẻ.
Tuổi mầm non chưa đọc - viết được, và điều này cũng chưa đặt ra cho
các cháu. Tuy nhiên, chuẩn bị cho trẻ học đọc - viết trở thành người biết chữ
trong tương lai lại rất quan trọng. Những dấu hiệu ban đầu của khả năng đọc viết của trẻ đã hình thành từ rất sớm (nhiều nhà nghiên cứu gọi là khả năng tiền
đọc - viết), nó cần được nâng đỡ, phát triển trong tuổi mầm non. Như vậy,
trong nội hàm ngôn ngữ trẻ sẽ bao gồm cả khả năng tiền đọc - viết của trẻ.
Theo một số nhà ngôn ngữ học, có thể nhận thấy rằng: Sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ là một quá trình từ thấp đến cao với những giai đoạn mang
những đặc trưng khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ; ở mỗi giai đoạn có
sự kế thừa và phát triển những thành tựu của giai đoạn trước.
Các nhà ngôn ngữ học đều thống nhất với nhau chia hai giai đoạn: giai
đoạn tiền ngôn ngữ và giai đoạn ngôn ngữ chính thức.
- Giai đoạn tiền ngôn ngữ: Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình học
nói của đứa trẻ. Mặc dù trẻ chưa có các từ, chưa hiểu cách sử dụng các quy
tắc ngữ pháp nhưng trẻ đã bắt đầu bước vào giao tiếp. Các nhà tâm lí học cho

10


rằng thời kì tiền ngôn ngữ này là chung cho tất cả ngôn ngữ và thời kì âm bập
bẹ của trẻ em trên toàn thế giới là như nhau. Điều này chứng tỏ rằng chúng ta
được sinh ra đã sẵn có bản năng giao tiếp. Giai đoạn giao lưu cảm xúc chiếm
vai trò chủ đạo. Đứa trẻ sử dụng các âm bập bẹ, các cử chỉ, thái độ để giao
tiếp với người lớn.
- Giai đoạn ngôn ngữ: Bắt đầu từ 12 tháng trở đi sẽ xuất hiện những âm
bập bẹ có nghĩa đầu tiên và ngay lập tức trẻ huy động chúng vào giao tiếp với
người lớn. Các âm bập bẹ nhanh chóng mất đi nhường chỗ cho các từ tham
gia vào cấu tạo câu sử dụng trong giao tiếp. Những từ đầu tiên xuất hiện, các
kiểu câu đơn giản gồm 2 - 3 từ khiến cho khả năng giao tiếp của trẻ tăng lên.
Trẻ tích cực hơn trong giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Nhu cầu

giao tiếp tăng lên thúc đẩy hoạt động giao tiếp ngôn ngữ, kết quả là các kĩ
năng giao tiếp ngôn ngữ được hình thành.
Các tác giả Penny Tasssony và Kate Beith trong cuốn Nursery Nursing
(chăm sóc trẻ thơ) đã khái quát các bước phát triển chung ngôn ngữ trẻ em
theo bảng dưới đây:
THỜI KÌ TIỀN NGÔN NGỮ
- Khóc để biểu thị tình trạng đói, mệt, ốm....
- Nhận ra những âm sắc lời nói khác nhau.
0–3

- Phát ra những âm grừ grừ để thể hiện sự thích thú, toại nguyện.

Tháng

- Đến 3 tháng có thể nhận ra được âm sắc giọng nói của người
chăm sóc và thể hiện sự vui sướng khi nghe thấy giọng nói, âm
thanh đó.
- Mỉm cười với người khác.
- Vẫn khóc để thể hiện tình trạng bị mệt, bị đau nhưng dễ nín hơn.

3–6

- Biết phát âm bập bẹ và grừ grừ.

Tháng

- Âm bập bẹ có thể bao gồm những âm thanh ngắn như: ma ma,

11



da da...
- Cười, cười thành tiếng, thậm chí kêu to.
- Bập bẹ tạo thành những âm thanh không rõ tiếng.
- Nối các nguyên âm, phụ âm với nhau thành những âm thanh
được nhắc đi nhắc lại như: me me me me, da da da da...
6 – 12

- Âm bập bẹ trở nên du dương hơn, sáng tạo hơn và đến 9 tháng

Tháng

tuổi hầu hết các âm thanh được sử dụng đều cần thiết để cho trẻ
học nói.
- Đến 10 tháng, trẻ đã hiểu được khoảng 15 từ. Ví dụ: bố, mẹ, bà,
tạm biệt,...
- Biết sử dụng cử chỉ, điệu bộ để yêu cầu. Ví dụ: trẻ khóc, chỉ tay
đòi những gì chúng muốn.
- Tham gia vào một số trò chơi.
THỜI KÌ NGÔN NGỮ
- Những từ đầu tiên xuất hiện trong khoảng tháng thứ 12; tuy
nhiên, chỉ có những người gần gũi, chăm sóc trẻ mới có thể hiểu
được chúng. Ví dụ: de de (đòi uống).

12 – 18

- Các từ được sử dụng thường nhiều nghĩa hơn tùy thuộc với ngữ

Tháng


điệu mà trẻ sử dụng khi nói. Ví dụ: de de có thể có nghĩa là “tôi
muốn uống nước”, “tôi uống nước xong rồi”, “tôi muốn uống
nữa”... (các nhà ngôn ngữ học gọi những từ kiểu này là holophrase
- câu đa nghĩa).
- Vào khoảng tháng thứ 15 trẻ em sẽ có khoảng 10 từ và những
người chăm sóc trẻ mới có thể hiểu được những từ này.
- Hai từ được nối với nhau. Ví dụ: ma măm, bà đi, ...

18 – 24 - Những bài đối thoại ngắn xuất hiện; trẻ thường chỉ chú ý đến
Tháng

những từ chính, câu thường sai ngữ pháp.

12


- Vốn từ vựng của trẻ tăng lên. Trẻ học được khoảng từ 10 đến 30
từ trong một tháng.
- Đến 2 tuổi, hầu hết các trẻ có khoảng 200 từ.
- Trẻ học từ mới rất nhanh.
2–3

- Sử dụng các từ số nhiều. Ví dụ: dogs (những con chó).

Năm

- Trẻ thường mắc các lỗi về cấu tạo từ. Ví dụ: drawed (vẽ).
- Bắt đầu biết dùng phủ định. Ví dụ: không có con mèo nào.
- Biết bắt chước lời nói của người lớn một cách chính xác. Ví dụ:
“chúng mình thích cái đó, có phải không nhỉ?”.


3–4

- Người lạ cũng có thể hiểu được lời nói của trẻ.

Năm

- Các câu có hơn 4 từ, trẻ biết nói đúng ngữ pháp.
- Vốn từ vựng tăng lên; trẻ nhận biết được tên các bộ phận của cơ
thể, tên các đồ vật, các vật nuôi trong nhà.
- Trẻ vẫn tiếp tục mắc các lỗi ngữ pháp.
- Nhận biết và hiểu được các bài hát, các bài thơ dành cho trẻ thơ.
- Tham gia đặt câu hỏi.
- Từ 4 tuổi trở đi, trẻ em đã phát triển và thành thục với ngôn ngữ
hơn; các lỗi đã giảm nhiều và trẻ bắt đầu tham gia sử dụng ngôn
ngữ như là một phương tiện để tham gia vào cuộc sống xã hội và

4–8

giao tiếp với những người khác, thể hiện nhu cầu của trẻ và thuật

Năm

lại những trải nghiệm của chúng.
- Đến 5 tuổi, từ vựng của trẻ có khoảng 5000 từ.
- Trẻ biết nói đúng các câu phức hợp.
- Thích tham gia kể và nghe chuyện.
- Hiểu rằng ngôn ngữ có thể được viết dưới dạng các biểu tượng.
- Đến 8 tuổi, hầu hết các trẻ em đều là những người nói thành thạo
và biết cách viết ngôn ngữ của chúng.


13


1.3.2. Đặc điểm vốn từ của trẻ mầm non
a. Xét về số lượng
Trong năm đầu đời trẻ nghe và phát ra những âm thanh bập bẹ khi nói
chuyện với người lớn. Từ 12 tháng trở đi, bên cạnh các âm bập bẹ xuất hiện
các từ chủ động đầu tiên. Ở 18 tháng tuổi, số từ trung bình là 11 từ, cháu ít
nhất là 0, nhiều nhất là 25 từ (trường hợp đặc biệt lên tới 45 từ) trẻ bắt chước
người lớn lặp lại một số từ gần gũi: mẹ, bà, bố…
Từ 9 - 12 tháng, số lượng từ tăng nhanh. Đến 21 tháng trẻ đạt tới 220
từ. Giai đoạn 21 - 24 tháng, tốc độ chậm lại, chỉ đạt 234 từ vào tháng 24, sau
đó lại tăng tốc: 30 tháng đạt 434 từ, 36 tháng đạt 486 từ.
Đến năm thứ 3, trẻ đã sử dụng được trên 500 từ, phần lớn là danh từ,
động từ, tính từ và các loại khác rất ít. Danh từ chỉ đồ chơi, đồ dùng quen
thuộc, các con gần gũi như: chó, mèo, chim,… Động từ chỉ hoạt động gần gũi
của cháu và những người xung quanh như: ăn, uống, ngủ, đi,…
Trẻ 4 tuổi có thể nắm được xấp xỉ 700 từ, ưu thế vẫn thuộc về danh từ
và động từ. Hầu hết các loại từ đều đã xuất hiện trong vốn từ của trẻ.
Từ 5 - 6 tuổi vốn từ của trẻ tăng bình quân 1033 từ, tính từ và các loại
từ khác đã chiếm một tỉ lệ cao hơn.
Tốc độ tăng vốn từ ở các độ tuổi khác nhau cũng khác nhau, chậm dần
theo độ tuổi: Cuối 3 tuổi so với đầu 3 tuổi, vốn từ tăng 107%; cuối 4 tuổi so
với đầu 4 tuổi, vốn từ tăng 40,58%; cuối 5 tuổi sao với đầu 5 tuổi vốn từ chỉ
tăng 10,40%; cuối 6 tuổi so với đầu 6 tuổi, vốn từ chỉ tăng 10,01%.
Chúng ta có thể nhận ra quy luật tăng số lượng từ của trẻ như sau:
- Số lượng từ của trẻ tăng theo thời gian.
- Sự tăng có tốc độ không đồng đều, có giai đoạn tăng nhanh, có giai
đoạn tăng chậm.

- Trong năm thứ 3, tốc độ tăng nhanh nhất.

14


- Từ 3 - 6 tuổi: Tốc độ tăng vốn từ giảm dần.
b. Xét về cơ cấu từ loại
Cơ cấu từ loại trong vốn từ của trẻ là một tiêu chí để đánh giá chất
lượng vốn từ. Tiếng Việt có 8 loại từ: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ,
phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ. Số lượng từ loại cần nhiều bao nhiêu thì càng
tạo điều kiện cho trẻ diễn đạt thuận lợi bấy nhiêu. Các loại từ xuất hiện dần
dần trong vốn từ của trẻ. Ban đầu chủ yếu là danh từ, sau đó đến động từ và
tính từ, các loại từ khác xuất hiện muộn hơn.
Đến 3 - 4 tuổi, về cơ bản trong vốn từ của trẻ đã có đủ các loại từ. Tuy
nhiên, tỉ lệ danh từ và tính từ cao hơn nhiều so với các loại từ khác: danh từ
chiếm 38%, động từ chiếm 32%, còn lại là tính từ: 6,8%, đại từ 3,1%, phụ từ
7,8%, tình thái từ 4,7%, quan hệ từ và số từ còn ít xuất hiện (số từ 2,5%, quan
hệ từ 1,7%).
Giai đoạn 5 - 6 tuổi cũng là giai đoạn hoàn thiện một bước cơ cấu từ
loại trong vốn từ của trẻ. Tỉ lệ danh từ, động từ giảm đi, chỉ còn khoảng 50%,
nhường chỗ cho tính từ và các loại từ khác tăng lên: Tính từ đạt tới 15%, quan
hệ từ 5,7%, còn lại là các loại từ khác.
c. Khả năng hiểu nghĩa từ của trẻ em mẫu giáo
Theo Fedorenko (Nga), ở trẻ em có 5 mức độ hiểu nghĩa khái quát của
từ như sau:
- Mức độ zero (mức độ 0): Mỗi sự vật có tên gọi gắn với nó. Trẻ hiểu
được ý nghĩa gọi tên này: mẹ, bố, bà, bác,... (nghĩa biểu danh).
- Mức độ 1: Ý nghĩa biểu niệm ở mức thấp, tên gọi chung của các sự vật
cùng loại: búp bê, bóng, cốc, nhà...
- Mức độ 2: Khái quát hơn quả (cam, táo, xoài); xe (đạp, máy, ô tô); con

(gà, chó, mèo);....

15


- Mức độ 3: Ở mức độ cao hơn mà trẻ 5 - 6 tuổi có thể nắm được:
phương tiện giao thông (ô tô, tàu thủy, xe máy); đồ vật (đồ chơi, đồ nấu
bếp, đồ dùng học tập);...
- Mức độ 4: Khái quát tối đa, gồm những khái niệm trừu tượng: số
lượng, chất lượng, hành động... (học ở cấp phổ thông).
Đối với trẻ em tuổi mầm non, khi ở tuổi nhà trẻ, trẻ hiểu được nghĩa
biểu danh (mức độ zero và 1). Mức độ 2 và 3 chỉ dành cho trẻ mẫu giáo, đặc
biệt là mẫu giáo lớn.
d. Vốn từ tích cực và thụ động
Trẻ mẫu giáo lĩnh hội vốn từ ngữ chỉ là bước đầu nên không phải tất cả
các từ chúng tiếp nhận và sử dụng được ngay. Có những từ tích cực, trẻ hiểu
và sử dụng trong giao tiếp được. Loại này có số lượng hạn chế. Loại vốn từ
thụ động bao gồm những từ trẻ mới lĩnh hội. Kinh nghiệm sống và tri thức
còn nghèo nàn nên trẻ chưa hiểu rõ nghĩa của từ nên không sử dụng được. Trẻ
mẫu giáo có giai đoạn chỉ nghe hiểu mà không nói được. Tích cực hóa vốn từ
(chuyển từ thụ động sang tích cực) là một nội dung quan trọng của giáo dục
ngôn ngữ.
e. Đặc trưng lĩnh hội vốn từ của trẻ mẫu giáo
Thứ nhất, nhờ có đặc điểm trực quan hành động và trực quan hình
tượng của tư duy nên trước hết trẻ nắm được các tên gọi của sự vật, hiện
tượng, thuộc tính, quan hệ mang tính chất biểu tượng trực quan và phù hợp
với hoạt động của chúng.
Thứ hai, sự lĩnh hội nghĩa của từ diễn ra dần dần: Thoạt đầu trẻ chỉ đối
chiếu từ với sự vật cụ thể (không có nghĩa khái quát); sự thâm nhập dần của
trẻ và hiện thực (khám phá ra những thuộc tính, dấu hiệu bản chất, khái quát

theo dấu hiệu nào đó),... dần dần cùng với sự phát triển tư duy, trẻ mới nắm
được nội dung khái niệm trong từ, việc nắm nghĩa từ còn biến đổi trong suốt

16


tuổi mẫu giáo. (Chẳng hạn: trẻ mẫu giáo lớn không coi cà chua, dưa chuột là
rau; khi mở rộng nghĩa của từ này trẻ lại đưa một số loại quả vào khái niệm
rau với lí do chúng được trồng dưới đất và ăn được).
Thứ ba, vốn từ của trẻ mẫu giáo có khối lượng nhỏ hơn rất nhiều so với
số lượng vốn từ của người lớn. Vì khối lượng tri thức của chúng còn quá hạn
hẹp. Vì thế, mở rộng vốn từ phải dựa vào sự mở rộng nhận thức cho trẻ.
1.4. Vài nét về tác giả Tô Hoài
1.4.1. Cuộc đời và sự nghiệp
a.Cuộc đời
Tô Hoài sinh ngày 27 - 09 - 1920 trong một gia đình làm nghề thủ
công, tên thật của ông là Nguyễn Sen. Ông có nhiều bút danh nhưng Tô Hoài
là bút danh được dùng nhiều nhất. Quê nội ông ở thị trấn Kim Bài huyện
Thanh Oai tỉnh Hà Đông nhưng ông sinh ra và lớn lên ở quê ngoại là làng
Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội).
Tô Hoài chỉ mới học hết bậc tiểu học, chủ yếu lăn lộn kiếm sống và học
trong trường đời. Bước vào tuổi thành niên ông đã bươn trải với rất nhiều
nghề như: dạy trẻ, bán hàng, kế toán… nhiều khi thất nghiệp, cuộc sống vô
cùng vất vả. Ông tham gia cách mạng từ thời kì Mặt trận bình dân, làm thư ký
Ban Trị sự Hội ái hữu thợ dệt Hà Đông, tham gia thanh niên phản đế, hội
truyền bá Quốc ngữ. Năm 1943, ông gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc, từ đó
ông liên tục tham gia viết báo chí mật, tuyên truyền cách mạng cho tới tổng
khởi nghĩa tháng 9 - 1945. Có lần ông bị thực dân Pháp bắt giam. Cũng trong
thời gian này ông thực hiện được chuyến đi dài từ bắc vào nam.
Sau cách mạng tháng Tám, Tô Hoài lần lượt công tác ở các cơ quan

báo chí văn nghệ. Những năm kháng chiến chống Pháp (1945 - 19454) ông là
phóng viên rồi chủ nhiệm báo Cứu Quốc, tham gia chiến dịch Việt Bắc, Tây
Bắc. Năm 1950 ông công tác ở Hội văn nghệ Việt Nam. Năm 1957, là Tổng
thư ký rồi phó Tổng thư kí hội Nhà văn Việt Nam, giám đốc nhà xuất bản Hội

17


Nhà văn, Bí thư Đảng Đoàn hội Nhà văn. Từ năm 1966, ông là chủ tịch hội
Văn nghệ Hà Nội, ủy viên đoàn Chủ tịch Ủy ban Liên hiệp Văn học nghệ
thuật Việt Nam, ủy viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch hội
đồng Văn học thiếu nhi. Ông còn tham gia nhiều hoạt động xã hội khác như:
Đại biểu Quốc hội khóa VII, phó chủ tịch Ủy ban đoàn kết Á - Phi của Việt
Nam, phó chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Ấn, ủy viên ban chấp hành Hội hữu
nghị Việt - Xô.
b. Sự nghiệp sáng tác
Tô Hoài tham gia sáng tác văn học từ khá sớm. Ông đến với làng văn
học bằng một số bài thơ lãng mạn nhưng không thành công, sau đó ông đã
nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và được dư luận chú ý ngay từ
những truyện ngắn đầu tay. Cho đến nay, Tô Hoài đã viết trên 150 tác phẩm
văn xuôi với nhiều thể loại, đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau, trong đó có
khoảng 60 đầu sách cho trẻ em.
Trước thời kì cách mạng tháng Tám, tác phẩm của Tô Hoài đề cấp tới
hai mảng chính: Truyện đồng thoại về loài vật, ví dụ như: Dế mèn phiêu lưu
ký, Đám cưới chuột, Dê và Lợn, Trê và cóc, Võ sĩ Bọ Ngựa… và truyện vùng
ven đô với cuộc sống lầm than của bà con xóm thợ quê ông, tiêu biểu như:
Giăng thề (truyện, 1941), Quê người (tiểu thuyết, 1942), Nhà nghèo (tập
truyện ngắn, 1943), Xóm giếng xưa (truyện, 1943)…
Những năm kháng chiến, Tô Hoài đã cho ra đời một loạt tác phẩm về
đề tài miền núi: Núi cứu quốc (tập truyện ngắn, 1949), Xuống làng (tập truyện

ngắn, 1950), Truyện Tây Bắc (1954)…
Từ 1954 đến nay, sáng tác của ông ngày càng phong phú về đề tài và
thể loại: Truyện ngắn (Khác trước, Vỡ tỉnh, Người ven thành,…); Bút ký
(Thành phố Lê nin, Tôi thăm Campuchia, Hoa hồng vàng song cửa, Lăng bác
Hồ,…); Kịch bản phim (Vợ chồng A Phủ, Kim Đồng,…); Tiểu thuyết (Mười

18


năm, Miền Tây, Quê nhà…); Tiểu luận (một số kinh nghiệm viết văn của tôi,
Người bạn ấy, Sổ tay viết văn,…).
Tô Hoài cũng dành nhiều thời gian để sáng tác cho các em thiếu nhi
(Chuyện nỏ thần, Chuyện Ông Gióng, Đảo hoang, Kim Đồng, Vừ A Dính,
Chim chích lạc rừng, Con mèo lười, Đàn chim gáy, Hai ông cháu và đàn trâu,
Nhà Chử,…). Ông có nhiều tuyển tập: Tuyển tập Tô Hoài (ba tập, 1993);
Tuyển tập truyện ngắn Tô Hoài (trước và sau 1945, ba tập, 1994); tuyển tập
truyện viết cho thiếu nhi (hai tập, 1994),… Khối lượng tác phẩm đồ sộ của Tô
Hoài đã phản ánh một thời đại sôi động. Cho dù viết về đề tài gì, tác phẩm
của ông cũng mang tính hiện đại và tính thời sự sâu sắc.
Nét nổi bật trong sáng tác của Tô Hoài là năng lực quan sát và miêu tả
tinh tế, vốn hiểu biết đời sống và phong tục các dân tộc khá phong phú, lối
văn giàu hình ảnh và luôn biến đổi nhịp điệu, ngôn ngữ sáng tạo, linh hoạt. Tô
Hoài đã nhận được nhiều giải thưởng văn học: giải nhất giải thưởng Văn nghệ
năm 1954 - 1955 (Truyện Tây Bắc), giải A giải thưởng Hội văn nghệ Hà Nội
năm 1970 (tiểu thuyết Quê nhà), giải thưởng Hội nhà văn Á - Phi năm 1970
(tiểu thuyết Miền Tây), giải thưởng Hồ Chí Minh về văn hóa nghệ thuật (đợt
1/1996).
1.4.2. Đặc điểm từ ngữ trong một số truyện ngắn viết cho thiếu nhi của Tô
Hoài
a. Cách sử dụng phương ngữ

Tô Hoài lớn lên ở Nghĩa Đô - Hà Nội, thời thơ ấu gắn liền với quê
ngoại. Trong sáng tác của ông, yếu tố phương ngữ của người dân Bắc Bộ sử
dụng nhiều. Đây là đặc điểm dễ nhận thấy ở nhà văn. Mỗi tác phẩm nghệ
thuật, bên cạnh dấu ấn về phong tục văn hoá, các tác giả còn tạo nét riêng khi
đưa nghệ thuật phương ngữ vào văn học. Điều này có thể do thói quen, hoặc
do cá tính mỗi người. Với Tô Hoài, điều đặc biệt mà ông tạo ra trong truyện

19


viết cho thiếu nhi là ngoài sử dụng phương ngữ xuất xứ từ quê hương ông,
ông còn quan sát, tìm hiểu những phương ngữ của các vùng quê khác. Viết
truyện về loài vật, Tô Hoài sử dụng nhiều phương ngữ. Nghệ thuật phương
ngữ là ngôn ngữ riêng của một bộ phận quần chúng. Tác giả viết tự nhiên, khi
đưa lời ăn tiếng nói hàng ngày vào tác phẩm. Trong O chuột, mèo được miêu
tả: “hàng râu xuôm đuột”, tác phong oai vệ “đứng mực”. Nơi yêu thích là góc
bếp: “đống củi, “bùm tum”, “núp náy”. Mướp ngồi trên tấm tre, nứa, gỗ dùng
che mưa che nắng: “mặt giại bể”. Điều khó chịu của gã mướp là lũ chột nhắt,
khi gã giả vờ không nhìn thấy: “hấc lờ”, “xểnh”. Trong Tuổi trẻ, tác giả viết
về đặc điểm loài gà. Giống “gà gi” “thấp bé” và “nhỏ nhắn”, hơn gà thường.
Cách phát âm này là thói quen của người miền Bắc. Hành động chấp nhận
thua cuộc, không thể làm được việc của chú gà ri thì: “chịu tho”. Vẻ thảng
thốt của chim sẻ trong Đôi gi đá: “to hó” đứng, kêu “tẹc tẹc”, không được
“điềm tĩnh” và “đều đặn”, “sảng sốt”. Tô Hoài sử dụng nghệ thuật phương
ngữ phong phú theo cách phát âm của người dân miền Bắc. Chẳng hạn như từ
tráo trở trong Của thiên trả địa: “căm quân”, “giáo dở”. Thói xấu điêu ngoa
trong Quan huyện phân xử: “cãi cọ điêu toa”. Cuộc chiến quyết liệt “dòng
dã” hàng tháng trong Các tướng tài của hai Bà Trưng. Truyện Thần giữ của,
“nuột nà”, “the lụa”. Hành động buộc nút, có thể cởi ra trong Nhà Chử:
“mẩu đuôi thừng”, “con do”, “đứt néo”. Một cuộc bể dâu, viết về rau giền

gọi là: “giền” nhỏ. Trong Mụ ngan, Cu Lặc là nhân vật người thể hiện nhiều
từ phương ngữ. Cậu nhìn thấy “vệt dài”, “lằn thằn” “rãnh bùn ướt”. Cách
phát ngôn của cậu mang rõ rệt âm hưởng địa phương: “thế lày”, “mềm nắm”,
“chốc lữa”, “chứ nỵ”, “hôm lọ”, “nại có”, “mấy con lữa”… Nhân vật giải
thích bí quyết luộc gà bị rắn cắn: “núc nuộc” gà thì bỏ một cái đinh lăm phân
“vàp lồi”, “nà lọc rắn” tan ra, chỉ phải bỏ đi có “lước xuýt”. Các nhân vật
trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài được xây dựng chân thực, sống động phần

20


nhiều là nhờ tiếng nói tự nhiên, đậm đà chất riêng của họ. Nghệ thuật phương
ngữ của Tô Hoài khá phong phú. Ông đi nhiều, sinh sống nhiều ở các miền
quê, nên phương ngữ trong truyện thiếu nhi của ông không bó hẹp. Tác giả
chịu khó quan sát và tìm kiếm, vì vậy những từ ngữ lạ dễ đi vào trang viết.
Chẳng hạn như tác phẩm Tội lão Cú, tiếng dân tộc Thái gọi quả vải là: “quả
ngõa”. Việc cúi xuống nhặt quả vải, gọi là “Kíp ngòa! Kíp ngòa!”. Hành
động đâm dao, nhân vật hét lên: “Hó sục! Hó sục”. Đây là phong cách diễn
đạt ấn tượng, góp phần làm sinh động tác phẩm. Phong cách này ghi nhận nét
riêng của người cầm bút, vì vậy mà mang những dấu ấn đặc biệt của nhà văn
Tô Hoài.
b. Ngôn ngữ miêu tả.
Trong quá trình sáng tác, Tô Hoài rất coi trọng việc sử dụng ngôn từ.
Ông mong muốn mỗi chữ phải là một hạt ngọc buông xuống bản thảo, và đó
phải là hạt ngọc mới nhất. Miêu tả thiên nhiên, Tô Hoài dùng ngôn ngữ giàu
hình ảnh. Đọc Hồi kí Mùa hạ đến mùa xuân đi, độc giả như cảm nhận được
cái nắng oi bức của trưa hè: Đàn chim sẻ “than vãn”, “ra rả”, “há mỏ”, “mồ
hôi chảy nhỏ giọt xuống mặt đường đá”, “mặt cháy nắng”. Viết truyện cho
thiếu nhi, Tô Hoài viết như vẽ tranh, từ ngữ tượng hình phong phú. Như cánh
đồng “khô trắng” trong Hai ông cháu và đàn trâu; Con đường “chuyển động

như dòng sông” trong Nhật kí vùng cao. Miêu tả nước trong Nhà Chử càng ấn
tượng, mép cát mới “bối rối”, làn nước “quanh co”, “thong thả”, “văng
vèo”. Tô Hoài đặc biệt chú ý đến các phong tục tập quán, để giúp người đọc
hiểu thêm về thói quen sinh hoạt của một thời kì lịch sử, hay của một vùng
đất lạ. Văn hóa các lễ nghi, vui chơi hay lao động đều khắc họa rõ trong nhiều
tác phẩm. Ở Đảo hoang, cuộc sống Bãi lở được miêu tả sinh động, từ “cỗ cơm
nén”, đến “những đám vật”, “các cõi về đua tài”. Trải qua những thăng trầm,
gia đình Mai An Tiêm khai phá đảo hoang thành mảnh đất phì nhiêu. Tô Hoài

21


×