Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Bài tiểu luận triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.09 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC
ĐẶNG CÔNG DANH
Lớp MFB016B
Khóa 2016

ĐỀ TÀI
Quy luật quan hệ sản xuất phự hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Vận dụng quy luật này vào việc phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS Bùi Xuân Thanh

TP. Hồ Chí Minh - năm 2017


Phần mở đầu
Từ khi xuất hiện con người trên hành tinh này, đến ngày nay đã trải qua 5
phương thức sản xuất: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến,
chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội. Tư duy nhận thức của con người không dừng
lại ở một chỗ mà ngày càng phát triển hoàn thiên hơn. Từ đó kéo theo sự thay đổi
phát triển lực lượng sản xuất cũng như quan hệ sản xuất. Từ hái lượm săn bắt để
duy trì cuộc sống đến trình độ khoa học kĩ thuật lạc hậu, đến ngày nay trình độ
khoa học đã đạt tới mức tột đỉnh. Mà cốt lõi của nền sản xuất xã hội chính là sự
thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, như Mác và
Ănghen nói, đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất.
Từ quan điểm này của chủ nghĩa Mác xít, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng
vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn từ đổi mới đến nay.
Biện chứng quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho chúng


ta có được nhận thức về sản xuất xã hội và kĩ thuật. Thấy được ý nghĩa đó, tôi xin
bày tỏ một vài ý kiến bản thân về vấn đề: "Vận dụng quan điểm triết học MácLênin về qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất để
phát triển những thành tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
trong giai đoạn từ đổi mới đến nay".


Phần nội dung
I. Lực lượng sản xuất - Quan hệ sản xuất - quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
1. Lực lượng sản xuất
+ Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất, đồng thời thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong
quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm: người lao động
với kĩ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là cong cụ lao động.
Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết
là công cụ lao động kết hợp với nhau thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, con người lao động và công
cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất. Người lao động là chủ thể của quá trình lao
động sản xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao
động (công cụ lao động) tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật
chất. Công cụ lao động do con người tạo ra với mục đích "nhân" sức mạnh bản
thân lên trong quá trình lao động sản xuất. Sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng
của công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất.
Trong thời đại ngày nay, khoa học đang ngày càng trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được vận dụng nhanh chóng và rộng
rãi vào sản xuất. Tri thức khoa học cũng là một bộ phận quan trọng trong kinh
nghiệm, kỹ năng của người lao động.
Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ tác động biện chứng lẫn nhau,
trong đó người lao động đóng vai trò quan trọng hàng đầu.
2. Quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
(sản xuất và tái sản xuất xã hội). Do con người không thể tách khỏi cộng đồng nên


trong quá trình sản xuất phải có những mối quan hệ với nhau. Vậy việc phải thiết
lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là một vấn đề có tính quy luật. Nhìn
tổng thể quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, tức là quan hệ giữa người với tư
liệu sản xuất, nói cách khác là tư liệu sản xuất thuộc về ai.
- Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, tức là quan hệ giữa người với
người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như: phân công chuyên môn hoá
và hợp tác hoá lao động, quan hệ giữa người quản lý và công nhân…
- Quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra, tức là quan hệ chặt chẽ giữa
sản xuất và sản phẩm với cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lí và có hiệu
quả tư liệu sản xuất.
Ba loại quan hệ trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sỡ hữu
đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Bỡi lẽ, ai nắm được tư liệu sản xuất
trong tay người đó sẽ quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng như phân phối
sản phẩm lao động.
3. Qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,
chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng,
tạo thành qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Từ đó tạo nên qui luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển
xã hội.
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
sẽ tạo địa bàn rộng lớn cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi ấy, quan hệ sản xuất
sẽ tạo điều kiện, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển ( Sự phù hợp của lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất thể hiện ở năng suất lao động tăng, đời sống người

lao động được đảm bảo ... ).


Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự
phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng
sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được
đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong
từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong
giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ công cụ lao
động, trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và
phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Tương ứng với một trình độ và tính chất nhất định của lực lượng sản xuất đòi
hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp trên cả ba phương diện: sở hữu, tổ chức,
quản lý và phân phối. Còn việc xuất hiện một kiểu quan hệ sản xuất nào đó đều
nhằm mục đích tạo nên hình thức kinh tế – xã hội cho lực lượng sản xuất hiện có
tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại tạo ra
khả năng phá vỡ sự thống nhất của nó với quan hệ sản xuất hiện có, làm cho quan
hệ sản xuất này trở nên lỗi thời, gây cản trở cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất; từ đó xuất hiện nhu cầu khách quan phải tái thiết lập mối quan hệ thống nhất
giữa chúng theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với nhu cầu phát triển
của lực lượng sản xuất.
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, quan hệ sản xuất đó phải phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản
xuất là “ hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả
các mặt của quan hệ sản xuất đều” tạo địa bàn bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất
phát triển. Điều đó nghĩa là nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu
giữa người lao động với tư liệu sản xuất, do đó lực lượng sản xuất có cơ cơ sở để
phát triển hết khả năng của nó.
Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi

quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thì
yêu cầu quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự phù hợp này tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người
lao động với tư liệu sản xuất để lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hoàn


thiện. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một mức nhất định sẽ làm cho quan
hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Điều này dẫn đến quan hệ sản xuất kìm hãm lực lượng sản xuất
phát triển và yêu cầu khách quan tất yếu là phải thay thế quan hệ sản xuất. Như
Các Mác đã viết: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó, các lực lượng sản xuất vật
chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có.. trong khi đó từ
trước đến giờ các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức của
lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực
lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết
định của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố động và cách mạng nhất
của quá trình sản xuất. Nó là nội dung của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất
là yếu tố tương đối ổn định. Nó là hình thức xã hội của quá trình sản xuất. Trong
mối quan hệ này, lực lượng sản xuất ( nội dung vật chất- kỹ thuật) quyết định quan
hệ sản xuất ( hình thức kinh tế – xã hội).
Lực lượng sản xuất phát triển thì sớm hay muộn quan hệ sản xuất cũng biến
đổi theo phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi trình độ của
lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất
hiện có. Điều này đòi hỏi phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, hình thành quan hệ sản
xuất mới phù hợp hơn với lực lượng sản xuất, thúc đẩy phương thức sản xuất mới
ra đời.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất
cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản

xuất. Quan hệ sản xuất quyết định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của
con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến
phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ do đó tác động đến sự phát triển của


lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất, ngược lại sẽ kìm hãm. Và khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được
thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển.
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất vừa có tác động cho nhau lại vừa
mâu thuẫn với nhau. Việc phản ánh mâu thuẫn này là yêu cầu cần có. Nó phải
thông qua nhận thức và cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải
thông qua đấu tranh giai cấp, qua cách mạng xã hội.
Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật
chất xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ, chúng tồn tại khách
quan, độc lập với ý muốn chủ quan của con người.
Sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện
quan hệ mang tính biện chứng. Quan hệ này biểu hiện mang tính biện chứng. Quan
hệ này biểu hiện ở quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội – quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất ( lạc hẫu, lỗi thời hoặc vượt trước quá xa ) sẽ kìm hãm, cản trở sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
Sự tác động của quan hệ sản xuất tới lực lượng sản xuất còn thể hiện ở chỗ
nó quy định mục đích sản xuất; ảnh hưởng tới thái độ của người lao động; kích
thích hoặc kìm hãm việc cãi tiến công cụ lao động cũng như việc áp dụng thành
tựu khoa học vào sản xuất ...
Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và

quan hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh
giai cấp mới giải quyết được mâu thuẫn này. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp


với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến trong mọi xã hội
làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ biến và là quy luật cơ bản nhất đối với sự vận động , phát triển
của nề sản xuất vật chất, do đó là sự vận động , phát triển của toàn bộ đời sống xã
hội. Việc nắm vững quy luật này không chỉ cho chúng ta sự nhận thức đúng đắn và
sâu sắc tới tiến trình phát triển của đời sống xã hội mà còn giúp con người có thể
tác động tích cực vào tiến trình phát triển đó.
II. Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nước
ta từ đổi mới đến nay
1. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
Ở nước ta trước đổi mới ( 1986) đã có những biểu hiện vận dụng chưa đúng
quy luật này. Điều này biểu hiện ở việc chủ quan, nóng vội trong việc xây dựng
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà không tính đến trình độ của lực lượng sản
xuất ở nước ta.
Từ đổi mới 1986 đến nay dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam,
nước ta lựa chọn con đường phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã
hội chủ nghĩa. Điều này là hoàn toàn đúng với quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi lẽ, trình độ sản xuất ở
nước ta vừa thấp vừa không đều.
Sự không đều về trình độ của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có sự đa dạng
phong phú của quan hệ sản xuất.
Sau độc lập, nền kinh tế nước ta còn gặp vô vàn khó khăn do thói quen lao
động tự cung tự cấp, nền sản xuất nhỏ lẻ, trình độ khoa học kém phát triển, đời
sống xã hội vô cùng khó khăn Với hoàn cảnh mới, đất nước tiến lên CNXH, đòi



hỏi nước ta phải có một chế độ kinh tế phù hợp, đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần.
Thời gian qua, chúng ta quá coi trọng vai trò của quan hệ sản xuất, cho rằng
có thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để mở đường san đất, thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Quan niệm ấy là sai lầm, sự phát triển của lực lượng sản xuất trong
thời gian qua là minh chứng cho điều ấy và do đó gây ra sự mâu thuẫn giữa yêu
cầu phát triển lực lượng sản xuất với hình thức kinh tế - xã hội được áp đặt một
cách chủ quan trên đất nước ta. Mối mâu thuẫn ấy đã đem theo nhiều hậu quả
ngoài ý muốn: Kinh tế kém phát triển, xã hội nảy sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn, trình
độ quản lý yếu kém yêu cầu cấp thiết là phải giải quyết đúng đắn mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất, từ đó khắc phục khó khăn và tiêu cực của
nền kinh tế - xã hội. Thiết lập quan hệ sản xuất mới với những bước đi phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy sản xuất phát triển với hiệu
quả kinh tế cao. Đó là sự cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản, buôn
bán tự do rộng rãi, nâng cao đời sống xã hội. Như lời của đồng chí Lê Khả Phiêu
nói: " không chất nhận Việt Nam theo con đường chủ quan của tư bản nhưng
không phải triệt tiêu tư bản trên đất nước Việt Nam và vẫn quan hệ với CNTB trên
cơ sở có lợi cho đôi bên và như vậy cho phép phát triển thành phần kinh tế tư bản
là sáng suốt". Hay quan điểm từ Đại hội Đảng VI cũng khẳng định: không những
khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể mà còn phải phát
triển chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhưng điều quan
trọng là phải nhận thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong thời kì
quá độ.
2. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất được vận dụng trong quá trình CNH-HĐH đất nước
CNH- HĐH được xem xét từ tư duy triết học là thuộc phạm trù của lực
lượng sản xuất trong mối quan hệ biện chứng của phương thức sản xuất. Muốn



CNH-HĐH đất nước cần phải có tiềm lực về kinh tế, con người, trong đó lực lượng
sản xuất là yếu tố vô cùng quan trọng. Ngoài ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Với tiềm năng lao động lớn nhưng công cụ lao động lại hết sức thô sơ lạc
hậu, CNH-HĐH đứng trước khó khăn lớn cần nhanh chóng khắc phục. Đảng ta đã
thực hiện một cơ cấu sở hữu hợp quy luật, gắn liền với một cơ cấu thành phần kinh
tế hợp lí và trong thời cơ cũng như thách thức to lớn hiện nay, đất nước ta đang có
rất nhiều tiềm năng phát triển, mà cốt lõi của sự phát triển ấy vẫn là quy luật quan
hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Mục tiêu CNH-HĐH đất nước đang được nỗ lực thực hiện và đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể. Cùng với nó vẫn là những khó khăn, hạn chế song tương
lai phát triển đất nước vẫn mang nhiều yếu tố khả quan.
III. Thành tựu và hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ
đổi mới đến nay
1. Thành tựu
Trong đại hội Đảng VI (12/1986) là một thời gian qua trọng, đánh dấu bước
chuyển mình phát triển của đất nước ta: xoá bỏ chế độ bao cấp sản phẩm, bãi bỏ sự
cấm đoán phát triển kinh tế thị trường, sự phát triển yếu ớt của đời sống xã hội
được thay thế bằng sự hội nhập với thế giới, quan tâm và chú trọng phát triển đời
sống của nhân dân…
Đại hội VII (6/1991), Đại hội VIII (6/1996), Đại hội IX (4/2001) đã tiếp tục
khẳng định bổ sung và hoàn thiện các chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế - xã
hội: phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, điều chỉnh cơ cấu các ngành kinh tế,
đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới về công cụ lao động và chính sách quản lý kinh tếxã hội, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân.


Sau 18 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng.

- Nền kinh tế tăng trưởng liên tục, nhiều năm tốc đọ cao. Trong 5 năm đầu
đổi mới (1986-1990), khi chế độ bao cấp bị xoá bỏ dần, các doanh nghiệp nhà
nước và hợp tác xã gặp nhiều khó khăn, khu vực kinh tế tư nhân và cá thể chưa
phát triển, nền kinh tế rơi vào tình trạng bất ổn, bình quân chỉ đạt 3,9%/năm (riêng
1986: 0,3%) và lạm phát cao kéo dài. Nhưng đầu thập kỉ 90, nền kinh tế liên tục
tăng trưởng ổn định và đạt đến đỉnh cao là 9,5% vào năm 1995. Đặc biệt trong kế
hoạch 5 năm (1991-1995), ta đã hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu chủ yếu đưa
nước ta thực sự thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kì đẩy
mạnh CNH-HĐH đất nước. Toàn bộ các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1996-2000
và chiến lược 10 năm đều đạt và vượt kế hoạch. GDP trong 10 năm này tăng bình
quân 7,56%/năm đến GDP 2000 gấp 2,07% lần năm 1990. Đến năm 2000-2002 tốc
độ tăng trưởng đạt ổn định 6,7%; 6,8% và 7,0%.
Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, nghề rừng và
thuỷ sản. Sản lượng lương thực tăng nhanh từ 21,5 triệu tấn (1990) lên 27,5 triệu
tấn (1995) và 34,5 triệu tấn (2000), gần 36 triệu tấn (2002), bình quân mỗi năm
tăng 1,4 triệu tấn. Tốc độ tăng lương thực bình quân 5%, cao hơn tốc độ tăng dân
số (1,8%) nên sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng từ 304 kg (1985) lên
364 kg (1995); 444,8 kg (2000) & 450 kg (2002). Việt Nam từ nước thiếu lương
thực, đến 1989 trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Sở dĩ nông nghiệp tăng
nhanh là nhờ những đổi mới trong cơ chế chính sách quản lý nhà nước: Nông dân
được giao ruộng để sử dụng lâu dài, phát triển trang trại, khuyến khích khaihoang
mở rộng diện tích canh tác, nâng cao năng suất cây trồng. Những thành tựu trên
mặt trận lương thực đã góp phần quan trọng vào sự ổn định đời sống nhân dân.
Trong 10 năm 1991 - 2000, bình quân mỗi năm xuất khẩu gạo tăng 7,6%, cao su
tăng 12,4%; cà phê tăng 17,7%; rau quả tăng 10,8%; hạt tiêu 24,8%; hạt điều tăng


37,5%. Tổng giá trị nông sản xuất khẩu chiếm 40% tổng giá trị xuất khẩu cả nước.
Một nền nông nghiệp hàng hoá hình thành gắn với thị trường quốc tế.
Công nghiệp tăng liên tục, bình quân trong thời kì 1991-1995 tăng 13,7%;

1996-2000 tăng 13,2%. Công nghiệp tăng nhanh là do đầu tư lớn của nhà nước
trong những năm trước đây cho một số ngành quan trọng như dầu khí, điện, xi
măng, thép, giấy, đường nhưng quan trọng hơn cả là sự đổi mới cơ chế, chính sách
quản lý của nhà nước, xoá bỏ bao cấp, nhận vốn đầu tư nước ngoài
Hệ thống đường giao thông, bưu điện được xây dựng mới và nâng cấp trên
khắp mọi miền tổ quốc: quốc lộ 1A, 5, 18, sân bay, bến cảng được nâng cấp và xây
dựng. Thương mại và dịch vụ có nhiều khởi sắc.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ: chuyển từ khu vực I (Nông
nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản) sang khu vực II (công nghiệp - xây dựng) và khu
vực III (dịch vụ), chuyển từ khu vực quốc doanh, hợp tác xã sang đa thành phần và
chuyển theo hướng hình thành 3 vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền Bắc- Trung- Nam.
- Đẩy lùi lạm phát: 1986: 774,7%; 1990: 67,4%; 1995: 12,7%; 1997: 3,7%;
1999: 0,1%.
- Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh: kim ngạch xuất khẩu 1996: 882,9 triệu
USD; 2001: 15,027 tỉ USD; Nhập khẩu: 2,16 tỉ USD (1986); 16,162 tỉ USD
(2001).
- Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt: lao động
có việc tăng tăng nhanh, mỗi năm tạo 1,3 triệu việc làm mới, thu nhập bình quân
đầu người đạt gần 400 USD/năm . Số hộ giàu tăng > 10%; số hộ nghèo giảm 55%
(1989) còn 11,4% (2000).
Những thành tựu tăng trưởng và ổn định hoá kinh tế, tình hình xã hội đã
được cải thiện rất nhiều. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên giảm mỗi năm 1‰ và giữ mức
bình quân 2,1%/ năm, giảm so với thời kỳ trước (2,3%) nhưng vẫn cao hơn mục


tiêu đề ra (1,9%). Số người đi học bình quân tính trên 1 vạn dân, tăng từ 1834
người (1990) tăng lên 2171 người (1995).
Tỉ trọng chi cho các lĩnh vực xã hội chiếm từ 24,4 - 28,4% tổng ngân sách
nhà nước và có xu hướng tăng lên. Hệ thống y tế được cải thiện, đặc biệt là hệ
thống bảo hiểm y tế.

Tình hình nông thôn được cải thiện thêm một bước. Có khoảng 60,2% số xã
có điện; 86,4% số xã có đường ô tô, 91,6% số xã có trường phổ thông cơ sở.
Những thành tựu đạt được là kết quả của con đường đổi mới do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo. Nó là kết quả của nhận thức đúng đắn qui luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
2. Hạn chế
Do nền kinh tế nước ta chủ yếu vẫn là nông nghiệp, công nghiệp còn nhỏ bé,
kết cấu hạ tầng kém phát triển, cơ sở vật chất kĩ thuật chưa xác được nhiều. Mặc
dù cơ cấu các ngành trong GDP có chuyển dịch rõ rệt nhưng cơ cấu lao động chậm
biến đổi. Hiện nay hơn 75% dân số vẫn sống ở nông thôn, lao động nông nghiệp
vẫn chiếm > 60% tổng số lao động xã hội.
Nền kinh tế có mức tăng trưởng khá nhưng năng suất, chất lượng, hiệu quả
còn thấp. Đất nước Việt Nam vẫn thuộc 20 nước nghèo nhất thế giới. Đây là thách
thức cực kì to lớn cần phát huy mọi tiềm năng để giải quyết.
Vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội còn yếu: khả năng
kiềm chế lạm phát còn chưa vững chắc. Ngân sách thu không đủ chi, tỉ lệ bội chi
ngân sách còn cao.
Tình trạng bất công xã hội, tham nhũng, buôn lậu, vi phạm kỉ cương còn
nặng và phổ biến. Nạn buôn lậu và tệ quan liệu được coi là quốc nạn, được đưa vào
chương trình nghị sự quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Song hiện nay vẫn chưa
chống được, thậm chí còn có phần nghiêm trọng hơn.


Hạn chế trong nền kinh tế xã hội nước ta còn nhiều. Nguyên nhân của những
yếu kém đó là do hậu quả của nhiều năm trước để lại khi không hiểu rõ mối quan
hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, sự phù hợp mang tính
tất yếu của chúng, đòng thời những bất lợi của tình hình thế giới hiện nay và những
khuyết điểm còn mang tính chủ quan duy ý chí trong công tác lãnh đạo của Đảng
và quản lý của Nhà nước ta./.



Phần kết luận
Đảng và Nhà nước cần phải hiểu và vận dụng tốt quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trên thực tế không thể có
sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất song phải tuỳ
theo tình hình thực tế mà chọn giải pháp phù hợp. Sự vận dụng đúng đắn của Đảng
và Nhà nước sẽ đem lại thành tựu vô cùng to lớn cho nền kinh tế - xã hội nước ta,
hoàn thành tốt mục tiêu CNH-HĐH đất nước. Tuy vậy, hạn chế, yếu kém vẫn còn
rất nhiều, đòi hỏi cần có sự nỗ lực hết sức, phát huy mọi tiềm năng vốn có để khắc
phục.
Chỉ tính từ đổi mới đến nay, đất nước ta đã có những bước chuyển mình lớn
lao trong đời sống kinh tế xã hội. Đó là nhờ sự nhận thức và vận dụng kịp thời quy
luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mở ra con đường đầy
hứa hẹn cho sự phát triển của đất nước. Trong tương lai, chúng ta sẽ là những
người gánh vác nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước, vì vậy ngay từ lúc này
cần nhận thức rõ ràng và đúng đắn mối quan hệ biện chứng của quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất, như quan điểm triết học Mác xít thì đó là quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng Sản Việt Nam, ( 1986),Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.54.
2. TS. Bùi Văn Miên( Chủ biên) ( 2014), Biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất trong quá trình vận động và phát triển của phương thức
sản xuất, Triết học, tr 211-216.
3. PGS.TS Trần Văn Phòng( Chủ biên), Triết học Mác-Lênin, NXB Đại Học
Quốc Gia Hà Nội, tr 101-105.



Phần cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng tiểu luận trên là do bản thân tôi tìm kiếm tài liệu, suy
nghĩ và tự viết ra, có sự tham khảo của các tài liệu trên. Và tôi không hề sao chép
tiểu luận của các bạn khác, không nhờ viết hộ, không thuê viết hộ.
Trên đây là phần cam đoan của tôi về bài tiểu luận của mình.
Sinh viên
Đặng Công Danh


Mục lục



×