Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Chuyên đề Ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.61 KB, 18 trang )

Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài:
Lịch sử văn học một dân tộc xét đến cùng là lịch sử tâm hồn của dân tộc ấy.
Lòng yêu nớc, tinh thần tự hào dân tộc là nét nổi bật trong tâm hồn ngời Việt Nam.
Nhng ở ngời Việt Nam, yêu nớc gắn liền với nhân ái, nhân đạo. Một dân tộc luôn
phải cầm gơm, cầm súng suốt mấy nghìn năm mà thơ văn lại nói nhiều đến nhân
nghĩa, đến tình yêu, đến thân phận con ngời trong xã hội. Và nhân đạo đã trở thành
một truyền thống của văn học dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên văn học không chỉ phát triển theo quy luật nội tại của nó mà còn chịu sự
chi phối của lịch sử, thời đại. Vì thế nội dung của văn học nói chung và nội dung của
nhân đạo nói riêng ở những giai đoạn lịch sử có những biểu hiện khác nhau. Đặc biệt,
từ sau 1975 đến nay, con ngời Việt Nam trở lại cuộc sống hoà bình trong một thời
đại có nhiều biến chuyển sâu sắc và mau lẹ. Đất nớc, nhân dân yêu cầu nền văn học
phải có sự phát triển mới mang tính dân chủ, có nội dung nhân bản phong phú và đạt
tới trình độ cao hơn. Xuất phát từ điều đó, tôi thấy việc tìm hiểu giá trị nhân đạo
trong văn học Việt Nam sau 1975 là một việc làm cần thiết giúp học sinh có một cái
nhìn khái quát về giá trị của văn học Việt Nam từ sau 1975 nói chung và giá trị nhân
đạo nói riêng từ đó giáo dục lòng yêu thơng con ngời, góp phần hoàn thiện nhân cách
cho thế hệ trẻ thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
2. Phạm vi, đối tợng, mục đích của chuyên đề
- Phạm vi: các văn bản quen thuộc đã học trong chơng trình THCS nh ánh
trăng (Nguyễn Duy), Nói với con (Y Phơng), Cuộc chia tay của những con búp bê
(Khánh Hoài), Bến quê (Nguyễn Minh Châu), Bức tranh của em gái tôi (Tạ Duy
Anh)
- Đối tợng: chuyên đề chủ yếu phục vụ cho việc bồi dỡng học sinh giỏi lớp 9,
ngoài ra còn là tài liệu tham khảo để dạy học sinh đại trà
- Mục đích: nâng cao kiến thức, bồi dỡng, rèn luyện khả năng cảm thụ thơ văn,
rèn năng lực khải quát, tổng hợp cho học sinh, đồng thời giúp giáo viên nâng cao
kiến thức trình độ chuyên môn.
Lan Hơng Lí Tự Trọng
1


Phần nội dung
A. Nội dung chính
1. Những nét khái quát về văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay:
Sau 1975, lịch sử dân tộc mở ra một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập tự do và
thống nhất đất nớc. Là một bộ phận nhạy cảm của xã hội, văn học nhệ thuật cũng
biến đổi nhanh chóng để theo kịp bớc biến chuyển của lịch sử. Sức sáng tạo đợc nhân
lên và mở ra nhiều mối quan hệ với thời đại. Đặc biệt, Đại hội Đảng lần thứ VI (12-
1986) là mốc lớn đánh dấu sự chuyển biến quan trọng của văn học trên cơ sở đổi mới
đất nớc. Các nhà văn tài năng nh Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Duy, Tạ Duy Anh, Ma
Văn Kháng gắn bó với nhân dân, đất nớc, mang cảm hứng tự do trong sáng tạo đã
thổi vào văn học một luồng gió mới, tạo ra những tác phẩm có giá trị, xứng đáng với
tầm vóc của dân tộc và thời đại.
Xét về mặt nội dung, yêu nớc và nhân đạo vẫn là hai nội dung chính của văn học
thời kì này. Tuy nhiên, văn học đã áp sát hơn tới đời sống hiện tại, mở rộng và đào
sâu khám phá về con ngời và xã hội, đồng thời cũng quan tâm soi lại các vấn đề của
thời kì lịch sử đã qua. Hớng tới con ngời trong cuộc sống hằng ngày, trong lao động
và sinh hoạt, trong đời sống riêng và đời sống chung văn học đã mở rộng diện tiếp
xúc và đổi mới cách nhì nhận về con ngời do đó có thêm chiều sâu t tởng và nhiều
tìm tòi đổi mới về mặt nghệ thuật. Cuộc sống và con ngời hiện ra trong những cái
hằng ngày và những biến có lịch sử, trong cái chung và cái riêng, với những chiến
công anh hùng cao cả và cả những đau thơng, mất mát, với những niềm vui và nỗi
buồn trong ánh sáng rạng ngời và cả những bóng tối còn rơi rớt Các thể loại văn
học nh thơ ca, truyện ngắn, tiểu thuyết, kí đều có nhiều biến đổi và mạnh dạn đổi
mới về phơng thức biểu hiện và ngôn ngữ văn học.
2. Giá trị nhân đạo trong văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay:
2.1. Nhân đạo và những biểu hiện của nó trong văn học:
Nhân đạo đạo đức thể hiện sự yêu thơng, quý trọng và bảo vệ con ng-
ời(Hoàng Phê - Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng 2004). Nhìn ở góc độ thế giới
quan, nhân đạo là toàn bộ những t tởng, quan điểm, tình cảm quí trọng các giá trị của
con ngời nh trí tuệ, phẩm giá, sức mạnh và vẻ đẹp của con ngời. Đây không phải là

Lan Hơng Lí Tự Trọng
2
khái niệm đạo đức đơn thuần mà còn bao hàm cả cách nhì nhận, đánh giá con ngời
về nhiều mặt (vị trí, vai trò, khả năng, bản chất) trong các mối quan hệ với tự nhiên,
xã hội và đồng loại. Nói đến nhân đạo là nói đến mối quan hệ giữa con ngời với xã
hội, giữa con ngời với con ngời, những gì vì con ngời, cho sự tốt đẹp của bản thân
mỗi con ngời và cho cộng đồng thế giới loài ngời.
Nh ta đã biết, thế giới đợc tạo ra trong văn học nghệ thuật và bằng văn học
nghệ thuât là một thế giới mà trong đó con ngời luôn luôn đấu tranh để khẳng định
mình, khẳng định quyền năng, sức mạnh của mình và thể hiện khát vọng làm ngời
mãnh liệt của mình. Mac-xim Go-rơ-ki đã nói Văn học là một nghệ thuật nhân văn
hơn cả. Ngời ta có thể nói những nhà văn đều là những nhà nhân văn do nghề nghiệp
của mình. Và ông khẳng định Văn học là nhân học. Vì thế, không phải ngẫu
nhiên mà các nhà văn lớn nh Ban-zắc, Huy-gô, Lép Tôn-xtôi hay Nguyễn Du, Hồ Chí
Minh đều là những nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
Trong văn học Việt Nam, tinh thần nhân đạo đợc thể hiện ở tình cảm yêu
thơng, niềm trân trọng những giá trị, vẻ đẹp ở con ngời; là sự đồng cảm, bênh vực
những kiếp lầm than, những số phận bất hạnh; là thái độ phê phán, tố cáo những bất
công và tất cả những gì vi phạm nhân đạo, vi phạm nhân quyền các tác phẩm lớn
của chúng ta nh Truyện Kiều (Nguyễn Du), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia
Thiều), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm) hay Tắt đèn (Ngô Tất
Tố), Nhật kí trong tù (Hồ Chí Minh) đều thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Dù đợc
viết trong giai đoạn nào, theo khuynh hớng nào, trào lu nào thì cái đích cuối cùng vẫn
là vì con ngời và cho con ngời
2.2. Giá trị nhân đạo của văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay:
Văn học Việt Nam từ 1975 trở lại đây đã chuyển dần sang một thời kì
mới với những đặc điểm mới. Tinh thần nhân đạo truyền thống đợc phát huy mạnh
mẽ trong cảm hứng nhân bản (những gì thuộc về văn hoá của loài ngời, là chất gốc
trong mỗi con ngời): hớng về con ngời, khám phá và thể hiện con ngời ở nhiều mặt
và trong nhiều mối quan hệ: đề cao sự tự ý thức cá nhân hớng đến sự hoàn thiện về

nhân cách. Tinh thần nhân đạo, nhân văn, nhân bản luôn gắn liền nhau. Đây là đặc
điểm khác biệt của văn học thời kì này với văn học của những giai đoạn trớc.
2.21.Kế thừa truyền thống của văn học đân tộc, văn học từ sau 1975 đã
đi sâu khám phá những vẻ đẹp của con ngời.
Lan Hơng Lí Tự Trọng
3
Nhân đạo nh là một tình cảm có sẵn trong mỗi con ngời Việt Nam, trong
văn học Việt Nam. Nó cũng đợc thể hiện rõ nét trong văn học từ sau 1975 đến nay.
Trải qua ba mơi năm trờng chống Pháp và chống Mỹ xâm lợc, sau 1975, đất nớc ta
đã ngng tiếng súng, con ngời Việt Nam lại trở về với cuộc sống hằng ngày với bao
vất vả lo toan. Nhng không vì thế mà họ đánh mất đi những nét đẹp vốn có quanh
mình. Những phẩm chất cao đẹp của con ngời Việt Nam trong chiến tranh nay lại
tiếp tục đợc phát huy trong cuộc sống hằng ngày, trong lao động sản xuất để xây
dựng đất nớc. Năm 1976, một năm sau ngày giải phóng, Nguyễn Tuân - con ngời
thích xê dịch thủa nào - nay lại đến với Cô Tô, vùng biển đảo cực Bắc của Tổ quốc.
Với một tâm trạng náo nức, hăm hở của một nhà du lịch, ông đã khắc hoạ rõ nét
không chỉ cảnh sắc thiên nhiên mỹ lệ, hùng tráng mà còn phác thảo những nét đáng
yêu của những con ngời nơi đây qua bút kí Cô Tô. Đó là những con ngời lao động
bình thờng, những ngời chài lới muôn thuở biển Đông, mà tiêu biểu là anh hùng
Châu Hoà Mãn - một con ngời phóng khoáng, tơi trẻ, đầy sức sống. Không miêu tả
chi tiết mà chỉ bằng vài nét chấm phá, dới bàn tay nghệ sĩ tài hoa của Nguyễn Tuân,
ngời anh hùng ấy hiện lên cũng nh một nghệ sĩ tài hoa trong công việc lao động của
mình: Châu Hoà Mãn cầm cuống lái cho con thuyền ba buồm chạy vút từ Cô Tô
qua Bà Loan Tử. Trông đồng chí chủ nhiệm Bắc Loan Đẩu trẻ tráng quá. Và nhất
là sau khi anh cắt tóc thì trông càng trẻ thêm, thấy nắng chiếu ánh trắng lên hàm
răng đều đặn hồng. Một anh hùng lao động điều khiển cuống lái con tàu thành thạo,
điêu luyện lớt êm đi nh một chiếc du thuyền đồng thời là một con ngời bình dị, cũng
đi quẩy nớc nh mọi ngời, cũng cùng các bác xã viên đi chung một thuyền đánh cá.
Chân dung của anh hoà lẫn vào không khí lao động náo nức, khẩn trơng của mời tám
thuyền lớn nhỏ sắp sửa nhất loạt ra khơi đánh cá hồng; với những ngời ra gánh và

múc nớc giếng, những xã viên hợp tác xã đang mở nắp sạp thuyền đổ nớc ngọt vào
chuẩn bị ra khơi.
Và từng đoàn nối tiếp nhau đi đi về về. Bên cạnh anh còn có ngời vợ hiền
đảm đang: trông chị Châu Hoà Mãn địu con, dịu dàng yên tâm nh cái hình ảnh
biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành. Đó là những con ngời bình dị, sống
thanh thản cần cù lao động và vững tin ở sự sống, gắn bó với mảnh đất quê hơng tuy
nhiều nắng gió nhng thật đẹp và giàu.
Lan Hơng Lí Tự Trọng
4
Nguyễn Tuân đã thành công trong những nét vẽ mỹ lệ và hoành tráng về
cảnh thiên nhiên trên biển, ông lại thành công trong nét bút phác hoạ những con ngời
lao động đáng yêu trên biển đảo Cô Tô. Đó là do tài nghệ của nhà văn nhng trớc hết
là do cái tình khiến ông càng thêm yêu mến hòn đảo này nh bất cứ ngời chài nào đã
từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây. Phải chăng đó là tình yêu thiên nhiên đất
nớc và con ngời - cội nguồn làm nên cảm hứng văn chơng của nhà văn. Nguyễn Tuân
thởng ngoạn vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây không phải để giải trí mà là do trong tâm hồn
ông ấm nóng một tình yêu đối với con ngời.
Tạm biệt Cô Tô, ta cùng Minh Hơng đến Sài Gòn - trung tâm kinh tế lớn
nhất Việt Nam - qua bút kí Sài Gòn tôi yêu. Nơi đây, con ngời Sài Gòn có một phong
cách cởi mở, bộc trực, chân tình và tự tin. Nhà văn coi đó là nét bản địa trong phong
cách sống và ứng xử. Nét riêng của ngời Sài Gòn có lẽ tập trung nhiều nhất ở các cô
gái thị thiềng. Bằng một vài câu văn miêu tả, nhà văn đã vẽ ra trớc mặt chúng ta
chân dung cô gái Sài Gòn khá cụ thể: tóc buông thõng trên vai, trên lng, hoặc tết
bím. Nón (mũ) vải trắng, áo bà ba trắng. Quần đen rộng dáng đi khoẻ khoắn,
mạnh dạn nhng có lúc lại thớt tha, yểu điệu, hoặc e thẹn, ngợng ngùngCách ứng
xử của họ cũng thật đẹp. Gặp ngời lớn họ cúi đầu chào. Gặp bạn bè cùng trang lứa thì
hơi cúi đầu và cời. Nụ cời của các cô ý nhị, vừa phải Ngậm miệng, chúm chím,
mủm mỉm đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, hóm hỉnh. Tất cả các nét cụ thể
ấy hài hoà tạo thành cái duyên chung của ngời Sài Gòn, những con ngời mang cái
đẹp thật đơn sơ, đôn hậu nh nhà văn nhận xét. ở họ có sự hài hoà giữa vẻ đẹp chân

thành, bộc trực và tính e thẹn ngợng ngùng cứ nh vừng trăng mới ló còn ngập ngừng
dấu một nửa sau áng mây. Viết về họ, nhà văn không dùng từ yêu nào mà vẫn
bộc lộ biết bao tình yêu, lòng quý trọng và cả sự biết ơn với con ngời Sài Gòn giản dị,
chân thành nhân hậu. Tình yêu đó không chỉ một sớm một chiều mà là một mối tình
dai dẳng, bền chặt, không bút nào tả xiết đợc.
Từ những con ngời ở vùng biển đảo xa xôi, đến những con ngời Sài Gòn
đô thị đều hiện lên thật gần gũi, đáng yêu dới ngòi bút tài hoa của các nhà văn. Họ
mang trong mình những vẻ đẹp truyền thống và cả vẻ đẹp trong cuộc sống hằng
ngày, trong những thời điểm cam go của cả nớc, của dân tộc đang thay đổi mau lẹ,
kịp thời.
Lan Hơng Lí Tự Trọng
5
2.2.2- Khám phá con ngời và thể hiện con ngời ở nhiều mặt, trong
nhiều mối quan hệ
Trong cuộc sống hoà bình, con ngời đợc đặt trớc nhiều mối quan hệ. Đó
là quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa số phận riêng và lịch sử, giữa tính cách và
hoàn cảnh con ngời còn đợc đặt trong các quan hệ thế sự, đời t và con ngời với
chính mình.
Đất nớc ta sau 1975 đã chuyển sang một giai đoạn mới, đòi hỏi những
con ngời mới phải biết cống hiến, phải biết hy sinh. Con ngời trớc hết đợc đặt trong
mối quan hệ với đất nớc với quê hơng. Giờ đây, không còn là sự lựa chọn giữa sự
sống và cái chết trớc bom đạn kẻ thù mà là sự lựa chọn sống nh thế nào cho có ích.
Với một hồn thơ trong trẻo, nồng nàn dịu ngọt, thiết tha và sâu lắng, Thanh Hải
nhà thơ núi Ngự sông Hơng đã thổi vào thơ một khát vọng cống hiến, khát vọng sống
mãnh liệt. Nằm trên giờng bệnh, trớc ranh giới giữa sự sống và cái chết, ông đã nói
lên những suy ngẫm về đất nớc và nguyện cầu muốn đợc hoá thân cùng mùa xuân để
mãi mãi đợc hiến dâng cho quê hơng, đất nớc thân yêu:
Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa,
Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến.
Mùa xuân nho nhỏ
Trong sức xuân mạnh mẽ của đất trời, trong khí thế bừng sức sống của đất
nớc vào xuân, tác giả cảm nhận đợc mùa xuân trỗi dậy tự đáy tâm hồn mình. Đó là
mùa xuân của lòng ngời, mùa xuân của sức sống tơi trẻ, mùa xuân của cống hiến và
hy sinh. Không mơ giấc mơ vĩ đại, chẳng tởng một viễn cảnh lạ kỳ, tác giả mơ ớc nh-
ng chỉ nguyện đợc làm con chim hót, làm một cành hoa tím biếc để góp phần dâng
hơng sắc cho đời, tô đẹp cho mùa xuân quê hơng, xứ sở. Và một nốt trầm trong bản
hoà ca làm rung động xao xuyến lòng ngời. Ba ẩn dụ con chim hót, cành hoa,
nốt trầm xao xuyến biểu tợng cho vẻ đẹp mùa xuân niềm vui và khát vọng mùa
xuân. Những ớc mơ đơn sơ giản dị mà sao cháy bỏng tràn đầy nhiệt huyết, thổi bùng
lên một niềm tin bất diệt. Khát vọnng mùa xuân trong thơ Thanh Hải mang vẻ đẹp
lãng mạn; lời thơ, vần thơ nh cất cánh bay lên cuốn hút tâm hồn ta.
Lan Hơng Lí Tự Trọng
6
Ngày xa, Nguyễn Du đã phải âm thầm đau khổ đến phút cuối đời vì ông
không thể hoà nhập vào thời đại ông sông nên khẩn thiết kêu gọi tơng lai:
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Ngời đời ai khóc Tố Nh chăng?
(Độc Tiểu Thanh ký)
Còn Thanh Hải thì khác, ngay trong những phút giây cuối đời ông vẫn
thấy nếu không đóng góp cho đời đợc một mùa xuân nho nhỏ, một phần nốt trầm bé
nhỏ cho cuộc đời thì ông sễ không thể chết đợc. Ông luôn nhìn cuộc đời với cái nhìn
lạc quannhất, luôn làm tất cả để đợc sống có ích cho đời. Là một nhà thơ, một chiến
sỹ, một đảng viên cộng sản trung kiên, suốt hai mơi năm đằng đẵng (1955-1975)
Thanh Hải sống, chiến đâu, hoạt động và bám trụ ở quê hơng ông vùng Thừa
Thiên Huế, đã trải qua muôn vàn khó khăn nguy hiểm, thậm chí phải đối mặt với cả
cái chết. Từ tuổi hai mơi cho đến khi tóc bạc, ông đã hiến dâng cả đời mình cho cách
mạng. Và đến bây giờ, khi nằm trên giờng bệnh, sắp từ giã cõi đời ông vẫn khát khao
đợc dâng hiến để phục vụ mục đích cao cả của cuộc đời:

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mơi
Dù là khi tóc bạc
Văn là ngời, thơ là tiếng lòng trang trải. Lời tâm niệm tha thiết đó của nhà
thơ gieo vào lòng ngời những cảm xúc trong trẻo, ngọt ngào. Mùa xuân nho nhỏ là
hình ảnh ẩn dụ biểu tợng cho những dâng hiến của con ngời với cuộc đời. Các từ láy
nho nhỏ, lặng lẽ biểu lộ một cách chân thực, khiêm nhờng rất đáng kính trọng. Chữ
dângthể hiện một thái độ cung kính. Tất cả toát lên một lối sống cao đẹp. Đó chính
là sự hoà hợp gia cái Tôi trong cái Ta, cái riêng trong cái chung, mùa xuân nho nhỏ
của mỗi con ngời trong mùa xuân lớn lao của đất nớc.
Cũng viết về mối quan hệ giữa cái Tôi và cái Ta nhng vở kịch Tôi và
chúng ta của nhà thơ - nhà văn- nhà viết kịch Lu Quang Vũ lại có cách nhìn nhận
mới. Lấy thời điểm của đất nớc những năm 80 của thế kỉ XX, khi mà nền kinh tế của
nớc ta vân kh kh giữ mãi những nguyên tắc, cơ chế, lề lối làm ăn lạc hậu xơ cứng thì
những con ngời chân chính muốn đợc lao động, muốn đợc cống hiến với khả năng và
óc sáng tạo của mình không đợc tạo điều kiện và còn bị trù dập, thành kiến, cô lập,
Lan Hơng Lí Tự Trọng
7

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×