SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
" TĂNG CƯỜNG TIẾNG VIỆT NHẰM PHÁT TRIỂN VỐN TỪ
CHO TRẺ SỞ TẠI LỚP MẦM 1 TRƯỜNG MẦM NON HỒNG
OANH THƠNG QUA TRỊ CHƠI"
1
I. TÓM TẮT ĐỀ TÀI :
Như chúng ta đã biết ngơn ngữ có vai trị quan trọng trong việc học tập, ngơn ngữ là
phương tiện chính để truyền đạt kiến thức. Và với tất cả mọi người, tiếng mẹ đẻ bao giờ
cũng là ngôn ngữ đầu tiên và dễ dàng tiếp cận nhất, tạo ra cảm giác tự tin, thoải mái trong
qua trình giao tiếp. Ngơn ngữ là cơng cụ của tư duy, trẻ dân tộc thiểu số có thể tư duy
bằng ngôn ngữ là tiếng mẹ đẻ của chúng, nhưng để học lên chương trình tiểu học, phổ
thơng… trẻ phải có vốn Tiếng Việt để có thể hiểu biết và khám phá thế giới xung quanh
(về các sự vật, hiện tượng gần gũi trong cuộc sống, hoạt động học tập…). Ngồi ra, sự
phát triển ngơn ngữ gắn liền với sự phát triển của tư duy từ đó trẻ có khả năng nhận thức
thế giới bên ngồi.
Ngơn ngữ của trẻ tiến bộ nhanh hay chậm tùy thuộc vào điều kiện sống, quan hệ giao tiếp
với những người xung quanh. Ở trường mầm non, nhà trẻ và mẫu giáo mà đặc biệt là mẫu
giáo bé, chính thời điểm đang học nói hay bắt chước người lớn vì thế cơ giáo cần tận
dụng để dạy các cháu tiếng phổ thông càng sớm càng tốt. Nhưng việc giáo viên dạy làm
sao để trẻ có thể tiếp thu và phát triển vốn Tiếng Việt một cách tốt nhất thì khơng phải
giáo viên nào cũng thực hiện được.
2
Muốn phát triển ở trẻ kỹ năng nghe, hiểu và nói được ngơn ngữ Tiếng Việt cũng như việc
tăng vốn từ cho trẻ, trước hết người giáo viên mầm non phải biết cách cuốn hút trẻ tham
gia vào hoạt động phát triển ngôn ngữ bằng cách thử sai và thực nghiệm với nhiều biện
pháp khác nhau. Thông thường giáo viên dạy Tiếng Việt cho trẻ chỉ dạy với hình thức cơ
nói trước, trẻ nói sau, ít đưa các hình thức khác vào dạy Tiếng Việt cho trẻ. Chính những
hình thức dạy chay đầy cứng nhắc như vậy đã khiến việc tiếp thu Tiếng Việt của trẻ
khơng được bền vững vì trẻ chỉ được nói lại câu, từ cơ mới dạy trẻ sẽ mau quên. Với yêu
cầu hiện nay việc tăng cường Tiếng Việt cho trẻ đã được đưa chính thức vào chương
trình dạy cho trẻ ở các lứa tuối mẫu giáo và cũng chính điều này đã thúc đẩy giáo viên
mầm non nói chung và bản thân tơi nói riêng có nhiều tìm tịi nhằm có những cải tiến
mới về việc dạy Tiếng Việt cho trẻ. Qua những tiết chuyên đề về việc tăng cường Tiếng
Việt cho trẻ hay những đợt thanh tra chuyên môn, giáo viên được cọ sát, học hỏi rất
nhiều. Song nếu chỉ qua những hoạt động đó thì chưa đủ mà giáo viên cịn phải tìm tòi,
sáng tạo phương pháp dạy học mới để phát huy được tính tích cực chủ động của trẻ trong
giờ học đồng thời làm tăng hứng thú với lĩnh vực phát triển ngôn ngữ này. Đặc biệt với
đặc thù trường Mầm Non Hoàng Oanh, đa số các cháu là người dân tộc thiểu số. Phụ
huynh học sinh chưa quan tâm nhiều đến việc dạy Tiếng Việt cho trẻ, chính vì vậy mà
vốn Tiếng Việt của trẻ còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, phương pháp dạy của giáo viên còn
3
cứng nhắc như: Dạy chay, mang nặng tính lý thuyết. Tôi thiết nghĩ nếu cứ sử dụng
phương pháp dạy học như thế này sẽ không đem lại hiệu quả cao.
Qua quá trình nghiên cứu, bản thân đã áp dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau
vào quá trình tăng cường Tiếng Việt cho trẻ nhưng tôi thấy tổ chức dạy Tiếng Việt cho trẻ
với hình thức thơng qua trò chơi là hữu hiệu nhất. Thơng qua trị chơi đã làm cho giờ học
trở nên sôi nổi, các cháu tham gia một cách tích cực và hiệu quả mang lại là rất lớn. Như
vậy để phát huy vai trò học tập, tính tích cực chủ động sáng tạo và tăng hứng thú cho trẻ
khi học Tiếng Việt, giải pháp của tôi đưa ra là vận dụng trò chơi vào dạy học, như vậy
trẻ sẽ được "học mà chơi, chơi mà học". Từ đó giúp các cháu giảm bớt những căng
thẳng, mệt mỏi khi tham gia vào các hoạt động.
Nghiên cứu được tiến hành trên hai nhóm tương đương: Hai lớp Mầm trường Mầm Non
Hoàng Oanh. Lớp Mầm 1 (17 trẻ) được chọn làm lớp thực nghiệm; lớp Mầm 2 (17 trẻ)
làm lớp đối chứng. Lớp thực nghiệm được vận dụng trò chơi trong các hoạt động dạy
Tiếng Việt, còn lớp đối chứng không sử dụng trò chơi. Kết quả cho thấy tác động có ảnh
hưởng rất lớn đến hứng thú và vốn từ của trẻ. Điểm trung bình sau tác động của lớp thực
nghiệm là 7.5 còn lớp đối chứng là 6.3 và kết quả kiểm chứng T-test cho thấy p = 1.2
chứng tỏ ảnh hưởng rất lớn. Điều này chứng minh rằng việc vận dụng trò chơi trong các
hoạt động dạy Tiếng Việt đã làm tăng hứng thú và kết quả học tập cho trẻ.
4
II. GIỚI THIỆU :
1. Thực trạng :
Năm học 2012-2013 số trẻ ra lớp 3- 4 tuổi của trường Mầm Non Hoàng Oanh chiếm 98%
là con em người dân tộc Raglai, đa số các cháu lần đầu ra lớp, khả năng Tiếng Việt của
trẻ còn nhiều hạn chế, phụ huynh chưa quan tâm nhiều đến việc dạy Tiếng Việt cho trẻ,
trẻ chưa mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Bên cạnh đó đa số giáo viên chưa có kinh
nghiệm trong tổ chức các hoạt động tăng cường Tiếng Việt cho trẻ, vốn Tiếng Việt hạn
chế sẽ khiến trẻ trẻ khó tiếp thu được những kiến thức mà giáo viên truyền đạt, trẻ thiếu
tự tin khi giao tiếp với cô và các bạn. Bên cạnh đó, giáo viên thường sử dụng các phương
pháp khi tăng cường Tiếng Việt cho trẻ với các hình thức dạy như: Cơ nói trước, trẻ nói
sau sẽ khiến trẻ thụ động, đồng thời trẻ sẽ mau quên.
Với thực trạng trên, là một giáo viên mầm non tôi ln trăn trở mình phải làm thế nào và
lựa chọn phương pháp, hình thức nào để việc dạy Tiếng Việt cho trẻ đạt hiệu quả cao
nhất đồng thời làm tăng hứng thú của trẻ khi học.
Chính vì điều băn khoăn, trăn trở ấy tơi đã tìm tịi, nghiên cứu và tìm ra biện pháp hữu
hiệu nhất đó là việc “Vận dụng trò chơi trong dạy Tiếng Việt cho trẻ”, cũng chính
phương pháp này đã làm tăng hứng thú của trẻ khi học, đồng thời trẻ tiếp thu một cách
5
nhẹ nhàng, khơng bị gị bó. Từ đó trẻ có thể tham gia các hoạt động một cách hứng thú và
kết quả mang lại rất cao.
2. Vai trò, tác dụng của trò chơi trong dạy Tiếng Việt cho trẻ :
Trò chơi trong dạy Tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo là cách thức giáo viên tổ chức cho trẻ
thực hiện những hành động đã và đang học thông qua một trò chơi nào đó. Với phương
pháp này, trẻ ở các lứa tuổi đều rất thích. Nó tạo cho lớp học một khơng khí sơi nổi và
khơng bị gị bó, nhàm chán "học mà chơi, chơi mà học". Những trò chơi mà giáo viên
mầm non thường dùng trong việc dạy Tiếng Việt cho trẻ như : Trị chơi đóng vai, trị
chơi dân gian, trò chơi học tập ( Ai nhanh hơn, nhanh mắt, nhanh miệng , hãy nói lại
những lời tơi nói, bạn vừa nói gì?...).
Thơng qua hoạt động góc, nhất là góc đóng vai, trẻ thể hiện được vai chơi thơng qua hành
động cũng như mối quan hệ giao tiếp giữa các vai chơi từ đó vốn từ của trẻ sẽ được mở
rộng. Ở góc này các cháu người kinh và sở tại được chơi cùng nhau, giao tiếp với nhau
qua đó trẻ học được nhiều ngơn ngữ từ bạn. Trẻ được giao lưu trao đổi mua bán và thể
hiện vai chơi thơng qua lời nói. Để giúp trẻ học tập đạt hiệu quả cao qua vui chơi thì
chúng ta cần phải xác định hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo: “Học mà chơi Chơi mà học ”. Hoạt động vui chơi sáng tạo hàng ngày ở lớp, trẻ được chọn bạn chơi,
chọn góc chơi, chọn đồ chơi mà trẻ thích. Ở các góc chơi này giúp phát triển trí tưởng
6
tượng ngôn ngữ khi giao tiếp với bạn chơi, mở rộng vốn từ, vốn hiểu biết của trẻ. Trong
khi chơi trẻ tiếp thu tri thức một cách nhẹ nhàng, thoải mái bên cạnh đó giáo viên ln
khuyến khích các cháu người kinh và người sở tại đổi vai chơi cho nhau, tăng cường cho
các cháu người sở tại nói theo bạn vì trẻ ở lứa tuổi mầm non đa số trẻ học thơng qua bắt
chước .
Thơng qua trị chơi trẻ sẽ được mở rộng vốn từ, mở rộng mối quan hệ giao tiếp với bạn,
đồng thời trẻ sẽ mạnh dạn, tự tin hơn. Đặc biệt khi tiến hành chơi, trong các trò chơi cũng
có sự kết hợp linh hoạt với mợt sớ phương pháp như : thảo ḷn nhóm, đóng vai, ... từ đó
giúp trẻ hình thành những kỹ năng giao tiếp đơn giản và cũng qua đó sẽ phát triển vốn từ
cho trẻ.
Thơng qua trị chơi dân gian trẻ sẽ được kết hợp lời của bài đồng dao với những hành
động phù hợp, như vậy trẻ sẽ rất thích và
Thông qua trò chơi, việc tăng cường Tiếng Việt cho trẻ được tiến hành một cách nhẹ
nhàng, sinh động, sẽ lôi cuốn được trẻ vào quá trình học tập một cách tự nhiên, đồng thời
tăng sự hứng thú của trẻ khi tham gia hoạt động. Ngoài ra, nó còn tác động trực tiếp đến
tình cảm, thái độ đem lại niềm vui, làm cho các cháu cảm thấy hứng thú học Tiếng Việt
và thích được đi học hơn.
3. Vấn đề nghiên cứu:
7
Việc sử dụng trò chơi vào dạy Tiếng Việt có làm tăng hứng thú và phát triển vốn từ cho
trẻ sở tại lớp Mầm 1 trường Mầm Non Hoàng Oanh không ?
4. Dữ liệu sẽ được thu thập :
Kết quả qua các phiếu đánh gía về mức độ hứng thú và phát triển vốn từ của trẻ
5. Giả thiết nghiên cứu:
Có, việc sử dụng trò chơi vào dạy Tiếng Việt cho trẻ có làm tăng hứng thú và phát triển
vốn từ cho trẻ lớp Mầm 1 trường MN Hoàng Oanh.
III. PHƯƠNG PHÁP :
1. Khách thể nghiên cứu :
Tôi lựa chọn hai lớp Mầm 1 và Mầm 2 để thực hiện nghiên cứu vì đó là hai lớp có sự
tương đồng về dân tộc, giới tính, khả năng giao tiếp Tiếng Việt và sĩ số lớp. Những yếu tố
đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng của tôi.
Tôi chọn lớp Mầm 2 làm lớp đối chứng, lớp Mầm 1 làm lớp thực nghiệm. Các cháu hai
lớp này có vốn Tiếng Việt là tương đương nhau.
Số trẻ sở tại ở các nhóm lớp
Tổng số
Nam
8
Nữ
Lớp Mầm 1
17
10
07
Lớp Mầm 2
17
09
08
2. Thiết kế nghiên cứu :
Chọn tất cả trẻ sở tại của 2 lớp Mầm 1 và Mầm 2 để thực hiện nghiên cứu . Lớp Mầm 2 là
lớp được chọn làm nhóm đối chứng, lớp Mầm 1 là lớp được chọn làm nhóm thực
nghiệm. Tơi sử dụng phiếu đánh giá về mức độ hứng thú và vốn Tiếng Việt của trẻ hai
lớp Mầm 1 và Mầm 2 trước tác động để so sánh. Sau khi lấy kết quả và so sánh thì thấy
có sự chênh lệch. Do đó tôi dùng phép kiểm chứng T-test để kiểm chứng sự chênh lệch
giữa điểm số trung bình của 2 nhóm trước khi tác động
Kết quả: p = 0,38 > 0,05, từ đó kết luận sự chênh lệch điểm số trung bình của hai nhóm
thực nghiệm và nhóm đới chứng là khơng có ý nghĩa. Do đó, hai nhóm được xem như là
tương đương.
Sử dụng thiết kế: Kiểm tra trước và sau tác động đối với các nhóm tương đương.
Thiết kế nghiên cứu :
Nhóm
KT trước TĐ
Tác động
KT sau TĐ
Vận dụng phương pháp
Thực nghiệm
O1
trò chơi vào dạy Tiếng O3
(Mầm 1)
Việt
9
Không vận dụng phương
Đối chứng
O2
(Mầm 2)
pháp trò chơi vào dạy O4
Tiếng Việt
Ở thiết kế này, tôi sử dụng phép kiểm chứng T-Test độc lập.
3. Quy trình nghiên cứu :
- Chuẩn bị bài của giáo viên : Để có sự so sánh một cách khách quan tôi đã liên kết với
cô Nguyễn Thị Phượng là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp đối chứng. Khi tổ chức các
hoạt động tăng cường Tiếng Việt cho trẻ cơ Phượng khơng áp dụng trị chơi khi dạy trẻ
mà hình thức tổ chức của cơ vẫn theo phương pháp cũ: Giáo viên nói mẫu và khuyến
khích trẻ nói theo.
- Đới với lớp thực nghiệm : Tôi tổ chức các hoạt động tăng cường Tiếng Việt cho trẻ với
hình thức trị chơi.
- Tiến hành thực hiện : Thời gian tôi tiến hành dạy thực nghiệm bắt đầu từ chủ điểm ”
Thế giới động vật”.
Chủ điểm
Thế giới động
Hoạt động/lớp
Tên bài dạy
Tăng cường Tiếng Việt Những vai chơi bé thích
vật
10
( Từ 31/12 - qua hoạt động góc.
25/01/2013)
( Lớp Mầm 1)
Thế giới thực
vật
(
Tăng cường Tiếng Việt Bé yêu thích đồng dao
qua hoạt động mọi lúc, mọi
Từ
28/01 nơi.
-22/02/2013)
Phương
( Lớp Mầm 1)
tiện
giao thông
Tăng cường Tiếng Việt Dạy từ: ” Đèn xanh, đèn
qua hoạt động học.
( Từ 11/03 –
đỏ, đèn vàng”
( Lớp Mầm 1)
29/03/2013)
4. Đo lường và thu thập dữ liệu :
Tôi sử dụng phiếu quan sát đánh giá mức độ hứng thú và phát triển vốn từ của trẻ sau khi
trẻ học xong chủ điểm: ” Nghề nghiệp” làm bài kiểm tra trước tác động và bài kiểm tra
sau tác động là bài kiểm tra sau khi trẻ học xong chủ điểm: ” Phương Tiện giao thông”.
Tiến hành khảo sát và chấm điểm.
IV. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU & BÀN LUẬN KẾT QUẢ :
1. Phân tích dữ liệu :
11
Bảng so sánh điểm trung bình bài kiểm tra sau tác động:
Thực nghiệm
Đối chứng
Điểm trung bình cộng
7.5
6.3
Độ lệch chuẩn
1,0
1,0
Giá trị P của T-test
0,0008
Mức độ ảnh hưởng
1.2
2. Bàn luận kết quả:
Như ở phần thiết kế nghiên cứu, từ kết quả nghiên cứu ta đã chứng minh được rằng kết
quả của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng trước tác động là tương đương nhau. Sau
quá trình tác động và kiểm chứng sự chênh lệch giá trị trung bình bằng phép kiểm chứng
t-test đã cho ta kết quả p = 0,0008 (mà p <= 0,05 là có nghĩa). Như vậy sự chênh lệch là
có ý nghĩa giữa hai nhóm thực nghiệm và đối chứng. Điều này đã chứng tỏ rằng việc tác
động bằng cách sử dụng trò chơi vào dạy Tiếng Việt cho trẻ là có ý nghĩa. Hay nói cách
khác điểm trung bình của nhóm thực nghiệm lớn hơn nhóm đối chứng sau khi tác động
không phải là ngẫu nhiên mà đó chính là kết quả của cả quá trình tác động.
Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn (SMD) = 7.5- 6.3 = 1.2
1.0
12
Biểu đồ so sánh điểm trung bình trước tác động và sau tác động của nhóm
thực nghiệm và nhóm đối chứng.
Theo bảng tiêu chí Cohen, chênh lệch giá trị trung bình chuẩn (SMD) = 1.2 cho thấy mức
độ ảnh hưởng của việc dạy học Tiếng Việt sử dụng trò chơi là có ảnh hưởng và kết quả
mà nó mang lại là rất lớn. Như vậy giả thiết của đề tài là việc vận dụng trò chơi vào dạy
Tiếng Việt có làm tăng hứng thú và phát triển vốn từ cho trẻ sở tại lớp Mầm 1 trường
Mầm Non Hoàng Oanh hay không? Giờ đây đã được kiểm chứng trong thực tế và cho
thấy rằng việc vận dụng trò chơi trong dạy Tiếng Việt cho trẻ có làm phát triển vốn từ cho
trẻ sở tại lớp Mầm 1 trường Mầm Non Hoàng Oanh đồng thời cũng làm tăng sự hứng thú
của trẻ khi tham gia vào hoạt động mà mức độ ảnh hưởng của nó là rất lớn.
13
V. KẾT LUẬN & KHUYẾN NGHỊ :
1. Kết luận :
Với đề tài: “ Tăng cường tiếng việt nhằm phát triển vốn từ cho trẻ sở tại lớp Mầm 1
trường Mầm Non Hồng Oanh thơng qua trị chơi” tơi đã tập trung nghiên cứu những
vấn đề sau :
+ Tìm hiểu điểm khái quát nhất về lí luận dạy trẻ tập nói Tiếng Việt cho các cháu sở tại
lớp Mầm trường Mầm Non Hoàng Oanh, những điểm chủ yếu nhất về lí luận của việc
vận dụng trò chơi vào các hoạt động tăng cường Tiếng Việt sao cho phù hợp nhằm đạt
tới mục tiêu, yêu cầu ( Trẻ hứng thú, phát triển vốn từ) và phát huy được tính tích cực
của trẻ.
+ Tôi tiến hành khảo sát, thiết kế các hoạt động tăng cường Tiếng Việt cho trẻ có sử dụng
trò chơi và đã tiến hành giảng dạy ở lớp thực nghiệm. Sau đó tiến hành lập phiếu quan sát
và thu thập dữ liệu, dùng phép kiểm chứng T-test để kiểm chứng sự chênh lệch và kiểm
tra mức độ ảnh hưởng bằng bảng tiêu chí Cohen thì cho thấy rằng việc vận dụng trò chơi
vào dạy Tiếng Việt cho trẻ đã tạo ra giá trị trung bình chuẩn của hai nhóm với mức độ
ảnh hưởng của nó là rất lớn.
Như vậy, việc vận dụng trò chơi vào dạy Tiếng Việt cho các cháu sở tại lớp Mầm 1
trường Mầm Non Hoàng Oanh đã làm tăng hứng thú và phát triển vốn từ cho trẻ.
14
2. Khuyến nghị :
- Các cấp, các ngành cần quan tâm hơn nữa, tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất
phục vụ cho việc dạy và học của cô và trẻ.
- Lãnh đạo nhà trường cần chú trọng đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng đồ
chơi phục vụ cho công tác giảng dạy của giáo viên. Ngoài ra nhà trường cũng cần tổ chức
nhiều chuyên đề tăng cường Tiếng Việt cho trẻ để giáo viên có thể học hỏi, rút kinh
nghiệm khi tổ chức hoạt động.
- Đối với giáo viên cần chú trọng nhiều đến việc tăng cường Tiếng Việt cho trẻ, chịu khó
tìm tịi, tham khảo qua sách, báo, mạng Internet tìm ra những trị chơi hay, mang tính chất
mới lạ để thu hút trẻ vào hoạt động. Ngoài ra cũng cần thường xuyên dự giờ đồng nghiệp,
không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chun mơn.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách hướng dẫn chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số ( Mẫu
giáo bé 3-4 tuổi).
2. Sách tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ ở trường mầm non.
3. Quyển tuyển tập trò chơi phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuối mầm non.
4. Mạng Internet.
15
16