Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tìm hiểu hoạt động chăn nuôi bò thịt tại xã Lệ Chi,huyện Gia Lâm, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 17 trang )

Danh sách thành viên nhóm 05 – sáng thứ 4, tuần 13-17, năm 2016.
STT

HỌ VÀ TÊN

MÃ SV

1

PHẠM THỊ LIÊN THẢO

593343

2

NGUYỄN KIỀU TRANG

597035

3

PHẠM TRỌNG TUẤN

593263

4

LÒ THỊ XUÂN

593269



1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết
- Chăn nuôi bò thịt ở nước ta không phải là ngành chăn nuôi truyền
thống, tuy nhiên trong vài năm gần đây loại hình chăn nuôi này đã
phát triển rất nhanh chóng với các bước cải tiến về giống và phương
thức chăn nuôi. Vào những năm thập iên 90 thế kỷ trước chăn nuôi bò
thịt bắt đầu chuyển đổi chăn nuôi bò thịt sang phương thức chăn nuôi
hàng hóa góp phần nâng cao tổng sản phẩm chăn nuôi, nâng cao thu
nhập cho người dân, tạo bước đột phá mới trong ngành sản xuất chăn

-

nuôi.
Hiện nay đời sống của người dân ngày càng được cải thiện do đó nhu
cầu về thịt bò cũng ngày càng tăng. Tuy nhiên do những hạn chế về
diện tích chăn thả đang ngày càng bị thu hẹp. Ngành chăn nuôi bò thịt
đã và đang phát triển một số phương thức chăn nuôi khác nhau cho
phù hợp với điều kiện của từng nông hộ cũng như tận dụng điều kiện

-

thuận lợi của địa phương.
Tính đến tháng 6/2016, đàn bò thịt, bò sinh sản của Hà Nội có 125.663
con, tăng 1.031 con, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm 2015. Sản lượng
thịt bò đạt 5.034 tấn (tăng 0,5%). Cơ cấu giống bò thịt: trên 90% bò
Zebu (lai các giống Brahman, Red Sindh, BBB, Argus…), bò cóc dưới

-


10%
Chăn nuôi bò thịt tập trung ở các huyện Ba Vì, Sóc Sơn, Chương Mỹ.
Một số xã chăn nuôi quy mô lớn như Minh Châu (Ba Vì); Văn Đức (Gia
Lâm); Lệ chi ( Gia Lâm) ;Minh Trí (Sóc Sơn), số lượng trên 2.000 con. Tỷ

-

lệ lai tạo giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo trên 61,2%.
Bên cạnh đó, Hà Nội còn phát triển 19 xã chăn nuôi bò thịt trọng điểm
và 97 hô nuôi bò hướng thịt quy mô lớn ngoài khu dân cư. Nhờ đó, thu
nhập từ bán bò thịt tăng từ 3-5 triệu đồng/con, bán giống từ 2,5-3 triệu


đồng/con so với giống bò địa phương cho lai tạo giống bằng phương
pháp nhảy trực tiếp. Đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả chăn nuôi,
người dân yên tâm đầu tư sản xuất. Thu nhập của người chăn nuôi từ
bán con giống, bán thịt trên địa bàn thành phố tăng thêm từ 170-210

-

tỷ đồng/năm.
Qua đó đã tạo thêm việc làm cho người lao động ở nông thôn, nâng
cao thu nhập cho dẫn tinh viên làm công tác thụ tinh nhân tạo bò,
trung bình từ 3-5 triệu đồng/tháng. Một số dẫn tinh viên có thu nhập

-

cao từ 8-10 triệu đồng/tháng.
Với trên 80% dân số sống bằng thu nhập từ sản xuất nông nghiệp nên
những năm qua xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm đã tích cực triển khai và

thực hiện hiệu quả nhiều mô hình phát triển kinh tế nông nghiệp có
tính bền vững, điển hình là mô hình nuôi bò thịt. Là vùng đất nằm ở
Nam sông Đuống, người dân xã Lệ Chi khai thác triệt để lợi thế của xã
ven đê có đất bãi và mái đê tạo thành bãi chăn thả tự nhiên cung cấp
cỏ để phát triển mạnh nghề nuôi bò thịt. Từ năm 2001 đến nay, xã đã
xây dựng Đề án phát triển chăn nuôi bò thịt, và trong 5 năm trở lại
đây, 100% số bò giống trong xã đã được lai tạo cho năng suất, chất

-

lượng cao, như giống bò lai sin, giống bò BBB, Đrốc Macster, Brécman.
Hiện nay toàn huyện Gia Lâm có 96 trang trại chăn nuôi,trong sô đó
trang trại chăn nuôi bò thịt chiếm khoảng 17%. Mặc dù số lượng bò và
sản lượng bò tăng lên rõ rệt,nhưng phần lớn các hộ chăn nuôi bò thịt
trong huyện vẫn là chăn nuôi nhỏ lẻ trong khu dân cư. Và hiện toàn xã
Lệ Chi có xấp xỉ 900 hộ dân nuôi khoảng 200 con bò thịt,trong đố thôn
Chi Đông nuôi 1000 con. Hộ nuôi ít nhất cũng 2 hoặc 3 con, hộ nuôi

-

nhiều từ 10 đến 16 con, cho thu nhập hang tram triệu một năm.
Việc chăn nuôi bò đã đem lại thu nhập cao cho các hộ nông dân trong
xã. Tuy nhiên về khía cạnh môi trường của ngành chăn nuôi chưa được
quan tâm đúng mực. Với quy mô chăn nuôi nhỏ lẻ chất thải sinh ra
chưa được quản lý hợp lý gây tác hại xấu đến môi trường xung quanh
bởi các loại chất thải rắn, lỏng và khí phát sinh ngày càng nhiều và
không được xử lý triệt để. Vì vậy cần phải nghiên cứu quy trình sản
xuất hiện trạng quản lý và đánh giá hiện trạng môi trường do chất thải



chăn nuôi gây ra để góp phần phát triển chăn nuôi theo hướng bề
vững.
 Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và các vấn đề bức xúc của môi trường
chúng tôi tiến hành đề tài “ Tìm hiểu hoạt động chăn nuôi bò thịt tại xã

-

Lệ Chi,huyện Gia Lâm, Hà Nội.”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu quy trình chăn nuôi bò thịt.
Khảo sát môi trường và đánh giá hiện trạng quản lý chất thải của khu

-

vực.
Đề xuất các biện pháp cải thiện môi trường khu vực nhằm phát triển

chăn nuôi bền vững.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thu thập thông tin
- Thu thập thông tin thứ cấp: thu thập các thông tin liên quan như: điều
kiện kinh tế - xã hôi, thị trường tiêu thụ,… tại xã Lệ Chi – Gia Lâm – Hà
Nội qua các nguồn sẵn có bao gồm: báo, mạng internet, các đề tài

-

nghiên cứu liên quan, số liệu tại tổng cục thống kê chăn nuôi Việt Nam.
2.2. Điều tra bảng hỏi
Điều tra tổng số 24 hộ gia đình nuôi bò thịt, nhóm thực hiện điều tra
ngẫu nhiên 4 phiếu đối với 4 hộ gia đình nuôi bò thịt thuộc thôn Chi


-

Đông, xã Lệ Chi, Gia Lâm, Hà Nội.
Điều tra tình hình chăn nuôi bò thịt , hiện trạng phát sinh và quản lý

-

chất thải, nhận thức của người dân trong bảo vệ môi trường, ....
2.3. Khảo sát hiện trường
Đối tượng nghiên cứu: hoạt động chăn nuôi bò thịt
Nội dung nghiên cứu: thực trạng hoạt động chăn nuôi bò thịt và thực

-

trạng quản lý chất thải chăn nuôi bò thịt tại xã Lệ Chi.
Phương pháp quan sát, đánh giá: quan sát, ghi chép các vấn đề liên
quan đến hiện trạng môi trường của khu vực nghiên cứu.
2.4. Xử lý số liệu
- Phân tích thống kê mô tả để mô tả những đặc tính cơ bản
của dữ liệu thu thập được và biểu diễn dưới dạng bảng biểu, bảng
số liệu tóm tắt về dữ liệu
- Trình bày đồ thị bảng biểu.
- Sử dụng phần mềm Excel để xử lý các số liệu thô thành dữ

liệu.
3. CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chăn nuôi



 Quy mô chăn nuôi
Qua điều tra phỏng vấn 24 hộ gia đình chăn nuôi bò thịt tại đội 4
thôn Chi Đông, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, TP Hà Hội ta nắm được một
số thông tin cơ bản cho bởi bảng sau:

Bảng 1: Thông tin chung về thu nhập và sử dụng đất của 24
hộ gia đình ở đội 4 thôn Chi Đông, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, TP
Hà Nội năm 2016

Giá trị

Thu nhập
của hộ gia
đình (triệu
đồng/năm)
Tổn
Tổng
g thu thu
nhập nhập
từ bò

Min

10

25

Diện tích đất của gia đình
(m²)
Tổng

diện
tích đất
của gia
đình
(m²)
90

Nhà
ở (m²)

Chăn
Vườ
nuôi
n cây
(m²)
(m²)

30

0

0

340

220

480

Kh

ác
(m²)

0

4
Max
SD
Avera
ge
Tỷ lệ
(%)

15
00
31
5.62
29
5.33

292.
05
155.
19

10

52.5

0


-

1500

900

49
0

5

182.9
6

81.0
4

329.5
4

8

152.
08

100

52.6
63.2

5

46.1
5

94.8

97.
8
31
45.4
72.
1
97

19.1
9

13.7
8

22.
14

Từ bảng trên ta thấy hơn một nửa thu nhập của các hộ gia

đình là từ hoạt động chăn nuôi bò thịt trung bình 155.19 triệu
đồng/năm ( chiếm 52.55% tổng thu nhập ) . Hộ có thu nhập cao



nhất là 1500 ( triệu đồng/năm ) . Được biết hộ bắt đầu nuôi bò
thịt sớm nhất là từ năm 1974 , nuôi muộn nhất là từ năm 2014.
Cho thấy việc hình thành chăn nuôi bò thịt quy mô hộ gia đình ở
đây có từ rất lâu và ngày càng phát triển, đem lại hiệu quả kinh
tế cao. Diện tích dành cho chăn nuôi không lớn ( chiếm 19.19%
tổng diện tích đất), còn phần lớn dành cho nhà ở ( chiếm 58,24 %

-

tổng diện tích đất).
Kết quả điều tra cho thấy rõ hơn ở khu vực này người dân chủ yếu chăn
nuôi bò thịt, còn các loại vật nuôi khác chiếm tỷ lệ rất nhỏ . Nên diện
tích dành để chăn nuôi bò thịt cũng nhiều nhất ( chiếm 51.14% diện
tích chăn nuôi ) , cho gà là 26.35%, cho lợn là 20,82%, các loại vật nuôi
khác là 6.13%. Ta có thể thấy rõ hơn qua biểu đồ sau :

 Đặc điểm chuồng trại.

-

Trong những năm gần đây, các hộ chăn nuôi đã có sự đầu tư

về đáng kể trong chăn nuôi, hệ thống chuồng nuôi bò chiếm phần
lớn là bán kiên cố đạt 58.33%, tiếp đó là kiên cố ( chiếm
33.33% ). Tuy nhiên vẫn còn 2 hộ có hệ thống chuồng nuôi là đơn
sơ chiếm 8.34%. Trong 24 hộ chăn nuôi thì chỉ có duy nhất 2 hộ
vẫn sử dụng kiểu cống đất (chiếm 8.33%), 7 hộ sử dụng kiểu
cống xây, hở ( chiếm 29.17% ) còn lại là các hộ sử dụng hệ thống
cống xây, kín ( chiếm 62,5%). Hạn chế được phần lớn nước thải từ
hoạt động tắm, vệ sinh chuồng nuôi phát sinh ra ngoài, giảm nhẹ

mùi hôi thối. Nền chuồng nuôi được các hộ đổ xi măng (chiếm
87.5%), lát gạch (chiếm 8.33%), nền bằng đất và các vật dụng
khác chiếm 4.17%.


Bảng 2 . Đặc điểm hệ thống chuồng trại của các hộ được điều
tra
Đặc điểm

số hộ

tỷ lệ (%)

2

8.34

14

58.33

Kiên cố

8

33.33

Cống đất

2


8.34

7

29.16

15

62.5

0

0

21

87.5

Lát gạch

2

8.34

Khác

1

4.16


Đơn sơ
Hệ thống
chuồng trại

Bán kiên
cố

Cống xây ,
Kiểu cống

hở
Cống
xây ,kín
Xây bằng
đất

Nền chuồng

Đổ xi
măng

 Sự biến động bò thịt năm 2015-2016

-

Theo kết quả điều tra phỏng vấn 24 hộ gia đình chăn nuôi

lợn cho thấy sự biến động bò thịt qua 2 năm 2015-2016 là không
đáng kể, các nông hộ vẫn duy trì số lượng bò đều đều qua các

năm, trung bình số lượng bê đực năm 2015 và năm 2016 là như


nhau, đều là 1 con/năm. Số lượng bê cái trung bình của 2 năm
đều là 0. Trung bình bò thịt cũng k có sự chênh lệch giữa 2 năm
( 4 con/năm). Số lượng bò cái trung bình cũng không thay đổi
( trung bình 1 con/năm)

 Các yếu tố đầu ra đầu vào

-

Kết quả qua điều tra, phỏng vấn 24 hộ gia đình chăn nuôi

bò thịt được biết con giống được mua từ các trại hoặc các hộ gia
đình xung quanh xã, với giá dao động từ 15-16 ( triệu đồng/ con ),
năm 2016 . Các hộ chủ yếu sử dụng nguồn thức ăn là cỏ do nhà
tự trồng được. Ngoài ra các hộ cũng cho bò ăn kèm cám công
nghiệp với giá mua trung bình là 7000 đồng/kg. Bên cạnh đó một
số hộ còn cho ăn thêm cáo ngô (giá mua là 6000 đồng/kg) và
cám gạo.
- Nguồn nước uống, tắm, vệ sinh chuồng trại của các nông hộ
đều là nước giếng khoan, không mất chi phí, lượng nước mỗi hộ
sử dung trung bình trong ngày đạt 2,018m³. Hầu hết các nông hộ
đều cho biết rất ít sử dụng thuốc thú y vì bò là loài khá dễ nuôi
không ha ốm như những loại gia súc khác. Trong việc đảm bảo vệ
sinh chuồng trại đa số các hộ chăn nuôi giữ vệ sinh chuồng trại
sạch sẽ, tần suất rửa chuồng trung bình là 2 lần/ ngày, phun
thuốc khử trùng định kì với sự hỗ trợ của cán bộ thú y xã.
- Được biết thêm, thời gian nuôi bò từ bê cho đến khi xuất

bán dao động trong khoảng 12-13 tháng với giá bán trung bình từ
30-35 triệu đồng/con. Và bò thịt được các lái buôn đến tận nhà
mua.
3.2. Hiện trạng môi trường và quản lý chất thải
 Hiên trạng phát sinh các nguồn thải tại các hộ chăn nuôi
Mô hình DPSIR: hoạt động chăn nuôi bò thịt xã Lệ Chi


HIỆN TRẠNG

ĐỘNG LỰC

ÁP LỰC

- Mức sống
dần được nâng
cao và dân số
ngày càng tăng
dẫn đến nhu
cầu sử dụng
thịt bò cũng
tăng.

- Các chất thải
của bò thịt như:
phân, nước tiểu.

- Không khí xung
quanh trường có mùi
hôi nhẹ, nước đục.


- Thức ăn dư
thừa.

- Hệ thống chuồng trại
chưa đảm bảo vệ sinh.

- Nước thải từ
vệ sinh chuồng
trại, tắm cho
bò.

- Chất thải được thu
gom sử dụng chưa hợp
lý.

- Bò là loại gia
súc dễ nuôi, dễ
chăm sóc.
- Truyền thống
nuôi bò từ thời
ông bà để lại

- Khí dư thừa
hoặc rò rỉ từ
bình Biogas..

- Nước sau biogas từ
các nhà dân xả ra các
mương rãnh ven

đường cuối thôn làm
khu vực có mùi hôi
thối khó chịu.

TÁC ĐỘNG
- Gây mất mỹ
quan khu vực.
- Tạo điều kiên
cho nhiều mầm
mống gây bệnh
phát triển.
- Ảnh hưởng đến
nước sinh hoạt,
tưới tiêu, nguồn
nước ngầm.
- Không khí tại
một số nơi có
mùi khó chịu
ứng nhà kính.


ĐÁP ỨNG
- Quy hoạch dân số, tuyên truyền hướng dẫn người dân phát triển kinh tế bền vững.
- Xây dựng chuồng trại hợp lý, sử lý chất thải đúng cách, nâng cao ý thức bảo vệ môi
trường.
- Thu gom và xử lý chất thải hợp lý, xây dựng bể chứa tập trung cuối hệ thống cống thải.
Chất thải phát sinh từ hoạt động chăn nuôi bò thịt chủ yếu là phân thải
- Khử trùng, vệ sinh chuồng trại thường xuyên hạn chế sự phát triển của các mầm bệnh.
với khối lượng lớn, trung bình mỗi ngày một con bò thải ra khoảng 10 -


-

15 kg phân. Nước thải từ nước tiểu của bò và nước rửa chuồng trại
thường khó kiểm soát và quản lý. Thành phần của nước thải chăn nuôi
bò hầu hết là các chất hữu cơ, vô cơ, vi sinh vật tồn tại ở dạng hoà tan,
phân tán nhỏ hay có kích thước lớn hơn. Đặc trưng ô nhiễm của nước
thải chăn nuôi bò là: ô nhiễm hữu cơ; ô nhiễm N, P và chứa nhiều loại
vi trùng, vi khuẩn gây bệnh....
- Những chất hữu cơ chưa được gia súc đồng hoá, hấp thụ sẽ bài tiết

ra ngoài theo phân, nước tiểu cùng các sản phẩm trao đổi chất
khác.Thức ăn dư thừa cũng là 1 nguồn gây ô nhiễm hữu cơ. Trong
nước thải chăn nuôi, hợp chất hữu cơ chiếm 70 - 80 % gồm protit,
acid amin, chất béo, hydratcarbon và các dẫn xuất của chúng. Hầu
hết là các chất hữu cơ dễ phân huỷ, giàu nitơ, photpho. Các chất vô
cơ chiếm 20 - 30% gồm cát, đất, muối, ure, amonium, muối chlorua,
sulfate… Các hợp chất hoá học trong phân và nước thải dễ dàng bị
phân huỷ. Tùy điều kiện hiếm khí hay kị khí mà quá trình phân huỷ
tạo thành các sản phẩm khác nhau như acid amin, acid béo,
aldehide, CO2, H2O, NH3, H2S. Nếu quá trình phân huỷ có mặt O2
sản phẩm tạo thành sẽ là CO2, H2O, NO2, NO3. Còn nếu quá trình
phân hủy diễn ra trong điều kiện thiếu khí thì tạo thành các sản
phẩm CH4, N2, NH3, H2S, Indol, Scatol… Các chất khí sinh ra do
quá trình phân huỷ kị khí và thiếu khí như NH3, H2S… gây ra mùi
hôi thối trong khu vực nuôi ảnh hưởng xấu tới môi trường không khí.
Nước thải chăn nuôi chứa nhiều loại vi trùng, vi rút và trứng ấu
trùng giun sán gây bệnh. Do đó, loại nước thải này có nguy cơ trở


thành nguyên nhân trực tiếp phát sinh dịch bệnh cho đàn gia súc,

gia cầm đồng thời lây lan một số bệnh cho người nếu không được
xử lý...
-

Theo kết quả từ quá trình khảo sát thực tế thì vẫn còn có các hộ gia
đình thải bỏ trực tiếp phân thải ra môi trường, khi mưa xuống phân
thải hòa loãng theo mưa chảy tràn ra đường đi, ao hồ, kênh mương
gây ảnh hưởng đến môi trường như nước ao hồ có màu đen, mùi hôi,
đường đi trong các ngõ xóm mất mỹ quan gây ô nhiễm…

-

Việc quản lý không tốt chất thải trong chăn nuôi đã dẫn đến sự ô
nhiễm môi trường xung quanh các hộ gia đình có chăn nuôi và
không chăn nuôi gia súc.

 Hiện trạng quản lý chất thải

-

Theo kết quả điều tra ta thấy số hộ có thu gom riêng phân

với nước thải là 11 hộ còn lại 13 hộ không thu gom riêng phân và
nước thải. Trong đó chỉ có 1 hộ là ủ phân, 1 hộ cho xuống hố
phân, 10 hộ sử dụng phân bón cho cây trồng và 12 hộ còn lại cho
xuống biogas.

Biểu đồ thể hiện tỷ trọng các hình thức xử lý
phân


-

Từ biểu đồ ta thấy đa số các hộ chọn phương pháp sử dụng

biogas để xử lý phân bò( 50%). Việc sử dụng biogas khá là hiệu
quả, lượng khí gas sinh ra được sử dụng cho nhiều mục đích như
đun nấu, phát điện, sưởi ấm cho vật nuôi… rất tiện lợi. Tuy nhiên


sử dụng biogas cũng gặp 1 số vấn đề như việc xử lý bã bể biogas
khi bị đầy và nước sau biogas.
Đa số các hộ xử lý bằng cách bón trực tiếp cho cây trồng
hay thải ra môi trường, việc xử lý như vậy đã gây ảnh hưởng đến
môi trường do trong đó còn chứa nhiều hợp chất hữu cơ chưa
phân hủy hết.

Biểu đồ thể hiện các mục đích sử dụng nước thải sau biogas của các
hộ gia đình

- Qua biểu đồ ta thấy đa số hộ gia đình không xử lý nước thải sau
biogas mà thải thẳng ra môi trường(77%). Đây có thể là vấn đề khá
phổ biến hiện nay tại các hộ sử dụng biogas gây ra ảnh xấu tới môi

-

trường, gây phú dưỡng nguồn nước xung quanh.
 Hiện trạng môi trường (đánh giá của người điều tra)
Theo kết quả điều tra nhìn chung hiện trạng môi trường trong khu
vực vẫn còn khá tốt chưa bị ô nhiễm nặng. Qua điều tra trực tiếp tại
các hộ chăn nuôi ta thấy đa số chuồng trại thoáng mát, cao ráo

được xây dựng kiên cố được vệ sinh thường xuyên nên mùi hôi được
giảm đáng kể. Nguồn nước tiếp nhận hơi có màu đục, mùi nhẹ
nhưng nhìn chung môi trường tiếp nhận vẫn đủ khả năng để tự làm
sạch, chỉ trừ 1 số hộ chăn nuôi nhiều thì có gặp vấn đề môi trường

-

như mùi khó chịu màu nước tiếp nhận khá đục.
Vấn đề về tiếng ồn hầu như không gặp phải ở đây do đặc thù chung
của chăn nuôi bò, cộng với đa số các hộ gia đình có hệ thống
chuồng trại rộng rãi ,có hệ thống cây xanh nhiều quanh nhà nên đã

góp phần làm giảm tiếng ồn .
3.3. Nhận thức của người dân
- Do các hộ gia đình ở đây chủ yếu là chăn nuôi nhỏ lẻ, quy mô không
lớn, thiếu hiểu biết kiến thức về vấn đề môi trường nên chưa nhận
thức đúng và chưa quan tâm đến xử lý chất thải chăn nuôi, bảo vệ
môi trường tự nhiên.


- Ở địa phương cũng chưa thực sự quan tâm nhiều đến vấn đề môi
trường đa số chỉ có hình thức tuyên truyền qua đài phát thanh và 1
vài đợt tập huấn trong năm nhưng chỉ là về vấn đề kỹ thuật chăn

-

nuôi mà ít đề cập đến bảo vệ môi trường.
Theo kết quả điều tra ta thấy khi được hỏi về việc tham gia đóng phí
bảo vệ môi trường thì có 5 hộ không tham gia với lý do (chăn nuôi ít
không gây ô nhiễm môi trường) và còn lại 19 hộ tham gia với đa số


-

mức phí là không lớn hơn 100 nghìn đồng/năm.
Như vậy các hộ gia đình phần nào ý thức được trách nhiệm của mình
trong bảo vệ môi trường nhưng còn hạn chế, vì vậy các cơ quan nhà
nước, đặc biệt là chính quyền địa phương cần có các biện pháp
tuyên truyền, vận động nâng cao ý thức của người dân về bảo vệ
môi trường và tổ chức tập huấn về vấn đề xử lý chất thải chăn nuôi

nhằm nâng cao hiểu biết, kiến thức về môi trường.
3.4. Các giải pháp cải thiện ô nhiễm môi trường
- Xử lý nước thải: Do nước thải chăn nuôi bò thịt ô nhiễm rất cao. Trong nước thải
chăn nuôi, hàm lượng chất hữu cơ, nitơ (N), phốt pho (P), coliform rất cao nên gây ô
nhiễm nặng cho môi trường. Vì vậy, nước thải được xử lý 3 bước kế tiếp, không
thay thế và hỗ trợ lẫn nhau là xử lý yếm khí với kỹ thuật ABR để loại phần lớn chất
hữu cơ (COD), tiếp theo là xử lý bằng kỹ thuật lọc sinh học Hiếu khí - Thiếu khí loại
bỏ tiếp COD và phần lớn N và P và cuối cùng là xử lý bổ xung bằng CNST sử dụng
TVTS loại bỏ tiếp COD, N và P đến mức chấp nhận về mặt môi trường.
- Xử lý chất thải rắn (Phân, rác thải hữu cơ và bùn thải sinh học): Xử lý bằng bùn ủ
với chế phẩm VSV ưa nhiệt do nhóm nghiên cứu tạo ra để sản xuất phân bón hữu cơ
chất lượng cao đáp ứng tiêu chuẩn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
- Xử lý mùi chuồng bằng kỹ thuật phun sương dung dịch siêu ô xy hóa thân thiện với
môi trường. Với kỹ thuật này, mùi chuồng nuôi giảm trên 70%.

4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
- Lệ Chi là một xã có những điều kiện tự nhiên và xã hội để phát triển chăn nuôi, đặc
biệt là chăn nuôi bò thịt.
- Thông qua việc mở rộng mô hình nuôi bò thịt, toàn xã có trên 100 hộ dân thoát

nghèo; nhiều hộ có thu nhập cao, làm giàu chính đáng. Tuy nhiên mô hình chăn nuôi
tập trung gần khu dân cư, chăn nuôi nhỏ lẻ gây ô nhiễm môi trường.
- Hiện, toàn xã nuôi khoảng 2.000 bò thịt, trong đó thôn Chi Đông nuôi 1.000 con. Hộ
nuôi ít nhất cũng 2 con, còn hộ nhiều thì nuôi từ 10 - 16 con mỗi lứa, cho thu nhập
hàng trăm triệu đồng mỗi năm.


- Nguồn thải phát sinh từ hoạt động nuôi bò thịt lớn, hình thức xử lý chủ yếu là dùng
biogas, ủ phân, tuy nhiên vẫn còn tồn tại việc thải trực tiếp ra môi trường.
- Môi trường của khu vực qua khảo sát cho thấy phân thải chảy ra các lối đi, ao, các
cống thoát nước hở gây mùi hôi, màu nước đen ảnh hưởng đến mỹ quan và sức khỏe
con người.
- Ngoài ra hoạt động chăn nuôi bò thịt cũng gặp những khó khăn về thị trường tiêu
thụ, nguồn vốn và dịch bệnh…
4.2. Kiến nghị
- Xây dựng mô hình trang trại tập trung, phát triển các hệ thống xử lý nước thải sau

-

xử lý biogas trước khi đưa ra môi trường.
Khuyến khích chủ hộ thực hiện các cam kết bảo vệ môi trường, cam kết thực hiện

-

các biện pháp giảm thiểu tác động xấu.
Hỗ trợ trong chăn nuôi về giống, vốn đầu tư và công tác thú y tại địa phương.
Tuyên truyền và tập huấn cho người dân về kỹ thuật nuôi cũng như ý thức bảo vệ
môi trường, xử lý chất thải chăn nuôi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tìm giải pháp phát triển chăn nuôi bò thịt Thủ đô
Xã Lệ Chi – Cổng thông tin UBND huyện Gia Lâm.
Luận Văn thạc sỹ của Trần Danh Thủy.
Kinh tế đô thị
Báo nhân dân
PHỤ LỤC
Một số hình ảnh đi thực địa

Ảnh các thành viên nhóm


A

Phân và nước thải trong chăn nuôi bò

Chuồng nuôi bò


Thức ăn cho bò




×