Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Đấu tranh chống âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch đối với việt nam trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.6 KB, 27 trang )

Mục Lục


Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lấy thời điểm mùa xuân năm 1947, khi G.Kenan từ sứ quán Mỹ tại
Liên Xô gửi về Oasinhtơn bức điện dài hơn 8000 từ để đề xuất chiến lược
“ngăn chặn” với ý kiến : “Không thể chỉ phòng thủ mà phải chọn thời cơ thích
hợp nhất xuất hiện để tăng thêm áp lực đối với Liên Xô, thông qua những
biện pháp để thúc đẩy một xu thế nào đó, xu thế cuối cùng tất nhiên sẽ đã đến
sự tan rã hoặc dần dần suy yếu của chính quyền Xô viết” làm thời điểm ra đời
thì đến nay, “diễn biến hoà bình” đã có lịch sử hơn nửa thế kỷ. Và nếu còn
sống , G.Kenan và cả A.Dalet sau này hẳn cũng không thể ngờ rằng cái chiến
lược do họ khởi xướng này đã phát triển, đã chứng tỏ được hiệu quả của nó
như thế nào, bởi sau hơn 50 năm, chiến lược ấy vẫn được các thế hệ sau coi là
một công cụ hữu hiệu trong việc “ tấn công” vào những chế độ xã hội, vào
những quốc gia không chịu nằm trong sự chi phối của các “giá trị Mỹ”.
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay thì nó là một công cụ
hữu hiệu tiếp thêm sức mạnh cho chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ
nghĩa đế quốc, hiện nay có không ít những thông tin ảnh hưởng tới đường lối
chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, tư tưởng - văn hoá, an ninh đối ngoại,…
thậm chí là cả vận mệnh của quốc gia.
Trên phạm vi toàn thế giới, hơn mười năm trước, không một tiếng
súng, tiếng bom, cả nhân loại đã chứng kiến “ sự chuyển hoá hoà bình” ở
nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh nhất lúc đó là Liên Xô vì sự thối ruỗng từ
bên trong, từ nội bộ đã không thể cung cấp cho nó một sức đề kháng đủ mạnh
để chống lại những “virus lạ” được cố tình tiêm chích vào cơ thể xã hội Liên
Xô. Sự suy sụp về kinh tế, sự nhiễu loạn về tư tưởng và các gía trị xã hội, cuối
cùng cũng đã làm được điều mà hàng trăm tỉ USD không làm được, từ khi
chính quyền xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ kéo theo nó là cả một hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ theo : Ru-ma-ni (1989),


Xec-bi (1994), Nam Tư (1998), hay gần đây là cuộc chiến tranh ở I-rac
(2003), Li-bi (2011), …
Hôm nay, “diễn biến hoà bình” vẫn tiếp tục chĩa “họng súng vô hình”
của nó vào các quốc gia đang tiếp tục lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội và kiên quyết giữ vững độc lập dân tộc . Đồng thời “diễn biến hoà bình”
cũng đã có sự điều chỉnh thích nghi, khi đi từ chiến lược “kiềm chế” đến
chiến lược “mở rộng” và hai thứ vũ khí chính là kinh tế và văn hoá được nguỵ
2


trang dưới chiêu bài “tự do hoá về kinh tế” và “dân chủ hoá về chính trị” đang
là nguy cơ trực tiếp, không chỉ đe doạ mà thực sự chứa đựng những khả năng
làm biến chất, làm thay đổi một chế độ xã hội. Bên cạnh đó, cái chết của
“chiến tranh lạnh” và cơn lốc quay cuồng của nhưng tham vọng chính trị kinh tế đã đẩy nhân loại vào tình thế phải đối mặt với những vấn đề toàn cầu
mới. Xung đột tôn giáo, xung đột sắc tộc cùng với sự mất thăng bằng trong tư
duy văn hoá … đã gây nên những cảnh “ nồi da nấu thịt”, “huynh đệ tương
tàn” ở không ít quốc gia. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo của
chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc, thực tế đã minh
chứng cho điều này : ở Tây Nguyên một số tín đồ của đạo Tin lành muốn
thành lập “Nhà nước Đêga tự trị” và “Tin lành Đêga”, bạo động của người
Hmong ở Mường Nhé, Điện Biên…
Từ những âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch trong chiến lược “diễn biến hoà bình” đòi hỏi mỗi chúng ta cần nắm
vững âm mưu, thủ đoạn của chúng trong việc chống phá các nước xã hội chủ
nghĩa và cách mạng Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó cần nâng cao cảnh giác
cách mạng cùng toàn Đảng, toàn dân làm thất bại chiến lược “diễn biến hoà
bình”. Ra sức học tập trau dồi phẩm chất, năng lực của người đoàn viên thanh
niên, kế tiếp thế hệ cha anh góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chính vì những lý do trên, em chọn đề tài : “ Đấu tranh chống âm mưu

và thủ đoạn “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch đối với Việt Nam
trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá hiện nay”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề “diễn biến hoà bình” trên
lĩnh vực tư tưởng- văn hoá, tuy nhiên đây vẫn là một vấn đề mang tính thời sự
nóng bỏng, có ảnh hưởng thiết thực tới hoà bình ổn định, có ý nghĩa quan
trọng tới sự phát triển của các quốc gia. Các phương tiện thông tin đại chúng
của Đảng hàng ngày vẫn đưa tin : An ninh thủ đô, Quân đội Nhân Dân, An
ninh thế giới,… đã tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân tin tưởng vào
đường lối, chủ trương của Đảng, bác bỏ những quan điểm sai trái của thế lực
thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài
Các thế lực thù địch đang đẩy mạnh sự chống phá đối với phong trào
cách mạng thế giới, các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và cách mạng Việt
3


Nam nói riêng, chúng được chủ nghĩa đế quốc làm hậu thuẫn, sử dụng triệt để
những thành tựu tiên tiến của khoa học công nghệ, phương tiện tiên tiến hiện
đại hàng đầu thế giới, với hình thức, cách tiến hành đa dạng, phong phú,
phương thức “ngầm”, “sâu”, “hiểm”. Yêu cầu đặt ra là phải nhận diện đúng
âm mưu, thủ đoạn, cách thức của “diễn biến hoà bình” để có những chủ
trương, biện pháp đúng đắn nhằm vô hiệu hoá sự phá hoại của các thế lực thù
địch, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Chiến lược “diễn biến hoà bình” quá trình hình thành và phát triển ở
Việt Nam
- Âm mưu và thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hoà bình” ở Việt
Nam.

- Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với cuộc đấu tranh
chống chiến lược “diễn biến hoà bình” trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá ở
Việt Nam.
- Thực trạng cuộc đấu tranh của Đảng Cộng Sản Việt Nam chống
chiến lược “diễn biến hoà bình” trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá.
- Giải pháp ngăn chặn nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống
âm mưu “diễn biến hoà bình” ở Việt Nam.
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Là toàn bộ các âm mưu và thủ đoạn mà các thế lực thù địch sử dụng
trong chiến lược “diễn biến hoà bình” ở Việt Nam. Biểu hiện ở phương pháp,
cách thức, thủ đoạn tiến hành của chúng. Các giải pháp làm thất bại âm mưu
thủ đoạn chống phá của chúng.
Phạm vi nghiên cứu : từ năm 1945 đến nay
Giai đoạn từ 1945 đến 1980
Giai đoạn từ 1980 đến nay
2. Phương pháp nghiên cứu
1. Bài tiểu luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước,
đồng thời có sự tham khảo của một số công trình nghiên cứu đến công tác
phòng chống “diễn biến hoà bình”.
2. Bài tiểu luận được triển khai nghiên cứu trên cơ sở phương pháp
luận, của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng
thời sử dụng một số biện pháp nghiên cứu : nghiên cứu tư liệu, phân tích và
4


tổng hợp, so sánh, thống kê số liệu, … Để rút ra những quan điểm đúng đắn,
giải pháp khoa học cho vấn đề.
3. Kết luận
Tiểu luận gồm 2 phần

A. phần mở đầu
B. phần nội dung

5


Phần nội dung
I. Âm mưu và thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hoà bình”- một
số vấn đề cơ bản.
1. Chiến lược “diễn biến hoà bình” quá trình hình thành và phát
triển.
a. khái niệm
“Diễn biến hoà bình” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị
của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong bằng
biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến
hành.
b. Sự hình thành và phát triển của chiến lược “Diễn biến hoà bình”.
Chiến lược “Diễn biến hoà bình” đã ra đời và phát triển cùng với sự
điều chỉnh phương thức, thủ đoạn chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực phản động quốc tế để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa. Chiến
lược “Diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hình
thành và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Giai đoạn từ 1945 – 1980, đây là giai đoạn manh nha hình thành chiến
lược “Diễn biến hoà bình” bắt nguồn từ nước Mỹ.
Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa xã hội từ một nước trong
vòng vây của chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống trên thế giới,
phong trào giải phóng giải phóng dân tộc và phong trào công nhân phát triển
mạnh mẽ. Ba dòng thác cách mạng này hình thành thế chiến lược tiến công
toàn diện vào chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô
sản và giai cấp tư sản trở nên gay gắt, quyết liệt, biểu hiện tập trung ở cuộc

đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
Trước tình hình đó so sánh lực lượng bất lợi, chủ nghĩa đế quốc, đứng
đầu là đế quốc Mỹ ráo riết tìm kiếm giải pháp ngăn chặn “làn sóng cộng sản”
ở Liên Xô và Đông Âu.
Đầu năm 1946, khi còn là đại diện của Mỹ ở Liên Xô, G.Kenan đã kiến
nghị với Nhà Trắng, nhân tố cơ bản nhất trong chính sách ngoại giao của Mỹ
đối với Liên Xô là phải kiềm chế khuynh hướng “bành trướng”, phải thực thi
chính sách “ngăn chặn” lâu dài, kiên nhẫn nhưng kiên quyết và luôn luôn
cảnh giác. Kenan cho rằng “kiềm chế và giải phóng là hai mặt của đồng tiền,
là hai mặt của vấn đề tương đối lớn”, đồng thời khuyến cáo với Nhà Trắng,
phải thực hiện giải pháp ngăn chặn bằng thủ đoạn gieo vào trong lòng chế độ
6


Xô-viết những mầm mống tự thủ tiêu, làm “mềm hoá từng bước” để cuối
cùng tan rã. Với ý tưởng này, G.Kenan trở thành lý luận gia đầu tiên của
chiến lược “ngăn chặn” và chiến lược “Diễn biến hoà bình”.
Trên cơ sở lý luận của G.Kenan, tháng 3 năm 1947, chính quyền Truman công bố chính thức thực hiện chiến lược “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng
sản. Chiến lược ngăn chặn sử dụng biện pháp quân sự là chủ yếu, kết hợp các
thủ đoạn, biện pháp khác, trong đó “diễn biến hoà bình” là một thủ đoạn
nhằm “chặn đứng” sự phát triển của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Dùng mọi thủ đoạn để chặn đứng sự khuếch trương của Liên Xô trong điều
kiện không phát động chiến tranh, huỷ diệt chế độ Xô-viết nhằm tạo ra sự
thay đổi tận gốc đối với xã hội Liên Xô.
Để đạt được mục tiêu, chính quyền Tru-man phát động cuộc chiến
tranh lạnh, đối đầu quyết liệt, toàn diện với Liên Xô bằng chiến tranh tâm lý,
chạy đua vũ trang, cấm vận kinh tế bao quanh Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, ngoại trưởng F.Đa-let
xác định cần phải “giải phóng” họ khỏi chế độ cộng sản nhưng không phải

bằng một cuộc chiến tranh mà bằng “biện pháp hoà bình” phi chiến tranh.
Theo Đa-let “sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội không phải là vĩnh cửu và không
thể thay đổi được”.
Tháng 12 năm 1957, Tổng thống Ai-xen-hao tuyên bố Mỹ sẽ “giành
thắng lợi bằng hoà bình” chính thức coi “diễn biến hoà bình” là chiến lược để
lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục tư tưởng của những người tiền nhiệm Kennơdy, Jonhson rất
chú trọng bồi dưỡng những hạt giống tự do sau bức màn thép cộng sản và cho
rằng biện pháp “diễn biến hoà bình” tuy chậm chạp nhưng đáng tin cậy.
Trước khi lên nắm quyền Tổng thống, Kennơdy đã từng tuyên bố tại
Thượng viện Mỹ : “Giải phóng hoặc diễn biến hoà bình đương nhiên là rất
tốt… nhưng Quốc vụ khánh vẫn chưa đưa ra được bước đi cụ thể cùng những
bước đi quan trọng”. Và kêu gọi : “Phải hành động ngay, phải từng bước thận
trọng bồi dưỡng hạt giống tự do từ bất kì kẽ hở nào được xuất hiện trên bức
màn thép”. Cũng theo Kennơdy: “Chính phủ Mỹ sẽ phải chủ động hơn nữa,
sử dụng một loạt công cụ linh hoạt hơn, bằng viện trợ kinh tế, mở rộng buôn
bán, tăng số người du lịch, mở rộng sự nghiệp báo chí bằng kỹ thuật và tăng
cường tiếp xúc trong nhân dân, thúc đẩy sự biến đổi hoà bình đằng sau tấm
màn thép”.
7


Thời kỳ chính quyền Nich-xon, R.Pho (1969-1980), Mỹ suy yếu, nhất
là sau chiến tranh Việt Nam, Mỹ lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy yếu
nghiêm trọng mất ưu thế quân sự bị Liên Xô đuổi kịp và vượt một số mặt về
kinh tế, hội chứng Việt Nam tác động sâu sắc đến nhiều mặt đời sống xã hội
Mỹ. Trong khi đó, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ. Trước
tình thế đó, Mỹ (Nich-xon) cho rằng: "Diễn biến hòa bình" không thể nôn
nóng không thể hoàn thành trong mấy chục năm mà phải nhiều thế hệ và chủ
trương khuyến khích “tự diễn biến” trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa,

làm cho thông tin phương Tây “như dòng nước xói mòn và tan rã chế độ
Cộng Sản”. Trong cuốn sách “1999 - chiến thắng không cần chiến tranh”,
Ních-xon cho rằng "Làm dịu quan hệ Đông -Tây sẽ làm cho phương Đông
xuất hiện sự phân hóa lớn hơn.Tình hình căng thẳng sẽ càng củng cố thêm chế
độ độc tài. Làm dịu bớt căng thẳng sẽ làm chế độ độc tài yếu đi. Không ai phủ
nhận chính sách hòa dịu những năm 70 của chúng ta đã thúc đẩy sự trỗi dậy
mạnh mẽ và dẫn tới sự ra đời của phong trào Công đoàn đoàn kết ở Ba Lan".
Ních-xon còn khẳng định : “Mở chiến trường tư tưởng, tuyên truyền tự do,
dân chủ và quan niệm giá trị theo kiểu Mỹ phải nắm lấy vấn đề nhân quyền,
nắm vững cuộc đấu tranh về hình thái ý thức, phải mở rộng sự giao lưu với
các nước xã hội chủ nghĩa để nó chịu ảnh hưởng và tác động của phương Tây.
Làm như vậy, thậm chí ngay cả các nhân vật lỗi lạc Đảng Cộng Sản cũng khó
mà chống đỡ nổi. Đến lúc đó nó sẽ gieo hạt giống tư tưởng, những hạt giống
này sẽ kết thành nụ hoa của diễn biến hoà bình”.
Giai đoạn từ 1980 đến nay, khi các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào tình
trạng khủng hoảng về kinh tế, sai lầm về đường lối lãnh đạo, yêu cầu cấp thiết
đặt ra là phải tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới để tháo gỡ khó khăn, ổn định
và phát triển đất nước. Một số nước nóng vội, chủ quan không tôn trọng quy
luật phát triển khách quan đã phạm sai lầm ngày càng nghiêm trọng hơn trong
công cuộc cải tổ, cải cách làm cho tình hình trở nên phức tạp, khó khăn hơn.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật tiên tiến tạo ra xu thế
toàn cầu hoá nền kinh tế. Mỹ nhân thời cơ này, từng bước điều chỉnh chiến
lược “diễn biến hoà bình” và hoàn thiện.
Với chiến lược này đã thu được hiệu quả, tạo ra sự sụp đổ của chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sau khi tạo ra sự sụp đổ
của chế đổ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Mỹ tiến hành
“can dự” thực hiện “dính líu” vào các nước, “khuếch trương” thanh thế của
Mỹ để thúc đẩy “dân chủ” mở rộng kinh tế thị trường tự do trên phạm vi Thế
8



giới, tăng cường “diễn biến hoà bình” đối với các nước xã hội chủ nghĩa còn
lại.
Khi G.Bush lên nắm chính quyền thì tiếp tục theo đuổi chiến lược “can
dự” nhưng có sự điều chỉnh nhất định. Mỹ xác định sẽ tăng cường “dính líu”
vào các nước nhưng bằng biện pháp “cứng rắn”, coi trọng “đòn phủ đầu”. Mỹ
tuyên bố : “Chủ nghĩa đế quốc riêng của Mỹ sẽ không có bất kể sự nhún
nhường nào khiến cho Mỹ rút lui khỏi thế giới co về pháo đài của chủ nghĩa
bảo hộ hay về một hòn đảo biệt lập”. Sau khi nước Mỹ bị tấn công (11-92001). Mỹ ra sức lợi dụng cuộc chiến “chống khủng bố” lấy cớ “kiểm soát
việc sản xuất, tàng trữ vũ khí huỷ diệt, vũ khí hạt nhân, vũ khí giết người
hàng loạt” để tính toán, điều chỉnh chiến lược. Mỹ ngày càng can thiệp sâu
hơn hay gây áp lực nhằm lái các nước theo “quỹ đạo” của Mỹ, mới đây là Mỹ
đã lôi kéo các nước đồng minh tuyên bố các lệnh trừng phạt I-ran, Triều Tiên
vì cho rằng nước này đang sản xuất vũ khí hạt nhân.
Như vậy sau chiến tranh lạnh, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động quốc tế một mặt tiến hành xác lập và củng cố thể chế tư bản chủ nghĩa ở
các nước Đông Âu và Liên Xô, mặt khác tiếp tục thực hiện “ diễn biến hoà
bình” nhằm thủ tiêu các nước xã hội chủ nghĩa còn lại để xây dựng một thế
giới “đơn cực” do Mỹ chi phối. Đây là ý đồ bành trướng của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động quốc tế, đe doạ sự ổn định, nền hoà bình của
nhân loại.
2. Âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hoà bình” trên lĩnh
vực tư tưởng, văn hoá ở Việt Nam.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn coi Việt Nam là một
trọng điểm trong chiến lược “diễn biến hoà bình” chống chủ nghĩa xã hội.
Tuyên ngôn của Viện vận động dân chủ cho Việt Nam (IDV) do Mỹ lập ra, đã
tuyên bố không úp mở rằng : “Sự thất bại ở Việt Nam, Hoa Kỳ rút ra được
kinh nghiệm, từ đó, người Mỹ có một chính sách đúng đắn và hiệu quả. Đó là
chấm dứt theo đuổi chống cộng bằng chiến tranh, bắt đầu bằng sức mạnh thật
sự của mình là dân chủ, chính trị và tự do kinh tế làm vũ khí để tiến công các

chế độ độc tài chuyên chế”. Thời gian qua, các thế lực thù địch , phản động đã
không từ một âm mưu, thủ đoạn nào để thực hiện chiến lược “diễn biến hoà
bình” thâm độc chống phá quyết liệt cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị - tư tưởng, văn hoá – xã hội, quân sự - quốc phòng,
ngoại giao,… hòng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam,
đưa Việt Nam phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đồng thời chúng
9


luôn chú trọng lợi dụng các yếu tố nội sinh, nảy sinh trong quá trình nước ta
thực hiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa
hội nhập khu vực và quốc tế để phát triển. Chúng muốn khoét sâu vào và biến
mặt mặt trái của các yếu tố này thành nhân tố tiếp tay đồng loã cho âm mưu
“diễn biến hoà bình”.
II. Thực trạng và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với
cuộc đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư
tưởng – văn hoá.
1. Quan điểm của Đảng Cộng Sản đối với âm mưu
“diễn biến hoà bình”.
Về bản chất, so với các chiến lược và mục tiêu trong thời kỳ chiến
tranh lạnh, chiến lược "diễn biến hòa bình" nhằm chống đến cùng chủ nghĩa
xã hội là không thay đổi. Trong tình hình và thời cơ mới, chiến lược này chỉ
thay đổi phương thức và thủ đoạn, đó là "chiến thắng không cần chiến tranh",
"không đánh mà thắng" hoặc "một cuộc cách mạng nhung", "cách mạng sắc
màu", có nghĩa là, về bản chất sâu xa, họ vẫn tiến hành một cuộc chiến tranh,
nhưng như họ đã từng tuyên bố, đó là "một cuộc chiến tranh không có khói
súng". Điều đó có nghĩa là mục đích cuối cùng của chiến lược "diễn biến hòa
bình" là xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa. Để đạt được điều đó, chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch xác định các mục tiêu cơ bản sau:
Một là, xóa bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin để thay thế bằng hệ tư tưởng tư

sản trong các nước xã hội chủ nghĩa. Các nhà lý luận của chiến lược "diễn
biến hòa bình" cho rằng, tư tưởng là lĩnh vực có tầm quan trọng hàng đầu, vì
vậy, mục tiêu phải đạt tới là tước bỏ vũ khí tư tưởng của đối phương và coi đó
là khâu đột phá của chiến lược "diễn biến hòa bình".
Hai là, xóa bỏ sự lãnh đạo của đảng cộng sản, thực hiện đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập trong các nước xã hội chủ nghĩa. Luận điệu được sử
dụng thường xuyên là đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo là "độc tài", là "bóp
nghẹt dân chủ", vì thế phải thay thế bằng chế độ chính trị đa đảng, Từ đó, tìm
mọi cách nhen nhóm các lực lượng phản động chống đối, cơ hội chính trị
trong các nước xã hội chủ nghĩa.
Ba là, gây mất ổn định về chính trị trong các nước xã hội chủ nghĩa.
Thủ đoạn thường xuyên được sử dụng là lợi dụng, kích động những vấn đề
"dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" để gây mâu thuẫn nội bộ, phá
vỡ sự đồng thuận xã hội và khi có thời cơ lôi kéo một bộ phận quần chúng
vào các cuộc bạo loạn chính trị. Các thế lực thù địch bỏ ra nhiều công sức và
10


cả tiền bạc để lôi kéo, tập hợp "những người bất đồng chính kiến", thực chất
là những phần tử chống chủ nghĩa xã hội, phủ nhận sự lãnh đạo của đảng
cộng sản, dùng họ làm "cơ sở", "nội ứng" cho việc thực hiện âm mưu "diễn
biến hòa bình".
Bốn là, làm suy yếu, chệch hướng phát triển của nền kinh tế, tiến tới
chi phối, lũng đoạn, khống chế kinh tế.
Năm là, chuyển hóa văn hóa, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo
quỹ đạo và các giá trị phương Tây, từ đó làm biến đổi theo chiều hướng tiêu
cực và tha hóa con người, dẫn tới biến chất cả một xã hội.
Sáu là, "phi chính trị hóa" để vô hiệu hóa quân đội và công an.
Những mục tiêu cơ bản trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và nếu để
cho các thế lực thù địch thực hiện được thì điều không tránh khỏi là họ sẽ đạt

mục đích cuối cùng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.
Nhận rõ bản chất, mục đích trên của chiến lược "diễn biến hòa bình",
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã vạch trần: "thế lực chống chủ nghĩa xã hội
và độc lập dân tộc luôn chĩa mũi nhọn vào Đảng. Thủ đoạn họ thường dùng là
xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, thổi phồng sai lầm, khuyết
điểm của Đảng, đòi thực hiện nhân quyền và dân chủ kiểu tư sản, đòi phi
chính trị hóa bộ máy nhà nước, đòi đa nguyên, đa đảng nhằm tước bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng. Họ lợi dụng những kẻ cơ hội, phản bội về chính trị hoặc
thoái hóa về phẩm chất, đạo đức để chia rẽ, làm suy yếu, phá hoại Đảng từ
bên trong" (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng).
Như vậy, rõ ràng là "diễn biến hòa bình" và cuộc đấu tranh chống "diễn
biến hòa bình" thực chất là một cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc
trong giai đoạn mới.
Từ đó tạo ra được sự chuyển biến sâu sắc trong nhân thức của các cấp
uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương về âm mưu,
thủ đoạn mới trong chiến lược “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực văn hoá , tư
tưởng và coi đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
Đảng, cần được tiến hành thường xuyên và lâu dài. Trên cơ sở thấy rõ được
những âm mưu, thủ đoạn ngày càng nham hiểm, tinh vi của các thế lực thù
địch, xây dựng những đối sách phù hợp, kịp thời hiệu quả. Gắn kết chặt chẽ
giữ “xây” và “chống” trong các giải pháp đấu tranh, tạo ra sức đề kháng trước
những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, kích động các thế lực thù địch, nêu
cao ý thức chủ động tiến công làm thất bại các hoạt động gây bạo loạn, lật đổ.
Phối hợp chặt chẽ với các ban ngành, đoàn thể, tạo ra sức mạnh tổng hợp các
11


lực lượng trên mặt trận tư tưởng, văn hoá trong đấu tranh chống chiến lược
“diễn biến hoà bình”.
2. Thực trạng của cuộc đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hoà

bình” trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Sau mấy chục năm, sau thất bại của cuộc chiến tranh xâm lược đối với
Việt Nam xã hội chủ nghĩa bằng lực lượng quân sự, các thế lực thù địch vẫn
âm thầm hoặc rùm beng, tiếp tục triển khai chiến lược “diễn biến hoà bình”
trong bối cảnh chúng ta bắt đầu làm quen với kinh tế thị trường và mở rộng
giao lưu kinh tế, giao lưu văn hoá đang hướng chúng ta tới triển vọng thực tế,
song cũng đưa tới những tác động mà văn hoá dân tộc hàng ngàn năm nay
chưa tiếp xúc. Những vấn đề về tôn giáo và dân tộc, những giá trị thẩm mỹ và
đạo đức… đang đứng trước những thử thách sinh tử có nguồn gốc từ một
cuộc xâm nhập văn hoá kiểu mới. Đánh vào lòng người – chiến thuật “ công
tâm” sở trường của phương Đông, được chiến lược “diễn biến hoà bình” lợi
dụng triệt để thông qua những phương tiện mới. Mùi vị hấp dẫn của “văn hoá
đại chúng” theo kiểu phương Tây làm cho con người dễ đánh mất mình, xa
rời cộng đồng, tha hoá và phản bội, , bột phát những hành vi phá vỡ những
nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, “ tấn công văn hoá” không dễ nhận
thấy trong đời sống sinh hoạt, nên đôi khi, nếu chỉ căn cứ vào diện mạo bên
ngoài, người ta rất dễ bỏ qua. Ví như việc người ta phê phán, bác bỏ khái
niệm “chế độ toàn trị” chẳng hạn. Thoạt nghe đây là một khái niệm “lạ tai”
nhưng nếu khảo sát kỹ lưỡng sẽ nhận thấy “chế độ toàn trị” mang trong nó
những nội hàm của chính khái niệm “chuyên chính vô sản”. Đặc biệt trong
bối cảnh những liên hệ toàn cầu đã trở thành một trong những nguyên tắc sinh
tồn của các dân tộc và ý thức về tính nhân loại phổ biến đã có bước phát triển,
những biện pháp kỹ thuật của “diễn biến hoà bình” trước đây thường được
triển khai khá lặng lẽ thì nay đã trở nên công khai, lộ liễu với các hình thức
tinh vi, để gây ra tình trạng nghiện ngập thái quá, một sự mê hoặc bằng những
liều “ma tuý tinh thần”… qua đó tạo ra hình ảnh méo mó của một dân tộc
trước cộng đồng nhân loại. Nhìn vào thực trạng văn hoá, trong số trường hợp,
chúng ta thấy văn minh vật chất và “phương tiện nghe - nhìn” đã đóng góp
vai trò rất lớn trong việc làm đảo lộn nếp sống, phá rối hệ thống chuẩn mực
đạo đức, đảo lộn rối tư duy và phong cách ứng xử giữ người với người. Lại

nữa là sự lên ngôi của đồng tiền cùng sức ép của đô thị hoá đang đè nặng lên
các giá trị gia đình truyền thống. Ở thành thị hiện tại các gia đình đã không
đóng nổi vai trò nuôi dưỡng và là bệ phóng tinh thần của thế hệ trẻ. Ở nông
12


thôn, sức cám dỗ của thành thị thu hút lao động chủ yếu của nó, đồng thời ở
đó đã xuất hiện những hiện tượng vốn xa lạ với truyền thống làng xã. Làm
giàu và làm giàu bằng mọi giá trở thành mục đích sống của nhiều cá nhân.
“Hội chứng vô cảm” không còn là một báo động giả, nó đang sừng sững giữ
chúng ta – những con người từ xã xưa đã quen với truyền thống : lá lành đùm
lá rách, thương người như thể thương thân. Ly hôn và nghiện ngập, mại dâm
và AIDS, người già cô đơn và trẻ em cơ nhỡ, mê tín dị đoan và các trò ma
thuật, tình trạng bạo lực và sự hoành hành của cái “ác”… hoàn toàn có thể trở
thành những nguy cơ phá vỡ trật tự ổn định của xã hội.
Xét đến cùng, những đòn “ngoại kích” của “diễn biến hoà bình” chỉ có
thể thành công khi nó có sự kết hợp của yếu tố “nội công”. Cho nên có thể nói
thách thức lớn nhất của “diễn biến hoà bình” trong văn hoá là “chiến lược
giành dân”, trước hết là thông qua phương tiện nghe – nhìn. Trong thời đại hệ
thống thông tin đã phủ sóng trên phạm vi thế giới, có khả năng len lỏi vào tận
từng người, từng gia đình nhằm làm lung lạc tư tưởng và ý chí dân tộc. Đối
với Việt Nam, thiết nghĩ con số 49 đài phát thanh , 82 nhà xuất bản, khoảng
400 tờ báo và tạp chí ở hải ngoại hiển nhiên không chỉ đáp ứng nhu cầu của 2
triệu đồng bào Việt ở nước ngoài. Con số đó buộc chúng ta phải tính đến, nhất
là khi hệ thống thông tin đại chúng ngày nay còn được bổ sung một công cụ
truyền tải hấp dẫn, mang tính toàn cầu là Internet. Hơn 30 năm trước, chúng
ta đã giành chiến thắng những trận bom Mỹ từ trên trời rơi xuống bằng ý chí
quật cường và làm nên chiến công lịch sử “Điện Biên Phủ trên không” nhưng
hôm nay không phải là những trái bom chứa TNT mà là những “trái bom
thông tin” từ vệ tinh viễn thông người ta chút các chương trình truyền hình và

làn sóng âm thanh với đủ loại giọng điệu tuyên truyền trắng đen. “cuộc tấn
công từ trên trời” bằng văn hoá thông tin thật sự đã tạo ra tình huống buộc
chúng ta phải chống lại trong cả thời gian và không gian mà cuộc tự vệ văn
hoá lúc này đa dạng, đa diện hơn và cũng phức tạp hơn trước. Trong chiến
lược “diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam, có một khu vực lớp tuổi đó là
thế hệ trẻ để hy vọng sẽ đánh gục ý chí và làm lạc hướng tinh thần của các thế
hệ sinh ra sau ngay đất nước thống nhất vì đây là bộ phận xã hội dễ xốc nổi,
dễ chạy theo cám dỗ vật chất và lối sống hưởng thụ, xa hoa.
Trên lĩnh vực tư tưởng, các thế lực thù địch, phản động tập trung phản
kích, phủ định nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đây là hoạt động mũi nhọn, đột phá để thực hiện ý đồ chiến lược làm chuyển
hóa từ bên trong và bên trên của Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa của
13


chúng ta. Trong cuốn sách "1999 - chiến thắng không cần chiến tranh", Níchxơn đã xác định "Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất, toàn bộ vũ khí
của chúng ta, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi
đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng". Đánh phá vào chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nhằm phá vỡ nền tảng tư tưởng của
Đảng ta và của xã hội ta, tạo ra một "khoảng trống tư tưởng" trong cán bộ,
đảng viên và nhân dân ta, từ đó tạo điều kiện thuận lợi du nhập hệ tư tưởng tư
sản vào quần chúng, vào nội bộ ta.
Các thế lực thù địch, phản động tập trung mọi cố gắng để chứng minh
sự "lỗi thời" của chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận bản chất cách mạng và khoa
học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng còn vu cáo
Đảng ta đã "đem chủ nghĩa Mác - Lê-nin áp dụng máy móc, gượng ép vào
Việt Nam", đồng thời quảng cáo cho mô hình "xã hội dân chủ" và khả năng đi
theo "con đường thứ ba" phi xã hội chủ nghĩa, "đi dưới hai làn đạn". Chúng
nuôi dưỡng, kích động các khuynh hướng cơ hội, hữu khuynh, dao động...
trong cán bộ, đảng viên và quần chúng để nhằm tạo ra sự phân hóa, phân liệt,

đối lập, xung đột trong đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm, tâm lý của xã
hội. Các thế lực thù địch còn tuyên truyền xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh,
thân thế và sự nghiệp vĩ đại của Người, tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí
Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin, cố tình cho rằng "con đường Bác Hồ đã chọn
là con đường dân tộc, không phải chủ nghĩa xã hội" và "không có ảnh hưởng
của tư tưởng Mác-Lênin". Gần đây, cùng với các âm mưu, thủ đoạn trên,
chúng còn dựng chuyện bôi nhọ thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí
Minh một cách trắng trợn, vô liêm sỉ như: “Sự thật về Hồ Chí Minh”, “Phong
trào quốc dân đòi trả tên cho Sài Gòn”, “Hồ Chí Minh bình khảo” của Hồ
Tuấn Hùng, “Đỉnh cao chói lọi” của Dương Thu Hương…
Một số cán bộ, đảng viên và quần chúng hoang mang, dao động mất
phương hướng, giảm sút lòng tin vào chủ nghĩa Mac–Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, hoặc muốn
đi theo hướng phát triển theo chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo kết quả điều tra
dư luận xã hội năm 2007 cho thấy tỷ lệ số người cho rằng “hiện tượng tán
phát tài liệu xấu, tuyên truyền các quan điểm sai trái, xuyên tạc, bôi nhọ chế
độ là vấn đề bức xúc trong năm” đã tăng từ 17% năm 2006 lên tới 28% năm
2007, tác động của thủ đoạn “diễn biến hoà bình” tăng từ 22% năm 2006 lên
tới 27% năm 2007. Kết quả điều tra về tác động của các quan điểm, hành
động sai trái, thù địch tới tâm trạng, thái độ cán bộ, đảng viên và nhân dân
14


tháng 1-2004 cho thấy có tới 33% đối tượng trong cán bộ và 45% đới tượng
trong nhân dân được hỏi đã trả lời : các thông tin xuyên tạc, vu cáo, bịa đặt,
nói xấu Đảng, nói xấu chế độ, bôi nhọ sự lãnh đạo của các thế lực thù địch đã
tác động lớn đến sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, lý tưởng xã hội chủ nghĩa
trong xã hội hiện nay. Đã có biểu hiện mong muốn đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập ở một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị. Có
cán bộ, đảng viên đã viết những tài liêu có nội dung trái với Cương lĩnh chính

trị, đường lối, chính sách, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, công khai phê phán
sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Chính phủ.
Không ít cán bộ, đảng viên vẫn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
vẫn gắn bó với chế độ nhưng thụ động, thiếu bản lĩnh, không dám đấu tranh
với những luận điệu sai trái, với những kẻ cơ hội chính trị hoặc do nhận thức
không đầy đủ, bị lợi dụng nên đã ủng hộ, phụ hoạ, truyền bá những quan điểm
chính trị phản động. Vì sự sụt giảm niềm tin, một số bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên và nhân dân đã tham gia hoạt động mê tín dị đoan. Điều tra dư
luận xã hội năm 2007 cho thấy có đến 22% số người được hỏi cho rằng tệ nạn
mê tín dị đoan và vấn đề bức xúc nhất trong năm đã tăng 2% so với năm
2006. Xuất hiện một số bộ phận học sinh, sinh viên thiếu lòng tin vào con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, nhận
thức hạn chế về âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực, đề cao quan
điểm “dân chủ tư sản”, sống thực dụng, ích kỷ cá biệt có hiện tượng tha hoá
về nhân cách, có một số bài viết cho đài nước ngoài nói xấu chế độ ta. Tình
trạng sáng tác hàng loạt ca khúc, ca từ thiếu văn hoá nhưng được phát hành,
biểu diễn tràn lan, tình trạng chiᲿu phim ngoại quốc tràn lan trên truyền
hình… dần dần tác động mạnh đến sự suy thoái đạo đức lối sống của bộ phận
không nhỏ học sinh, sinh viên.
Cần khẳng định rằng, các quan điểm và giải pháp đấu tranh chống
chiến lược “diễn biến hoà bình” đã được nêu đầy đủ trong các Nghị quyết của
Đảng, từ Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, thứ VII, thứ VIII,
thứ IX, đến Nghị quyết của Bộ chính trị (khoá VIII), về chiến lược bảo vệ an
ninh quốc gia (ANQG) và Nghị quyết 8 của Ban Chấp hành Trung ương
(khoá IX) về “chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Vấn đề là phải
quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện tốt những điều mà Đảng đã nêu trong
Nghị quyết, thì nhất định chúng ta sẽ thành công. Trong rất nhiều công việc
đáng phải làm hiện nay, thì vấn đề quan trọng nhất, bức bách nhất mà toàn

15



Đảng ta, Nhà nước ta, cả hệ thống chính trị ta phải tập trung giải quyết “bài
toàn lòng dân” và xây dựng “thế trận lòng dân”.
Giải quyết “bài toán lòng dân” và xây dựng “thế trận lòng dân” được
nói ở đây với nội dung là củng cố sự nhất trí về chính trị - tinh thần trong
nhân dân, sự gắn bó giữ nhân dân với chế độ chính trị do Đảng Cộng Sản Việt
Nam lãnh đạo. Lòng dân hướng về Đảng, tin tưởng vào vào sự lãnh đạo của
Đảng, của Nhà nước, đoàn kết gắn bó với Đảng, với Nhà nước và chế độ.
Không có nguy cơ nào, thế lực nào có thể làm sụp đổ được chế độ xã hội chủ
nghĩa của chúng ta, nếu Đảng ta, Nhà nước ta, chế độ ta được đại đa số nhân
dân đoàn kết gắn bó, ủng hộ và bảo vệ. Ngược lại, không có lực lượng công
an, quân đội nào có thể bảo vệ được Đảng Cộng Sản Việt Nam và chế độ xã
hội chủ nghĩa, nếu Đảng, Nhà nước và chế độ đó không được đa số nhân dân
đoàn kết, ủng hộ và bảo vệ, không coi nhân dân coi là “của họ”. Sự tan rã của
Liên Xô, sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây cho ta
điều khẳng định đó.
3. Những kết quả và hạn chế trong đấu tranh chống “diễn biến hoà
bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thời gian qua, công tác đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn của chiến
lược “diễn biến hoà bình” của toàn Đảng, toàn dân đã đạt được những kết quả
đáng ghi nhận, nhưng bên cạnh đó còn tồn tại không ít những khuyết điểm,
yếu kém cần khắc phục. tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống trong một số bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có chiều hướng
tăng, có nhiều mặt nghiêm trọng. Đáng chú ý là vấn đề sai lầm trong nhận
thức lý luận cách mạng của chủ nghĩa xã hội.
a. Những kết quả đạt được.
Việc theo dõi, nắm bắt diễn biến tư tưởng trong nội bộ và tâm trạng xã
hội, nhất là khi diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng trong và ngoài nước
được quan tâm hơn. Công tác thông tin về tình hình chính trị, kinh tế xã hội,

tư tưởng, văn hoá, về âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực
được tăng cường dưới nhiều hình thức : thông tin đại chúng, thông báo nội
bộ, hội thảo… Công tác bồi dưỡng lý luận,nghiệp vụ về đấu tranh chống
“diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng bước đầu được chú trọng.
Chủ động tấn công chính trị có hiệu quả hơn các hoạt động vi phạm pháp luật
của các phần tử cơ hội chính trị, cực đoan, phản động trong các tôn giáo, tổ
chức cho quần chúng nhân dân ở cơ sở đấu tranh, cô lập và phân hoá kẻ xấu

16


để góp phần ổn định chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân vào sức mạnh
của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Dưới sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban Bí
thư, sự phối hợp giữ các ban, ngành, giữa Trung ương và địa phương đã có
hiệu quả hơn, nắm chắc hơn các động thái phá hoại của các thế lực thù địch
trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá. Công tác đấu tranh với các luận điệu sai trái
thù địch trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên mạng Internet,
bước đầu thu được kết quả đáng khích lệ. Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh
vực tư tưởng văn hoá có nhiều cố gắng. Các phương tiện thông tin đại chúng
đã thể hiện kênh thông tin quan trọng định hướng ý thức chính trị cho các giai
tầng xã hội. Việc ngăn chặn hoạt động thâm nhập văn hoá phản động, đồi truỵ
ở một số địa phương được tăng cường hơn trước.
Những kết quả đạt được nêu trên đã góp phần rất quan trọng vào việc
giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng của đất nước. Đại đa số cán
bộ, đảng viên và nhân dân vẫn vững vàng, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước vào
công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển tốt đẹp của đất nước ta.
b. Những khuyết điểm yếu kém.
Việc triển khai các Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận của Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ở một số ngành, địa phương còn có

biểu hiện làm lướt, mang tính hình thức, nhận thức của một bộ phận cán bộ,
đảng viên và nhân dân về âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hoà
bình” còn mơ hồ, một bộ phận đã nhận thức được nhưng chưa rõ, một số nơi
quan niệm chống chiến lược “diễn biến hoà bình” là của Trung ương, của cấp
trên… vì thế còn mất cảnh giác và chưa có sự quyết tâm cao trong việc chống
âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Sự chỉ đạo,
phối hợp giữa một số cơ quan chức năng ttong đấu tranh còn nhiều hạn chế
nên dẫn đến hiệu quả chưa cao, đặc biệt là nắm những động thái phá hoại của
các thế lực thù địch và tình hình tư tưởng ở cơ sở chưa thật sâu sát dẫn đến
những bất ngờ như : vụ biểu tình ở Sóc Trăng tháng 2 năm 2007 và biểu tình
gây rối ở Tây Nguyên tháng 4 năm 2008 vừa qua. Việc phản bác các luận
điệu tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên mạng
Internet mặc dù đã có bước tiến bộ, nhưng tính chiến đấu, tính hiệu quả chưa
cao. Việc quản lý báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ còn nhiều biểu hiện
lỏng lẻo, bất cập đã tác động đến công tác đấu tranh chống chiến lược “diễn
biến hoà bình” trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng, tình trạng để lọt, để lộ bí mật
của Nhà nước xảy ra rất nghiêm trọng.
17


III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh
của Đảng, của Nhà nước và toàn dân chống chiến lược “diễn biến hoà
bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá.
1. Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh chông
âm mưu “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực nâng cao hiệu
quả các hoạt động đối ngoại, đưa ra các mối quan hệ quốc tế phát triển cả về
chiều rộng và chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa
nội lực và bản sắc dân tộc, tranh thủ sức mạnh thời đại để phát triển đất nước.
Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đánh giá cao và chân thành cám ơn

các nước, các tổ chức quốc tế đã có sự phối hợp, hợp tác trong sáng, ngày
càng có hiệu quả với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Khẳng định nhất quán
điều đó không hề mâu thuẫn với thái độ của chúng ta là chủ động ngăn chặn,
giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế và kiên quyết đấu
tranh làm thất bại âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và
ổn định chính trị của nước ta. Cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" nằm
trong nhiệm vụ lớn trên đây.
Thực tiễn đã chỉ ra rằng, đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" hiện nay
và những năm sắp tới ở nước ta là một hình thái mới của cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh dân tộc gay go, phức tạp, tinh vi và lâu dài trên mọi lĩnh vực
chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống... của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả dân tộc ta nhằm bảo vệ độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa. Cần nhận thức dứt khoát, rõ
ràng rằng, cuộc đấu tranh này không chỉ có ý nghĩa về mặt giai cấp mà còn có
ý nghĩa sâu sắc về mặt dân tộc. Tách rời hay đối lập hai nội dung đó sẽ dẫn
tới sai lầm trong nhận thức, chỉ đạo và tổ chức đấu tranh. Giành thắng lợi
trong chống "diễn biến hòa bình", chúng ta mới có thể giữ vững được độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, giữ được bản sắc văn hóa dân
tộc và giữ được chế độ xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu cao cả "dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh". Do đó, nếu lơ là, mất cảnh
giác, nghi ngờ cho rằng, Đảng thổi phồng nguy cơ "diễn biến hòa bình, tự
chuyển hóa, tự diễn biến" từ đó lẩn tránh, không tích cực, thiếu chủ động đấu
tranh phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch thì sự tồn tại của dân tộc, chủ quyền quốc gia và của chế
độ bị đe dọa trực tiếp. Kết hợp chặt chẽ đấu tranh chống "diễn biến hòa bình"
18


với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, chống bạo loạn, lật đổ là

quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và Nhà nước ta.
Trong cuộc đấu tranh này, vấn đề có ý nghĩa quyết định là xác định
đường lối đúng trong chiến lược phát triển đất nước trên các lĩnh vực cơ bản
của đời sống xã hội. Đảng và Nhà nước không thể phạm sai lầm về đường lối,
kiên quyết và tỉnh táo chống các khuynh hướng bảo thủ, trì trệ, cả khuynh
hướng hữu khuynh và tả khuynh. Dự thảo các văn kiện trình đại hội lần thứ
XI của Đảng, sau khi được cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân góp ý, bổ
sung và được Đại hội thảo luận, thông qua sẽ là quan điểm, đường lối có ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Cần quán triệt sâu sắc,
chỉ đạo sát sao, tổ chức thực hiện một cách kiên trì, khoa học và quyết liệt
những nội dung trong các văn kiện trên. Đó là nhân tố quyết định bảo đảm
thắng lợi của cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình". Kinh tế đất nước
phát triển nhanh và bền vững, chính trị ổn định, xã hội tốt đẹp, văn hóa tinh
thần lành mạnh, quan hệ quốc tế mở rộng, đời sống nhân dân được cải thiện
và nâng cao là điều kiện bảo đảm vững chắc làm thất bại các mưu đồ và thủ
đoạn thực hiện "diễn biến hòa bình" đối với nước ta của các thế lực thù địch.
Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này, Đảng và Nhà nước ta
khẳng định, cần tạo nên sức mạnh vô địch bằng cách phát huy sức mạnh tổng
hợp của hiệu quả để nhân lên sức mạnh chung của toàn dân tộc mạnh hơn hẳn
sức mạnh chống phá của các thế lực thù địch.
Chúng ta phải dựa vững chắc trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng Việt Nam, nêu cao tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo để xây dựng mục tiêu, quyết định đường lối, chiến lược
cách mạng. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của cách mạng, là
nguyện vọng, con đường và lẽ sống của nhân dân ta, của cả dân tộc ta. Cần
kiên trì làm cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân thấu hiểu và kiên định
mục tiêu cao cả trên, từ đó cảnh giác đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch, cơ hội chính trị có tham vọng phủ định, xóa bỏ mục tiêu
đó.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc

Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, để làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn
biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng trong
tình hình mới, Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể, các cấp, các ngành, các địa phương cần tập trung sức thực
hiện tốt những nhiệm vụ và giả pháp chủ yếu sau đây :
19


Thứ nhất, coi trọng, tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, bồi đắp ý chí kiên định chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tạo sự thống
nhất cao trong Đảng, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về
xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, bảo vệ và phát
huy những truyền thống tốt đẹp, các chuẩn mực đạo đức và lối sống xã hội
chủ nghĩa, tạo sự đồng thuận trong xã hội đối với cương lĩnh, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, sự thống nhất trong nhận thức về
nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, xây dựng nội bộ vững
mạnh, củng cố vững chắc bên trong là chính, lấy “ bài toán lòng dân” và “thế
trận lòng dân” làm nền tảng. Về tổng thể “bài toán lòng dân” và “thế trận lòng
dân” phải được giải quyết đồng bộ trên nhiều mặt cả về kinh tế, chính trị, tư
tưởng,… để cùng tác động tới đời sống, tâm lý, tư tưởng các tầng lớp nhân
dân, tạo nên sự chuyển biến tích cực trong thái độ, tình cảm tâm lý, ý thức của
từng người dân. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân
dân không ngừng được cải thiện và nâng cao, dân chủ xã hội được củng cố,
mở rộng, quan liêu, tham nhũng và tiêu cực bị ngăn chặn và đẩy lùi, Đảng
vững mạnh nâng cao được sức chiến đấu, bộ máy Nhà nước trong sạch, vì
dân, nâng cao hiệu lực quản lý… thì sẽ được lòng dân.
Trên quan điểm đó, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
tận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả, từng
bước thực hiện hoá mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh là cơ sở căn bản nhất để giải quyết “bài toán lòng dân” và “thế trận
lòng dân”. Đó là sự tiếp thu tư tưởng của thế hệ cha ông ta từ xa xưa.
Thứ hai là làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác bảo vệ
chính trị nội bộ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Từng ban, ngành đoàn thể, địa
phương đơn vị phải chủ động phát hiện, giải quyết những vấn đề chính trị nội
bộ. Chấp hành nghiêm túc các qui định về bảo vệ bí mật quốc gia, quy chế
phát ngôn, cung cấp thông tin, tài liệu “mật”, giữ vững kỷ luật phát ngôn.
Thứ ba, tiếp tục triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá”, bồi dưỡng lòng yêu thương con người, lối sống trung
thực, giản dị, cần, kiệm, liêm, chính, giữ gìn bản sắc dân tộc. Có biện pháp
kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, về đạo đức,
lối sống trong bộ phận cán bộ, đảng viên trong xã hội. Đề cao ý thức gần dân,

20


học dân, trọng dân, có trách nhiệm với dân trong cán bộ, công chức các cấp,
nhất là đảng viên.
Thứ tư, tăng cường công tác lãnh đạo và quản lý báo chí, xuất bản, văn
hoá, văn nghệ, cổ vũ, khuyến khích những tác phẩm có nội dung và nghệ
thuật tốt, ngăn chặn những tác phẩm có nội dung, quan điểm lệch lạc, sai trái,
đấu tranh phê phán và xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật trong hoạt động
văn hoá, thông tin, tuyên truyền, trên lĩnh vực sáng tác, biểu diễn văn hoá
nghệ thuật. Đấu tranh ngăn chặn các hành vi lợi dụng sự đổi mới về văn hoá
để thực hiện mục tiêu, âm mưu tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước, phủ
nhận các giá trị văn hoá truyền thống, cách mạng, xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc
nhân vật, sự kiện để gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Có những
chính sách, cơ chế để các văn nghệ sĩ sáng tác được nhiều tác phẩm văn học,
nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật để giáo dục, cổ vũ các tầng

lớp nhân dân.
Thứ năm, phản bác kịp thời có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù
địch, đấu tranh chống các luận điệu phủ định, bóp méo chủ nghĩa Mác–Lênin,
xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước,
kích động tâm lý bất mãn, chia rẽ nội bộ Đảng, khối đại đoàn kết dân tộc. Tập
trung giải quyết căn bản, có hiệu quả các vấn đề ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ,
Tây Bắc và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, không để các thế lực thù địch
lợi dụng vấn đề dân tộc và vấn đề tôn giáo để gây bạo loạn, mất ổn định chính
trị.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động thông tin đối
ngoại giúp cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có nhận thức đúng đắn
về đường lối đổi mới, hội nhập về tiềm năng hợp tác của ta với quốc tế, về
lịch sử, văn hoá con người Việt Nam nhằm tranh thủ rộng rãi đồng tình và
ủng hộ của nhân dân thế giới với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ bảy, mở rộng hợp tác kinh tế, văn hoá giáo dục gắn liền với việc
nâng cao ý thức cảnh giác, đối phó kịp thời với âm mưu, thủ đoạn lợi dụng sự
hợp tác này để thâm nhập, chuyển hoá chế độ ta. Nhanh chóng khắc phục tư
tưởng chỉ coi trọng lợi ích kinh tế mà coi nhẹ vấn đề an ninh tư tưởng, văn
hoá trong việc nhận viện trợ, hợp tác, liên doanh với nước ngoài trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, nhất là các doanh nghiệp có hợp tác với nước ngoài.
Triển khai cuộc đấu tranh trên lĩnh vực lý luận giữ vị trí cực kỳ quan
trọng trong nhiệm vụ chống chiến lược "diễn biến hòa bình" hiện nay. Tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục đổi mới là chủ trương, định
21


hướng quan trọng của Đảng ta. Chúng ta lắng nghe, tiếp nhận có chọn lọc tất
cả những tìm tòi khoa học về những vấn đề lý luận quan trọng phục vụ cho sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế để phát triển
đất nước và chấn hưng dân tộc. Đó là thái độ cầu thị thực sự của Đảng ta,

không được biến nó thành thủ pháp, thành hình thức. Đồng thời, chúng ta
cũng kiên quyết phản bác những quan điểm phản động, cố tình phủ định,
xuyên tạc những quan điểm cốt lõi, có tính nguyên tắc mà Đảng ta đã tổng kết
từ thực tiễn cách mạng, đặc biệt từ thực tiễn đổi mới hơn 20 năm qua. Chúng
ta cần tập hợp trí tuệ của cả dân tộc, trao đổi, thảo luận, tranh luận dân chủ,
khoa học, thiện chí, tâm huyết để đi tới thống nhất và đồng thuận cao trên
những vấn đề lý luận hệ trọng nhất của sự nghiệp cách mạng thời kỳ mới.
Một loạt những vấn đề lớn trong dự văn kiện trình Đại hội XI của Đảng đang
được toàn dân nghiên cứu, góp ý kiến. Đây là cơ hội lớn để Đảng ta lắng
nghe, chắt lọc, tổng hợp, từ đó xây dựng được những văn kiện có giá trị quyết
định trong chiến lược phát triển đất nước thời kỳ mới. Và đó sẽ là sức mạnh
to lớn của toàn Đảng, toàn dân trong cuộc đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ
đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực phản động, thù địch ở vào một thời
điểm rất quan trọng hiện nay.
Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ
của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm thắng lợi của cách
mạng, của công cuộc đổi mới, của cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình".
Chúng ta đã làm được nhiều việc lớn, có tác dụng tích cực, song phải thừa
nhận rằng, trong lĩnh vực rất hệ trọng này, còn nhiều việc phải làm để hiện
thực hóa yêu cầu thực hành dân chủ trong Đảng và phương châm "dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Thời gian tới, cần kiên quyết chỉ đạo việc thể
chế hóa các quan điểm của Đảng về vấn đề dân chủ, quyền làm chủ, quyền
phản biện của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần
chúng; làm rõ hơn nữa, cụ thể hóa cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ". Nghiên cứu, kiện toàn hệ thống chính trị, đổi mới mạnh
mẽ và nâng cao chất lượng toàn diện của hệ thống đó, bảo đảm cho việc thực
hiện nguyên tắc cao nhất là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân trên cơ sở
Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý.
Từ những định hướng trên, tất cả các cấp, các ngành, dưới sự chỉ đạo
của cấp ủy đảng, cần triển khai đồng bộ, thường xuyên cuộc đấu tranh chống

"diễn biến hòa bình" trên tất cả các lĩnh vực cụ thể: Chính trị, tư tưởng, lý
luận, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, ngoại giao... từ Trung ương đến
22


địa phương, cơ sở. Cần chú trọng tính đặc thù trong từng lĩnh vực để lựa
chọn, xác định nội dung, phương thức, phương pháp đấu tranh thích hợp, hiệu
quả cao. Cần đặc biệt quan tâm, có kế hoạch xây dựng lực lượng nòng cốt
trực tiếp tham gia đấu tranh, triển khai đấu tranh có lý, có tình, nâng cao sức
thuyết phục, sự cảm hóa và tính khoa học trong đấu tranh trên từng lĩnh vực
cụ thể.
Nhân tố quyết định, nội dung và giải pháp đặc biệt quan trọng mà Đảng
cần tiếp tục triển khai là tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng
với những yêu cầu và phương thức mới, phù hợp với thời kỳ mới, đặc biệt sau
Đại hội XI của Đảng. Cuộc vận động mang ý nghĩa cực kỳ sâu sắc này sẽ có
ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín của Đảng,
ngăn chặn sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, phòng chống
căn bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang có nguy cơ làm suy yếu uy tín
của Đảng, niềm tin của nhân dân ta đối với Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin, uy tín của Đảng
trong lòng nhân dân, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng là câu trả lời đầy
sức thuyết phục chống lại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế
lực thù địch chống phá Đảng ta, chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội của nhân dân ta.
2. Trách nhiệm của học sinh, sinh viên trong cuộc đấu tranh chống
âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực văn hoá – tư
tưởng.
Ngày nay xu hướng của thế giới là xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập
kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế thị trường vì vậy xu hướng này đặt ra những
điều kiện thuận lợi cho sự sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa nhưng bên cạnh đó cũng có không ít những thách thức trong
quá trình hội nhập. Đặc biệt là sự bùng nổ thông tin – Internet, nguồn thông
tin đến với con người và các hoạt động khác bằng nhiều nguồn, nhiều phương
tiện. Nhu cầu thông tin trở thành nhu cầu của đời sống xã hội, hằng ngày
chúng ta vẫn tiếp cận với các nguồn thông tin khác nhau, nhu cầu sử dụng
mạng Internet ngày càng nhiều đặc biệt là thế hệ trẻ được tiếp cận với khoa
học công nghệ ngày càng tiên tiến, nếu chúng ta thiếu khả năng sử dụng mạng
Internet hay quan niệm rằng Internet chỉ chứa những sản phẩm độc hại, trong
khi chính nó – Internet hiện đang trở thành “món ăn tinh thần” quan trọng của
thế hệ trẻ. Vì vậy hàng ngày chúng ta vừa tiếp cận với thông tin chính thống
của Đảng, Nhà nước ta. Đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của các nguồn tin
23


khác của địch nhằm chống phá ta. Trách nhiệm của người trí thức trẻ trước
cuộc đấ tranh chống âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình” là bản thân
luôn nâng cao kiến thức về mọi mặt, có phương pháp xem xét tiếp cận thông
tin một cách đúng đắn có khoa học. Nâng cao cảnh giác, tự bảo vệ mình, đấu
tranh với những nhận thức không đúng, ngộ nhận, mơ hồ trước những nguồn
thông tin ngược chiều với quan điểm, đường lối, chủ trương cử Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước. Bản thân mỗi người có ý thức tự giác, kỷ luật
trong quá trình tiếp xúc thông tin, chấp hành tốt các quy định về quyền thông
tin, phạm vi thông tin, tham gia tích cực đấu tranh chống phao tin, đồn nhảm,
lưu truyền thông tin xấu, thất thiệt. Ra sức học tập trau dồi phẩm chất, năng
lực của người đoàn viên thanh niên, kế tiếp thế hệ cha anh góp phần thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

24



Kết luận
Trong lịch sử loài người, mọi cuộc chiến tranh xâm lược dù ở phương
Đông hay phương Tây cũng đều có chung một tình trạng : sức mạnh quân sự
chỉ là đột phá khẩu còn sức mạnh văn hoá mới là yếu tố đảm bảo cho quá
trình xâm lược hoàn tất. Vì xâm chiếm lãnh thổ chỉ thật sự có ý nghĩa làm cho
dân tộc bị xâm lược phải từ bỏ văn hoá riêng của mình và đi theo văn hoá do
người khác áp đặt. Để làm được điều này, vô số các thủ đoạn được thực thi.
Và nhìn chung, các biện pháp cưỡng chế bạo lực tỏ ra kém hiệu quả, nên xâm
lăng quân sự đồng thời là xâm lăng văn hoá. Do vậy không ít dân tộc bị đẩy
vào một quá trình suy thoái văn hoá, buộc phải đi từ chỗ mai một đến đánh
mất các giá trị văn hoá nội sinh, cuối cùng bị thủ tiêu tư cách chủ thể văn hoá
chính ngay trên tổ quốc mình. Và chỉ dân tộc nào có nội lực văn hoá mạnh
mẽ, có ý thức tự chủ, có bản lĩnh và lòng tự tôn… mới tạo dựng được khả
năng vượt qua sự “bức tử vưn hoá” từ bên ngoài.
Chúng ta đã biết, văn hoá không chỉ là nền tảng để phát triển dân tộc,
văn hoá đồng thời là công cụ quan trọng nhất để bảo vệ . Một dân tộc có thể
mất tổ quốc song nếu dân tộc ấy giữ gìn được văn hoá thì vẫn còn khả năng
để giành độc lập, còn nếu một dân tộc bị nước ngoài lũng đoạn về văn hoá thì
dân tộc đó sẽ mất tất cả. Nên không ngẫu nhiên “diễn biến hoà bình” lại coi
văn hoá là trọng điểm tấn công nhằm làm băng hoại, đẩy tới sự vận hành ra
ngoài quỹ đạo định hướng chính trị xã hội. Cuộc “tấn công” văn hoá diễn ra
trên hai bình diện. Một là gây nên tình trạng “tự diễn biến văn hoá” theo các
giá trị phương Tây, từ đó nảy sinh và làm trầm trọng xu hướng “tự diễn biến
chính trị”. Hai là dùng văn minh vật chất và truyền bá thông tin đơn hướng,
một chiều với mục đích gây hoang mang, lẫn lộn thật - giả, không phân được
đúng – sai, làm mất phương hướng trong hành động xã hội, trong tâm lý cộng
đồng, làm cho con người xa rời lý tưởng. thủ đoạn trên là “mũi dao thọc sâu
vào vương quốc tinh thần” và “thâm nhập văn hoá thực chất là thâm nhập về
tâm lý mang mục đích chiến lược”. Trên thực tế, “diễn biến hoà bình” về cơ
bản là chiến lược “mưa dầm thấm lâu” song nếu có thời cơ nó cũng không bỏ

qua. Do đó nếu chúng ta sẽ phải trả giá đắt nếu không đánh giá đúng và
không có phuong án chống lại, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay với xu thế
toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế thế giới.

25


×