Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC Đề tài: Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.53 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi
trường ở Việt Nam hiện nay

Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Mã SV

1


MỤC LỤC
Lời nói đầu...................................................................................................................3
I, Lý Thuyết.................................................................................................................4
1, Mối quan hệ giữa xã hội với tự nhiên.....................................................................4
1.1, Khái niệm..........................................................................................................4
1.2, Xã hội- bộ phận đặc thù của tự nhiên...............................................................5
1.3, Tự nhiên, nền tảng của Xã hội.........................................................................5
1.4, Tác động qua lại của xã hội với tự nhiên.........................................................5
2, Môi trường và các vấn đề liên quan......................................................................10
2.1 Môi trường là gì..............................................................................................10
2.2 Ô nhiễm môi trường.......................................................................................10
2.3 Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam..................12
II, Áp dụng thực tiễn................................................................................................13
1, Thực trạng môi trường thế giới và Việt Nam......................................................13
1.1,Thực trạng môi trường toàn cầu hiện nay....................................................13
1.2, Thực trạng môi trường Việt Nam...............................................................15
2, Hành động của Việt Nam....................................................................................15


2.1 Các phương pháp được thực hiện...............................................................15
2.2Đánh giá cá nhân..........................................................................................17
Kết luận....................................................................................................................18
Tham khảo…………………………………………………………………………………….20

2


Lời nói đầu
Mới đây các nhà khoa học đã và đang tìm ra những dấu hiệu về sự sống trên các hành
tinh khác. NASA thì đã có kế hoạch đưa con người lên sao hỏa để sống thử vì chúng ta đã
tìm thấy nước trên bề mặt sao hỏa thông qua các loại kính thiên văn hiện đại. Một câu hỏi
đặt ra là tại sao chúng ta lại luôn nỗ lực tìm kiếm sự sống trên các hành tinh khác? Nó có
thể vì mục đích khám phá vũ trụ và thỏa mãn lòng tham tri thức của con người? Hay phải
chăng trái đất chúng ta, cụ thể hơn là tự nhiên xung quanh chúng ta đang ngày càng trở
nên xa cách với con người và chúng ta cần tìm một hành tinh khác để trú ngụ tránh xa trái
đât? Tuy nhiên, giữ tự nhiên và xã hội hay con người với thiên nhiên luôn có một mối
liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau không thể nào tách rời. Xã hội ngày càng
phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra khắp mọi nơi trên thế giới xong
kèm theo đó là sự tác động tiêu cực đến tự nhiên, khiến cho môi trường ngày càng suy
thoái và sợi dây găn kết tự nhiên và xã hội ngày càng căng và có thể đứt bất cứ khi nào
mâu thuẫn giữ con người và thiên nhiên không thể được giải quyết.
Bài tiểu luận sau đây bao gồm 2 phần: Lý thuyết và Áp dụng thực tế để qua đó sẽ giúp
người đọc hiểu rõ hơn về tự nhiên, xã hội, mối liên hệ khăng khít, các vấn đề về ô nhiễm
và cách khắc phục ở Việt nam.
Trong qua trình viết không thể tránh khỏi những sai sót, vì vậy em rất mong cô giáo góp
ý để sửa chữa hoàn thiện hơn.

3



I, Lý Thuyết
1, Mối quan hệ giữa xã hội với tự nhiên
1.1, Khái niệm
1.1.1, Tự nhiên
* Tự nhiên theo nghĩa rộng:
Là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan. Với nghĩa này thì con người, xã hội loài
người là một bộ phận, hơn nữa là một bộ phận đặc thù của thế giới tự nhiên.
Xét về mặt tiến hoá, con người có nguồn gốc từ tự nhiên, là con đẻ của tự nhiên, là sản
phẩm và là sản phẩm cao nhất của quá trình tiến hoá của thế giới vật chất. Con người với
bộ óc hoàn chỉnh là sản phẩm của thế giới vật chất.
Sự ra đời của con người không chỉ là kết quả của các qui luật sinh học mà quan trọng hơn
cả là kết quả của quá trình lao động. Đó là quá trình con người sử dụng công cụ tác động
vào thế giới tự nhiên, khai thác và cải biến giới tự nhiên tạo ra những sản phẩm vật chất
để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.Chính quá trình đó con người làm biến
đổi tự nhiên và làm biến đổi chính bản thân mình.Chính quá trình lao động nhu cầu trao
đổi, hợp tác lao động đã làm xuất hiện ngôn ngữ. Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích
thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của loài người, từ tâm
lý động vật sang ý thức con người.
Con người được hình thành từ lao động và ngôn ngữ, quá trình đó gắn liền với quá trình
hình thành quan hệ giữa con người với con người. Quá trình chuyển biến từ động vật
thành con người cũng là quá trình chuyển biến từ cộng đồng mang tính bày đàn, hoạt
động theo bản năng thành một cộng đồng mới khác hẳn về chất. Đây cũng là quá trình
chuyển biến từ vận động sinh học thành vận động xã hội. Ta gọi đó là xã hội.
Như vậy, con người là hạt nhân của sự thống nhất biện chứng giữa tự nhiên và xã hội.
* Tự nhiên theo nghĩa hẹp
Gồm toàn bộ thế giới vật chất không kể lĩnh vực xã hội (khi nghiên cứu quan hệ tự nhiên
-xã hội ở đây là tự nhiên theo nghĩa hẹp đặc biệt là môi trường tự nhiên.)
Môi trường tự nhiên gồm:
+ Điều kiện địa lý tự nhiên: đất đai, rừng núi, sông ngòi, khí hậu.

+ Của cải tự nhiên: tài nguyên, khoáng sản, lâm sản, thuỷ hải sản ...
+ Nguồn năng lượng trong tự nhiên: sức gió, sức nước, ánh nắng mặt trời…
(wikipedia)

1.1.2, Xã hội
4


Xã hội là một hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình thái vận động này
lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền
tảng.
Xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và các quan hệ của các cá nhân với nhau.
Theo Mác “Xã hội - cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản phẩm của sự tác
động qua lại giữa con người”
Con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên, bằng hoạt động của mình con người làm
nên lịch sử, làm nên xã hội. Vì vậy, xã hội không thể là cái gì khác mà chính là bộ phận
đặc thù được tách ra một cách hợp qui luật của tự nhiên. Xã hội là hình thái tổ chức cao
nhất của vật chất trong quá trình vận động tiến hoá lâu dài và phức tạp
(Nguồn: voer.edu.vn)

1.2, Xã hội- bộ phận đặc thù của tự nhiên
Xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Tính đặc thù của xã hội được thể
hiện: khác với phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố vô thức tác động lẫn
nhau, xã hội, nhân tố hoạt động là con người có ý thức. Hành động của họ có suy nghĩ
và theo đuổi những mục đích nhất định. Hoạt động của con người không chỉ tái sản
xuất ra chính bản thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên.
1.3, Tự nhiên, nền tảng của Xã hội
Tự nhiên là môi trường sống của con người và xã hội loài người. Cố nhiên, đó là vai
trò không gì thay thế được và nó không bao giờ mất đi dù cho xã hội phát triển đến
mức độ nào đi chăng nữa. Bởi lẽ, con người sống và tồn tại thì nhất thiết phải cần

nước, ánh sáng, không khí, thức ăn...cho đến những điều kiện cần thiết đối với sự tồn
tại và phát triển của xã hội như các nguyên vật liệu, tài nguyên khoáng sản...tất cả
những cái đó đều do tự nhiên cung cấp. Tự nhiên là điều kiện đầu tiên, thường xuyên
và tất yếu của quá trình sản xuất ra của cải vật chất, là một trong những yếu tố cơ bản
của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Ngày nay, với khoa học kỹ thuật và
công nghệ hiện đại, con người đã có thể sản xuất, chế tạo ra những vật liệu mới vốn
không có sẵn trong tự nhiên, song suy đến cùng, những thành phần tạo nên chúng đều
xuất phát từ tự nhiên. Vì vậy, Mác kết luận: công nhân sẽ không thể sáng tạo ra cái gì
hết nếu như không có giới tự nhiên, thế giới hữu hình bên ngoài.
1.4, Tác động qua lại của xã hội với tự nhiên
Lần theo quá trình hình thành và phát triển của triết học Mác – Lênin, chúng ta có thể
nhận thấy những tư tưởng về sự gắn kết đặc biệt giữa con người và tự nhiên được đề
cập từ rất sớm. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, Bộ tư bản và trong nhiều thư từ
cũng như những nhận xét của Mác đã trực tiếp hay gián tiếp phân tích sâu thêm vấn
đề này. Đặc biệt ngay trong Bản thảo kinh tế triết học 1844 Mác đã cho rằng giới
5


tự nhiên là thân thể vô cơ của con người và chính nó là giới tự nhiên trong chừng mực
bản thân nó không phải là con người. Ông coi xã hội là giai đoạn cao nhất trong sự
phát triển thống nhất giữa lịch sự tự nhiên và lịch sử xã hội. Mọi lịch sử đều xuất phát
từ cơ sở tự nhiên và từ những thay đổi của chúng do hoạt động của con người tạo ra
trong quá trình lịch sử. Không thể có lịch sử bên ngoài tự nhiên. Chính vì lẽ đó, có thể
xem xét lịch sử dưới hai mặt, đó là lịch sử tự nhiên và lịch sử nhân loại. Hai mặt đó
không tách rời nhau, độc lập với nhau mà có sự qui định lẫn nhau, quan hệ chặt chẽ
với nhau. Chừng nào con người còn tồn tại thì chừng ấy lịch sử của họ và lịch sử tự
nhiên còn tác động không ngừng qua lại lẫn nhau.
Chính trong sự tác động liên tục ấy, con người và tự nhiên thể hiện vai trò khác nhau
và bổ sung cho nhau.
Trước hết, nói về tự nhiên, trong mối quan hệ với con nguời, tự nhiên vừa là nhà ở,

vừa là công xưởng , vừa là phòng thí nghiệm, là bãi chứa chất thải khổng lồ của xã
hội. Nói cách khác, tự nhiên đó là điều kiện đầu tiên, thường xuyên và tất yếu trong
quá trình sản xuất ra của cải vật chất, là một trong những yếu tố cơ bản của những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Nó là tiền đề, là yêu cầu của sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Vì lẽ ấy, tự nhiên có thể tác động thuận lợi, tạo cơ sở thúc đẩy hoặc
làm cản trở sản xuất xã hội làm chậm nhịp độ phát triển của xã hội.
Nếu trong quá khứ con người sống phần lớn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, thì
dần dần trong quá trình sản xuất xã hội, thông qua lao động, con người dần biết cách
biến đổi tự nhiên, điều khiển những quá trình tự nhiên trong phạm vi bước đầu còn
nhỏ hẹp và hạn chế. Mặc dầu vậy, con người vẫn tạo được cho mình những điều
kiện tồn tại, những trạng thái hay môi trường phù hợp với mình. Đó là chỗ khác nhau
giữa con người và tất cả những động vật khác. Hoạt động của con người nhằm chinh
phục tự nhiên ngày càng giảm bớt sự phụ thuộc của họ vào “các thế lực không kiểm
soát được” và càng tăng quyền hành của con người trước tự nhiên. Đó phải coi là một
dấu hiệu của sự tiến bộ, của sự phát triển của xã hội và bản thân mỗi người. Nhờ vậy
mà loài người đã có đủ khả năng hoàn thành những công việc ngày càng phức tạp
hơn, có đủ khả năng tự đề ra và đạt được những mục đích ngày càng cao hơn. Đồng
thời, con người làm việc đó không phải một cách mù quáng, một cách ngẫu nhiên mà
trái lại, đó là một hoạt động có tính toán trước, có kế hoạch hướng vào những mục
đích định trước. Loài vật phá sạch thực vật trong vùng nào đó mà không hiểu gì
việc làm của chúng cả còn con người khai phá như thế là để dùng dải đất dọn sạch
gieo ngũ cốc hoặc trồng cây, trồng nho. Con người đã biết trước rằng, mùa đến các
giống cây ấy sẽ đem lại một mùa thu hoạch biết bao nhiêu lần hơn số hạt giống mà họ
đã gieo. Rõ ràng, việc nắm các qui luật tự nhiên, sự phát triển của nhu cầu ngày càng
kích thích thêm những hoạt động định hướng của con người nhằm chinh phục, chế
ngự các thế lực, các hiện tượng tự nhiên bắt chúng phục vụ mình.
6


Như vậy, từ chỗ lợi dụng tự nhiên bên ngoài, dựa vào tự nhiên một cách thụ động con

người đã tiến đến chỗ biến đổi cải tạo nó một cách chủ động, có phương pháp, tuân
theo những qui luật vốn có của nó. Từ chỗ bị các lực lượng tự nhiên chi phối, con
người dần dần thống trị lại tự nhiên, từ chỗ thuần túy bóc lột tự nhiên, con
người biết “từ bỏ” phương thức kinh tế “tước đoạt” theo kiểu loài vật, biết cách làm
giàu cho tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ cho những mục đích lớn hơn của mình.
Thắng lợi đó của con người phải được coi là thắng lợi hết sức vĩ đại, thắng lợi của
nền văn minh nhân loại. Đó cũng là chỗ khác nhau, chỗ phân biệt giữa con người và
động vật.
Quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng được hình thành thông qua lao động sản
xuất, thông qua hoạt động cải biến tự nhiên mà con người tạo cho mình những điều
kiện sinh hoạt mới. Rõ ràng bản thân con người đối diện với thực thể tự nhiên với tư
cách là một lực lượng tự nhiên. Tức là, ở đây, con người chiếm hữu thực thể tự nhiên
dưới một hình thức có ích cho đời sống của bản thân mình. Để làm điều này, con
người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về thân thể họ: đầu, tay, chân...tác động
vào tự nhiên. Lúc này con người đã phát triển những tiềm lực đang ngái ngủ ở trong
bản tính và bắt sự hoạt động của những tiềm lực ấy phải phục tùng quyền lực của
mình. Điều đó cho thấy, chính lao động đã nâng cao người lên cao hơn giới động vật,
nó cũng nâng con người lên cao hơn giới tự nhiên; đồng thời liên kết chặt hơn với tự
nhiên.
Sống trong cộng đồng xã hội, con người tất yếu có quan hệ với nhau, trao đổi hoạt
động với nhau nhất là trong sản xuất. Con người và xã hội không thể tách rời tự nhiên
mà chỉ có thể tồn tại và phát triển dựa vào tự nhiên và làm biến đổi tự nhiên. Không
có tự nhiên và xã hội thì con người không tiến hành sản xuất được và đến lượt nó
chính sản xuất lại là điều kiện quyết định để con nguời biến đổi tự nhiên và xã hội. Và
trong sản xuất con người và tự nhiên biểu hiện sự gắn bó khăng khít với nhau, sự tác
động không ngừng với nhau. Điều này lí giải hệ thống con người – tự nhiên là một hệ
thống động học thống nhất cần phải được đảm bảo ở trạng thái cân bằng. Đây là
hệ thống hoạt động theo nguyên tắc liên hệ ngược chứ không phải chỉ có liên hệ một
chiều thuận. Nghĩa là, không phải chỉ có con người tác động, cải biến tự nhiên mà tự
nhiên cũng tác động ngược trở lại một cách mạnh mẽ đến con người. Đáng chú ý là

sự tác động ngược trở lại này lại “không lường trước được”, thậm chí có thể phá
hủy tất cả những kết quả đầu tiên mà con người đã đạt được. Phải nhận thấy rằng,
quyền hành và sự thống trị của con người đối với tự nhiên không phải lớn như người
ta đã hình dung trong những thế kỷ trước, càng không phải là tuyệt đối. Nhất là khi
con người với khoa học trong tay đã trở thành một lực lượng có sức mạnh biến đổi tự
nhiên ngày càng lớn hơn gấp nhiếu lần. Chẳng hạn một quả bom nguyên tử có thể hủy
diệt trong nháy mắt tất cả những gì cần cho sự sống, kể cả sự sống của con người.
7


*Các yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên


- Trình độ phát triển của xã hội
Sự phát triển của lịch sử xã hội không thể tách rời các yếu tố tự nhiên, bởi vì
chỉ có trong mối quan hệ với tự nhiên và quan hệ với nhau, con người mới làm nên
lịch sử của mình. Bởi vậy, khi nghiên cứu lịch sử cần phải xét đến cả hai mặt: lịch sử
xã hội và lịch sử tự nhiên. "Có thể xem xét lịch sử dưới hai mặt, có thể chia lịch sử ra
thành lịch sử tự nhiên và lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, hai mặt đó không tách rời nhau.
Chừng nào mà loài người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định
lẫn nhau".



Tính chất của mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên được quy định bởi phương
thức sản xuất, trước hết là lực lượng sản xuất và phù hợp với nó là quan hệ sản xuất,
quan hệ xã hội nói chung.




Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên được thực hiện thông qua lực lượng
sản xuất, hay lực lượng sản xuất là biểu hiện sự chinh phục tự nhiên của con người.
Lực lượng sản xuất luôn vận động, biến đổi, và trong bản thân nó đã từng diễn ra
những cuộc cách mạng to lớn, quyết định các bước chuyển vĩ đại về chất của xã hội
loài người từ mông muội, dã man, sang văn minh, với các nền văn minh kế tiếp nhau:
nông nghiệp, công nghiệp và trí tuệ. C.Mác nhận định sự phát triển đó là sự kế tiếp
nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, mà mỗi hình thái là một bậc cao hơn trong sự
phát triển của xã hội. Mỗi nền văn minh, mỗi một hình thái kinh tế - xã hội đều được
đặc trưng bởi một trình độ phát triển của công cụ sản xuất nhất định; chẳng hạn, nền
văn minh nông nghiệp được đặc trưng bởi công cụ sản xuất bằng kim loại thủ công,
nền văn minh công nghiệp - công cụ sản xuất bằng máy móc - cơ khí, nền văn minh trí
tuệ sẽ là công nghệ trí tuệ. Điều đó nói lên rằng, sự phát triển của lực lượng sản xuất,
trước hết là công cụ sản xuất là nhân tố năng động và cốt lõi quyết định trình độ phát
triển của xã hội, nó quy định nội dung của sự phát triển của phương thức sản xuất.



Tuy nhiên, xã hội đối xử với tự nhiên ra sao là tùy thuộc vào bản chất chế độ xã
hội, vào quan hệ sản xuất. C.Mac viết: "những quan hệ nhất định đó với tự nhiên, là
do hình thức của xã hội quyết định ", nghĩa là tính chất của mối quan hệ lẫn nhau giữa
xã hội và tự nhiên trước hết phụ thuộc vào quan hệ sản xuất, vào chế độ xã hội, vào
tính chất của những điều kiện chính trị và kinh tế - xã hội mà trong đó con người sống
và hoạt động. Muốn điều khiển được những lực lượng tự nhiên cần phải điều khiển
được các lực lượng xã hội. Do vậy, để loại trừ tận gốc nguyên nhân phá hoại tự nhiên
và gây ô nhiễm môi trường thì phải loại bỏ chế độ người bóc lột người dựa trên cơ sở
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, phải "hoàn toàn đảo lộn toàn bộ phương thức sản
xuất đã có … và cả chế độ hiện tại … nữa" (tức chế độ tư bản chủ nghĩa) như Ph.
Ăngghen đã nói. Chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển lâu dài, bằng sự kết hợp
giữa sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa với quá trình công nghiệp hóa, đã tập trung vơ
8



vét, khai thác đến mức tối đa không chỉ sức lao động của con người, mà cả những
nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường nhằm thu được lợi nhuận cao nhất, nhanh
nhất cho sự phát triển kinh tế, là nguyên nhân cơ bản của những mâu thuẫn giữa con
người với con người và giữa con người với giới tự nhiên. Việc xóa bỏ chế độ sở hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa để thiết lập nên một hình thái xã hội mới - hình thái xã hội
cộng sản chủ nghĩa cũng chính là tiến đến giải quyết mâu thuẫn gay gắt giữa con
người với con người và giữa con người với tự nhiên. Chủ nghĩa cộng sản là "sự giải
quyết hiện thực mâu thuẫn giữa con người với tự nhiên, giữa con người với con
người". Chỉ có dưới chủ nghĩa cộng sản, con người mới được giải phóng khỏi mọi áp
bức, bóc lột, mới được hành động tự do, theo cái nghĩa là con người sẽ có đầy đủ
những điều kiện xã hội và những tri thức cần thiết để nắm bắt các quy luật của tự
nhiên, lẫn những quy luật xã hội và biết tự giác sống và tuân theo những quy luật đó.
Vì vậy, tiến đến chủ nghĩa cộng sản chính là tiến đến xây dựng mối quan hệ - công
bằng, bình đẳng thật sự giữa con người với con người và mối quan hệ hài hòa thật sự
giữa con người với giới tự nhiên.
-Trình độ nhận thức và vận dụng quy luật tự nhiên và quy luật xã hội
Bằng hoạt động thực tiễn, con người và xã hội ngày càng giữ vai trò quan trọng đối
với sự biến đổi và sự phát triển của tự nhiên. Bằng hoạt động sản xuất, xã hội đã tham
gia vào chu trình trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin với tự nhiên. Song "mắt
khâu xã hội" trong chu trình đó đã không phù hợp với tính chất cơ bản của sinh quyển
- tính tự tổ chức, tự điều chỉnh, tự làm sạch, tự bảo vệ. Cuộc khủng hoảng sinh thái
đang diễn ra ở một số nơi trên hành tinh chúng ta là hậu quả của những hành động
thiếu suy nghĩ và "bóc lột" quá đáng tự nhiên của con người, đặc biệt là dưới chủ
nghĩa tư bản. Những hành động đó không chỉ hủy hoại các sinh vật, mà còn làm tổn
hại đến khả năng tự điều chỉnh của các hệ thống tự nhiên hay hệ thống tự điều chỉnh
của sinh quyển. Bởi vậy, tự nhiên đang trả thù chúng ta, đang chống lại chính con
người, điều mà cách đây hơn 100 năm Ph. Ăngghen đã từng cảnh báo.
Quy luật xã hội cho thấy, phải tìm cách sống hài hòa với tự nhiên, phải điều khiển có

ý thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Đó là cách giải quyết đúng đắn cho
các vấn đề sinh thái toàn cầu hiện nay. Chúng ta có nguồn gốc từ tự nhiên, và tất cả sự
thống trị của chúng ta đối với tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh
khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được
những quy luật đó một cách chính xác". Như vậy, để điều khiển được tư nhiên, trước
hết, con người cần phải nhận thức được rằng mình là một bộ phận không thể tách rời
của tự nhiên, hơn thế nữa, còn là con đẻ của tự nhiên. Vì vậy, con người cần phải nắm
vững những quy luật của tự nhiên và quan trọng hơn, phải biết vận dụng những quy
luật đó một cách chính xác vào trong hoạt động thực tiễn của mình.
(Nguồn: voer.edu.vn)
9


2, Môi trường và các vấn đề liên quan
2.1, Môi trường là gì
Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người,
ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như:
không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế.
Nói chung, môi trường của một khách thể bao gồm các vật chất, điều kiện hoàn
cảnh, các đối tượng khác hay các điều kiện nào đó mà chúng bao quanh khách thể này
hay các hoạt động của khách thể diễn ra trong chúng.
2.2, Ô nhiễm môi trường
2.2.1, Khái niệm
Ô nhiễm môi trường là hiện tượng môi trường tự nhiên bị bẩn, đồng thời các
tính chất Vật lý,hóa học, sinh học của môi trường bị thay đổi gây tác hại tới sức
khỏe con người và các sinh vật khác. Ô nhiễm môi trường chủ yếu do hoạt động
của con người gây ra. Ngoài ra, ô nhiễm còn do một số hoạt động của tự nhiên khác
có tác động tới môi trường.
2.2.2 Các dạng ô nhiễm chính
a, Ô nhiễm môi trường đất

Ô nhiễm môi trường đất là hậu quả các hoạt động của con người làm thay đổi các
nhân tố sinh thái vượt qua những giới hạn sinh thái của các quần xã sống trong đất.
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là nền
móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con
người. Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất vào
hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực phẩm
cho con người. Nhưng với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ phát triển công nghiệp
và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng bị thu
hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái, diện tích đất bình quân đầu người giảm.
Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài nguyên đất là rất đáng lo ngại và
nghiêm trọng.
b, Ô nhiễm môi trường nước
Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều tiêu cực của các tính chất vật lý – hoá học –
sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước
trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong
10


nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề
đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất.
Nước bị ô nhiễm là do sự phú dưỡng xảy ra chủ yếu ở các khu vực nước ngọt và
các vùng ven biển, vùng biển khép kín. Do lượng muối khoáng và hàm lượng các
chất hữu cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật trong nước không thể đồng
hoá được. Kết quả làm cho hàm lượng ôxy trong nước giảm đột ngột, các khí độc
tăng lên, tăng độ đục của nước, gây suy thoái thủy vực. Ở các đại dương là nguyên
nhân chính gây ô nhiễm đó là các sự cố tràn dầu.
Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các loại nước, hóa chất, chất thải từ các nhà máy
công nghiệp được thải ra lưu vực các con sông mà chưa qua xử lí đúng mức; các
loại phân bón hoá học và thuốc trừ sâu dư thừa trên đồng ruộng ngấm vào nguồn
nước ngầm và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân cư ven

sông gây ô nhiễm trầm trọng,ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân, sinh vật trong
khu vực. Các loại chất độc hại đó lại bị đưa ra biển xa hơn nữa là nguyên nhân xảy
ra hiện tượng "thủy triều đỏ", gây ô nhiễm nặng nề và làm chết ngạt các sinh vật
sống ở môi trường nước.
c, Ô nhiễm môi trường không khí
Ô nhiễm môi trường không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan
trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây mùi khó
chịu, giảm thị lực khi nhìn xa do bụi.
Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cả thế giới chứ không
phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang có nhiều biến đổi rõ
rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh vật. Ô nhiễm khí đến từ con
người lẫn tự nhiên. Hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá,
dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất
thải khác nhau như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp làm
cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng.
Ô nhiễm từ xe gắn máy cũng là một loại ô nhiễm khí đáng lo ngại.
Ô nhiễm môi trường khí quyển tạo nên sự ngột ngạt và "sương mù", gây nhiều bệnh
cho con người. Nó còn tạo ra các cơn mưa axítlàm huỷ diệt các khu rừng và các
cánh đồng. Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí độc
như: CO , đã gâyhiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất khí quan trọng gây
hiệu ứng nhà kính là CO , nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu ứng nhà kính, CH là
13%,, nitơ 5%, CFC là 22%, hơi nước ở tầng bình lưu là 3%...
Nếu không ngăn chặn được hiện tượng hiệu ứng nhà kính thì trong vòng 30 năm tới
mặt nước biển sẽ dâng lên từ 1,5 – 3,5 m (Stepplan Keckes). Có nhiều khả năng
lượng CO sẽ tăng gấp đôi vào nửa đầu thế kỷ sau. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình
nóng lên củaTrái Đất diễn ra nhanh chóng. Nhiệt độ trung bình của Trái Đất sẽ tăng
khoảng 3,60 °C (G.I.Plass), và mỗi thập kỷ sẽ tăng 0,30 °C. Theo các tài liệu khí
2

2


4

2

11


hậu quốc tế, trong vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ Trái Đất tăng 0,40 °C. Tại hội
nghị khí hậu tại châu Âu được tổ chức gần đây, các nhà khí hậu học trên thế giới đã
đưa ra dự báo rằng đến năm 2050 nhiệt độ của Trái Đất sẽ tăng thêm 1,5 – 4,50 °C
nếu như con người không có biện pháp hữu hiệu để khắc phục hiện tượng hiệu ứng
nhà kính.
Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện tượng lỗ thủng tầng ôzôn. CFC là
"kẻ phá hoại" chính của tầng ôzôn. Sau khi chịu tác động của khí CFC và một số
loại chất độc hại khác thì tầng ôzôn sẽ bị mỏng dần rồi thủng.





d, Các loại ô nhiễm khác
Ô nhiễm phóng xạ
Ô nhiễm tiếng ồn, bao gồm tiếng ồn do xe cộ, máy bay, tiếng ồn công nghiệp
Ô nhiễm sóng, do các loại sóng như sóng điện thoại, truyền hình... tồn tại với
mật độ lớn.
Ô nhiễm ánh sáng,hiện nay con người đã sử dụng các thiết bị chiếu sáng một
cách lãng phí ảnh hưởng lớn tới môi trường như ảnh hưởng tới quá trình phát triển
của động thực vật
( nguồn: wikipedia)


2.3, Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam
2.3.1, Tài nguyên đất Việt Nam
Theo Lê Văn Khoa, đất bằng ở Việt Nam có khoảng >7 triệu ha, đất dốc >25 triệu
ha, >50% diện tích đất đồng bằng và >70% diện tích đất đồi núi là đất có vấn đề và đất
xấu và có độ phì nhiêu thấp
+ Đất bạc màu: 3 triệu ha
+ Đất trơ sỏi đá: 5,76 triệu ha
+ Đất mặn: 0.91 triệu ha
+ Đất dốc > 25 độ là gần 12,4 triệu ha
2.3.2, Tài nguyên nước Việt Nam
Tài nguyên nước ở Việt Nam được đánh giá là rất đa dạng và phong phú, bao gồm
cả nguồn nước mặt và nước ngầm ở các thủy vực tự nhiên và nhân tạo như sông, suối, hồ
tự nhiên, hồ nhân tạo, giếng khơi, hồ đập, ao, đầm phá và các túi nước ngầm. Tuy nhiên,
Trữ lượng dồi dào nhưng phân bố không đều, Nhiều vùng bị thiếu nước sạch để sinh hoạt
do ô nhiễm, lũ lụt, sạt lở đất, hạn hán và các tác nhân khác.
2.3.3, Tài nguyên khoáng sản Việt Nam
Việt Nam có vị trí địa chất, địa lý độc đáo, là nơi giao cắt của hai vành đai sinh
khoáng lớn Thái Bình Dương và Địa Trung Hải, là nước nhiệt đới gió mùa phát triển
mạnh các quá trình phong hoá thuận lợi cho sự hình thành khoáng sản. Qua 65 năm
nghiên cứu điều tra cơ bản và tìm kiếm khoáng sản của các nhà địa chất Việt Nam cùng
với các kết qủa nghiên cứu của các nhà địa chất Pháp từ trước cách mạng tháng 8 đến nay
chúng ta đã phát hiện trên đất nước ta có hàng nghìn điểm mỏ và tụ khoáng của hơn 60
12


loại khoáng sản khác nhau từ các khoáng sản năng lượng, kim loại đến khoáng chất công
nghiệp và vật liệu xây dựng: dầu khí, than khoáng, địa nhiệt, urani, apatit,...
2.3.4, Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học
a) Tài nguyên rừng

Năm 1943, độ che phủ rừng ở nước ta là 43,09% và giảm xuống còn 22,0% vào
năm 1983, sau đó tăng lên 38,09% (năm 2005). Mặc dù tổng diện tích rừng đang lăng
dần lên, nhưng tài nguyên rừng vẫn bị suy thoái vì chất lượng rừng chưa thể phục hồi
(70% diện tích rừng là rừng nghèo và rừng mới phục hồi).
b) Đa dạng sinh học
Việt Nam được xem là một trong những nước thuộc Đông Nam Á giàu về đa dạng
sinh học và được xếp thứ 16 trong số các quốc gia có đa dạng sinh học cao nhất trên
thế giới. Do sự khác biệt lớn về khí hậu, từ vùng gần xích đạo tới giáp vùng cận nhiệt
đới, cùng với sự đa dạng về địa hình, đã tạo nên tính đa dạng sinh học cao ở Việt
Nam.
Tuy nhiên sự suy giảm rừng do chiến tranh và các hoạt động của con người đã làm
suy giảm đa dạng sinh học ở nước ta:
Sự đa dạng thành phần loài và sự suy giảm số lượng loài thực vật, động vật

Số lượng loài

Thực vật Thú Chim Bò sat,
lưỡng cư

Số lượng loài đã biết
14500
Số lượng loài mất dần
500
Trong đó, số lượng loài có nguy cơ tuyệt chủng

300
96
62

830

57
29

400
62
-


Nước
ngọt
550
90
-

Nước
mặn
2000

II, Áp dụng thực tế
1, Thực trạng môi trường thế giới và Việt Nam
1.1,Thực trạng môi trường toàn cầu hiện nay
Trên hành tinh Xanh của chúng ta, ở đâu ta cũng dễ dàng nhận thấy dấu hiệu của sự ô nhiễm
môi trường: từ những biến đổi của khí hậu khiến thời tiết trở nên khắc nghiệt bất
thường, những cơn mưa axit phá hủy các công trình kiến trúc có giá trị, gây tổn
thương hệ sinh thái, đến việc làm thủng tầng ôzôn khiến tăng cường bức xạ tia cực tím
gây nguy hại lớn đến sức khỏe con người,...
Chúng ta đang phải đối mặt với 3 vấn đề phổ biến đó là sự nóng lên của Trái Đất, sự ô
nhiễm biển và đại dương cùng với sự hoang mạc hóa.
Nhiệt độ trung bình của Trái Đất hiện nay nóng hơn gần 40 độ C so với nhiệt độ trong
kỷ băng hà gần nhất, khoảng 13. 000 năm trước. Tuy nhiên trong vòng 100 năm qua,

nhiệt độ trung bình bề mặt Trái Đất tăng khoảng 0,6-0,7 độ C và dự báo sẽ tăng 1,413


5,8 độ C trong 100 năm tới.
Ấm lên toàn cầu có những tác động sâu sắc đến môi trường và xã hội. Một trong
những hệ quả tất yếu của sự gia tăng nhiệt độ của trái đất là sự gia tăng mực nước
biển, gia tăng cường độ các cơn bão và các hiện tượng thời tiết cực đoan,suy giảm
tầng ôzôn, thay đổi ngành nông nghiệp, và làm suy giảm ô-xy trong đại dương.
Tốc độ ấm lên toàn cầu ở thế kỷ XXI nhanh hơn so với sự thích ứng của các loài sinh
vật, vì vậy một số loài có khả năng tuyệt chủng.
Biển và đại dương đang ngày đêm kêu cứu vì ô nhiễm trầm trọng. Hàng năm, khoảng
50 triệu tấn chất thải rắn đổ ra biển gồm đất, cát, rác thải, phế liệu xây dựng, chất
phóng xạ... Bên cạnh đó, rò rỉ dầu, sự cố tràn dầu của các tàu thuyền thường chiếm
50% nguồn ô nhiễm dầu trên biển.
Thông qua những con số biết nói sau đây, ta có thể thấy được phần nào hậu quả của sự
ô nhiễm:
- 1.000.000 chim biển, 100.000 thú biển và rựa biển bị chết do bị vướng hay bị nghẹt
thở bởi các loại rác plastic.
- 30-50% lượng CO2 thải ra từ quá trình đốt các nhiên liệu hóa thạch bị đại dương hấp
thụ, việc thay đổi nhiệt độ sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng hấp thu CO2 của các phiêu
sinh thực vật và sau đó làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái.
- 60% các rạn san hô đang bị đe dọa bởi việc ô nhiễm.
- 60% bờ biển Thái Bình Dương và 35% bờ biển Đại Tây Dương đang bị xói mòn với
tốc độ 1m/ năm
Nếu con người cũng xem biển cả là một bói rác khổng lồ có thể chứa đủ thứ chất thải,
môi trường đại dương sẽ còn bị hủy hoại trầm trọng hơn nữa chứ không chỉ như tình
trạng hiện nay.
Mỗi năm, sa mạc Sahara tiến dần về phía Nam với tốc độ 45 km/ năm. Cao nguyên
Madagasca - nơi được xem là kho báu về đa dạng sinh học nhưng giờ đây 7% đất đai
là đất cằn đồi trọc. Tại Kazakhstan, kể từ năm 1980, 50% diện tích đất trồng trọt đã bị

bỏ hoang vì quá cằn trong tiến trình hoang mạc hóa.
Đa dạng sinh thái bị suy giảm, đất đai trở nên bạc màu không thể canh tác là hai ảnh
hưởng chủ yếu của quá trình hoang mạc hóa. Tình trạng này đang đe dọa cuộc sống
14


của gần 1 tỉ người trên Trái Đất. Châu Phi có thể chỉ nuôi được 25% dân số vào năm
2025 nếu tốc độ hoang mạc hóa ở lục địa đen tiếp tục như hiện nay.
Những dấu hiệu cảnh báo về hiện tượng ô nhiễm môi trường toàn cầu xuất hiện ngày
càng nhiều ở mọi nơi trên toàn thế giới. Chúng ta đều hiểu rằng, một khi ô nhiễm môi
trường xảy ra, chính loài người chúng ta cùng những sinh vật vô tội khác trên Trái Đất
sẽ là đối tượng chịu ảnh hưởng đầu tiên - những ảnh hưởng tiêu cực tác động đến sự
sống hôm nay và mai sau.
(theo moitruong.com)

1.2, Thực trạng môi trường Việt Nam
Theo đánh giá mới đây của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, với 59 điểm trong
bảng xếp hạng chỉ số hiệu quả hoạt động môi trường, Việt Nam đứng ở vị trí
85/163 các nước được xếp hạng. Các nước khác trong khu vực như Philippines
đạt 66 điểm, Thái Lan 62 điểm, Lào 60 điểm, Trung Quốc 49 điểm, Indonesia 45
điểm,... Còn theo kết quả nghiên cứu khác vừa qua tại Diễn đàn Kinh tế thế giới
Davos, Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có chất lượng không khí thấp và ảnh
hưởng nhiều nhất đến sức khỏe.
Mới đây, hai trung tâm nghiên cứu môi trường thuộc Đại học Yale và Columbia
của Mỹ thực hiện báo cáo thường niên khảo sát ở 132 quốc gia. Kết quả nghiên
cứu cho thấy: Về ảnh hưởng của chất lượng không khí, Việt Nam đứng thứ
123/132 quốc gia khảo sát; về ảnh hưởng của môi trường đến sức khỏe đứng vị trí
77; về chất lượng nước Việt Nam được xếp hạng 80. Tính theo chỉ số chung EPI,
Việt Nam xếp thứ 79. Đó là những đánh giá chung, còn nếu xem xét cụ thể trên
từng khía cạnh thì sẽ càng thấy rõ hơn bức tranh chung của môi trường Việt Nam

hiện nay.
(Hiện trạng môi trường Việt Nam và những lời báo động- moitruong.com)

2, Hành động của Việt Nam
2.1, Các phương pháp được thực hiện
Hiện nay, công tác bảo vệ môi trường đang đứng trước nhiều thách thức đáng quan
tâm như: thách thức giữa yêu cầu bảo vệ môi trường với lợi ích kinh tế trước mắt trong
đầu tư phát triển; thách thức giữa tổ chức và năng lực quản lý môi trường còn nhiều bất
cập trước những đòi hỏi phải nhanh chóng đưa công tác quản lý môi trường vào nền nếp;
thách thức giữa cơ sở hạ tầng, kỹ thuật bảo vệ môi trường lạc hậu với khối lượng chất
thải đang ngày càng tăng lên; thách thức giữa nhu cầu ngày càng cao về nguồn vốn cho
bảo vệ môi trường với khả năng có hạn của ngân sách Nhà nước và sự đầu tư của doanh
nghiệp và người dân cho công tác bảo vệ môi trường còn ở mức rất thấp…
Trong những thách thức nêu trên, đặc biệt nổi lên là thách thức giữa yêu cầu bảo vệ môi
trường, phát triển bền vững của đất nước với yêu cầu tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc
làm. Vì vậy, để tiếp tục thực hiện thắng lợi những mục tiêu bảo vệ môi trường trên quan
điểm phát triển bền vững của Đảng và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, trong thời
gian tới, chúng ta cần tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau:
15


-Thứ nhất: Trước hết phải xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện với môi trường trên cơ sở
đổi mới tư duy, cách làm, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm với thiên nhiên, môi trường
trong xã hội và của mỗi người dân. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao
hiểu biết, xây dựng các chuẩn mực, hình thành ý thức, lối nghĩ, cách làm, hành vi ứng xử
thân thiện với thiên nhiên, môi trường. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý
quyết liệt, giải quyết dứt điểm các vụ việc về môi trường, các vi phạm pháp luật bảo vệ
môi trường. Cần tạo bước chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức sang hành động cụ thể. Lấy
chỉ số đầu tư cho môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường, kết quả bảo vệ môi trường cụ
thể để đánh giá.

-Thứ hai: Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ bảo vệ môi trường với phát
triển kinh tế-xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Khắc phục
suy thoái, khôi phục và nâng cao chất lượng môi trường; Thực hiện tốt chương trình
trồng rừng, ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng, tăng diện tích các khu bảo
tồn thiên nhiên; Khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm môi trường và cân
bằng sinh thái; Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; Thực hiện
sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển “năng lượng sạch”, “sản xuất sạch”,
“tiêu dùng sạch”; Tăng cường hợp tác quốc tế để phối hợp hành động và tranh thủ sự
giúp đỡ của cộng đồng quốc tế cho công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường, ứng phó
với biến đổi khí hậu; Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
-Thứ ba: Coi trọng yếu tố môi trường trong tái cơ cấu kinh tế, tiếp cận các xu thế tăng
trưởng bền vững và hài hòa trong phát triển ngành, vùng phù hợp với khả năng chịu tải
môi trường, sinh thái cảnh quan, tài nguyên thiên nhiên và trình độ phát triển. Đã đến lúc
“nói không” với tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá; Tăng trưởng kinh tế phải đồng thời với
bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo vệ môi trường, ứng phó với biến
đổi khí hậu cũng phải thay đổi theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, tạo ra công ăn việc làm, hỗ trợ để đất nước phát triển nhanh hơn, bền
vững hơn.
-Thứ tư: Dự báo, cảnh báo kịp thời, chính xác các hiện tượng khí tượng thủy văn, chung
sức và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; Tập trung triển khai thực hiện Chiến lược
phát triển ngành khí tượng thủy văn đến năm 2020 và hai đề án: Hiện đại hóa công nghệ
dự báo khí tượng thủy văn; Hiện đại hóa ngành khí tượng thủy văn; Tiếp tục phối hợp với
các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cộng đồng quốc tế trong việc tham gia ứng phó
với biến đổi khí hậu toàn cầu; lồng ghép các yếu tố biến đổi khí hậu với Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011-2020) và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
(2011-2015), xác định các giải pháp chiến lược và chính sách thực thi, bố trí các nguồn
lực cần thiết để tổ chức và triển khai thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng
phó với biến đổi khí hậu.
-Thứ năm: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai; Quy hoạch sử dụng đất cả nước
đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 - 2015. Xác lập cơ chế cung - cầu,

16


chia sẻ lợi ích, phát triển bền vững tài nguyên nước và bảo đảm an ninh nguồn nước. Đẩy
nhanh tiến độ xây dựng dự án Luật Tài nguyên nước và các văn bản quy phạm pháp luật
thuộc lĩnh vực tài nguyên nước theo hướng xác lập cơ chế quản lý tài nguyên nước đồng
bộ với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo
điều kiện để các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, mọi người dân tham gia bảo vệ
môi trường, làm kinh tế từ môi trường. Tạo điều kiện, hỗ trợ để các tổ chức phản biện xã
hội về môi trường, các hội, hiệp hội về thiên nhiên và môi trường hình thành, lớn mạnh
và phát triển, đóng góp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường.
-Thứ sáu: Đẩy mạnh thực hiện “kinh tế hóa” trong lĩnh vực địa chất và khoáng sản theo
hướng giảm cơ chế “xin - cho”, tăng cường áp dụng hình thức đấu thầu quyền thăm dò
khoáng sản, đấu giá mỏ để tăng thu cho ngân sách Nhà nước và lựa chọn được tổ chức,
cá nhân có năng lực, kinh nghiệm tham gia hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến
khoáng sản; nâng cao tính thống nhất, tránh chồng chéo trong quản lý; tăng cường phân
cấp cho các địa phương quản lý khoáng sản; chú trọng thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
pháp luật...Đồng thời, tiếp tục giảm xuất khẩu thô, đẩy mạnh chế biến sâu nhằm bảo vệ
và nâng cao giá trị tài nguyên khoáng sản, hướng tới mục tiêu xây dựng ngành công
nghiệp khai khoáng ổn định, bền vững. Phát triển kinh tế biển, bảo vệ an ninh trên biển.
-Thứ bảy: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, chuẩn bị cơ sở pháp lý cho ứng
phó với biến đối khí hậu theo hướng thống nhất, công bằng, hiện đại và hội nhập đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật hiện hành, tiến tới xây dựng Bộ Luật Môi trường, hình thành hệ thống các văn
bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành theo hướng thống nhất, công bằng, hiện đại
và hội nhập, khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ trách nhiệm và thiếu
khả thi. Hệ thống pháp luật về môi trường phải tương thích, đồng bộ trong tổng thể hệ
thống pháp luật chung của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
( Nguyễn Xuân Thành-Cục Cảnh sát Phòng chống Tội phạm về Môi trường-Bộ CA)


2.2 Đánh giá cá nhân
Hiện tại, đối với tôi, vấn đề về môi trường thì hầu như ai cũng quan tâm và nhận
thức được về sự ô nhiễm đáng báo động đang xảy ra trên toàn bộ thế giới cũng như
trên Việt Nam và hậu quả thì chúng ta cũng đang dần phải gánh chịu như là thảm họa
Farmosa đã làm cá chết hàng loạt dọc theo bờ biển miền trung, hay thiên tai lũ lụt
xảy ra thường xuyên hơn và gây hậu quả nặng nề về cả người và của, hay gần đây thì
các báo cáo đã cho thấy nồng độ hơi thủy ngân trong không khí vượt mức cho phép ở
một số nơi trên thành phố Hà Nội đã gây hoang mang cho người dân. Không những
thế, nguồn nước ô nhiễm và thực phẩm bẩn đã gây ra hàng loạt cái chết thương tâm
vì ung thư, vi khuẩn.( Việt Nam thuộc top 2 thế giới vì tỉ lệ mắc ung thư và Theo
thống kê của Dự án phòng chống ung thư Quốc gia, mỗi năm ở Việt Nam có khoảng
70.000 người chết và hơn 200.000 nghìn người mắc mới).
Hậu quả thì ai cũng biết, nguyên nhân ai cũng rõ, giải pháp đã được đưa ra nhưng
dường như việc thực hiện còn chưa hiệu quả. Bởi chúng ta , những người cùng một
17


dân tộc lại thiếu ý thức, vì lợi ích cá nhân mà bất chấp hậu quả, và chính người Việt
đang hại người Việt. Gần đây thì Hội nghị về Biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc
2015, COP 21 diễn ra ở Paris đã đi đến thỏa thuận thẳng hầu hết tất cả các quốc gia
sẽ cam kết giảm thiểu lượng khí thải thải ra môi trường 40% tính đến năm 2030 và
hạn chế sự nóng lên toàn cầu 2.7 độ C vào năm 2100. Đó mới chỉ là mục đích mà các
nguyên thủ Quốc gia cam kết. Nhưng liệu mục đích có thể thực hiện được hay không
khi mà điều tối quan trọng để gìn giữ môi trường là ý thức của những người dân bởi
một con én đâu thể làm nên mùa xuân. Hàng ngày tin tức vẫn đưa tin về thực phẩm
bẩn, về lũ lụt hay ngập nặng ở TP Hồ Chí Minh,… Một câu hỏi đặt ra là những dự án
bảo vệ môi trường tiền tỉ mà chính phủ đầu tư hoạt động liệu đã thực sự được hoạt
động? Điều này đòi hỏi chính phủ phải quản lý chặt chẽ sao cho sử dụng vốn đầu tư
một cách hợp lý( vốn ODA, FDI,...), xử lý nghiêm tham nhũng để có thể tận dụng
nguồn vốn một cách tối ưu nhất trong việc đầu tư các dự án giảm thiểu ô nhiễm và

khôi phục môi trường xanh.

Kết luận
Hệ thống “tự nhiên – con người – xã hội” là một hệ thống vật chất thống nhất.
Trong hệ thống này, con người đang là dạng vật chất có tổ chức cao nhất và đồng thời
cũng là dạng vật chất duy nhất có ý thức. Bởi vậy, chỉ có con người mới có khả năng
tự giải quyết những mâu thuẫn gay gắt giữa tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, chúng ta
cần nhìn nhận bức tranh chung về hiện trạng môi trường sinh thái của thế giới. Đó là
sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên kéo theo đó la nạn ô nhiễm môi
trường sinh thái như hiện tượng lỗ thủng tầng ôzôn, hiệu ứng nhà kính, mưa axit , sa
mạc hóa .Đó thực sự là những thiệt hại vô giá mà con người phải gánh chịu trước “sự
trả thù của tự nhiên” cho những hành động vô ý thức của con người đối với nó trong
suốt một thời gian dài của lịch sử.
Ô nhiễm môi trường đã và đang là vấn đề đáng báo động toàn cầu bởi những hậu
quả nặng nề không thể lường trước. Vì vậy để có thể cứu trái đất một cách kịp thời,
chúng ta cần thực hiện những biện pháp quyết liệt để giải quyết vấn đề càng sớm càng
tốt. Mỗi cá nhân phải sống có ý thức giữ gìn và bảo vệ tự nhiên, không được ích kỷ mà
phải vì cộng đồng, vì xã hội. Hãy giáo dục con em chúng ta nhận thức và có thái độ
đúng đắn mỗi khi tác động qua lại với tự nhiên. Xét theo quy luật nhân quả, nếu chúng
ta tàn phá thiên nhiên và môi trường thì tự nhiên ắt cũng sẽ tác động ngược trở lại gây
ra hậu quả nặng nề. Và xét theo quy luật cân bằng thì chúng ta lại càng nhất thiết phải
duy trì những cân bằng vốn có như cân bằng sinh thái, cân bằng giữa hoạt động của xã
hội tác động đến tự nhiên,... Một khi không có sự cân bằng thì một bên diệt vong và
bên kia cũng suy tàn ngay sau đó. Mặc dù tự nhiên và xã hội luôn tồn tại các mặt đối
lập như con người khai thác tài nguyên thiên nhiên, lũ lụt hạn hán tàn phá cuộc sống
con người,... nhưng các mặt đối lập tồn tại đấu tranh với nhau nhưng lại tạo nên một
thể thống nhất chặt chẽ, hai bên thông qua quá trình đấu tranh để tồn tại đã cải thiện
cho nhau để cùng phát triển.
18



Tham khảo:

- Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê-nin- Nhà xuất bản chính trị
quốc gia
- Từ điển bách khoa Wikipedia
- Mùa xuân im lặng( Silent Spring)- Rachel Carson
- Niên giám xứ cát( A Sand County Almanac)- Aldo Leopold
- Earth in the Balance- Al Gore
- Letters from a Stoic – Seneca
19


- Meditations – Marcus Aurelius
- Man’s search for meaning – Viktor Frankl
- Nature and Selected essays- Ralph Waldo Emerson

20



×