Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Nghiên cứu đặc điểm và chuyển gen GmDREB2 nhằm cải thiện tính chịu hạn của cây đậu tương (glycine max (l ) merrill)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.04 MB, 129 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Đậu tương (Glycine max (L.) Merrill) là một trong những cây trồng
quan trọng hàng đầu ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Việc
tiêu thụ đậu tương và các sản phẩm từ đậu tương đang gia tăng trên toàn thế giới
do những tác dụng có lợi tới sức khỏe của con người, như phòng chống ung thư,
ngăn ngừa bệnh tiểu đường và béo phì, hạ cholesterol và bảo vệ rối loạn thận.
Hạt đậu tương là nguồn cung cấp dồi dào protein (32%-52%), lipid (12%-25%),
vitamin (B1, B2, C, D, E...), nhiều amino acid thiết yếu (lysine, tryptophan,
methionine, cysteine và leucine), chất xơ, năng lượng và các chất chuyển hóa
thứ cấp. Vì vậy, hạt đậu tương được sử dụng làm thực phẩm cho con người,
thức ăn cho gia súc, là nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, mặt hàng
xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Không chỉ có giá trị kinh tế và dinh dưỡng cao,
cây đậu tương còn giữ vai trò quan trọng trong việc cải thiện độ phì và sử dụng
bền vững tài nguyên đất canh tác. Gần đây, một trong những ứng dụng được
quan tâm nhiều nhất của cây đậu tương là sản xuất dầu diesel sinh học.
Đậu tương được xem là cây trồng nhạy cảm với hạn. Hạn là yếu tố phi
sinh học gây ảnh hưởng nghiêm trọng nhất và có thể làm giảm năng suất cây
đậu tương khoảng 40%. Hạn ảnh hưởng đến tất cả các thời kì sinh trưởng và
phát triển của cây đậu tương, trong đó thời kì ra hoa và thời kì sau ra hoa đã
được chứng minh là những thời kì bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất. Hiện nay, do
những biến đổi về khí hậu, đặc biệt là hạn kéo dài, lượng mưa không đều ở các
thời điểm trong năm và giữa các vùng miền gây khó khăn cho sản xuất nông
nghiệp ở nhiều quốc gia, tại Việt Nam cũng không tránh khỏi những tác động
tiêu cực đó. Hơn nữa, Việt Nam có khoảng 75% diện tích là đồi núi, đất dốc,
khả năng giữ nước kém nên việc canh tác các cây trồng nói chung và cây đậu tương


2



nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, việc chọn tạo giống đậu tương có khả
năng chịu hạn tốt là vấn đề cấp thiết, mang tính thời sự ở Việt Nam cũng như
trên thế giới.
Tính chịu hạn của cây đậu tương do nhiều gen quy định, sản phẩm của các
gen này liên quan trực tiếp đến sự biểu hiện khả năng chịu hạn hoặc có chức
năng điều hoà nhóm gen chịu hạn. Một số gen của đậu tương đã được mô tả là
có phản ứng với tác động của hạn ở mức phiên mã. Trình tự cis và nhân tố trans
giữ vai trò quan trọng trong sự biểu hiện gen đáp ứng tác động của hạn. Các
protein DREB - Những nhân tố có tác động trans liên kết với các trình tự cis để
kích hoạt sự biểu hiện của các gen mục tiêu khi có tín hiệu stress ở thực vật.
Việc cải thiện đặc tính di truyền của cây đậu tương để thích nghi với hạn
được các nhà khoa học tiếp cận theo nhiều hướng: Lai hữu tính, gây đột biến
thực nghiệm, chọn lọc quần thể, công nghệ tế bào, công nghệ gen. Trong đó,
công nghệ gen được xem là biện pháp đem lại hiệu quả cao. Gần đây, đã có
những tiến bộ trong việc cải thiện tính chịu hạn của cây đậu tương thông qua các
kỹ thuật tác động vào nhân tố phiên mã hoặc yếu tố tín hiệu ở cây trồng chuyển
gen. Tuy nhiên ở nước ta, một số nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc chuyển các
gen chức năng liên quan trực tiếp đến tính chịu hạn vào cây đậu tương, ít thấy
công bố kết quả hoàn chỉnh về chuyển gen mã hóa protein là nhân tố kích hoạt
quá trình phiên mã, trong đó có gen GmDREB2. Do đó, việc nghiên cứu đặc tính
phân tử, xác định chức năng gen mã hóa nhân tố phiên mã liên quan tới tính chịu
hạn, cũng như việc chuyển các gen này từ các giống đậu tương có khả năng chịu
hạn tốt sang giống có khả năng chịu hạn kém đang trở thành hướng nghiên cứu
triển vọng, nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học ở trong và
ngoài nước.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã tiến hành đề tài luận án:
"Nghiên cứu đặc điểm và chuyển gen GmDREB2 nhằm cải thiện tính chịu
hạn của cây đậu tương (Glycine max (L.) Merrill)".



3

2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Phân tích được đặc điểm của gen GmDREB2 phân lập từ các giống đậu
tương Việt Nam có khả năng chịu hạn khác nhau.
2.2. Biểu hiện được protein tái tổ hợp và chức năng sinh học của gen chuyển
GmDREB2 trên cây thuốc lá chuyển gen.
2.3. Tạo cây đậu tương chuyển gen và biểu hiện được protein tái tổ hợp
GmDREB2 trên cây đậu tương chuyển gen.
3. Nội dung nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu thông tin, tách dòng và xác định trình tự gen GmDREB2 phân lập
từ cây đậu tương. Phân tích tính đa dạng trong trình tự nucleotide và protein của
gen GmDREB2 ở cây đậu tương.
3.2. Nghiên cứu thiết kế vector chuyển gen thực vật chứa cấu trúc mang gen
GmDREB2.
3.3. Nghiên cứu chuyển gen và phân tích biểu hiện gen GmDREB2 trên cây
thuốc lá: (i) Tạo cây thuốc lá chuyển gen mang cấu trúc gen GmDREB2. (ii)
Phân tích sự biểu hiện của protein tái tổ hợp GmDREB2 trong cây thuốc lá. (iii)
Đánh giá khả năng chịu hạn của các cây thuốc lá chuyển gen.
3.4. Nghiên cứu chuyển cấu trúc mang gen GmDREB2 vào cây đậu tương và
phân tích cây đậu tương chuyển gen.
4. Những đóng góp mới của luận án
Luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu có hệ thống, từ việc
phân lập, tách dòng phân tử gen GmDREB2 đến thiết kế vector chuyển gen, tạo
cây chuyển gen và phân tích sự biểu hiện gen chuyển GmDREB2, cụ thể là:
(1) Gen GmDREB2 phân lập từ cây đậu tương có kích thước 480 nucleotide,
mã hóa cho 159 amino acid. Các trình tự gen GmDREB2 đã được đăng ký trên



4

Ngân hàng Gen mang các mã số: LK936507, LK936508, LK936509, HG965097,
HG965098, HG965099.
(2) Protein tái tổ hợp GmDREB2 biểu hiện mạnh trên cây thuốc lá chuyển gen.
Khi bị hạn, ở các dòng thuốc lá chuyển gen có hàm lượng prolin tăng từ
211,17% - 332,44% sau 5 ngày bị stress hạn và tăng từ 262,79% - 466,04% sau
9 ngày bị stress hạn.
(3) Tạo được cây đậu tương chuyển gen mang gen GmDREB2 và biểu hiện
thành công protein tái tổ hợp GmDREB2 trên giống đậu tương DT84.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận án
5.1. Về mặt khoa học
Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ đặc điểm cấu trúc của gen
GmDREB2 phân lập từ 6 giống đậu tương Việt Nam (DT2008, CB, CBD, ĐT26,
ĐT51, ĐVN5). Những cơ sở khoa học của việc sử dụng kỹ thuật chuyển gen
nhằm cải thiện đặc tính chịu hạn của cây trồng đã được khẳng định thông qua
việc tăng cường protein tái tổ hợp GmDREB2 và biểu hiện chức năng sinh học
của gen chuyển GmDREB2 trên cây thuốc lá và cây đậu tương. Những kết quả
bước đầu về tạo cây chuyển gen đã mở ra hướng nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật
chuyển gen trong mục đích nâng cao khả năng chịu hạn của cây đậu tương ở
Việt Nam.
Các bài báo công bố trên các tạp chí Khoa học - Công nghệ quốc tế và ở
trong nước, cùng với 6 trình tự gen công bố trên Ngân hàng Gen là những tư liệu
tham khảo có giá trị trong việc nghiên cứu, giảng dạy sinh học và công nghệ
sinh học.
5.2. Về mặt thực tiễn
Các trình tự gen GmDREB2 phân lập được, cấu trúc vector chuyển gen
thực vật mang gen GmDREB2, các cây thuốc lá chuyển gen tạo được có khả năng



5

chịu hạn tốt hơn so với cây đối chứng, các cây đậu tương chuyển gen đã góp phần
giải quyết những vấn đề cụ thể về việc ứng dụng kỹ thuật chuyển gen trong cải
thiện khả năng chịu hạn ở cây đậu tương nói riêng và các cây trồng khác nói
chung, mở ra triển vọng ứng dụng công nghệ mới trong thực tiễn chọn giống
cây trồng chịu hạn ở Việt Nam.


6

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CƠ CHẾ PHÂN TỬ CỦA ĐẶC TÍNH CHỊU HẠN Ở THỰC VẬT

1.1.1. Cơ chế chịu hạn của thực vật
Stress phi sinh học là nguyên nhân chính dẫn đến mất mùa trên toàn
thế giới, gây thiệt hại đến năng suất bình quân hơn 50% ở các loại cây trồng
chính [18]. Trong số các stress phi sinh học, hạn là yếu tố chính làm giảm năng
suất cây trồng. Stress hạn phá vỡ sự cân bằng nội môi và phân bố ion trong tế
bào [197]. Cây trồng phản ứng với các stress hạn thông qua các con đường
truyền tin và phản ứng tế bào như sản xuất protein stress, tăng cường các chất
chống oxi hóa, tích lũy các chất tan [36]. Các nghiên cứu gần đây cho thấy, hạn
gây ra những tác động tiêu cực tới tất cả các cấp độ và các giai đoạn phát triển
của thực vật. Để chống chịu với các stress hạn, thực vật phải thực hiện thông qua
chuỗi các quá trình, với sự tham gia của rất nhiều yếu tố. Khi có hạn, các phản
ứng sinh hóa khác nhau được kích hoạt trong cây trồng để tích lũy nhiều loại
chất dễ hòa tan, như đường, amino acid, glycine betaine và polyamine để giúp
các cây trồng đối phó với hạn [71], tăng lượng chất chống oxy hóa khác nhau,
chẳng hạn như glutathione S-transferase (GST), superoxide dismutase (SOD),
guaiacol peroxidase (POD) và catalase (CAT) chống lại điều kiện oxy hóa để

phục hồi sau một thời gian nhất định bị hạn [12].
Gần đây, những tiến bộ trong việc hiểu biết về biểu hiện gen, cơ chế
phiên mã và việc truyền tín hiệu phản ứng với stress hạn của cây trồng đã được
công bố [198]. Mặt khác, phân tích sinh học phân tử và di truyền học đã tạo điều
kiện thuận lợi cho những khám phá về chức năng gen [155], [170] và được ứng
dụng trong kỹ thuật di truyền với việc sử dụng một số gen chức năng hoặc một
số gen điều hòa để kích hoạt các cơ chế liên quan đến tính chịu hạn, chịu mặn
của cây trồng [176]. Vì vậy, cơ sở phân tử đặc tính chịu hạn của thực vật nói
chung và cây đậu tương nói riêng cũng dần được sáng tỏ. Các gen phản ứng với


7

stress hạn có thể chia thành 2 nhóm chính: Nhóm gen chức năng mà sản phẩm
của chúng tham gia trực tiếp vào các phản ứng stress hạn như gen điều hòa áp
suất thẩm thấu [167], gen mã hóa các protein chống oxi hóa [100], gen mã hóa
protein LEA (Late embryogenesis abundant) [181], gen mã hóa protein vận
chuyển LTP (Lipid trasfer protein) [111], aquaporin [48]; nhóm gen điều khiển
cho ra các sản phẩm bao gồm các nhân tố phiên mã và các protein kinase truyền
tin. Các nhân tố phiên mã liên quan đến khả năng chịu hạn đang được quan tâm
nghiên cứu bao gồm DREB [24], WRKY [193], [195], bZIP (Basic leucine
zipper) [54], MYB (Myeloblastosis oncogene) [90], [103], NCED (Nine-cisepoxycarotenoid dioxygenase) [137] và AP2/ERF [193]. Các protein kinase
truyền tin bao gồm: Protein kinase phụ thuộc Ca2+ [80], MAPK (Mitogen activated
protein kinase) [112], RPK (Receptor-like protein kinase) [29], PIK (Phophatidyl
inositol kinase) [185] và protein kinase serine/threonine [102] (Hình 1.1).

Hình 1.1. Cơ chế chịu hạn của thực vật


8


Sự biểu hiện của các gen cảm ứng với hạn liên quan chặt chẽ với quá
trình phiên mã. Vì vậy, sự biểu hiện của các gen này chịu ảnh hưởng rất nhiều
của môi trường trong và ngoài cơ thể, với nhiều mức độ điều hòa.
Các nhân tố phiên mã (Transcription factors - TFs) đóng vai trò điều
khiển quan trọng của những thay đổi trong biểu hiện gen và phản ứng với các
stress môi trường. Có thể thấy rõ ở cây trồng, các gen mã hóa nhân tố phiên mã
chiếm một phần lớn trong hệ gen. Ví dụ, ở cây Arabidopsis có đến 1500 TF
trong hệ gen [140]. Cả hai loại: Nhân tố kích hoạt và ức chế quá trình phiên mã
đã được sử dụng để nâng cao khả năng chịu hạn cho cây trồng, hầu hết các gen
này đã được xác định và phân tích ở cây Arabidopsis [19]. Hiện nay, các protein
DREB (một trong bốn phân họ lớn của họ AP2/ERF) là nhóm TF được nghiên
cứu thành công nhất trong điều kiện phi sinh học, bởi vì nó kích hoạt sự biểu
hiện của nhiều gen mục tiêu chịu trách nhiệm kiểm soát các yếu tố liên quan
[71]. Wang và cs (2009) đã xác định được trong cây Arabidopsis có 474 gen
mục tiêu mà các nhân tố phiên mã DREB tác động [183]. Trong số những gen này,
có 160 gen có đáp ứng với stress phi sinh học và 27 gen cảm ứng với tình trạng
thiếu nước [106].
1.1.2. Họ nhân tố phiên mã AP2
Các nhân tố phiên mã có thể được phân chia thành nhiều loại khác nhau
dựa trên cấu trúc vùng liên kết của chúng với sợi DNA. Các nhân tố phiên mã như
nhân tố có tác động trans và trình tự cis giữ vai trò trung tâm hoạt hóa promoter
trong biểu hiện của các gen mục tiêu. Kết quả những phân tích về hoạt hóa
promoter phản ứng với điều kiện bất lợi, trình tự cis và nhân tố có tác động trans
liên quan đến phản ứng của các gen với điều kiện bất lợi đã được xác định [178].
Họ AP2/ERF là một nhóm lớn các nhân tố phiên mã ở thực vật, bao gồm
bốn phân họ lớn: AP2 (APETALA 2), RAV (RelatedtoABI3/VP1), ERF
(Ethylene-responsive element binding factor) và DREB (Dehydration responsive
element binding ) [148].



9

1.1.2.1. Cây phát sinh của họ nhân tố phiên mã AP2/ERF
Họ AP2/ERF là một nhóm lớn các nhân tố phiên mã có chứa miền
AP2/ERF. Ở cây Arabidopsis chứa 145 locus gen mã hóa các nhân tố phiên mã
của họ AP2/ERF [148] và ở lúa có 167 locus [152]. Miền AP2/ERF lần đầu tiên
được tìm thấy ở Arabidopsis homeotic APETALA 2 [74]. Tương tự, miền này
cũng tìm thấy ở cây thuốc lá (Nicotiana tabacum), đó là yếu tố phản ứng với
ethylene (EREBPs) [124]. Miền AP2/ERF có khoảng 60 amino acid có liên quan
chặt chẽ với nhau [184]. Protein thuộc họ AP2/ERF là những nhân tố phiên mã
có ở thực vật và người ta cũng tìm thấy ở cả những thực vật bậc thấp như tảo
xanh (Chlamydomonas reinhardtii) [157], tương đồng với các miền AP2/ERF ở
vi khuẩn. Do đó, có giả thuyết cho rằng các miền AP2/ERF được chuyển từ một
loài vi khuẩn Cyanobacterium cộng sinh hoặc từ một loại vi khuẩn hay virus bởi
hiện tượng biến nạp gen [98]. Ở đầu N và ở đầu C của miền AP2/ERF có chứa
một đoạn xoắn β tương tự như kiểu xoắn α có chức năng nhận biết điểm bám
trên promoter [158].
Phân tích mối quan hệ và thiết lập cây phát sinh họ AP2/ERF từ bốn
phân họ: Arabidopsis, Selaginella moellendorffii, Physcomitrella patens và
Chlamydomonas reinhardtii, mà đại diện tương ứng là thực vật hạt kín, thông đất,
rêu và tảo xanh (Hình 1.2). Mỗi nhánh trong cây phát sinh đại diện cho một nhóm
và các thành viên của họ AP2/ERF có thể được chia thành ba nhóm dựa trên cấu
trúc tổng thể [141].
Phân họ AP2/ERF trong nhóm Arabidopsis gồm 14 thành viên chứa hai
miền AP2/ERF, phân họ RAV gồm 6 thành viên có chứa một miền AP2/ERF và
thêm một miền B3, trong khi các phân họ khác gồm 125 thành viên chỉ có một
miền AP2/ERF [152]. Phân họ AP2/ERF ở thực vật có hạt có thể được chia
thành các phân nhóm AP2 và nhóm ANT [13].
Sakuma và cs (2002) đã phân tích mối quan hệ của 125 thành viên chứa

duy nhất miền AP2/ERF dựa trên cơ sở miền AP2/ERF của nhóm Arabidopsis.


10

Thông qua phân tích này, 125 thành viên có một miền AP2/ERF được chia thành
ba nhóm: Nhóm A gồm 56 thành viên thuộc phân họ DREB, nhóm B gồm 65
thành viên thuộc phân họ ERF và nhóm còn lại gồm 4 thành viên thuộc những
phân họ khác. Phân họ DREB được chia thành 6 phân nhóm, từ A-1 đến A-6,
phân họ ERF cũng được chia thành 6 phân nhóm, từ B-1 đến B-6. Các
DREB1/CBF thuộc phân nhóm A-1 và các DREB2 thuộc phân nhóm A-2 [148].
Nakano và cs (2006) phân tích mối quan hệ của các thành viên chứa duy nhất
miền AP2/ERF trong Arabidopsis và lúa, kết quả thu được tương tự như phân
loại của Sakuma và cs (2002). Tuy nhiên, ông cho biết thêm phân nhóm A-1 và
A-4 cùng nguồn gốc và phân nhóm A-2 và A-3 cùng nguồn gốc [115].

Hình 1.2. Cây phát sinh của họ nhân tố phiên mã AP2/ERF ở thực vật có
diệp lục [109].


11

Họ nhân tố phiên mã AP2/ERF chỉ có ở thực vật và điều này đặt ra câu
hỏi: Chúng đã tiến hóa như thế nào trong lịch sử phát triển của thực vật? Trong
sơ đồ cây phát sinh loài ở hình 1.2, P. patens và chi nhánh S. moellendorffii được
tìm thấy trong tất cả bốn phân họ lớn và trong một nhánh của AT4G13040
orthologues. Hơn nữa, P. Patens và S. moellendorffii được tìm thấy trong tất cả
các phân nhóm, trừ A-1 và B-2. Điều đó chứng tỏ, rêu và thực vật có mạch
chung nguồn gốc. Phân nhóm A-1 (DREB1s) có quan hệ gần gũi với phân nhóm
A-4 và cùng chung nguồn gốc với phân nhóm A-5. Trong thực tế, người ta

không tìm thấy phân nhóm A-1 ở cây hạt trần. Trong cây phát sinh loài ở hình 1.2,
C. reinhardtii tìm thấy ở bốn nhánh, hai nhánh trong phân họ ERF và hai nhánh
trong phân họ AP2. Điều đó chứng tỏ, trước khi xuất hiện thực vật ở cạn, nhân tố
phiên mã AP2/ERF đã chứa một miền AP2/ERF hoặc chứa hai miền AP2/ERF.
Ngược lại, người ta chưa tìm thấy phân họ RAV ở C. reinhardtii [109].
1.1.2.2. Nhân tố phiên mã DREB
Từ những năm 80 của thế kỷ XX, các nhà khoa học trên thế giới đã quan tâm
nghiên cứu về DREBs, tiến hành giải trình tự gen DREBs trên các loài họ cúc
(Asteraceae), hướng dương (Helianthus annuus), lúa mì (Triticum aestivum L.)
… và so sánh trình tự gen này của các loài cây trồng và hoang dại cho thấy có sự
sai khác giữa chúng [5]. Từ đó, họ đã đề xuất phương án cải thiện khả năng
chống chịu thông qua việc cải tiến ở mức phân tử của cơ chế này với điều kiện
bất lợi trong môi trường sống, đó là chuyển gen mục tiêu từ loài chống chịu tốt
vào loài chống chịu kém. Những gen này bao gồm cả các gen chức năng, như
gen mã hóa những chất chuyển hóa khác nhau quan trọng đối với khả năng chịu
hạn, hoặc gen mã hóa các nhân tố phiên mã. Đối với cây đậu tương, hướng
nghiên cứu này bước đầu đã đạt được những thành công nhất định [6].
Nhiều thành viên phân họ DREB nhạy cảm với điều kiện bất lợi đã được
phân lập, mô tả và các nghiên cứu đã khẳng định chúng là những thành tố quan
trọng, liên quan đến sự phản ứng với nhân tố phi sinh học ở thực vật bằng cách


12

quy định biểu hiện gen thông qua các trình tự DRE/CRT [188]. Khi phân tích
các gen mã hóa nhân tố phiên mã DREB, các nhà khoa học đã xác định được 36
gen DREB/CBF trong cây nho (Vitis Vinifera) [200], 57 gen trong cây
Arabidopsis, 52 gen trong cây lúa (Oryza sativa L.) [115], 77 gen trong cây
Populos trichocarpa thuộc họ liễu [199], 36 gen trong cây đậu tương [192].
Một số thành viên của phân họ gen DREB được xác định có trong hệ gen

của cây đậu tương như: GmDREBa, GmDREBb, GmDREBc, GmDREB1,
GmDREB2, GmDREB3, GmDREB5, GmDREB6, GmDREB7 [141]. Mỗi gen
trong phân họ DREB có trình tự, độ dài khác nhau nhưng đều được biểu hiện
mạnh khi đậu tương gặp các điều kiện về hạn. Nhóm DREB1 điều khiển tính
chịu hạn, mặn và lạnh, trong khi nhóm DREB2 có vai trò chủ yếu trong điều
khiển tính chịu hạn, chịu nóng. Chen và cs (2004) đã phân lập gen DREB1 từ
mRNA của cây đậu tương có kích thước 705 bp [27]. Charlson và cs (2009) đã
phân lập được gen DREB1 từ DNA của cây đậu tương cũng có kích thước 705
bp [23]. Chen và cs (2007) đã phân lập gen GmDREB5 từ mRNA ở cây đậu
tương với kích thước là 927 bp [25]. Chen và cs (2009) đã phân lập gen
GmDREB3 từ mRNA ở cây đậu tương với kích thước là 597 bp [26]. Liu và cs
(2007) đã phân lập gen GmDREB6 từ mRNA ở cây đậu tương với kích thước là
693 bp [96]... Ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu về các gen DREB ở cây trồng nói
chung và cây đậu tương nói riêng vẫn còn rất mới mẻ, chỉ có một vài công trình
công bố về các gen DREB trong những năm gần đây, đó là các nghiên cứu về
đặc điểm cấu trúc và chức năng của gen DREB1 và DREB5 ở cây đậu tương
của Chu Hoàng Mậu và cs (2011) [5].
1.1.2.3. Phân nhóm DREB2
Phân nhóm DREB2 gồm có 8 thành viên ở trong cây Arabidopsis [148]
và 5 thành viên trong cây lúa [107]. Phân tích sự phát sinh của các protein
DREB2 từ cây Arabidopsis và cây lúa, cũng như các protein liên quan cho thấy,
phân nhóm DREB2 liên quan chặt chẽ với phân nhóm A-3, trong đó có ABI4


13

(ABA-Insensitive 4). Phân nhóm DREB2 trong cây Arabidopsis và lúa có thể
đều được chia thành ba phân nhóm phụ [107]. Ngoài ra, phân nhóm DREB2
cũng đã được phân lập từ một số loài thực vật hạt kín khác như hướng dương
[41], lúa [42], [107], lúa mì [43], [153], lúa mạch (Hordeum vulgare) [187], ngô

(Zea mays L) [134]. Hầu hết các gen DREB2 đã được công bố đều cảm ứng với
sự mất nước hoặc nhiệt độ cao, nhưng các gen DREB2 từ thực vật thân cỏ còn
cảm ứng với lạnh [43], [107], [153]. Điều đáng chú ý là tất cả các DREB2 được
phân lập có cảm ứng stress thuộc phân nhóm phụ 1, trong đó bao gồm DREB2A,
DREB2B, DREB2C, DREB2E và DREB2H của cây Arabidopsis, cũng như
OsDREB2A và OsDREB2B của cây lúa. Điều đó chứng tỏ, phân nhóm phụ 1 mà
đại diện là các DREB2 có cảm ứng với các stress. Phân nhóm phụ 2 bao gồm
DREB2D, DREB2G ở cây Arabidopsis và OsDREB2C ở cây lúa, trong khi phân
nhóm phụ 3 gồm DREB2F ở cây Arabidopsis và OsDREB2E ở cây lúa. Các gen
DREB2 ở hai phân nhóm phụ này không có hoặc cảm ứng không đáng kể trước
các stress và cũng chưa được phân lập từ các thực vật khác, mặc dù tất cả các
loài thực vật hạt kín đều có các gen thuộc 2 phân nhóm phụ này, song vai trò
của chúng còn ít được biết đến [107], [148] .
Chen và cs (2007) đã phân lập gen GmDREB2 từ đậu tương và dựa trên
sự giống nhau về miền AP2, gen GmDREB2 được xếp vào phân nhóm A-5
trong phân họ DREB. Gen GmDREB2 được biểu hiện mạnh trong môi trường có
hạn, mặn, nhiệt độ thấp và ABA [24]. Trong cây thuốc lá chuyển gen
GmDREB2, sự biểu hiện của gen này đã làm tăng sự tích lũy hàm lượng prolin
[88]. Trong Ngân hàng Gen, trình tự gen GmDREB2 phân lập từ DNA của cây
đậu tương đã được công bố lần đầu tiên bởi Wang và cs (2006) có kích thước
480 bp, mã hóa 159 amino acid, miền AP2 có 59 amino acid (từ vị trí amino
acid 34 đến 92) [180]. Gen GmDREB2 ở cây đậu tương có chức năng kích hoạt
sự phiên mã của nhóm gen chịu hạn. Sản phẩm biểu hiện của gen GmDREB2
được tìm thấy khi cây đậu tương gặp hạn, lạnh và mặn. Như vậy, gen


14

GmDREB2 đã được chứng minh là tích cực tham gia vào việc chống chịu với
hạn ở cây đậu tương [24], [88], [109].

1.1.3. Cơ chế tác động của một số nhân tố phiên mã đối với các phản ứng
stress phi sinh học ở thực vật
Cho đến nay, nhiều nhân tố phiên mã họ AP2/ERF từ các loài thực vật
khác nhau đã được chứng minh có liên quan đến phản ứng của stress phi sinh
học. Cụ thể, các DREB1/CBF và phân nhóm DREB2 đóng vai trò quan trọng
trong việc chống chịu stress bằng cách điều hòa biểu hiện của gen thông qua
trình tự DRE/CRT trong các promoter ở những gen nhạy cảm với stress.
1.1.3.1. Hoạt động của nhân tố phiên mã AP2/ERF và các trình tự cis
DRE/CRT
Các nhân tố phiên mã như DREB1 và DREB2 liên kết với các trình tự cis
CBF đã được xác định ở cây Arabidopsis [94], [164]. Những protein thuộc họ
AP2/ERF là nhân tố phiên mã đã kích hoạt các gen phiên mã thông qua liên kết
với các trình tự DRE/CRT để hoạt hóa promoter của chúng [148], [164]. Các gen
DREB1A/CBF3, DREB1B/CBF1 và DREB1C/CBF2 có trong hệ gen của cây
Arabidopsis được cảm ứng bởi điều kiện lạnh nhưng không do mất nước hoặc
mặn [52], [94], [154]. Sự biểu hiện mạnh của các DREB1/CBF sẽ kích hoạt sự
biểu hiện của các gen phản ứng với các strees và cải thiện khả năng chịu lạnh,
chịu hạn và chịu mặn của cây Arabidopsis [94]. Ngược lại, DREB2A và
DREB2B cảm ứng với tình trạng mất nước, mặn và nhiệt độ cao, không cảm ứng
với lạnh [94], [116], [147]. Sự biểu hiện mạnh của DREB2A đã kích hoạt sự
biểu hiện của các gen cảm ứng với nhiệt độ cao hoặc sự mất nước, do đó đã cải
thiện khả năng chống chịu hạn, chịu mặn, chịu nhiệt độ cao của cây Arabidopsis
[147], [146]. Những phát hiện này đã chỉ ra rằng, các DREB1 và DREB2 tham
gia vào quá trình thích nghi với stress trong cây Arabidopsis bằng cách kích hoạt
phiên mã thông qua liên kết với các trình tự DRE/CRT trong các promoter
điều khiển các gen mục tiêu phản ứng với các stress.


15


Cho đến nay, nhiều DREB cảm ứng stress đã được phân lập từ nhiều loại
cây trồng, bao gồm các loài thực vật hai lá mầm, như cây cải dầu (Brassica
napus) và cà chua (Solanum lycopersicum) [73], các cây một lá mầm như ngô
[134], [135], lúa [42], lúa mạch [187] và thậm chí từ cây rêu [93]. Sự tồn tại của
những DREB cảm ứng với stress ở các loài thực vật khác nhau đã chỉ ra tầm
quan trọng của trình tự cis DRE/CRT và DREBs trong phản ứng stress của thực
vật trên cạn.
1.1.3.2. Hoạt động của các phân họ DREB và ERF
Phân tích chi tiết các điểm liên kết của DREB1A và DREB2A đã cho thấy,
các protein này có ái lực cao nhất đối với trình tự A/GCCGAC của DRE [148].
Hơn nữa, DREB1A có ái lực mạnh với A/GCCGACNT và DREB2A có ái lực
mạnh với ACCGAC [104], [146]. Những liên kết chặt chẽ này đã được xác nhận
bằng kết quả phân tích các promoter hoạt hóa biểu hiện các gen DREB trong cây
chuyển gen [104], [146]. Ngược lại, năm phân họ protein ERF có ái lực lớn nhất
với hộp (GCC) của trình tự AGCCGCC trong ERE [46]. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, TINY thuộc phân nhóm A-4 của phân họ DREB có thể liên kết với
cả DRE và hộp (GCC) [163]. Một phân nhóm protein A DREB2 (A-2) từ lúa
mạch (HvDRF1) cũng cho thấy ái lực mạnh với TT/AACCGCCTT [31]. Protein
ABI4 từ cây ngô và cây Arabidopsis thuộc về phân nhóm A-3, có liên kết với
yếu tố ghép nối CE1 (Coupling Element 1) là các trình tự CACCG và CCAC
[83], [120].
1.1.3.3. Hoạt động của phân nhóm DREB2
Vai trò của nhân tố phiên mã DREB2 trong điều kiện thiếu nước và nhiệt độ cao
Trong cây Arabidopsis, gen DREB2A và gen DREB2B được cảm ứng bởi
tình trạng mất nước, mặn và nhiệt độ cao [116], [147] (Hình 1.3), trong khi
DREB2C được kích hoạt chậm hơn bởi nhiệt độ cao so với DREB2A hoặc
DREB2B [91]. Các gen DREB2C, DREB2D và DREB2F cảm ứng với mặn và


16


DREB2E phản ứng với ABA, mặc dù biểu hiện của chúng là rất yếu [148]. Vì vậy,
DREB2A và DREB2B dường như là các DREB2 liên quan chính đến tình trạng
biểu hiện gen cảm ứng mất nước thông qua trình tự DRE/CRT và độc lập với
ABA [116], [148]. Ngược lại với các gen DREB1/CBF, sự biểu hiện mạnh của
DREB2A gây ra những thay đổi không đáng kể trong sinh trưởng của thực vật,
trong biểu hiện gen hoặc khả năng chịu đựng stress [94]. Sakuma và cs (2006)
cho rằng, DREB2A có một vùng điều hòa âm tính (NRD) tiếp giáp điểm liên kết
với DNA và tạo thành một phức hợp hoạt động chủ yếu là DREB2A CA. Cây
chuyển gen có DREB2A CA thường biểu hiện còi cọc, tăng khả năng chịu hạn và
chịu mặn nhưng không có khả năng chịu lạnh [146]. Nhiều gen cảm ứng với
tình trạng mất nước, chẳng hạn như gen mã hóa protein LEA được biểu hiện
trong các cây chuyển gen. Ngoài ra, nhiều gen cảm ứng với nhiệt độ cao cũng
được điều chỉnh và thực tế cây chuyển gen thể hiện tính kháng với các sốc nhiệt
[147]. Những thể đột biến gen DREB2A có biểu hiện làm giảm một phần của sự
mất nước hoặc sốc nhiệt, điều đó cho thấy, DREB2A đóng vai trò quan trọng
trong biểu hiện các gen cảm ứng với mất nước và sốc nhiệt [147] (Hình 1.3).
Hoạt động điều hòa sau phiên mã của DREB2
Điều hòa sau phiên mã của DREB2A có liên quan đến sự ổn định của
protein (Hình 1.3). Vùng NRD trong DREB2A là một trình tự giàu amino acid
serine/threonine ưa nước và tạo thành một chuỗi PEST, đây là một loại protein
không ổn định được tìm thấy ở sinh vật nhân chuẩn [142], [145]. Trong điều
kiện không có stress, protein huỳnh quang xanh GFP (Green fluorescence
protein) ở nhân liên kết với DREB2A CA được tích lũy ổn định hơn so với GFP
liên kết với DREB2A [146].
Theo Qin và cs (2008), các protein DRIP1 và DRIP2 đã được phân lập,
tương tự như enzyme RING E3 ligase, nó tương tác với DREB2A trong nhân
cũng tương tự như chất môi giới ubiquitin của DREB2A. Biểu hiện mạnh của



17

DRIP1 đã làm chậm lại biểu hiện phản ứng mất nước của các gen chức năng.
Ngược lại, phản ứng mất nước của các gen chức năng được tăng cường đáng kể
ở cả hai thể đột biến drip1 và drip2. Ngoài ra, có sự tích lũy ổn định GFP liên
kết với DREB2A trong nhân của hai thể đột biến drip1 và drip2 ở cây không
chuyển gen trong điều kiện bình thường hoặc có chất ức chế proteasome. Vì vậy,
có giả thuyết cho rằng DRIP1 và DRIP2 điều hòa âm tính biểu hiện gen cảm ứng
mất nước bằng cách tạo điều kiện cho ubiquitin hoạt động và làm mất chức năng
của DREB2A [136] (Hình 1.3).
Phosphoryl hóa được xem như là một cơ chế điều hòa sau phiên mã đối với
PgDREB2A, đó là một protein thuộc phân nhóm DREB2 được phân lập từ thực
vật thân cỏ như cây Pennisetum glaucum (thuộc phân họ kê) [11]. Toàn bộ dịch
chiết của tế bào cây P. glaucum có thể phosphoryl hóa một protein tái tổ hợp
PgDREB2A ở trong Escherichia coli. Sự phosphoryl hóa thường xảy ra tại
threonine dư, làm giảm ái lực liên kết của các protein PgDREB2A với trình tự
DRE/CRT. Mặc dù vị trí phosphoryl hóa chưa được xác định, song việc phát
hiện này cho thấy sự phosphoryl hóa như là một cơ chế điều hòa sau phiên mã
của các DREB2. Trong thực vật thân cỏ, DREB2 điều hòa qua nhiều bước. Các
DREB2 cảm ứng với các stress trong thực vật thân cỏ được chia thành hai
nhánh: OsDREB2A và OsDREB2B [107]. Cơ chế điều hòa này đã được tìm thấy
ở các gen trong nhánh thứ hai của lúa mạch (HvDRF1) [187], lúa mì (WDREB2)
[43], ngô (ZmDREB2A) [134] và lúa (OsDREB2B) [107]. Những gen này có hai
loại: Sao chép nhưng không hoạt động do có một codon kết thúc trước vùng liên
kết với DNA và sao chép hoạt động mà có thể mã hóa một protein có chiều dài
đầy đủ. Nói chung, loại sao chép không hoạt động được thể hiện dưới điều kiện
không có stress. Sao chép hoạt động để cảm ứng với các tín hiệu stress cao hơn
so với sao chép không hoạt động. Hiện tượng điều hòa qua nhiều bước đối với
các gen DREB2 trong các loài thực vật thân cỏ có thể cho phép cảm ứng với



18

stress nhanh chóng bằng cách bỏ qua các bước kích hoạt của các chất hoạt hóa
DREB2 hoặc cung cấp trước một lượng của mRNA DREB2s.
DREB2 với cảm ứng với sốc nhiệt
Trong cây Arabidopsis, DREB2A là một nhân tố phiên mã trong cảm ứng
với sốc nhiệt. Khi gặp điều kiện nhiệt cao, gen DREB2A nhanh chóng biểu hiện
và kích hoạt nhiều gen cảm ứng sốc nhiệt, chẳng hạn như các nhân tố phiên mã
và môi giới phân tử. Biểu hiện trực tiếp của các thể đột biến gen DREB2A làm
giảm biểu hiện của các gen này và rất nhạy cảm với sự thay đổi đột ngột về nhiệt
độ [147]. Một trong những gen đích quan trọng của DREB2A là HsfA3, một
thành viên của nhóm HSF, gồm có 21 thành viên trong cây Arabidopsis [122].
Biểu hiện mạnh của HsfA3 là sẽ kích hoạt cho nhiều gen cảm ứng sốc nhiệt,
trong khi sự gián đoạn hoạt động của gen HsfA3 làm giảm phản ứng của các gen
cảm ứng sốc nhiệt và giảm khả năng chống sốc nhiệt [150], [189]. Các báo cáo
gần đây cho thấy, sự tác động của gen DREB2A chỉ ức chế một nhóm các gen
HsfA1 [85] (Hình 1.3).
Hiện nay, có ý kiến cho rằng, nhiệt độ cao kích hoạt mạnh các protein
HsfA1, còn gen HsfA2 gây nên sự phiên mã của DREB2A và là một nhân tố
phiên mã quan trọng [151]. DREB2A sau đó kích hoạt gen HsfA3 và các protein
HsfA3 biểu hiện để tiếp tục tác động các gen chức năng (Hình 1.3). Hoạt động
sao chép của gen OsDREB2B ở cây lúa sẽ hiển thị một mô hình biểu hiện tương
tự như của gen DREB2A dưới điều kiện nhiệt độ cao [107] và một số gen HSF
trong cây lúa có DRE/CRT, và có thể gặp ở hầu khắp thực vật hạt kín.
Chức năng của DREB2 trong điều kiện sốc nhiệt và hạn
Hạn và nhiệt độ cao gắn liền với những điều kiện stress của môi trường tự
nhiên và thường xảy ra đồng thời [110]. Sự tác động đồng thời của hạn và nhiệt
độ cao ảnh hưởng đến sinh trưởng của các cây trồng nhiều hơn những stress đơn
lẻ [110], [143], [144]. Về mặt sinh trưởng, phân tích sự phiên mã và trao đổi chất



19

ở cây thuốc lá, cây Arabidopsis đã chỉ ra rằng, phản ứng của cây đối với sự kết
hợp của nhân tố hạn và nhiệt độ cao một phần có sự chồng chéo lên nhau, nhưng
rõ ràng những chồng chéo này nhằm chống lại stress đơn lẻ [143], [144]. Gen
DREB2A không chỉ được cảm ứng bởi hạn hay nhiệt độ cao đơn lẻ mà còn bởi
sự kết hợp của hạn và nhiệt độ cao [144], do đó các gen DREB2 đóng vai trò
trong việc điều hòa biểu hiện gen dưới sự tác động đồng thời của hạn và nhiệt độ
cao lên thực vật.
1.1.3.4. Mối quan hệ về chức năng giữa DREB1/CBF, DREB2 và các nhân tố
phiên mã khác
Sự khác biệt về đặc tính liên kết của DREB1A/CBF3 và DREB2A với
DRE/CRT có thể là chìa khóa để điều hòa các gen trong cây Arabidopsis đối với
các stress cụ thể. Trong cây Arabidopsis, sự biểu hiện mạnh của các gen
DREB1/CBF đã cải thiện khả năng chịu hạn và lạnh [42], [77], [135]. Ngược lại,
sự biểu hiện mạnh của các gen DREB2 tăng cường đáng kể khả năng chịu hạn
nhưng không cải thiện khả năng chịu lạnh [134], [146]. Maruyama và cs (2009)
chứng minh rằng, các gen chức năng được kích hoạt bởi DREB1A/CBF3 và
DREB2A CA chịu tác động một phần sự kết hợp của các stress. Tuy nhiên, các
gen chức năng cụ thể lại tương ứng với từng loại protein DREB. Gen mã hóa
enzyme để chuyển hóa carbohydrate chịu tác động của DREB1A, trong khi gen
mã hóa những chất môi giới phân tử chịu tác động của DREB2A CA [105].
Về mặt chuyển hóa cho thấy, mô hình tích lũy chất chuyển hóa là giống
nhau giữa các cây biểu hiện mạnh gen DREB1A ở cây chịu lạnh, cũng như giữa
cây biểu hiện mạnh gen DREB2A CA ở cây chịu hạn [105]. Điều này cho thấy,
những sự khác biệt trong tích lũy chất chuyển hóa đã gây ra sự khác biệt trong
khả năng chịu stress của thực vật. Maruyama và cs (2004), Sakuma và cs (2006)
đã chứng minh rằng, DREB1A có ái lực mạnh với A/GCCGACNT và DREB2A

có ái lực mạnh ACCGAC cả ở điều kiện in vitro và ở cây trồng. Bởi vì, tác động
lạnh đối với thực vật gây ra tình trạng mất nước của tế bào, tác động tới hệ thống


20

bảo vệ chung giữa phản ứng stress lạnh và mất nước. Chẳng hạn như protein
LEA, được quy định thông qua một trình tự DRE/CRT chung (ACCGACNT) và
được cảm ứng bởi các tín hiệu stress lạnh và mất nước. Ngược lại, các gen hoạt
động trong điều kiện stress cụ thể được quy định bởi trình tự DRE/CRT riêng.
Như vậy, sự khác biệt nhỏ về các trình tự DRE/CRT cùng với sự điều hòa của
một số gen phân họ DREB có thể cải thiện sức sống của cây chống lại điều kiện
bất lợi của ngoại cảnh [104], [146].

Hình 1.3. Điều hòa phiên mã và sau phiên mã của DREB2A trong cây
Arabidopsis [109]
Về sự tương tác của DREB1/CBF và DREB2 với các nhân tố phiên mã
khác, DRE/CRT tương tác với các trình tự cis và DREB tương tác với các nhân


21

tố phiên mã khác (Hình 1.3). Trong promoter RD29A, DRE/CRT có một mối
quan hệ chặt chẽ với ABRE và có chức năng như một yếu tố liên kết của ABRE
[117]. Dưới sự điều khiển của promoter RD29A, đoạn có chứa cả DRE/CRT và
ABRE tăng cường biểu hiện đồng thời của DREB1A/CBF3 hoặc DREB2A với
AREB1/ABF2 hoặc AREB2/ABF4 [117]. Các protein DREB1A, DREB2A và
DREB2C tương tác với các protein AREB1/ABF2 và AREB2/ABF4 ở nấm men
và trong ống nghiệm [89]. Tương tự, DRE/CRT và các các yếu tố sốc nhiệt - HSEs
(Heat shock elements) phối hợp hoạt động trong promoter để điều khiển biểu

hiện của một loại protein sốc nhiệt có kích thước nhỏ ở phôi cây hướng dương
[41]. Protein HaDREB2 và HaHSFA9 liên kết với promoter và gián tiếp điều
khiển sự phiên mã của các gen đích. Trong ống nghiệm, HaDREB2 và
HaHSFA9 tương tác với nhau, tại các miền AP2/ERF của HaDREB2 và ở đầu C
của HaHSFA9 có chứa các miền kích hoạt tương ứng, được xác định là vùng
tương tác cho mỗi protein.
1.2. NHÂN TỐ PHIÊN MÃ VÀ TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG CHỊU HẠN
CỦA THỰC VẬT

1.2.1. Nâng cao khả năng chống chịu các stress bằng kỹ thuật biểu hiện
mạnh nhân tố phiên mã DREB ở thực vật
Biểu hiện mạnh những gen điều hoà phiên mã của các gen chức năng có
khả năng đáp ứng hạn là một cách tiếp cận đầy hứa hẹn trong sự phát triển các
giống cây trồng chống chịu hạn và ưu việt hơn kỹ thuật chuyển gen chức năng
đơn lẻ. Vì vậy, việc tăng cường khả năng điều tiết của một nhân tố phiên mã
quan trọng kích thích sự biểu hiện của nhiều gen mục tiêu kiểm soát các đặc tính
tương quan là rất quan trọng. Nhiều gen giữ vai trò quan trọng đã được xác định
có liên quan đến mạng lưới điều hòa trong điều kiện stress phi sinh học [155].
Có thể nói rằng, nhóm gen TF liên quan đến stress phi sinh học, đặc biệt là hạn
và lạnh được nhận thấy rõ nhất là các gen DREB [56], [134], [147]. Nhiều gen


22

cảm ứng rối loạn thẩm thấu chứa một yếu tố đáp ứng hạn (DRE) bảo thủ trong
promoter của chúng [156], [166]. Một số cDNA mã hóa các protein gắn DRE,
DREB1A và DREB2A đã được phân lập từ cây Arabidopsis, thể hiện sự ràng
buộc và kích hoạt phiên mã của gen chứa trình tự DRE [94]. Trong thực tế,
nhiều nghiên cứu về biểu hiện mạnh của nhân tố phiên mã DREB cảm ứng với
stress đã được tìm thấy để kích hoạt sự biểu hiện của các gen mục tiêu có trình tự

DRE trong các promoter của chúng và kết quả cho thấy cây chuyển gen có khả
năng chống chịu stress tốt hơn cây không chuyển gen (Bảng 1.1). Một ứng dụng
rộng rãi hiện nay là các DREB1A được định hướng bằng một promoter
CaMV35S hoặc promoter cảm ứng với khô hạn RD29A đều biểu hiện mạnh. Với
cách tiếp cận này, các DREB1A đã kích hoạt biểu hiện của nhiều gen chống chịu
stress trong điều kiện phát triển bình thường và kết quả là các thế hệ cây chuyển
gen đã được tăng cường khả năng chịu hạn, lạnh và mặn [77]. Gen DREB1A có
thể biểu hiện tốt ở nhiều cây trồng khác nhau; sự biểu hiện mạnh các AtDREB1A
trong cây thuốc lá, cây lúa mì, cây lúa, cây lạc đã chứng minh khả năng chịu hạn
tốt hơn và tăng cường sự biểu hiện của gen LEA ít nhất là trong điều kiện nhà
kính [16], [78], [131].
Gần đây, dòng lạc chuyển gen DREB1A phân lập từ cây Arabidopsis
dưới tác động của promoter cảm ứng với stress hạn đã biểu hiện tốt, tích lũy
đáng kể một số enzyme quan trọng so với cây không chuyển gen trong điều kiện
gây hạn nhân tạo, những enzyme này không có mối liên hệ nào với hiệu quả
thoát hơi nước [17]. Cây lúa chuyển gen DREB1A phân lập từ cây Arabidopsis
đã biểu hiện tốt khả năng chịu hạn, chịu mặn, chịu được lạnh và sự tích lũy
nồng độ các chất hòa tan cao, như các prolin tự do và các chất đường hòa tan
khác nhau. Kết quả biểu hiện các gen DREB từ cây Arabidopsis ở những loài
cây trồng khác cũng được chứng minh như lúa mì, lúa mạch, đậu tương, cà chua,
thuốc lá, dâu tây, lúa, cải dầu, khoai tây và các loại cây thân cỏ khác [35],
[92], [113].


23

Bảng 1.1. Các gen mã hóa nhân tố phiên mã được sử dụng trong kỹ thuật chuyển
gen nhằm tăng cường khả năng chịu hạn của thực vật
Gen


Tác động gen

DREB2/DREB3 Nhân tố phiên mã

Loài

Kiểu hình

Lúa mì và
Chịu hạn và băng giá
lúa mạch

Tài liệu tham khảo
[113]

ABF3

Nhân tố phiên mã

Arabidopsis Chịu hạn

[9]

OsWRKY45

Nhân tố phiên mã

Arabidopsis Chịu hạn

[138]


ABP9

Nhân tố phiên mã bZIP Arabidopsis

Cải thiện quang năng trong
điều kiện hạn hán

[194]

OCPI1

Nhân tố phiên mã

Lúa

Chịu hạn

[70]

TaSrg6

Nhân tố phiên mã

Arabidopsis Chịu hạn

[168]

HvCBF4


Nhân tố phiên mã

Lúa

Chịu hạn, mặn, băng giá

[125]

DREB2A

Nhân tố phiên mã

Arabidopsis Chịu hạn và nhiệt độ cao

[134]

CAP2

Nhân tố phiên mã

Thuốc lá

Chịu hạn và mặn

[159]

DREB1 hoặc
OsDREB1

Nhân tố phiên mã trong

Lúa
điều kiện phi stress

Chịu hạn, mặn và lạnh với
tốc độ tăng trưởng giảm

[72]

DREB2A

Nhân tố phiên mã

Arabidopsis Chịu hạn

HsfA2

Nhân tố phiên mã

Arabidopsis

Chống chịu với các stress
môi trường

[121]

ABF3

Nhân tố phiên mã

Lúa


Chịu hạn

[126]

DREB1A

Arabidopsis protein 1
gắn DRE

Lúa

Chịu hạn và mặn

[126]

ZmDREB1A

Nhân tố phiên mã

Arabidopsis Chịu hạn

[135]

DREB1C/CBF2 Nhân tố phiên mã

Arabidopsis Chịu hạn

[123]
[170]


[146]

NAC

Nhân tố phiên mã
NAM/ATAF/CUC

Arabidopsis Chịu hạn và chịu mặn

DREB1A

Nhân tố phiên mã

Thuốc lá

Chịu hạn và lạnh

[78]

DREB1A

Nhân tố phiên mã

Lúa mì

Làm chậm quá trình héo úa
trong điều kiện stress hạn

[131]


OsDREB1A

Nhân tố phiên mã

Arabidopsis Chịu hạn, mặn, băng giá

[42]

CBF4

Nhân tố phiên mã

Arabidopsis Chịu hạn và băng giá

[57]

ABF3/ABF4

Nhân tố phiên mã
finger proteins

Arabidopsis Chịu hạn

[76]

DREB

Nhân tố phiên mã


Arabidopsis Chịu hạn, lạnh

[77]


24

Một số nghiên cứu đã cho thấy, sự biểu hiện của các gen cấu trúc CBF ở
cây trồng chuyển gen đã thể hiện rõ khả năng chịu stress cao. Biểu hiện mạnh
CBF3/DREB1A và ABF3 của cây Arabidopsis trong cây lúa chuyển gen cho thấy
khả năng chịu hạn và chịu mặn, nhưng khả năng chịu lạnh kém. Điều này có thể
cho thấy, bằng cách kích hoạt sự biểu hiện gen mục tiêu 12 (CBF3/DREB1A) và
gen mục tiêu 7 (ABF3) trong điều kiện bình thường và gen bổ sung 13 và 27 đã
được kích hoạt trong điều kiện hạn mà không làm chậm sự phát triển hoặc các
hiệu ứng kiểu hình có thể quan sát thấy [126].
Những gen có thể biểu hiện trong điều kiện stress sẽ giúp cây trồng
thích nghi với điều kiện stress phi sinh học [177]. Các gen mục tiêu của
DREB1A/CBF3 bao gồm: Các gen mã hóa TFs, phospholipase C, các protein
vận chuyển đường, sự trao đổi chất liên quan đến protein carbohydrate, protein
LEA, protein KIN (protein cảm ứng lạnh), protein tổng hợp các chất hòa tan và
các chất ức chế proteinase [44]. Biểu hiện mạnh của DREB1A/CBF3 trong cây
Arabidopsis chuyển gen cho thấy những thay đổi trong biểu hiện của một số gen
cảm ứng stress và những thay đổi này dẫn đến làm tăng khả năng chịu lạnh, mặn
và hạn [104], [126]. Có thể do cây Arabidopsis có khả năng thích nghi với lạnh
đã được hình thành trong quá trình tiến hóa khác với cây lúa không trải qua sự
thích nghi lạnh [73]. Hơn nữa, gen CBF4 từ cây lúa mạch dường như có hiệu
quả hơn DREB1A/CBF3 từ cây Arabidopsis trong việc nâng cao tính chống chịu
stress ở cây lúa biến đổi gen [125]. Những dữ liệu này cho thấy, sự khác biệt về
chức năng giữa các thành viên trong phân họ DREB/CBF và làm nổi bật sự khác
biệt trong khả năng chống chịu các stress giữa các loài cây trồng biến đổi gen

khác nhau. Những khác biệt chức năng có thể là do tính phức tạp, tính chất của
các gen mục tiêu có mặt trong hệ gen và khả năng của các nhân tố phiên mã để
kích hoạt hay ức chế mỗi gen mục tiêu. Các gen CBF rõ ràng đã sản sinh ra yếu
tố kháng stress phi sinh học bằng cách điều tiết các con đường tự nhiên đáp ứng


25

các stress, tạo ra sự thích nghi về mặt sinh lý, cho phép các tế bào thực vật đối
phó với rối loạn về thẩm thấu [44], [104].
1.2.2. Hiệu quả đa hiệu trong cây chuyển gen
Một tác dụng không mong muốn của các biểu hiện mạnh ở một nhân tố
phiên mã là đôi khi ảnh hưởng tiêu cực đến sự sinh trưởng và phát triển của cây
như gây độc hoặc làm chậm quá trình phát triển và có thể có một số hiệu ứng đa
hiệu khác [72], [94]. Biểu hiện mạnh của các nhân tố phiên mã DREB1A/CBF
dẫn đến tình trạng chậm phát triển của cây trồng biến đổi gen. Điều này có thể là
do sự nhạy cảm của các loại tế bào nhất định đối với sự biểu hiện quá mạnh của
một gen nào đó. Tuy nhiên, sự biểu hiện cấu trúc DREB1A/CBF3 ở cây
Arabidopsis và OsDREB1F trong cây lúa không dẫn đến việc ức chế sự sinh
trưởng cũng như thay đổi kiểu hình [126], [182]. Tương tự, không quan sát được
ảnh hưởng đa hiệu nào biểu hiện ra bên ngoài của nhân tố phiên mã ABF3 bZIP
đối với cây lúa [126]. Sự biểu hiện mạnh của AtDREB2A sau khi xóa miền điều
hòa âm tính (xóa một vùng giữa vị trí 136 và 165) sẽ điều chỉnh các gen cảm ứng
với hạn và cải thiện được khả năng chịu hạn của cây Arabidopsis [148].
Tuy nhiên, trong trường hợp các tác động đa hiệu được quan sát, vấn đề
này có thể khắc phục bằng cách lựa chọn một promoter phù hợp, chẳng hạn một
promoter cảm ứng với stress RD29A [77], [78]. Vì vậy, trong kỹ thuật chuyển
gen, việc hạn chế những tác động có hại của các nhân tố phiên mã đối với cây
trồng là đặc biệt quan trọng. Cũng tương tự như vậy, các con đường trao đổi chất
có thể bị ảnh hưởng bởi các hoạt động của nhân tố phiên mã hoặc gián tiếp hoặc

là một loạt các phản ứng trong chuyển hóa. Cây trồng chuyển gen DREBs/CBFs
biểu hiện tốt khả năng tích lũy đường hòa tan và prolin tự do như là một phần
của phản ứng khử nước mà các nhân tố phiên mã gây ra [53], [72]. Gần đây,
Abdeen và cs (2010) bằng kết quả phân tích microarray ở cây Arabidopsis
chuyển gen đã chứng minh rằng, sự biểu hiện mạnh của nhân tố phiên mã ABF3
dẫn đến các tác động của ABF3 được kiểm soát chặt chẽ mà không biểu hiện bất


×