Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Phương pháp dạy học trực quan trong việc cho trẻ mẫu giáo lớn làm quen với chữ cái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 80 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON

======

CHU THỊ MỸ HẠNH

PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN
TRONG VIỆC CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN
LÀM QUEN VỚI CHỮ CÁI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục học Mầm non

HÀ NỘI - 2016


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON

======

CHU THỊ MỸ HẠNH

PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN
TRONG VIỆC CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN
LÀM QUEN VỚI CHỮ CÁI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục học Mầm non

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Thu Hƣơng



HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu khóa luận này tôi không khỏi
lúng túng và bỡ ngỡ. Nhƣng dƣới sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của cô
TS. Nguyễn Thu Hương, tôi đã từng bƣớc tiến hành và hoàn thành khóa
luận với đề tài: Phương pháp dạy học trực quan trong việc cho trẻ mẫu
giáo lớn làm quen với chữ cái.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thu Hương,
ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn tôi trong suốt quá tình thực hiện khoá luận. Tôi
xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Giáo dục mầm non và các thầy
cô trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, trƣờng Mầm non Tích Sơn - Thành phố
Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp này.
Do thời gian nghiên cứu còn ngắn, khoá luận không tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong nhận đƣợc sự góp ý của thầy cô và bạn đọc để khoá luận
hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Chu Thị Mỹ Hạnh


LỜI CAM ĐOAN
Để hoàn thành khóa luận này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận
đƣợc sự hƣớng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo - TS. Nguyễn Thu Hương.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Đề tài này

chƣa đƣợc công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Chu Thị Mỹ Hạnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................... 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................... 7
6. Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................... 7
7. Cấu trúc đề tài ........................................................................................... 8
NỘI DUNG ....................................................................................................... 9
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHƢƠNG PHÁP DẠY
HỌC TRỰC QUAN TRONG VIỆC CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN LÀM
QUEN VỚI CHỮ CÁI ...................................................................................... 9
1.1. Quan niệm về phƣơng pháp trực quan và đồ dùng trực quan ................ 9
1.1.1. Khái niệm phương pháp trực quan ................................................. 9
1.1.2. Khái niệm đồ dùng trực quan ......................................................... 9
1.1.3. Vị trí và vai trò của đồ dùng trực quan trong trường mầm non ... 13
1.2. Các cơ sở khoa học .............................................................................. 15
1.2.1. Cơ sở tâm lí ................................................................................... 15
1.2.2. Cơ sở sinh lý học ........................................................................... 19
1.2.3. Đặc điểm ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn .................................... 20
1.2.4. Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo lớn.......................................... 24
1.3. Thực trạng của việc cho trẻ mẫu giáo lớn làm quen với chữ cái ở

trƣờng mầm non .......................................................................................... 25
1.3.1. Thuận lợi ....................................................................................... 25
1.3.2. Khó khăn ....................................................................................... 26
Chƣơng 2. SỬ DỤNG MỘT SỐ ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG VIỆC
CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN LÀM QUEN VỚI CHỮ CÁI............................ 28


2.1 Nguyên tắc sử dụng đồ dùng trực quan ................................................ 28
2.1.1 Sử dụng đồ dùng trực quan đúng mục đích ................................... 28
2.1.2 Sử dụng trực quan đúng lúc ........................................................... 28
2.1.3 Sử dụng trực quan đúng chỗ .......................................................... 29
2.1.4 Sử dụng trực quan đúng mức độ .................................................... 29
2.2. Các cách sử dụng đồ dùng trực quan trong việc cho trẻ làm quen với
chữ cái ......................................................................................................... 30
2.2.1. Tranh, ảnh ..................................................................................... 30
2.2.2. Bộ chữ (thẻ chữ cái) ...................................................................... 36
2.2.3. Vật mẫu ......................................................................................... 39
2.2.4. Băng ghi âm, máy ghi âm............................................................. 42
2.2.5. Băng ghi hình, đĩa ghi hình ........................................................... 43
2.2.6. Sử dụng giáo án điện tử power point, violet, flash,e-learning… .. 44
2.2.7. Sử dụng trò chơi trong việc cho trẻ làm quen với chữ cái. ......... 47
Chƣơng 3. THỂ NGHIỆM SƢ PHẠM ........................................................... 50
3.1. Mục đích thể nghiệm............................................................................ 50
3.2. Địa điểm thể nghiệm ............................................................................ 50
3.3. Phƣơng pháp thể nghiệm...................................................................... 50
3.4. Giáo án thể nghiệm .............................................................................. 51
3.5.Tiêu chí đánh giá ................................................................................... 62
3.6.Kết quả thể nghiệm ............................................................................... 63
3.7.Đánh giá kết quả thử nghiệm ................................................................ 65
3.7.1.Giáo án 1 ........................................................................................ 65

3.7.2.Giáo án 2 ........................................................................................ 67
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 73


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Trẻ em hôm nay - thế giới ngày mai”. Trẻ em là niềm vui, niềm hạnh
phúc của mỗi gia đình, là tƣơng lai của mỗi dân tộc, vì vậy việc bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em không chỉ là trách nhiệm của gia đình mà là trách
nhiệm của toàn xã hội. Lúc sinh thời Bác Hồ đã dạy:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
Sự nghiệp trồng ngƣời là sự nghiệp chung của toàn xã hội trong đó
ngành giáo dục và đào tạo giữ vai trò then chốt, chính vì vậy mà Đảng và nhà
nƣớc ta đã có những đƣờng lối chính sách ƣu tiên cho giáo dục phát triển với
tinh thần “Hãy dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em”.
Nghị quyết Trung ƣơng 2 khóa VIII đã nêu mục tiêu của giáo dục là:
“Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” để đáp ứng nền
kinh tế của nƣớc nhà trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nƣớc.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
nó giữ vai trò nền tảng, đặt nền móng đầu tiên trong việc giáo dục và phát
triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Việc chăm sóc và bồi dƣỡng những thế hệ
măng non trở thành những ngƣời công dân tốt với đầy đủ nhân lực, trí tuệ để
góp phần xây dựng đất nƣớc là nhiệm vụ hàng đầu của ngành giáo dục và
toàn thể xã hội. Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể
chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân
cách và chuẩn bị cho trẻ vào lớp một đồng thời hình thành và phát triển ở trẻ
những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng,
những kỹ năng sống phù hợp cần thiết với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối

đa những khả năng tiềm ẩn đặt nền móng cho việc học tập ở các cấp học tiếp

1


theo. Những gì mà trẻ đạt đƣợc ở độ tuổi này có ý nghĩa quyết định đến sự
hình thành và phát triển toàn diện của trẻ.
Mặt khác, giáo dục mầm non hƣớng sự phát triển của trẻ vào việc hình
thành những tiền đề nhân cách mới, chuẩn bị cho trẻ khả năng học tập tốt. Ví
nhƣ ngƣời trồng cây ở giai đoạn đầu là phải tạo ra những mầm non bụ bẫm,
mềm mại để cho cây sau này phát triển đƣợc khỏe khoắn, chứ không phải tạo
ra những mầm còi cọc. Từ đó có thể thấy việc giáo dục trẻ lứa tuổi mầm non là
vô cùng quan trọng, những kiến thức mà nhà sƣ phạm đƣa đến cho trẻ dù chỉ là
những kiến thức, tri thức sơ đẳng, đơn giản song vô cùng cần thiết trong cuộc
đời của mỗi đứa trẻ sau này. Chính vì vậy ngƣời giáo viên mầm non không chỉ
cần có sự hiểu biết đầy đủ về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mà còn phải nắm
vững mục tiêu, nội dung, đặc biệt là phƣơng pháp giáo dục trẻ ở từng độ tuổi.
Hơn thế nữa trong chƣơng trình giáo dục mầm non mới hiện nay ngƣời giáo
viên cần phải tích cực đổi mới phƣơng pháp dạy học và dạy cho trẻ làm quen
với 29 chữ cái để chuẩn bị tâm thế cho trẻ sẵn sàng bƣớc vào lớp một.
Dạy trẻ làm quen với chữ cái là một trong những nội dung quan trọng
cho trẻ mẫu giáo lớn. Vì qua môn học đó giúp trẻ thông minh nhanh nhẹn
hoạt bát có tính kiên trì, có sự năng động sáng tạo, làm quen chữ cái phát triển
tƣ duy, từ tƣ duy trực quan hành động đến tƣ duy trực quan trừu tƣợng và đến
phát triển tƣ duy lôgic, qua làm quen với chữ cái ngôn ngữ của trẻ dần dần
đƣợc hoàn thiện, trẻ đƣợc dùng từ chính xác hơn, trẻ đƣợc khám phá, tìm tòi,
lĩnh hội tích luỹ cho mình một số kỹ năng, cách ngồi đúng tƣ thế, cách cầm
bút khi tô, cách dở vở, cách so sánh phân tích…
Đối với trẻ mẫu giáo lớn, làm quen với chữ cái giúp trẻ bƣớc đầu nhận
biết đƣợc các chữ cái và phát âm chuẩn các chữ cái trong các từ trọn vẹn, phát

triển ở trẻ khả năng quan sát, so sánh và phát triển ngôn ngữ khi trẻ đã thuộc
và phát âm chuẩn các chữ cái thì trẻ sẽ dễ dàng làm quen với cách tô chữ để
chuẩn bị vào lớp 1. Thế nhƣng một mặt các cháu vẫn chỉ “Học bằng chơi,

2


chơi mà học”, mặt khác chữ cái vẫn thuộc phạm vi trừu tƣợng.
Chữ cái vốn rất gần gũi với trẻ em nhƣng ở những năm đầu tiên của cuộc
sống, những phản ứng của trẻ đối với chữ cái vẫn còn mơ hồ thậm chí có trẻ
vẫn còn thấy xa lạ. Khi trẻ bƣớc vào tuổi mẫu giáo, nhất là từ 4 tuổi trở lên thì
trẻ đã đƣợc làm quen, tiếp xúc với chữ viết, tuy nhiên lòng yêu thích của các
cháu còn ở nhiều mức độ khác nhau. Và việc trẻ hứng thú, ham thích say mê
với chữ cái nhƣ thế nào còn phụ thuộc vào hoàn cảnh sống, điều kiện gia
đình, giáo dục của ngƣời lớn xung quanh.
Cho trẻ làm quen với chủ cái ở trƣờng mầm non đƣợc diễn ra rất linh
hoạt theo hai hình thức chính: Hình thức trong giờ hoạt động chung và các
hoạt động khác. Việc lựa chọn hình thức cho trẻ làm quen chữ viết dựa trên
đặc điểm tình hình của trẻ do đó buộc ngƣời giáo viên phải lựa chọn hình thức
cho phù hợp với trẻ làm sao để trẻ dễ dàng tiếp thu.
Việc cho trẻ mầm non làm quen với chữ cái cũng là sự chuẩn bị cho trẻ
học đọc, học viết sau này. Vì những năng lực và kĩ năng cần chuẩn bị là:
- Năng lực tri giác cụ thể và trí nhớ tức thì.
- Năng lực định hƣớng trong không gian.
- Sự thành thục và vận động của bàn tay.
- Tính chủ động của sự chú ý…
Việc dạy trẻ làm quen với chữ cái có rất nhiều phƣơng pháp và hình thức
khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay cho thấy việc sử dụng các phƣơng
pháp trực quan trong giờ học để giúp trẻ làm quen với chữ cái đƣợc sử dụng
nhiều và đạt hiệu quả cao. Phƣơng pháp trực quan cần thay đổi sao cho phù

hợp với nội dung và mục tiêu đào tạo. Ngoài ra, chúng ta có thể nhận thấy rằng
phƣơng pháp trực quan đƣợc sử dụng trong việc cho trẻ làm quen với chữ cái là
rất quan trọng và hợp lí, vì nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ.
Bên cạnh đó, do nhiều nguyên nhân khác nhau nhƣ: Đồ dùng trực quan

3


chƣa đƣợc đồng bộ, giáo viên không đủ thời gian để chuẩn bị và khai thác hết
giá trị của phƣơng pháp trực quan, do yếu tố thuộc về quan niệm phƣơng
pháp trực quan có hay không cũng không ảnh hƣởng đến chất lƣợng dạy
học… nên trong thực tế phƣơng pháp trực quan chƣa đƣợc khai thác triệt để
trong việc cho trẻ làm quen với chữ cái.
Bản thân là một sinh viên ngành giáo dục mầm non chúng tôi đã nhận
thấy đƣợc hoạt động làm quen chữ cái có ý nghĩa và có tác dụng to lớn trong
giáo dục nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện nhƣ: trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ.
Mặt khác, hoạt động làm quen chữ cái còn giúp trẻ nhận biết thế giới xung
quanh, giúp trẻ giao tiếp với mọi ngƣời. Có thể nói hoạt động làm quen chữ
cái là tiền đề vững chắc giúp trẻ tự tin bƣớc vào trƣờng phổ thông. Nhƣ vậy
để giúp trẻ hứng thú trong việc đọc, tích cực luyện phát âm, vận dụng sự hiểu
biết và khả năng của mình vào hoạt động hằng ngày, chúng tôi luôn suy nghĩ:
Làm thế nào để trẻ hứng thú với các giờ học chữ cái, để trẻ mau nhớ mặt chữ
cái và góp phần đạt mục tiêu của các môn học?
Từ đó, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Phương pháp dạy học trực
quan trong việc cho trẻ mẫu giáo lớn làm quen với chữ cái” làm đề tài khóa
luận của mình. Chúng tôi thấy rằng đây là đề tài thiết thực trong hoạt động
dạy và học cho trẻ mẫu giáo lớn nói riêng và ở bậc học mầm non nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu
Phƣơng pháp dạy trẻ làm quen với chữ cái và phƣơng pháp dạy học trực
quan đƣợc rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đi sâu vào nghiên cứu:

Việc cho trẻ mẫu giáo làm quen với chữ cái không phải là vấn đề mới
đƣợc đặt ra mà từ lâu các nhà khoa học đã đi vào nghiên cứu và tìm hiểu vấn
đề này.
Năm 1974, tác giả Hồng Giao trong cuốn “Tạp chí ngôn ngữ” đã tìm
hiểu một số đặc điểm của tiếng Việt, tác giả đƣa ra vài ý kiến về một số đặc
điểm của tiếng Việt, đồng thời nêu lên những nét khác biệt giữa tiếng Việt và
mất ngôn ngữ khác cùng loại (chủ yếu là Hán phổ thông), Nùng, Tày, Thái.

4


Đến năm 1996, tác giả Lý Toàn Thắng trong cuốn “Tạp chí ngôn ngữ”
khi nghiên cứu về chữ Quốc ngữ đã trình bày những chặng đƣờng hình thành
và hoàn tất chữ Quốc ngữ cùng với sự đánh giá, đóng góp của Alexandre
DeRhodes với sự “thành hình” của chữ Quốc ngữ.
Trong cuốn “Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo” Nxb
ĐHSP, năm 2004, tác giả Nguyễn Xuân khoa đã nghiên cứu rất kĩ sự phát
triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo. Trên cơ sở đánh giá chung về đặc điểm tâm
sinh lí của trẻ ở lứa tuổi này, dựa trên mối quan hệ của bộ môn ngôn ngữ học
với những bộ môn khác ông đã đƣa ra đƣợc một số phƣơng pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Cuốn sách là tài liệu bổ ích cho giáo viên và sinh
viên ngành mầm non cũng nhƣ các nhà nghiên cứu về lĩnh vực này.
Trong “Tạp chí ngôn ngữ số 3-4/1984”, tác giả Nguyễn Xuân Khoa có
bài: Phát triển năng lực hoạt động lời nói trong việc dạy tiếng Việt ở nhà
trường đã nhận đƣợc sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu.
Tạp chí Giáo dục mầm non có nhiều bài viết về cách tổ chức, quản lí, tin
hoạt động, những sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên và các cán bộ quản lí
ngành mầm non. Ở đó cũng có khá nhiều bài viết về vấn đề phát triển ngôn
ngữ cho trẻ. Trong tạp chí số 1/2006, tác giả Đinh Thị Uyên có bài dịch tìm
hiểu về chƣơng trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non Hàn Quốc. Đây là

một góc nhìn mở cho nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
Năm 2006, tác giả Đinh Hồng Thái có biên soạn giáo trình “Phương
pháp phát triển lời nói cho trẻ em”, Nxb ĐHSP, dựa trên những thành tựu
nghiên cứu của các nhà sƣ phạm Nga trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho
trẻ em đã nói rất rõ về các phƣơng pháp phát triển vốn từ cho trẻ.
Trên cơ sở khẳng định vai trò quan trọng của ngôn ngữ đối với sự phát
triển của trẻ em, các nhà khoa học nhƣ: Iadenco V.I, Chikhêva E.I, Xookhin
Ph.A… đã nghiên cứu đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 0 - 6 tuổi. Các
tác giả đã phân tích quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ làm các giai đoạn: 0 -

5


1 tuổi, 1 - 2 tuổi, 2 - 3 tuổi, 3 - 6 tuổi, ở mỗi giai đoạn các tác giả đã nghiên cứu
cụ thể đặc điểm về ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng và lời nói mạch lạc của trẻ. Các
kết quả nghiên cứu trên là cơ sở khoa học vô cùng quan trọng để các nhà giáo
dục xây dựng mục tiêu, nội dung và phƣơng pháp, biện pháp để phát triển ngôn
ngữ cho trẻ cũng nhƣ bƣớc đầu cho trẻ làm quen với chữ cái tiếng Việt.
Phƣơng pháp trực quan đƣợc sử dụng từ kiểu dạy học sơ khai nhất của
Xôcrat và Khổng Tử để con ngƣời nhận thức đƣợc thế giới. Bởi lẽ theo họ thế
giới hòa tan trong ta và con ngƣời có thể nhận thức đƣợc chính bản thân họ.
Mối quan tâm của Khổng Tử là tri thức kinh nghiệm không có sẵn trong mỗi
con ngƣời, nó đƣợc hình thành trong mỗi con ngƣời, nó đƣợc hình thành
thông qua học tập. Ông khẳng định “Tính người ta vốn gắn với nhau”. Khổng
Tử rất coi trọng nhận thức cảm tính, con ngƣời nhận thức thế giới phải dựa
vào kết quả quan sát các sự vật trực quan. Từ những điều nghe thấy, nhìn thấy
hai ông đã rút ra đƣợc nội dung dạy học.
Ngoài nghiên cứu của các nhà giáo dục học nƣớc ngoài về phƣơng pháp
trực quan thì trong cuốn Hướng dẫn sử dụng thiết bị dạy học trong môn Tiếng
Việt lớp Một, tác giả Đoàn Hồng Quỳnh đã nêu nên cuộc sống khoa học và

thực tiễn trong việc sử dụng và tự làm thiết bị dạy học, tạo ra khả năng tối ƣu
trong việc trình bày vấn đề một cách sâu sắc.
Tác giả Phan Trọng Ngọ, Dương Diệu Hoa, Lê Tràng Định, trong cuốn
“Vấn đề trực quan trong dạy học” viết về những lí luận của phƣơng pháp dạy
học trực quan.
Trên cơ sở kế thừa công trình nghiên cứu của cha ông đi trƣớc. Ngày
nay, phƣơng tiện dạy học trực quan cũng đƣợc rất nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm và đi sâu vào các khía cạnh khác nhau. Nhƣng chƣa có ai nghiên cứu về
phƣơng pháp trực quan sử dụng trong việc cho trẻ làm quen với chữ cái. Vì
vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: Phương pháp dạy học trực quan trong việc

6


cho trẻ mẫu giáo lớn làm quen với chữ cái.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a, Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm ra các cách thức sử dụng đồ dùng
trực quan nhằm giúp trẻ làm quen với chữ cái một cách hiệu quả nhất.
b, Nhiệm vụ nghiên cứu:
Khóa luận này chúng tôi đi giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về đặc điểm tâm sinh lí và nhận thức của trẻ
mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về phƣơng pháp dạy học trực quan trong việc
cho trẻ làm quen với chữ cái.
- Tìm hiểu cách sử dụng một số đồ dùng trực quan trong việc cho trẻ mẫu
giáo lớn (5 - 6 tuổi) làm quen với chữ cái.
- Thể nghiệm một số giáo án.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Phƣơng pháp dạy học trực quan trong việc cho trẻ mẫu giáo lớn làm

quen với chữ cái.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu
- Phƣơng pháp tổng hợp
- Phƣơng pháp thống kê toán học
- Phƣơng pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phƣơng pháp thực nghiệm
6. Giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu thành công khóa luận này sẽ góp phần giúp cho các giáo
viên mầm non biết sử dụng hợp lí đồ dùng trực quan đạt hiệu quả cao trong
việc cho trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) làm quen với chữ cái.

7


7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung khóa luận gồm 3
chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận của phƣơng pháp dạy học trực quan trong việc
cho trẻ mẫu giáo lớn làm quen với chữ cái.
Chƣơng 2: Sử dụng một số đồ dùng trực quan trong việc cho mẫu giáo
lớn làm quen với chữ cái.
Chƣơng 3: Thể nghiệm sƣ phạm

8


NỘI DUNG
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHƢƠNG PHÁP
DẠY HỌC TRỰC QUAN TRONG VIỆC CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN

LÀM QUEN VỚI CHỮ CÁI
1.1. Quan niệm về phƣơng pháp dạy học trực quan và đồ dùng trực quan
1.1.1. Khái niệm phương pháp dạy học trực quan
1.1.1.1 Khái niệm
Phƣơng pháp dạy học trực quan là phƣơng pháp dạy học trong đó sử
dụng các vật thể kĩ thuật, các quá trình công nghệ, các phƣơng tiện gián tiếp
và các thao tác kĩ thuật công nghệ nhằm giúp học sinh trực tiếp cảm giác, tri
giác tài liệu mới trên cơ sở đó tạo ra các biểu tƣợng cụ thể trong học sinh, rèn
luyện kĩ năng, kĩ xảo [4;13].
Quá trình dạy học gồm nhiều hoạt động dạy và hoạt động học, cũng nhƣ
bất cứ quá trình sản xuất nào nó cũng cần những phƣơng tiện nhất định.
Trong giáo dục có nhiều phƣơng tiện dạy học khác nhau. Tuy vậy trong đề tài
này chúng tôi chỉ nghiên cứu phƣơng pháp trực quan nói chung, trong đó đi
sâu vào nghiên cứu việc sử dụng các đồ dùng theo quan điểm hiện đại. Từ đó
đƣa ra quan điểm sau:
Trực quan theo đúng nghĩa của nó không đơn giản chỉ là quan sát sự vật
bằng cách giải quyết mà là hành động tác động lên sự vật làm biến đổi các
dấu hiệu bề ngoài của chúng, làm cái bản chất, các mối liên hệ, quan hệ có
tính quy luật của chúng đƣợc bộc lộ, đƣợc phơi bày một cách cảm tính mà
nếu không có những tác động đó thì chúng mãi mãi bí ẩn với con ngƣời.
Quan điểm về trực quan nhƣ vậy có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động dạy
học. Nó là cơ sở để xác định rõ hơn về bản chất và vai trò của đồ dùng trực
quan trong dạy học. Từ đó, phƣơng pháp dạy học trực quan cần hiểu một cách
đơn giản hơn để áp dụng ở trƣờng mầm non. Theo đó, chúng tôi cho rằng:

9


Phương pháp dạy học trực quan theo đúng nghĩa của nó không phải là
giáo viên giới thiệu trình bày các phương tiện trực quan nhằm cung cấp

cho người học những hình ảnh cảm tính về sự vật. Dạy học trực quan là
dạy học phải bắt đầu từ việc hướng dẫn người học hành động cảm tính đối
với đối tượng học.
Trong trực quan có phƣơng tiện trực quan, đồ dùng dạy học và thiết bị dạy học.
Phương tiện trực quan là toàn bộ sự vật hiện tƣợng trong thế giới, tham
gia vào quá tình dạy học, đóng vai trò là công cụ hay điều kiện, để giáo viên
và học sinh sử dụng làm khâu trung gian tác động vào đối tƣợng dạy học.
Phƣơng tiện dạy học có chức năng khơi dậy, dẫn truyền và làm tăng sức mạnh
tác động của ngƣời dạy và học đến đối tƣợng dạy học.
Phƣơng tiện dạy học trực quan hiểu hẹp hơn, phƣơng tiện trực quan là
phƣơng tiện dạy học đóng vai trò công cụ đƣợc giáo viên hay học sinh sử
dụng làm khâu trung gian tác động tới đối tƣợng dạy học [14].
Đồ dùng dạy học đƣợc hiểu là những dụng cụ trực quan để giáo viên
và học sinh thực hiện quá trình dạy học hay những phƣơng tiện và đồ dùng
phi kĩ thuật [13].
Thiết bị dạy học là công cụ của giáo viên và học sinh, bao gồm nhiều
loại hình khác nhau: tranh, ảnh, bản đồ, biểu bảng, mô hình, vật mẫu, hóa
chất, dụng cụ thí nghiệm, băng ghi âm, băng ghi hình, phim đèn chiếu, phim
xi nê, đĩa mềm vi tính.
Trƣớc kia nói đến đồ dùng trực quan là nói đến các đồ dùng quen thuộc
nhƣ tranh ảnh, vật thật, mô hình, bản đồ, biểu bảng… Trong đổi mới giáo dục
hiện nay có thêm nhiều đồ dùng trực quan mang tính chất hiện đại nhƣ: Máy
chiếu, máy vi tính, đĩa mềm… Ngƣời ta dùng cụm từ trực quan là tên gọi
chung trong đó bao gồm: Các đồ dùng trực quan, thiết bị dạy học, phƣơng
tiện trực quan.
1.1.1.2 Phân loại nhóm phương pháp dạy học trực quan.

10



Bao gồm phƣơng pháp trình bày trực quan và phƣơng pháp quan sát:
* Phương pháp trình bày trực quan:
Là phƣơng pháp sử dụng phƣơng tiện trực quan, phƣơng tiện kĩ thuật
dạy học trƣớc, trong và sau khi dạy bài mới, trong khi ôn tập, củng cố, hệ
thống hoá và kiểm tra tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Phƣơng pháp trình bày trực
quan thể hiện dƣới hai hình thức minh hoạ và trình bày.
+ Minh hoạ thƣờng trƣng bày những đồ dùng trực quan có tính chất
minh hoạ nhƣ bản mẫu, biểu đồ, bức tranh, chân dung các nhà khoa học, hình
vẽ trên bảng…
+ Trình bày thƣờng gắn liền với việc trình bày những thí nghiệm,
những thiết bị kĩ thuật, chiếu phim đèn chiếu, phim điện ảnh, băng video.
Trình bày thí nghiệm là trình bày mô hình đại diện cho hiên thực khách
quan đƣợc lựa chọn cẩn thận về mặt sƣ phạm. Nó là cơ sở, điểm xuất phát
trong quá trình nhận thức - học tâp của học sinh, là cầu nối giữa lí thuyết
và thực tiễn.
Thông qua sự trình bày thí nghiệm của giáo viên, học sinh không chỉ
lĩnh hội dễ dàng tri thức mà còn giúp họ học tập đƣợc những động tác mẫu
mực của giáo viên. Nhờ vậy, dễ dàng hình thành ở trẻ kĩ năng, kĩ xảo biểu
diễn thí nghiệm [4;14].
* Quan sát
- Quan sát là sự tri giác có chủ đích, có kế hoạch tạo khả năng theo
dõi tiến trình và sự biến đổi diễn ra trong đối tƣợng quan sát. Quan sát là
hình thức cảm tính tích cực nhằm thu thập những sự kiện, hình ảnh những
biểu tƣợng ban đầu của đối tƣợng về thế giới xung quanh. Quan sát gắn
chặt với tƣ duy.
- Quan sát đƣợc sử dụng khi giáo viên trình bày phƣơng tiên trực
quan, phƣơng tiện dạy học hoặc khi chính học sinh làm việc trong phòng

11



thí nghiệm.
- Phân loại:
+ Căn cứ vào cách thức quan sát có thể phân ra quan sát trực tiếp và
quan sát gián tiếp.
+ Căn cứ vào thời gian quan sát có thể phân ra quan sát ngắn hạn và
quan sát dài hạn.
+ Căn cứ vào phạm vi quan sát có thể phân ra quan sát toàn diện và
quan sát khía cạnh.
+ Căn cứ vào mức độ tổ chức quan sát có thể phân ra quan sát tự
nhiên và quan sát bố trí, sắp xếp.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học trực quan.
- Ƣu điểm:
Các phƣơng pháp dạy học trực quan nếu đƣợc sử dụng khéo léo sẽ làm
cho các phƣơng tiện trực quan, phƣơng tiện kĩ thuật dạy học tạo nên nguồn tri
thức. Chức năng đó của chúng chủ yếu gắn liền với sự khái quát những hiện
tƣợng, sự kiện với phƣơng pháp nhận thức quy nạp. Chúng cũng là những
phƣơng tiện minh hoạ để khẳng định những kết luận có tính suy diễn và còn
là phƣơng tiện tạo nên những tình huống, vấn đề và giải quyết vấn đề. Vì vậy,
phƣơng pháp dạy học trực quan góp phần phát huy tính tích cực trong nhận
thức của học sinh.
Phƣơng pháp dạy học trực quan sẽ giúp học sinh huy động sự tham gia của
nhiều giác quan kết hợp với lời nói tạo điều kiện dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu, làm
phát triển năng lực chú ý, năng lực quan sát và trí tò mò khoa học của họ.
- Hạn chế:
Tuy vậy, nếu không ý thức rõ phƣơng tiện trực quan chỉ là một phƣơng tiện
nhận thức mà lạm dụng chúng thì dễ làm cho học sinh phân tán chú ý, thiếu tập
trung vào những dấu hiệu bản chất, thậm chí còn làm hạn chế sự phát triển năng
lực tƣ duy trừu tƣợng của trẻ.


12


1.1.3. Khái niệm đồ dùng trực quan
Theo từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Đà Nẵng, 2004 “Đồ dùng trực
quan là những vật dụng cụ thể hay ngôn ngữ cử chỉ làm cho học sinh có đƣợc
những hình ảnh cụ thể về những điều đƣợc học”.
Các đồ dùng trực quan gồm có: Lời nói, bảng, chữ viết, tranh, ảnh, bộ
chữ, mô hình, vật mẫu, dụng cụ và phim đèn chiếu, băng ghi âm, băng ghi
hình, đĩa mềm vi tính…
Tranh là những tác phẩm hội họa phản ánh hiện thực bằng đƣờng nét,
hình mảng, màu sắc ghi lại bằng khí cụ quang học (nhƣ máy ảnh) hình ảnh.
Ảnh là những tác phẩm nghệ thuật ghi lại hình ảnh các đối tƣợng vào
phim bằng máy ảnh sau đó in và phóng trên giấy ảnh.
Lô tô (thẻ chữ) gồm các chữ cái đƣợc in màu xanh, đỏ trên những tấm
giấy trắng cắt rời, dùng để hƣớng dẫn trẻ làm quen với chữ cái.
Mô hình là những dạng vật thể thu nhỏ hoặc phóng to nhằm mô phỏng
hình dạng, cấu tạo, hoạt động của vật gốc để nhằm nghiên cứu, học tập.
Vât thật là những vật mẫu có sẵn trong tự nhiên, trong đời sống xã hội
đƣợc dùng nguyên dạng (con cá, múi bƣởi…) hoặc đã đƣợc xử lí (mẫu ngâm,
mẫu ép khô…).
Băng ghi âm là loại làm bằng vật liệu từ tính, ghi lại âm thanh (lời nói,
âm nhạc, tiếng động) và phát lại nội dung đó qua máy ghi âm.
Băng ghi hình là loại băng mềm bằng chất dẻo có phủ một lớp mỏng
chất từ tính, ghi lại đồng thời hình ảnh và âm thanh của các sự vật, hiện
tƣợng trong tự nhiên, trong đời sống xã hội và phát lại nội dung đó qua
máy thu hình (tivi).
1.1.4. Vị trí và vai trò của đồ dùng trực quan trong trường mầm non
Đồ dùng trực quan là công cụ của giáo viên và trẻ. Chúng là những yếu
tố không thể thiếu trong quá trình dạy hoc. Chúng có tác dụng tích cực và có


13


tính động lực với quá trình lao động của cô và trẻ.
Với tƣ cách là công cụ lao động của giáo viên và trẻ, đồ dùng trực quan
không những đóng vai trò minh họa cho lời giảng của giáo viên mà còn cung
cấp nội dung thông tin học tập, tạo ra những khả năng để giáo viên trình bày
bài học một cách sâu sắc, tạo hứng thú và hình thành phƣơng pháp học tập
tích cực, chủ động ở trẻ.
Quá trình dạy học ở trƣờng mầm non nhất là đối với trẻ mẫu giáo lớn
trực quan rất quan trọng. Bởi lúc này tƣ duy của trẻ là tƣ duy trực quan hành
động, trẻ thích khám phá các sự vật hiện tƣợng bằng các giác quan. Nếu chỉ
nghe cô giáo giải thích bằng lời thì trẻ sẽ nhanh nhàm chán và chậm tiếp thu
bài học. Nhƣng khi cô sử dụng đồ dùng trực quan hợp lí trong giờ học thì sẽ
giúp trẻ hứng thú với bài học, ghi nhớ bài học một cách khoa học và giúp giáo
viên khai thác đƣợc hết vốn hiểu biết của trẻ về các sự vật hiện tƣợng. Chính
vì vậy mà phƣơng pháp trực quan đƣợc sử dụng trong hầu hết các tiết học của
trẻ mẫu giáo.
Khi sử dụng đồ dùng trực quan, giáo viên cần chú ý rèn cho trẻ năng lực
quan sát, năng lực ghi nhớ, tƣởng tƣợng, phân tích, tổng hợp từ việc quan sát
đối tƣợng.
Ngoài việc dạy trẻ phát âm các chữ cái thì giáo viên còn giới thiệu, dạy
cho trẻ về cấu tạo nét chữ. Nếu giáo viên chỉ dùng lời để giải thích và giới
thiệu về chữ cái thì trẻ sẽ nhàm chán, không hứng thú với bài học, thậm chí
không ghi nhớ hoặc chậm tiếp thu bài học. Nhƣng nếu giáo viên biết kết hợp
sử dụng trực quan khi dạy trẻ phát âm, cho trẻ quan sát mô hình chữ cái để trẻ
tự tìm hiểu, khám phá chữ cái mới dƣới sự hƣớng dẫn của cô. Nhƣ vậy hoạt
động học sẽ hiệu quả hơn, kích thích sự học hỏi, tìm tòi và khám phá ở trẻ.
Nhờ việc sử dụng đồ dùng trực quan hợp lí nhƣ vậy sẽ giúp hình thành ở trẻ

khả năng chú ý, ghi nhớ có chủ định.

14


Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học góp phần làm hợp lí hóa quá
trình dạy học của giáo viên vì nhiều hoạt động học đã đƣợc bản thân đồ dùng
trực quan thực hiện. Vì vậy, sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên phải giảm
nhẹ việc trình bày, giảng giải mà tập trung vào hƣớng dẫn, hỗ trợ quá trình
hoạt động của trẻ.
Dạy học trực quan hợp lí hóa quá trình dạy học của giáo viên thì đồ dùng
trực quan còn hợp lí hóa quá trình học tập của học sinh. Trẻ đƣợc quan sát
tranh ảnh, vật thật, mô hình… sẽ giúp trẻ phát triển tai nghe, phát triển ngôn
ngữ một cách tốt nhất.
1.2. Các cơ sở khoa học
1.2.1. Cơ sở tâm lí
1.2.1.1. Đặc điểm hoạt động vui chơi
* Chủ đề và nội dung chơi được mở rộng
Về chủ đề chơi, số lƣợng chủ đề đã tăng lên xuất hiện các chủ đề mới.
Nội dung chơi cũng đa dạng và phong phú hơn, trẻ không chỉ tái tạo
những mối quan hệ bên ngoài chức năng xã hội của ngƣời lớn mà còn tái tạo
tình cảm giữa ngƣời với ngƣời.
Sở dĩ nhƣ vậy là do vào tuổi mẫu giáo lớn, các nhóm chơi ổn định và bền
vững trên cơ sở của các nhóm chơi từ lớp nhỡ chuyển lên, dần dần xuất hiện
nhiều trò chơi tập thể có thể kéo dài hàng tuần hàng tháng, số lƣợng vai chơi
đông kéo theo việc chủ động và xuất hiện chủ đề chơi mới làm cho nội dung
chơi trở nên đa dạng và phong phú.
* Xuất hiện trò chơi có luật
Đây là một bƣớc phát triển mới trong hoạt động chơi của trẻ. Luật chơi
là những quy định về phƣơng thức hành động ứng xử thể hiện tình cảm của

các vai chơi. Bƣớc sang lứa tuổi này động cơ vui chơi đang chuyển dần thành
động cơ có kết quả.
Ví dụ: Khi tham gia trò chơi nào đó trẻ không chỉ chơi vì thích trò chơi

15


đó, mà trẻ còn muốn giành phần thắng về cho đội của mình.
Tuy nhiên, luật chơi trong lứa tuổi này chủ yếu do trẻ thỏa thuận với
nhau, mang tính sinh hoạt và phụ thuộc vào nhóm chơi. Do thực hiện trò chơi
có luật nên hành động của trẻ theo hƣớng nhất định và phát triển mạnh các
quá trình tâm lí có chủ định.
*Xuất hiện ý đồ chơi và vai trò thủ lĩnh
Ý đồ là dự kiến những việc làm, những hành động trên cơ sở cân nhắc và
kín đáo.
Ở lứa tuổi này trẻ không chỉ đơn thuần tái tạo các chủ đề chơi, nội dung
chơi nhƣ lứa tuổi trƣớc mà bắt đầu thêm bớt theo ý muốn của trẻ.
Trẻ tự tổ chức và điều khiển trò chơi không cần có sự hỗ trợ trực tiếp của
ngƣời lớn. Trẻ bắt đầu chú ý tới chất lƣợng đóng vai, từ đó yêu cầu cụ thể
cho mỗi vai chơi, biết phân công vai nào cho ai hợp lí, tự lựa chọn “thủ lĩnh”,
điều khiển trò chơi. Trong khi chơi, trẻ tích cực trao đổi, cùng nhau thỏa
thuận bàn bạc về dự định chơi, dự kiến đƣa thêm vào trò chơi mới…. Giữa
các trò chơi có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phối hợp cùng nhau hƣớng
theo một chủ đề chung dƣới sự điều khiển của “thủ lĩnh”. Trong quá trình
chơi trẻ biết nhận xét và đánh giá các bạn khác cũng nhƣ biết nhận xét về bản
thân mình.
1.2.1.2. Sự xác định ý thức bản ngã và tính chủ định trong hoạt động tâm lí
* Sự xác định ý thức bản ngã
Tiền đề của ý thức bản ngã là việc tách mình ra khỏi ngƣời khác, đã
đƣợc hình thành ở cuối tuổi ấu nhi (15 - 36 tháng tuổi). Tuy nhiên, phải trải

qua một quá trình phát triển ý thức bản ngã của trẻ mới đƣợc xác định rõ ràng.
Khi bƣớc vào tuổi mẫu giáo, trẻ chƣa hiểu biết gì mấy về bản thân và những
phẩm chất của bản thân mình. Nhƣng đến cuối tuổi mẫu giáo trẻ mới hiểu
đƣợc mình là ngƣời nhƣ thế nào, có những phẩm chất gì, những ngƣời xung

16


quanh đối xử với mình ra sao, và tại sao mình lại có hành động này hay hành
động khác…. Ý thức bản ngã hay sự tự ý thức đƣợc thể hiện rõ nhất trong sự
tự đánh giá về thành công hay thất bại của mình, về những ƣu điểm hay
khuyết điểm của bản thân, về những khả năng và cả sự bất lực nữa. Tự ý thức
của trẻ lứa tuổi mầm non đƣợc thể hiện ở những điểm sau:
Trẻ đã biết tự đánh giá về hành vi, phẩm chất, cử chỉ của ngƣời khác.
Tuy nhiên, sự đánh giá đó còn phụ thuộc nhiều vào tình cảm của trẻ đối với
ngƣời đƣợc đánh giá.
Trẻ bắt đầu nhận thức đƣợc giới tính của mình, biết mình là trai hay gái.
Trẻ bắt đầu biết thực hiện những hành vi phù hợp với giới tính của mình,
đồng thời trẻ cũng bắt đầu nhận xét, đánh giá theo khía cạnh giới tính.
Trẻ bắt đầu nhận biết, lắng nghe ý kiến của ngƣời khác về bản thân
mình, từ đó tiếp tục tiếp thu những chuẩn mực hành vi và coi đó là thƣớc đo
để đánh giá bản thân mình.
Trẻ bắt đầu so sánh mình với ngƣời khác, từ đó để hiểu bản thân mình,
tạo ra điều kiện thuận lợi để trẻ noi gƣơng ngƣời tốt, việc tốt.
Ý thức bản ngã đƣợc xác định rõ ràng giúp trẻ điều khiển và điều chỉnh
hành vi của mình cho phù hợp với những chuẩn mực, những quy tắc xã hội,
từ đó mà hành vi của trẻ mang tính xã hội, tính nhân cách đậm nét hơn trƣớc.
* Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng còn cho phép trẻ thực hiện các
hành động một cách chủ tâm hơn, nhờ đó các quá trình tâm lí mang tính chủ
định rõ rệt.

Tính chủ định trong hoạt động tâm lí của trẻ đƣợc thể hiện qua một số
đặc điểm sau:
Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn, sự chú ý đã tập trung hơn và bền vững hơn.
Điều đó thể hiện ở thời gian chơi, “tiết học” đƣợc kéo dài hơn và đặc biệt là
khi trẻ xem tranh. Đến cuối tuổi mẫu giáo thời gian có thể tập trung xem tranh

17


tăng lên gấp đôi so với độ tuổi mẫu giáo bé. Trẻ mẫu giáo lớn đã hiểu về tranh
vẽ hơn, tách biệt đƣợc trong tranh vẽ về nhiều mặt và chi tiết lý thú với mình
hơn. Ngôn ngữ phát triển cũng giúp trẻ biết điều khiển chú ý của mình, biết tự
giác hƣớng chú ý của mình vào những đối tƣợng nhất định.
Sự ghi nhớ có chủ định phát triển mạnh mẽ, trẻ bắt đầu nắm đƣợc
phƣơng thức của sự ghi nhớ. Ban đầu, trẻ ghi nhớ máy móc bằng cách tri giác
nhiêu lần đối tƣợng, sau đó trẻ xác lập mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tƣợng
do ngƣời lớn gợi ý trở thành ghi nhớ logic.
Ở tuổi mẫu giáo lớn việc đặt mục đích cho hành động và lập kế hoạch
để thực hiện hành động thƣờng đƣợc thể hiện rõ nhất. Điều đó thức đẩy các
hành động định hƣớng bên trong (tức là quá trình tâm lí) phát triển mang tính
chủ định rõ ràng. Tính chủ định này đƣợc phát triển cùng với sự tiến triển của
hoạt động vui chơi ở trẻ mẫu giáo lớn, làm cho dạng trò chơi đóng vai theo
chủ đề chuyển dần sang trò chơi rõ luật hơn. Ví dụ: Trƣớc đây khi tham gia
trò chơi “Dạy học”, đứa trẻ đóng vai cô giáo, nhƣng nó hoàn toàn không cần
biết những lời dạy bảo của nó đã ảnh hƣởng nhƣ thế nào đối với các “học
trò”. Nó chỉ biết nó đang làm cô giáo,nhƣng giờ đây khi tham gia trò chơi có
luật nhƣ trò “Cướp cờ”, đứa trẻ không chỉ thích trò chơi này mà còn cố gắng
làm sao để cƣớp cho đƣợc lá cờ càng nhanh càng tốt để mang về cho đồng đội
theo quy định,vì làm nhƣ vậy đội của trẻ mới chiến thắng.
Rõ ràng việc tham gia vào các trò chơi có luật làm cho hoạt động của

đứa trẻ trở nên có chủ tâm hơn. Hành động chơi ở đấy có tính mục đích rõ
ràng: một là hành động phải khéo léo để không vi phạm luật chơi; hai là cần
phải đạt tới kết quả cao nhất. Nhờ loại trò chơi này mà hoạt động tâm lí bên
trong đƣợc biến đổi một cách rõ nét, từ những quá trình tâm lí không chủ định
chuyển sang những quá trình tâm lí có chủ định nhƣ tri giác có chủ định, chú
ghi có chủ định, ghi nhớ có chủ định…
Trong sự phát triển các hành động tâm lí của trẻ mẫu giáo lơn, có thể

18


thấy đƣợc sự liên kết giữa ba mặt: thứ nhất là sự phát triển tính mục đích của
hành động, thứ hai là sự xác lập quan hệ giữa mục đích của hành động với
động cơ và thứ ba là tăng vai trò điều chỉnh của ngôn ngữ trong việc thực hiện
các hành động.
Có thể coi sự phát triển về mặt ý chí là một trong những biểu hiện rõ
nhất của ý thức, khiến cho nhân cách của trẻ đƣợc khẳng định.
1.2.2. Cơ sở sinh lý học
Ở trẻ mẫu giáo lớn sự phát triển diễn ra chậm hơn so với giai đoạn trƣớc.
- Về số lƣợng: Chiều cao trung bình tăng từ 4 - 6 cm đạt 105,5 - 125,5
cm, về cân nặng tăng khoảng 1 -2,5 kg đạt khoảng 15,7 kg. Có sự thay đổi rõ
rệt về mặt chất lƣợng.
- Hệ thần kinh: Trọng lƣợng của não tăng nhanh từ 1110 g - 1350 g, gần
bằng trọng lƣợng não của ngƣời lớn. Cƣờng độ và tính linh hoạt của các quá
trình thần kinh tăng lên rõ rệt. Trẻ có thể tập trung chú ý vào một đối tƣợng
nhất định trong thời gian 20 - 25 phút. Đồng thời, ở lứa tuổi này vai trò của hệ
thống tín hiệu ngày càng tăng. Tƣ duy bằng từ ngày càng tăng, ngôn ngữ bên
trong xuất hiện. Chức năng khái quát của từ đã có bƣớc nhảy vọt gần nhƣ
ngƣời lớn ở chỗ khái quát đƣợc thực hiện theo hoạt động với đồ vật. Vì thế, tƣ
duy bằng hành động giữ vai trò quan trọng trong hệ thần kinh cao cấp của trẻ.

Ở lứa tuổi này, trẻ có thể học đọc và viết chữ. Ngoài ra, do sự phát triển của
hệ thần kinh nên số lần ngủ và thời gian ngủ trong ngày của trẻ cũng giảm
xuống còn 11h trong ngày.
- Cơ quan phân tích của trẻ 5 - 6 tuổi đã có khả năng phân biệt một số
màu sắc trung gian. Trẻ có khả năng thu nhận và phân biệt những kích thích
(hình dáng, màu sắc…) càng phong phú. Mức độ phong phú đó phụ thuộc vào
sự luyện tập của trẻ.
- Hệ vận động: Trẻ 5 - 6 tuổi cũng tăng lên và biến đổi về thể chất.
Huyết sắc tố: 80 - 90%

19


×