PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trong các yếu tố sản xuất, vốn chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng. Nền
kinh tế muốn phát triển địi hỏi phải có một lượng vốn đủ mạnh và ổn định.
Để điều tiết nguồn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, cần thiết phải có một hệ
thống tài chính trung gian để thực hiện nhiệm vụ này. Chính vì vậy, ngân
hàng ra đời và trở thành một hệ thống tài chính trung gian quan trọng nhất của
nền kinh tế. Nhờ hệ thống tài chính này mà các nguồn tiền vốn nhàn rỗi sẽ
được huy động, tạo lập nguồn vốn tín dụng to lớn để đáp ứng các nhu cầu về
vốn của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, hộ gia đình và các cá nhân
trong xã hội. Bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, ngân hàng
cịn thực hiện cơng tác huy động vốn để đảm bảo nhu cầu kinh doanh cho
chính mình.
Nhìn nhận dưới một góc độ khác, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần có vốn. Ngân hàng là ngành then
chốt trong lĩnh vực huy động vốn, đóng vai trị chủ đạo trong việc dẫn vốn
cho nền kinh tế. Ngân hàng với đặc trưng cơ bản “đi vay để cho vay” thì vốn
đặc biệt là vốn huy động giữ vai trị vơ cùng quan trọng. Nếu như ngân hàng
thương mại hoạt động tốt, vốn được lưu chuyển hợp lý, liên tục sẽ tạo đà cho
nền kinh tế phát triển.
Hiện nay, nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại chủ yếu
là vốn ngắn hạn, do đó tính ổn định khơng cao và ẩn chứa nhiều rủi ro khi sử
dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Vì lẽ đó, cơng tác huy động
vốn tại các ngân hàng luôn được đặc biệt chú trọng. Trong thời điểm hiện
nay, công tác huy động vốn càng đặc biệt được chú trọng hơn nữa trong bối
cảnh cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng khốc liệt. Bên cạnh đó, Nhà
nước siết chặt hoạt động huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại
làm cho chi phí huy động vốn tăng cao, giảm khả năng sinh lợi của đồng vốn
huy động được. Ngoài ra, khi nền kinh tế phát triển, người dân có thêm nhiều
kênh để đầu tư như vàng, bất động sản, chứng khoán…nên để thu hút được
nguồn vốn bắt buộc các ngân hàng phải đổi mới, phát triển thêm nhiều sản
phẩm dịch vụ tiện ích. Đồng thời, tình trạng người dân mặc cả lãi suất với
ngân hàng ngày càng phổ biến làm tăng chi phí huy động, nguy cơ vượt rào
lãi suất của ngân hàng Nhà nước rất cao. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả của
đồng vốn, giảm chi phí huy động là một vấn đề cấp bách hiện nay đối với các
ngân hàng thương mại.
Đặc trưng nguồn vốn và sử dụng vốn của các Ngân hàng thương mại
có sự chênh lệch, đặc biệt là sự chênh lệch về kỳ hạn. Vốn huy động của các
ngân hàng thương mại chủ yếu là vốn ngắn hạn nhưng nhu cầu sử dụng vốn
dài hạn để đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh của các chủ thể trong nền
kinh tế lớn đã ảnh hưởng đến hiệu quả và an toàn hoạt động của ngân hàng.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh
Thái Bình cũng khơng nằm ngồi xu hướng đó.
Nhận thức được vai trị của hoạt động huy động vốn đối với hoạt động
kinh doanh ngân hàng và thực tiễn hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng,
tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “Huy động vốn tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thái
Bình”. Hy vọng những vấn đề nghiên cứu sẽ giải quyết được các vấn đề còn
tồn tại trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam - Chi nhánh Thái Bình.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay, đề tài về huy động vốn trong ngân hàng đã có nhiều
nghiên cứu của nhiều tác giả trên khắp cả nước, cụ thể:
Luận văn Thạc sỹ tài chính Ngân hàng năm 2013 của Nguyễn Huy
Tuấn - Khoa Tài chính Ngân hàng - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, tên đề
tài: “Hoạt động huy động vốn dân cư tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Hà Nội - Thực trạng và giải pháp”
Luận văn Thạc sỹ năm 2012 của Trần Hoài Nam - Khoa Ngân hàng Học viên Ngân hàng, tên đề tài: “Giải pháp tăng cường công tác huy động
vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Hà
Nội”
Luận văn Thạc sỹ năm 2012 của Phạm Trung Kiên - Khoa Ngân hàng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, tên đề tài: “Tăng cường huy động vốn tại
Sở giao dịch - Ngân hàng thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam. .
Luận văn Thạc sỹ năm 2010 của Phạm Văn Chi - Khoa Tài chính Ngân
hàng - Trường Đại học Thương Mại, tên đề tài: “Nâng cao hiệu quả huy động
vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam”
Tuy nhiên các đề tài trên chủ yếu tập trung vào việc mở rộng hoặc tăng
cường huy động vốn mà chưa chú trọng đến việc hồn thiện các hình thức,
phương pháp huy động vốn và cũng không nghiên cứu tại Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thái Bình. Do vậy, đề tài này là
cơng trình khoa học độc lập, khơng trùng lắp với bất kỳ tác giả nào khác
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nâng cao hiệu
quả huy động vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường. Phân tích thực
trạng hiệu quả huy động vốn tại BIDV Thái Bình từ đó rút ra những kết quả
đạt được. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại
BIDV - Chi nhánh Thái Bình.
- Nhiệm vụ: hệ thống hóa những lý luận về hoạt động huy động vốn
của ngân hàng, đặc điểm và vai trò của các hình thức huy động vốn, đi sâu
phân tích đánh giá thực trạng cơng tác huy động vốn tại Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thái Bình, đồng thời
tìm hiểu những mặt tích cực và hạn chế trong cơng tác huy động vốn. Từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện cơng tác huy động vốn, đảm bảo huy
động được nguồn vốn ổn định với chi phí thấp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Là các sản phẩm nghiệp vụ, hình thức huy động
vốn của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi
nhánh Thái Bình.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động huy động
vốn trên địa bàn tỉnh Thái Bình của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư
và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thái Bình trong khoảng thời gian từ 2012
- 2014.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện đề tài, tác giả đã áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các
phương pháp thống kê, tổng hợp, điều tra xã hội học phân tích trên cơ sở số
liệu thu thập được và rút ra kết luận.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về công tác huy
động vốn của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Đánh
giá, phân tích thực trạng trong cơng tác huy động vốn tại Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thái Bình. Từ đó tìm ra các ưu
nhược điểm và đề xuất các giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm hồn
thiện cơng tác huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
Nam – Chi nhánh Thái Bình.
7. Kết cấu của luận văn
Căn cứ vào những vấn đề trên, bố cục của đề tài: ngoài phần mở đầu,
kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3
chương:
Chương 1: Lý luận về huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam Chi nhánh Thái Bình.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực huy động vốn tại Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thái Bình.
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái quát về huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm về vốn và huy động vốn của ngân hàng thương mại
a/. Khái niệm về vốn
Vốn trong kinh tế học là một phạm trù tương đối phức tạp và khó tìm
được một định nghĩa thống nhất giữa các quan điểm từ trước đến nay. Trong
tác phẩm Tư bản luận của mình, Các Mác đã khái quát phạm trù vốn thành
phạm trù cơ bản. Theo Các Mác, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư.
Định nghĩa này thể hiện đầy đủ bản chất của vốn:
Thứ nhất: Vốn phải đại diện cho một loại tài sản nhất định nào đó.
Thứ hai: Vốn phải ln ln vận động, và ln ln sinh lời trong q
trình vận động.
Thứ ba: Vốn là một loại hàng hóa và cũng như những loại hàng hóa
khác, nó có chủ đích thực.
Nói ngắn gọn, vốn là một bộ phận của cải được dùng vào sản xuất để
làm ra của cải nhiều hơn.
Xuất phát từ vai trò trên, vốn là tiền đề của hoạt động kinh doanh trong
tồn xã hội nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng, mọi doanh nghiệp đều
có nhu cầu to lớn về vốn để vận hành và phát triển. Hơn nữa, hoạt động kinh
doanh thường xuyên địi hỏi phải khơng ngừng được bổ sung một số lượng vốn
nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu về tái sản xuất mở rộng, về thanh toán, về dự
trữ,… phát sinh ở mọi thời điểm. Trong cơ chế thị trường, lượng vốn kinh doanh
biểu hiện thế lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, có tầm quan trọng đối với
sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp trên thị trường. Chính vì vậy
thị trường tài chính mà trong đó đóng vai trị chủ chốt là các ngân hàng thương
mại ln có mối quan hệ khăng khít với hoạt động sản xuất kinh doanh, là nguồn
huyết mạch cung cấp cho doanh nghiệp sức sống để tồn tại và phát triển. Đây là
căn nguyên làm cho các ngân hàng thương mại trở thành một trong những hệ
thống tài chính trung gian quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.
Các ngân hàng thương mại cũng là một loại hình doanh nghiệp, nguồn
vốn cũng đóng vai trị hết sức quan trọng đối với nó tương tự như đối với các
doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, vốn đối với các ngân hàng không đơn thuần
chỉ là phục vụ cho nhu cầu mua nguyên vật liệu hay thực hiện các thanh tốn
chi trả mà nó là đối tượng trực tiếp của hoạt động ngân hàng, nó là “hàng
hóa”, là phương tiện hoạt động của các ngân hàng. Chính vì thế, khác với các
loại hình doanh nghiệp khác, nhu cầu về vốn của các ngân hàng nói riêng và
các tổ chức tín dụng nói chung là rất lớn và có thể nói là khơng hạn chế về
lượng. Xuất phát từ tính chất đó, loại doanh nghiệp đặc biệt này chủ yếu dựa
vào nguồn vốn vay mượn, phần lớn bắt nguồn từ hoạt động bán các trái quyền
tiền gửi cho các doanh nghiệp, cá nhân… để cung ứng dịch vụ tín dụng và các
dịch vụ khác. Chính nguồn vốn vay mượn này, chứ không phải vốn sở hữu,
đã tạo nguồn lực tài chính chủ yếu cho các hoạt động của ngân hàng. Trong
giai đoạn đầu của hoạt động ngân hàng, các ngân hàng thường khơng chủ
động trong việc tìm kiếm các nguồn vốn mà thường phụ thuộc vào người gửi
tiền. Nhưng kinh tế càng phát triển, các ngân hàng phát hiện ra rằng, nguồn
vốn truyền thống theo định hướng tiền gửi khơng đủ đáp ứng mức cầu tín
dụng đang gia tăng của các khách hàng doanh nghiệp và gia đình. Để thỏa
mãn nhu cầu tín dụng gia tăng của giới doanh nghiệp và cá nhân cần phải có
những nguồn vốn mới: vay trên thị trường tiền tệ.
Thị trường tiền tệ giúp các ngân hàng đổi mới phát triển nguồn vốn
quan trọng và dồi dào, có thể vay mượn cấp thời (vài phút hoặc vài giờ) bằng
cách thông qua bất cứ công cụ nào của thị trường tiền tệ (như các chứng chỉ
tiền gửi, vay dự trữ, bán lại thương phiếu, …). Nguồn vốn vay trên thị trường
tiền tệ làm cho tính chất của các nguồn vốn của các ngân hàng thêm phong
phú, hiện nay người ta phân biệt hai loại nguồn vốn của ngân hàng thương
mại: nguồn vốn thụ động và nguồn vốn đi mua. Đối với các ngân hàng, nguồn
vốn tiền gửi chủ yếu là các nguồn vốn thụ động. Ngân hàng không phải van
nài khách hàng, mà khách hàng chủ động đến gửi tiền vì muốn có những tiện
ích hay các dịch vụ khác được ngân hàng cung ứng (chủ yếu là an toàn và lãi
suất). Ngược lại, vay vốn trên thị trường tiền tệ là nguồn vốn phải đi mua.
Ngân hàng sử dụng nguồn vốn này phải tích cực tìm kiếm bất kì nguồn vốn
khả dụng nào và trả mức giá ít nhất ngang bằng lãi suất thị trường hiện hành
để bảo đảm nhu cầu sử dụng của mình. Các ngân hàng muốn tiếp cận nguồn
vốn này cần cung cấp mức lãi suất cạnh tranh, thậm chí trong một số trường
hợp, ngân hàng có thể tạm thời nâng cao mức lãi suất huy động so với lãi suất
thị trường hiện hành cho đến khi đủ vốn đáp ứng nhu cầu tín dụng của nó.
Tóm lại, vốn ngân hàng có thể được hiểu là những giá trị tiền tệ ngân
hàng tự có, huy động và tạo lập được để thực hiện cho vay, đầu tư và thực
hiện các dich vụ ngân hàng. Việc tạo lập và huy động vốn hình thành nên các
khoản mục bên tài sản nợ của bảng cân đối tài sản của ngân hàng thương mại.
Việc sử dụng vốn để cho vay, đầu tư, thực hiện các dịch vụ ngân hàng hình
thành nên các khoản mục bên tài sản có của bảng cân đối tài sản ngân hàng
thương mại.
b/. Khái niệm về huy động vốn
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, huy động vốn có thể được xem
là một trong những nghiệp vụ lâu đời nhất của ngân hàng thương mại. Trước
đây, khi ngân hàng mới ra đời, hoạt động này chỉ đơn thuần là việc cất giữ các
tài sản có giá của khách hàng nhằm mục đích bảo đảm an toàn và khách hàng
phải trả một khoản tiền nhất định cho ngân hàng. Các tài sản có giá này chỉ
đơn thuần là vật cất giữ chứ chưa phải là nguồn vốn đối với các ngân hàng vì
khơng được ln chuyển, khơng sinh ra lợi nhuận. Ngày nay, khi nhu cầu tín
dụng gia tăng, nghiệp vụ ngân hàng phát triển thì các tài sản có giá được cất
trữ này mới trở thành nguồn vốn khả dụng và lớn nhất của các ngân hàng
thương mại. Hiện nay, hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động
hết sức quan trọng của các ngân hàng thương mại và là một trong hai mặt của
hoạt động cơ bản của NHTM. Với hoạt động huy động vốn, các NHTM được
phép sử dụng tất cả những công cụ và phương pháp khác nhau để huy động
mọi nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để tạo lập nguồn vốn, sẵn sàng đáp
ứng mọi nhu cầu về vốn của nền kinh tế.
1.1.1.2. Nguyên tắc huy động vốn
Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng, với nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của các tổ chức,
cá nhân, đồng thời sử dụng số vốn huy động được để cấp tín dụng cho các
khách hàng của mình. Việc huy động vốn phải đảm bảo tuân thủ các nguyên
tắc sau:
a/. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong huy động vốn
- Hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng theo thời hạn đã cam kết. Đây là
nguyên tắc bất di bất dịch trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và được
pháp luật quy định.
- Tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định hiện hành.
- Giữ gìn bí mật số dư và hoạt động trên tài khoản của khách hàng.
- Không được che giấu các khoản tiền lớn và bất thường (chống rửa
tiền).
- Không được cạnh tranh bất hợp lý (thông tin giả, đầu cơ….)
b/. Nguyên tắc thỏa mãn yêu cầu kinh doanh với chi phí thấp nhất
Yêu cầu kinh doanh trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của các NHTM
là đảm bảo kinh doanh ổn định liên tục và tăng trưởng hợp lý với hiệu quả cao
nhất. Để đáp ứng yêu cầu này, trước hết phải đảm bảo huy động nguồn vốn
một cách ổn định cả về dư lượng và kỳ hạn, chỉ có như vậy kinh doanh mới
phát triển bình thường. Do đó, các NHTM cần:
- Áp dụng nhiều phương thức huy động vốn.
- Kết hợp chặt chẽ giữa huy động vốn với hiện đại hóa dịch vụ ngân
hàng.
- Đa dạng hóa phương thức trả lãi đi đôi với dự thưởng để thu hút
khách hàng.
c/. Nguyên tắc phải đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản
Nhu cầu thanh khoản là nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng và các nhu
cầu khác nhằm thỏa mãn các giao dịch thanh toán. Nhu cầu thanh khoản phát
sinh một cách thường xun, hàng ngày và vì vậy, nó luôn tạo áp lực rất lớn
cho các ngân hàng. Ngân hàng nào không đáp ứng đủ nhu cầu thanh khoản,
ngân hàng đó sẽ mất lịng tin đối với khách hàng, uy tín và thương hiệu sẽ bị
giảm sút nghiêm trọng, nguy cơ xảy ra sụt giảm nguồn vốn là điều khó tránh
khỏi. Đảm bảo nhu cầu thanh khoản là vấn đề sống còn và phải được ưu tiên
hàng đầu trong quản trị kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động huy
động vốn nói riêng.
1.1.2. Vốn và vai trị của công tác huy động vốn trong ngân hàng
thương mại
1.1.2.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo
lập, huy động được để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ ngân hàng.
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm hai bộ phận: một là vốn chủ sở hữu, hai là
vốn huy động và các khoản vay của các TCTD, của NHNN.
Nguồn vốn của NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời
nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng mà khách hàng gửi vào
ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác họ
chuyển quyền sử dụng tiền tệ cho ngân hàng để nhận được một khoản thu
nhập từ phía ngân hàng. Như vậy, NHTM đã thực hiện vai trò tập trung và
phân phối lại vốn cho nền kinh tế dưới hình thức tiền tệ, kết quả làm kết nối
và tăng nhanh q trình ln chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt
động sản xuất - kinh doanh phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại
quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
a/. Nguồn vốn chủ sở hữu
* Khái niệm
Vốn chủ sở hữu là điều kiện đầu tiên để ngân hàng được pháp luật cho
phép hoạt động và đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình
thành nên trang thiết bị, nhà cửa. Nguồn hình thành nên vốn chủ sở hữu gồm
nguồn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động,
nguồn vay nợ có khả năng chuyển đổi thành cổ phần và các quỹ.
* Các thành phần của vốn chủ sở hữu và đặc điểm của chúng.
- Vốn ban đầu
Vốn ban đầu hình thành khi ngân hàng bắt đầu hoạt động với tính chất
sở hữu và nguồn hình thành khác nhau. Nếu là ngân hàng tư nhân thì đó là
vốn do cá nhân tự bỏ ra; nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước thì do ngân
sách Nhà nước cấp; nếu là ngân hàng cổ phần thì do cổ đơng đóng góp thông
qua mua các cổ phần (hoặc cổ phiếu); nếu là ngân hàng liên doanh thì do các
bên tham gia liên doanh góp. Trường hợp của ngân hàng cổ phần có thể được
hình thành từ cổ phần thường và cổ phần ưu đãi.
Vốn ban đầu thường phải tuân thủ các qui định của NHNN. Các qui
định thường nêu rõ số vốn tối thiểu - vốn pháp định mà chủ ngân hàng cần
phải có để bắt đầu kinh doanh ngân hàng. Luật NHNN có qui định cụ thể cho
từng loại ngân hàng trong từng điều kiện cụ thể.
Vốn thường khơng phải hồn trả. Các cổ đơng có thể bán cổ phiếu trên
thị trường vốn (thị trường chứng khoán). Các cổ phần thường được hưởng cổ
tức cao hay thấp tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh và chính sách phân chia lợi
nhuận của ngân hàng.
- Vốn chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động
Bao gồm cổ phần phát hành thêm (hoặc ngân sách cấp thêm) trong quá
trình hoạt động, lợi nhuận tích luỹ, thặng dư vốn, các quĩ ...
- Cổ phần phát hành thêm, ngân sách cấp thêm
Ngân hàng có thể phát hành thêm cổ phần (thường là cổ phần ưu đãi)
hoặc xin cấp thêm vốn từ ngân sách để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để
chống đỡ rủi ro trong trường hợp cần phải duy trì thị giá của cổ phiếu...
- Huy động vốn cổ phần từ cán bộ cơng nhân viên ngân hàng mình
Hình thức huy động này chính là huy động vốn từ chính những cán bộ
cơng nhân viên trong ngân hàng mình, làm cho họ trở thành những cổ đông
của ngân hàng và gắn chặt quyền lợi với quyền lợi chung của ngân hàng. Đây
là hình thức mang tính lâu dài và ổn định cần được chú trọng.
- Huy động từ lợi nhuận bổ sung vốn chủ sở hữu, các quỹ dự phịng tài
chính, quỹ trợ cấp, quỹ khen thưởng và các loại quỹ khác
Nếu như lợi nhuận để lại của ngân hàng đủ để đáp ứng nhu cầu gia tăng
vốn của mình thì thơng thường đây chính là nguồn bổ sung quan trọng nhất.
Nguồn bổ sung này có thể lấy trực tiếp từ các quỹ như: Quỹ dự phịng tài
chính, quỹ trợ cấp….Mặc dù vậy khó nhất là phải xác định được khi nào thì
được phép trích lập từ các quỹ trên để làm nguồn vốn bổ sung, tỉ lệ trích lập
ra sao cho hợp lý.
- Vốn bổ sung bằng phát hành giấy nợ có khả năng chuyển đổi thành
cổ phiếu
Một số ngân hàng coi cổ phần ưu đãi có thời hạn, các trái phiếu dài hạn
cũng thuộc vốn chủ sở hữu mặc dù chúng mang nhiều tính chất của một
khoản nợ. Tuy nhiên, phần này thường bị giới hạn và kiểm soát chặt chẽ.
* Vai trò
Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ so với vốn nợ, do đặc trưng
trong kinh doanh ngân hàng là huy động để cho vay. Theo quy định của
NHNN Việt Nam tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tiền gửi tối thiểu là 1/20. Tuy chiếm tỷ
trọng nhỏ, song Vốn chủ sở hữu có vai trị rất quan trọng.
- Vốn chủ sở hữu có vai trị bảo vệ người gửi tiền
Kinh doanh ngân hàng thường xuyên đối mặt với rủi ro. Các khoản tổn
thất của ngân hàng sẽ được bù đắp bằng vốn chủ sở hữu. Như vậy, nếu quy
mô vốn chủ sở hữu lớn, người gửi tiền và người cho vay sẽ cảm thấy an tâm
hơn về ngân hàng.
- Vốn chủ sở hữu có vai trị tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt
động cho ngân hàng
Như đã phân tích ở trên, để hoạt động điều kiện đầu tiên là ngân hàng
phải có được số vốn tối thiểu ban đầu. Số vốn này được sử dụng để mua sắm
trang thiết bị, nhập công nghệ, xây thêm chi nhánh, mở văn phịng đại diện...
Ngồi ra, Vốn chủ sở hữu có vai trị điều chỉnh các hoạt động của ngân
hàng: Rất nhiều quy định về hoạt động của ngân hàng có liên quan chặt chẽ
với vốn chủ sở hữu như quy mơ nguồn tiền gửi được tính theo tỷ lệ với vốn
chủ sở hữu... Vì vậy quy mơ và cấu trúc hoạt động của ngân hàng được điều
chỉnh theo vốn chủ sở hữu.
b/. Nguồn vốn đi vay
* Khái niệm
Khác với các loại hình doanh nghiệp khác, vốn nợ của NHTM chiếm tỷ
trọng lớn hơn nhiều so với vốn chủ sở hữu và đây là loại vốn cơ bản để tài trợ
cho các danh mục tài sản của NHTM. Vốn nợ được huy động từ các nguồn
tiền gửi, tiền vay và một số loại khác.
* Các thành phần vốn nợ và đặc điểm của chúng
- Tiền gửi
Đặc điểm chung của tiền gửi là phải thanh toán khi khách hàng yêu cầu
ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn. Quy mô tiền gửi rất lớn so với
các nguồn khác. Thông thường nguồn tiền gửi chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn
và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của ngân hàng. Tiền gửi là đối tượng phải
dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Tiền
gửi nhất là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ
giá, thu nhập và nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là yếu tố kích thích các doanh
nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy
mô và thay đổi kỳ hạn nguồn tiền gửi. Các yếu tố khác như địa điểm ngân hàng,
các loại hình huy động... đều ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc của nguồn tiền.
- Tiền vay
Tỷ trọng nguồn này thấp hơn so với nguồn tiền gửi. Khác với nhận tiền
gửi, ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên mà chỉ vay lúc cần
thiết và hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu
sử dụng. Các khoản vay thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh
toán tức thời khi nhu cầu thanh toán của khách hàng tăng cao. Hơn nữa vay
NHNN phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Nguồn khác
Phần lớn các nguồn này ngân hàng không phải trả lãi. Tuy nhiên, chi
phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể. Nhìn chung, các nguồn khác trong
ngân hàng thường không lớn.
* Vai trị
Có thể nói nếu vốn chủ sở hữu có vai trị quan trọng để ngân hàng được
đi vào hoạt động và là đệm đỡ không thể thiếu của ngân hàng thì vốn nợ lại là
yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Trên cơ sở
vốn nợ tạo lập, ngân hàng sử dụng để cho vay, đầu tư vào chứng khoán, mua
sắm tài sản cố định, tiền gửi tại ngân hàng khác và phải được thực hiện dự trữ
theo quy định để đảm bảo khả năng thanh tốn. Qui mơ, cơ cấu của các nhóm
tài sản này được xác định một phần căn cứ vào qui mô, cơ cấu vốn nợ. Thêm
vào đó, tính ổn định về chi phí và thời hạn của vốn nợ quy định số tiền phải
dự trữ là cơ sở cân nhắc để đầu tư bao nhiêu vào chứng khoán ngắn hạn hoặc
nên cho vay với thời hạn nào, lãi suất bao nhiêu để phù hợp với vốn.
Như vậy, vốn nợ có vai trị hết sức quan trọng trong việc quyết định
danh mục tài sản đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của NHTM.
Ngồi ra, qui mô và kết cấu của vốn nợ cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự
an nguy hoạt động của NHTM. Sự khơng phù hợp giữa việc huy động vốn từ
bên ngồi và việc sử dụng vốn về thời hạn, độ nhạy cảm với lãi suất, qui mơ
các loại tiền có thể dẫn tới các rủi ro về thanh khoản, lãi suất, tỷ giá mà ngân
hàng phải gánh chịu.
Tóm lại, qua những vấn đề được đề cập ở trên thì rõ ràng vốn có vai trị
quan trọng quyết định sự sống cịn của một ngân hàng đặc biệt là vốn nợ. Để
có được vốn nợ thì hoạt động huy động vốn từ bên ngồi lại càng có vai trị
hết sức quan trọng. Sau đây là những vai trị cơ bản của cơng tác huy động
vốn từ bên ngồi của NHTM.
1.1.2.2. Vai trị của công tác huy động vốn
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất cứ một doanh nghiệp nào,
vốn luôn giữ một vị trí vơ cùng quan trọng. Đối với ngân hàng thương mại,
nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu để hoạt động kinh doanh. Do đó,
cơng tác huy động vốn có vai trị hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh
doanh của NHTM cũng như đối với nền kinh tế, vai trị của cơng tác huy động
vốn được thể hiện như sau:
- Đối với ngân hàng
Ngân hàng với đặc trưng là doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa đặc
biệt là tiền tệ thì vốn khơng chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà cịn là đối
tượng kinh doanh chủ yếu.
Vì vậy, vốn có vai trị quyết định trực tiếp tới quy mơ kinh doanh của
ngân hàng. Những ngân hàng có vốn lớn sẽ có nhiều thế mạnh trong kinh
doanh, ngược lại những ngân hàng có ít vốn đồng nghĩa với việc gặp nhiều
khó khăn khi tiến hành kinh doanh.
Vốn là điểm khởi đầu trong chu kỳ kinh doanh của hoạt động ngân
hàng. Nếu như vốn tự có giữ vai trị quyết định trong việc thành lập ngân
hàng thì sau khi đi vào hoạt động, vốn huy động cũng giữ vị trí quan trọng
quyết định đến lợi nhuận và thu nhập của ngân hàng. Khi vốn huy động
không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế thì vốn vay giúp ngân
hàng tiến hành hoạt động kinh doanh bình thường tránh tình trạng thiếu hụt
vốn kinh doanh dẫn tới phá sản. Do vậy, cơng tác huy động vốn góp phần
mang lại nguồn vốn cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Có
thể nói, cơng tác huy động vốn góp phần giải quyết "đầu vào" của NHTM.
- Đối với nền kinh tế
Thông qua việc huy động vốn mà các ngân hàng đã và đang thực hiện
các dịch vụ trung gian trong nền kinh tế. Việc huy động vốn cung cấp cho
người dân một nơi an tồn để cất trữ và tích lũy vốn tạm thời nhàn rỗi của
mình. Ngồi ra cịn cung cấp cho người dân một kênh tiết kiệm và đầu tư
nhằm làm cho tiền của họ sinh lợi, tạo cơ hội để gia tăng tiêu dùng trong
tương lai. Với vai trị là trung gian tài chính, ngân hàng thương mại đã góp
phần điều hịa vốn giữa những khách hàng có vốn và khách hàng thiếu vốn
thơng qua hoạt động tín dụng. Thực tế cho thấy dù các doanh nghiệp có lớn
mạnh bao nhiêu cũng khơng thể có được một lượng vốn lớn hơn tổng số tiền
dự trữ của dân chúng. Mỗi người trong xã hội chỉ có một số tiền nhỏ nhưng
tập hợp lại sẽ trở thành một nguồn vốn lớn. Thơng qua các hình thức huy
động vốn, phần lớn số vốn tích trữ tập trung qua hệ thống ngân hàng và từ đó
được đưa vào cơng cuộc đầu tư mang tính chất sản xuất để tạo ra của cải cho
xã hội. Nhờ đó, vốn đầu tư được mở rộng, hoạt động sản xuất kinh doanh
được kích thích, sản phẩm xã hội tăng lên, đời sống nhân dân được cải thiện.
1.2. Nội dung công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1 Các nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ hoạt động
trên nguyên tắc "đi vay để cho vay''. Như vậy, huy động vốn chính là hoạt
động tạo đầu vào cho quá trình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Nguồn vốn huy động quyết định năng lực thanh tốn cũng như qui mơ các
hoạt động cho vay, đầu tư, bảo lãnh,... của ngân hàng. Nó cũng ảnh hưởng lớn
đến năng lực cạnh tranh, vị thế và uy tín của ngân hàng trên thị trường. Thơng
thường nguồn vốn huy động này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kết cấu nguồn
vốn của ngân hàng, nó rất cần thiết và không thể thiếu, đảm bảo cho ngân
hàng hoạt động một cách bình thường. Quá trình huy động vốn của NHTM
chủ yếu dưới các hình thức sau:
1.2.1.1. Huy động vốn từ tiền gửi
Đây là hình thức huy động vốn phổ biến nhất của các NHTM. Đồng
thời đây cũng là hình thức huy động vốn đem lại nguồn vốn lớn nhất trong tỷ
trọng tổng nguồn vốn của các NHTM. Huy động vốn từ tiền gửi thường được
các NHTM thực hiện qua các kênh chủ yếu sau:
a/. Huy động vốn từ tiền gửi của dân cư
- Huy động tiền gửi tiết kiệm
Là hình thức mà người dân dành một phần thu nhập (để tiết kiệm) của
mình gửi vào ngân hàng nhằm thực hiện các mục đích: tích lũy, để dành,
hưởng lãi hay phục vụ chi tiêu thông thường.
Kinh tế ngày càng phát triển, lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư cũng
ngày càng lớn, nhu cầu gửi tiền tiết kiệm cũng gia tăng theo. Để khai thác tối
đa nguồn vốn này, các NHTM Việt Nam hiện nay ln tập trung đến việc đa
dạng hóa các sản phẩm tiết kiệm như: tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm khơng kỳ
hạn, tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm gửi một nơi lĩnh
nhiều nơi, tiết kiệm bậc thang... với thời hạn và lãi suất hợp lý. Các chương
trình tiết kiệm khuyến mại cũng liên tục được các ngân hàng tung ra nhằm thu
hút dân cư gửi tiền như: tiết kiệm dự thưởng trúng ô tơ, trúng nhà, đi du lịch
nước ngồi...
- Huy động từ tiền gửi thanh toán của dân cư
Khi nền kinh tế phát triển cùng với cơ sở vật chất kỹ thuật tốt tạo điều
kiện cho các tầng lớp dân cư dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng đặc
biệt là các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Các dịch vụ thanh toán của ngân
hàng được sử dụng rộng rãi, thơng qua đó một lượng tiền nhàn rỗi khá lớn
trong dân cư được tập trung tại các ngân hàng để phục vụ cho thanh toán. Các
tài khoản tiền gửi thanh tốn của dân cư thường được trả lãi khơng kỳ hạn
hoặc khơng trả lãi. Do vậy, các NHTM có thể tận dụng nguồn vốn này với chi
phí thấp cho nhu cầu kinh doanh của mình. Để thu hút được nhiều vốn từ
kênh này, các NHTM phải có nền tảng công nghệ, trang thiết bị hiện đại
nhằm đáp ứng nhanh nhất nhu cầu thanh toán của khách hàng. Hiện nay, tại
Việt Nam, có thể nhận thấy rõ rệt sự phát triển của dịch vụ thẻ thanh toán của
các NHTM với sự xuất hiện ngày càng nhiều các máy rút tiền tự động (ATM)
và các điểm chấp nhận thẻ thanh toán tại các siêu thị, trung tâm thương mại...
b/. Huy động vốn từ tiền gửi của các tổ chức kinh tế
Bên cạnh tiền gửi của cá nhân, huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế
cũng là một kênh huy động vốn đem lại tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn vốn
huy động của các NHTM. Các NHTM huy động tiền gửi từ các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế thơng qua hai hình thức tiền gửi khơng kỳ hạn và tiền gửi
có kỳ hạn.
- Tiền gửi không kỳ hạn
Các tổ chức kinh tế gửi tiền vào ngân hàng nhằm mục đích thanh tốn chi tiêu và được sử dụng các dịch vụ. Đây là những khoản tiền gửi vì mục
đích thanh tốn của khách hàng, nguồn tiền gửi không kỳ hạn này thường
đem lại lợi nhuận lớn trong quá trình mua bán vốn liên ngân hàng.
- Tiền gửi có kỳ hạn
Trong q trình kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
thường phát sinh những khoản tiền vốn tạm thời nhàn rỗi trong một thời gian
nhất định. Để đảm bảo an toàn đồng thời vẫn tạo khả năng sinh lời cho khoản
vốn đó, các tổ chức kinh tế gửi vào ngân hàng với những thời hạn nhất định.
Huy động tiền gửi có kỳ hạn, các ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn so với
lãi suất tiền gửi không kỳ hạn nhưng đây là nguồn vốn có độ ổn định cao, các
NHTM có thể chủ động trong quá trình sử dụng. Vì vậy để huy động được
nhiều loại tiền gửi này các ngân hàng thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn với
mức lãi suất khác nhau phù hợp với thời gian vốn nhàn rỗi của các tổ chức
kinh tế.
c/. Huy động vốn từ tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác
Đây là hình thức huy động vốn theo đó, các NHTM nhận tiền gửi của
các TCTD khác. Trong thực tế đôi khi các NHTM không cân đối được giữa
nguồn vốn và sử dụng vốn vì vậy khi thiếu hụt vốn các NHTM có thể tiến
hành huy động từ các TCTD khác qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Tiền
gửi của các TCTD cũng chia làm hai loại: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi
khơng kỳ hạn. Tiền gửi không kỳ hạn của các NHTM thường chiếm tỷ trọng
nhỏ và chỉ dùng cho mục đích thanh tốn. Các khoản tiền gửi giữa các NHTM
chủ yếu là các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Các kỳ hạn ngắn dưới 6 tháng
thường là 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 2 tháng... Lãi suất huy động giữa các ngân
hàng trên thị trường liên ngân hàng độc lập với lãi suất huy động vốn tiền gửi
từ khách hàng, tùy từng thời điểm có thể cao hơn, có thể thấp hơn nhưng
thơng thường là cao hơn lãi suất huy động vốn tiền gửi từ khách hàng. Huy
động vốn trên thị trường liên ngân hàng có thể phục vụ cho hoạt động thanh
tốn, hoạt động tín dụng ngồi ra cịn để kinh doanh vốn trên thị trường liên
ngân hàng hoặc kinh doanh ngoại tệ...
Trên thực tế, tỷ trọng các nguồn này trong tổng nguồn vốn là khá lớn
khoảng trên 30% tổng vốn huy động. Tuy nhiên đây chỉ là nguồn vốn ngắn
hạn nên các ngân hàng chỉ huy động phục vụ các hoạt động mang tính chất
ngắn hạn như bù đắp thiếu hụt tạm thời, hỗ trợ thanh khoản... còn về mặt dài
hạn, các NHTM vẫn luôn phải quan tâm đến huy động vốn từ dân cư và các tổ
chức kinh tế.
Ngoài ra, các NHTM cịn có thể huy động vốn từ tiền gửi của kho bạc
nhà nước, của các tổ chức đoàn thể nhưng các khoản tiền gửi này thường rất
nhỏ, chiếm tỷ trọng không đáng kể trong cơ cấu tổng vốn huy động.
1.2.1.2. Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá
Bên cạnh việc huy động vốn từ tiền gửi của khách hàng, phát hành giấy
tờ có giá cũng là một kênh huy động vốn rất phổ biến của các NHTM. Các
giấy tờ có giá chủ yếu hiện nay thường được các NHTM phát hành để huy
động vốn là kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi (công cụ nợ ngắn hạn), trái phiếu
ngân hàng (công cụ nợ trung và dài hạn)... Đối với hình thức huy động này,
các NHTM không thực hiện thường xuyên mà thực hiện theo từng đợt, tùy
vào nhu cầu vốn của ngân hàng và phải được sự cho phép của NHNN .
Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá thường có chi phí cao hơn
huy động tiền gửi khách hàng do lãi suất huy động cao hơn để hấp dẫn khách
hàng cộng thêm các chi phí in ấn, quảng cáo, tiếp thị... cho mỗi đợt phát hành.
Tuy nhiên ưu điểm của hình thức huy động vốn này là các ngân hàng có thể
tập trung được một khối lượng vốn lớn trong một khoảng thời gian nhất định
và chủ động trong sử dụng do nguồn vốn huy động này có tính ổn định cao về
thời gian sử dụng và ít được rút vốn trước hạn. Ở những nước có ngành cơng
nghiệp ngân hàng phát triển, hầu hết các trái phiếu ngân hàng đều được đưa
vào giao dịch chính thức hay giao dịch tự do trên thị trường chứng khốn. Vì
vậy, tính lỏng của chứng khoán ngân hàng là khá cao, người nắm giữ chứng
khốn có thể thu hồi vốn bất cứ lúc nào họ muốn. Điều này không chỉ tạo
thuận lợi cho ngân hàng trong việc thu hút vốn mà còn tạo tính đa dạng cho
thị trường vốn và tính thanh khoản thuận lợi cho khách hàng.
1.2.1.3. Huy động vốn qua đi vay
- Huy động vốn qua đi vay ngân hàng Nhà nước
Các NHTM đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi
ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động hay
nói cách khác ngân hàng tạm thời thiếu vốn khả dụng. Trong trường hợp đó
NHTM sẽ đi vay NHNN.
Tùy theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay NHNN
được chia thành các loại:
+ Vay bổ sung vốn ngắn hạn: là khoản vay của các NHTM nhằm bổ
sung vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, các NHTM chỉ được
vay trong hạn mức tín dụng mà ngân hàng đã thỏa thuận.
+ Vay để thanh tốn: là khoản vay có thời hạn tương đối ngắn, được
NHTM sử dụng để bù đắp những thiếu hụt tạm thời trong thanh toán cho các
khách hàng đến rút tiền tại ngân hàng.
+ Tái cấp vốn: NHNN cho các NHTM vay trên cơ sở những chứng từ
có giá. Các chứng từ này phải là những chứng từ có thời hạn cịn lại khơng
q một năm, có chất lượng, có thể chuyển đổi thành tiền khi cần thiết.
- Huy động vốn qua đi vay các tổ chức tín dụng khác
Trong q trình hoạt động của mình có những lúc NHTM phải đối đầu
với những tình huống khó khăn về tài chính như: thiếu hụt dự trữ bắt buộc,
mất khả năng thanh toán những khoản tiền lớn... và để tránh nguy cơ mất
khách hàng, bảo đảm uy tín cho ngân hàng thì giải pháp tốt nhất là đi vay.
NHTM có thể đi vay từ nhiều nguồn khác nhau và một trong số đó là đi vay
từ các TCTD khác trên thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ trong
và ngoài nước.
Việc vay mượn vốn giữa các NHTM với nhau, giữa các NHTM với các
TCTD khác được diễn ra liên tục trong quá trình hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Các nguồn vốn vay nói trên cũng hình thành nên một loại tài sản
nợ khá thường xuyên trong bảng cân đối tài sản. Mặt khác nó cịn đảm bảo
cho ngân hàng có những mối quan hệ tốt với các ngân hàng khác trong cùng
hệ thống, đồng thời tạo ra cơ hội cho các ngân hàng liên kết với nhau cùng có
lợi trong q trình kinh doanh.
1.2.1.4. Các hình thức huy động vốn khác
Với tư cách là trung gian tài chính, các NHTM cũng tạo được một
khoản vốn: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản gửi séc bảo chi, séc
định mức và các khoản tiền phong tỏa do ngân hàng chấp nhận hối phiếu
thương mại... Các khoản tiền tạm thời được trích khỏi tài khoản này nhập vào
một tài khoản khác chờ sử dụng nên được coi là tiền nhàn rỗi.
Thông qua nghiệp vụ đại lý, NHTM cũng thu hút được một lượng vốn
đáng kể trong quá trình thu hộ hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho các
TCTD khác, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Do
việc phát tiền được thực hiện theo tiến độ cơng việc, ngân hàng có thể sử
dụng tạm thời lượng tiền này vào hoạt động kinh doanh.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực huy động vốn của Ngân hàng
thương mại
1.2.2.1. Quy mô huy động vốn.
Tổng vốn huy động (VHĐ) là toàn bộ số tiền mà ngân hàng huy động
được từ các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và dân cư ở một
thời điểm nhất định.
Công thức: VHĐ = ΣVi. Với V là lượng vốn huy động từ các nguồn i
theo các tiêu chuẩn phân bổ khác nhau.
Để tính cho một năm ta áp dụng phương pháp tính trung bình giản đơn
với các mức độ là số vốn huy động vào các thời điểm (thường là cuối tháng)
theo công thức:
VHĐ =
VHĐ1/2 + VHĐ2/2 + … + VHĐn/2
n-1
N là mức độ của dãy số thời điểm trên (thường n=12)
Đơn vị tính: VHĐ tính theo đơn vị giá trị (thường quy về tiền triệu VNĐ)
theo chính sách tỷ giá hối đối nếu VHĐ là ngoại tệ.
Ý nghĩa: chỉ tiêu VHĐ phản ánh quy mô lượng vốn mà ngân hàng huy
động được tại thời điểm nhất định hoặc tính trung bình trong một khoảng thời
gian nhất định, thường là một năm. Nó cũng là cơ sở để mở rộng quy mô cho
vay và năng lực thanh toán. Đây là nguồn vốn chiếm phần lớn trong tổng
nguồn vốn của ngân hàng, là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả năng chủ
động trong công tác huy động vốn của ngân hàng.
Vốn huy động phải có sự tăng trưởng về số lượng để có thể thỏa mãn các
nhu cầu về khối lượng vốn cho tín dụng, thanh tốn cũng như các hoạt động
kinh doanh khác ngày càng tăng của ngân hàng. Nếu ngân hàng huy động
được một lượng vốn lớn nhưng khơng ổn định, thường xun có khả năng
một dịng tiền lớn bị rút ra, ngân hàng luôn phải đối đầu với vấn đề thanh tốn
thì lượng vốn dành cho cho vay và đầu tư sẽ không lớn, như vậy hiệu quả huy
động vốn sẽ không cao. Ngược lại, nếu nguồn vốn huy động ổn định ngân
hàng sẽ yên tâm sử dụng phần lớn số vốn đó vào các hoạt động có thu nhập
cao. Nguồn vốn tăng đều qua các năm, đạt mục tiêu đề ra và có độ gia tăng
đều đặn là nguồn vốn tăng trưởng ổn định.
1.2.2.2. Thị phần huy động vốn
Trong bối cảnh thị trường khó khăn, ảnh hưởng đến môi trường kinh
doanh của doanh nghiệp khiến đầu ra của dịng vốn Ngân hàng chững lại.
Song khơng phải vì thế mà các Ngân hàng có thể cắt giảm chi phí đầu vào mà
ngược lại ngày càng phải gia tăng để giữ thị phần khách hàng
Thị phần huy động vốn trên địa bàn không chỉ phản ánh về doanh thu,
lợi nhuận, khả năng thanh khoản của Ngân hàng mà cịn phản ánh thực tế uy
tín, quy mơ, thương hiệu của Ngân hàng đó. Trong thực tế, các NHTM ln
chủ điều chỉnh lãi suất thích hợp, có các chương trình gửi tiết kiệm với mức
lãi suất ưu đãi và quà tặng hấp dẫn, cũng như các chương trình quay số trúng
thưởng với nhiều phần quà có giá trị để thu hút khách hàng.
Với mục tiêu lợi nhuận, cuộc đua cạnh tranh thị phần của các NHTM sẽ
ngày càng khốc liệt trong bối cảnh lãi suất huy động có xu hướng giảm dần
mà việc giải ngân sẽ được ngân hàng khắt khe hơn nhằm tránh các khoản nợ
xấu. Điều này sẽ đòi hỏi các ngân hàng phải nâng cao chất lượng dịch vụ,
quảng bá hình ảnh và đẩy mạnh việc chuyển giao sang mơ hình Ngân hàng
bán lẻ.
1.2.2.3. Tương quan huy động vốn và sử dụng vốn
Để có thể tiến hành kinh doanh có hiệu quả, đa dạng các hình thức kinh
doanh để nâng cao sức cạnh tranh và lợi nhuận, Ngân hàng cần có một lượng
vốn lớn huy động từ các nguồn trong nước.
Vốn trong nước phần lớn nằm trong các hộ gia đình dưới dạng tiết
kiệm dự phòng. Hơn nữa vốn của các tổ chức kinh tế xã hội không phải lúc
nào cũng được sử dụng, chỉ có thể sử dụng theo vụ mùa, theo chu kỳ kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp. Do đó lượng vốn nhàn rỗi trong khu vực này
cũng rất là lớn. Nhiệm vụ to lớn của mỗi Ngân hàng là phải tập trung và thu
hút các nguồn vốn lớn này để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh,
các cơng trình kinh tế xã hội biến chúng thành những đồng vốn mang lại hiệu
quả kinh tế xã hội. Để đạt được điều đó thì Ngân hàng phải có cơng tác huy
động vốn phù hợp và có hiệu quả.
Vốn huy động phải xuất phát từ nhu cầu kinh doanh của Ngân hàng. Vốn
huy động của Ngân hàng phải có sự tăng trưởng, ổn định về số lượng để có
thể thoả mãn các nhu cầu cho vay, thanh toán cũng như hoạt động kinh doanh
khác ngày càng tăng của Ngân hàng. Tuy nhiên vốn huy động phải được ổn
định về mặt thời gian. Nếu Ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn mà
không ổn định về măt thời gian, thường xun có một dịng tiền lớn có khả
năng bị rút ra thì lượng vốn dành cho vay, cho đầu tư sẽ không lớn. Như vậy,
hiệu quả sử dụng sẽ không cao và Ngân hàng phải thường xuyên đối đầu với
vốn để thanh khoản. Nhưng nếu Ngân hàng huy động được nguồn vốn ổn
định thì Ngân hàng sẽ yên tâm sử dụng phần lớn vốn đó vào các hoạt động có
thu nhập cao. Nhưng nói như vậy khơng có nghĩa là nếu Ngân hàng thấy có
nguồn vốn ổn định thì sẽ huy động hết ngay hay ngựơc lại, mà việc huy động
vốn của Ngân hàng phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của Ngân hàng về vốn.
Nếu huy động được ít thì Ngân hàng sẽ khơng đáp ứng được nhu cầu của