Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

MỘT số GIẢI PHÁP đấu TRANH PHÒNG CHỐNG âm mưu THỦ đoạn DIỄN BIẾN hòa BÌNH của các THẾ lực THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH vực tư TƯỞNG lý LUẬN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.97 KB, 36 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG ÂM MƯU THỦ
ĐOẠN “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG LÝ LUẬN HIỆN NAY
Công tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận quan trọng của công tác xây
dựng Đảng và hoạt động lãnh đạo của Đảng, tác động vào ý thức cán bộ, đảng
viên, quần chúng nhân dân để định hướng nhận thức, giải quyết mâu thuẫn tư
tưởng, khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người và đấu
tranh chống mọi tư tưởng, lý luận sai trái, làm cho thế giới quan và hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân giữ địa vị thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, góp
phần hình thành con người mới và xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận là một nội dung, hình
thức có vai trò đặc biệt quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận. Thông qua
đấu tranh nhằm bảo vệ, phát triển, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh thực sự là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng và sự nghiệp cách mạng, giữ vững trận địa chính trị tư tưởng của Đảng
trong toàn xã hội.
Đấu tranh phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư
tưởng lý luận hiện nay, thực chất là cuộc đấu tranh giữa hai ý thức hệ xã hội
chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; là cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, quyết liệt,
phức tạp, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên mặt trận này, Đảng ta đã có nhiều văn bản chỉ thị, nghị quyết nêu rõ
các quan điểm, nhiệm vu và giải pháp lớn. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các văn
bản của Đảng và Nhà nước ta về nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống chiến lược
“Diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng lý luận, đã thể hiện nhất quán các
quan điểm cơ bản: Một là, Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch để bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, là một nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng lý luận hiện nay. Hai
là, Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch là bộ phận khăng khít của cuộc
đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư



2
tưởng lý luận của Đảng. Ba là, Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch là
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng các cấp.
Chiến lược “Diễn biến hòa bình” là có thật với âm mưu thủ đoạn ngày
càng tinh vi, xảo quyệt, đang từng ngày, từng giờ thẩm thấu chống phá cách
mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó chống
phá trên lĩnh vực tư tưởng lý luận được các thế lực thù địch coi là vấn đề trọng
tâm hàng đầu. Vì vậy việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp đấu tranh phòng,
chống âm mưu thủ đoạn đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để làm thất bại
chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hiện nay.
Việc nghiên cứu quán triệt và có giải pháp đấu tranh phòng, chống âm
mưu thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng lý luận là một yêu
cầu cấp thiết ở nước ta nói chung cũng như đối với Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay. Trên thực tế, “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đã
và đang bằng nhiều thủ đoạn mới chống phá cách mạng nước ta ngày càng
quyết liệt. Đảng và Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị,
nghị định tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa
bình” trên lĩnh vực tư tưởng lý luận. Đây là vấn đề cần phải được tiếp tục làm
rõ và vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên vững vàng về chính trị
tư tưởng, kiên dịnh mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tin tưởng
tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu thủ đoạn “DBHB” của các
thế lực thùi địch, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của
cánh mạng Việt Nam là xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa.
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA
BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH



3
1.1. Quá trình hình thành, phát triển chiến lược “Diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch
1.1.1. Khái niệm
“Diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực phản động nhằm lật đổ chế độ chính trị xã hội của các nước tiến bộ,
trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa, từ bên trong, chủ yếu bằng các biện
pháp phi quân sự.
Mặc dù có tên gọi là “Diễn biến hòa bình” nhưng thực chất chiến lược
này không phải mang lại hòa bình, duy trì hòa bình hay bảo vệ hòa bình cho
nhân loại mà thực chất là chiến lược phản hòa bình, xóa bỏ hòa bình; là một
dạng chiến tranh đặc biệt- chiến tranh không có tiếng súng, không có khói lửa;
là một chiến lược phản cách mạng cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch, phản động nhằm lật đổ chế độ chính trị xã hội của các nước tiến bộ,
trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa. Phương thức tiến hành chủ yếu của nó
là bằng các biện pháp phi quân sự như biện pháp về tư tưởng lý luận, kinh tế,
ngoại giao… Quá trình chống phá được tiến hành từ ngay bên trong lãnh thổ,
trong nội bộ tổ chức, trong mỗi con người... của đối phương làm cho đối
phương mơ hồ, mất cảnh giác dẫn đến tự diễn biến, tự chuyển hóa chế độ
chính trị xã hội.
1.1.2. Quá trình hình thành, phát triển
Dưới thời chủ nghĩa đế quốc, “Diễn biến hòa bình” lúc đầu là một
phương thức, một thủ đoạn hỗ trợ cho hành động quân sự để ngăn chặn chủ
nghĩa xã hội. Theo thời gian nó dần phát triển trở thành một bộ phận chủ yếu
trong chiến lược toàn cầu của Mỹ và phát triển thành một chiến lược phản cách
mạng cơ bản nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội với tư tưởng “chiến thắng không
cần chiến tranh”. Quá trình hình thành, phát triển của nó có thể chia làm hai
giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất từ sau Đại chiến thế giới II (3.1947) đến những năm
cuối thập niên 80 của thế kỷ XX. Đây là giai đoạn hình thành những tư tưởng

về “Diễn biến hòa bình”. Giai đoạn này, chính quyền Mỹ đưa ra những tư


4
tưởng “Diễn biến hòa bình” và được sử dụng với vai trò là những thủ đoạn hỗ
trợ cho các chiến lược quân sự (là chủ yếu) để ngăn chặn chủ nghĩa xã hội.
Sau Đại chiến thế giới lần thứ II, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra
đời và trở thành hệ thống trên thế giới (chiếm 35% dân số thế giới) đối lập với
hệ thống tư bản chủ nghĩa. Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã thực sự trở thành chỗ
dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc của nhân
dân tiến bộ trên thế giới. Cục diện thế giới hai cực được hình thành. Liên Xô
và Mỹ trở thành hai cường quốc mạnh nhất thế giới đứng đầu hai cực đấu tranh
quyết liệt với nhau. Dựa vào sức mạnh của mình (chiếm 62% tổng sản lượng
công nghiệp, 1/3 khối lượng thương mại, 2/3 lượng vàng dự trữ của thế giới),
tháng 3.1947, Tổng thống Mỹ Hary Truman đã công bố chiến lược an ninh
quốc gia “ngăn chặn” nhằm kiềm chế Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Với chiến lược “ngăn chặn”, Mỹ dùng hành động quân sự là chủ yếu nhưng
vẫn đồng thời sử dụng các biện pháp phi quân sự “Diễn biến hòa bình” để hỗ
trợ cho hành động quân sự.
Năm 1948, một nhà ngoại giao Mỹ là Akisơn đã đề xuất với Tổng
thống Mỹ Hary Truman dùng các biện pháp “phi quân sự” xâm nhập vào các
lĩnh vực của đời sống xã hội để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa ngay từ
trong lòng của chủ nghĩa xã hội. Từ đó, những tư tưởng về “Diễn biến hòa
bình” dần được hình thành và trở thành một biện pháp hữu hiệu để chống lại
chủ nghĩa xã hội.
Năm 1953, Đalét (Dulles - quốc vụ khanh của Mỹ) nhận thấy mặc dù
Mỹ đã tìm mọi cách để “ngăn chặn” nhưng lực lượng các nước xã hội chủ
nghĩa ngày càng lớn mạnh. Đồng thời cuộc chiến tranh xâm lược Triều Tiên
của Mỹ bị thất bại. Việc Mỹ chủ yếu dựa vào vũ lực để tiêu diệt các nước xã
hội chủ nghĩa là không thể thực hiện được. Nhưng Mỹ không chịu từ bỏ âm

mưu lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Đalét đã vạch ra chiến lược mới
dùng “Diễn biến hòa bình” - “chính sách giải phóng”. Ngay từ năm 1953, khi
nhậm chức quốc vụ khanh của Mỹ, ông ta đã tuyên bố sẽ dùng “chính sách giải
phóng” “có sức mạnh và chủ động hơn” để thay thế cho “chính sách ngăn
chặn” không có hiệu quả. Ông ta nói “chúng ta cần phải luôn nhớ tới vấn đề


5
giải phóng của những người đang bị nô dịch. Song giải phóng không có nghĩa
là chiến tranh. Giải phóng có thể dùng những biện pháp ngoài chiến tranh, biện
pháp hòa bình” (“Diễn biến hòa bình” và chống “Diễn biến hòa bình” , tr.43).
“Biện pháp hoà bình” mà Đalét đề cập ở đây chính là “Diễn biến hòa bình”
song vẫn dùng răn đe quân sự làm hậu thuẫn, tạo ra sức thâm nhập kinh tế,
chính trị, văn hoá tư tưởng đối với các nước xã hội chủ nghĩa, khiến chủ nghĩa
xã hội tan rã từ trong lòng của nó”, “rút ngắn tuổi thọ của chủ nghĩa xã hội”.
Ngày 15 tháng 01 năm 1953, khi điều trần trước Nghị viện Mỹ, ông hùng hồn
tuyên bố rằng “biện pháp để làm sụp đổ sự đe doạ của chủ nghĩa xã hội đối với
thế giới tự do cần phải và chỉ có thể tiến hành bằng biện pháp hoà bình. Thật
ngây thơ nếu ai không tin vào sức ép của tinh thần, không tin vào hiệu quả của
tuyên truyền”.
Trong thời gian này, Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu “ngăn chặn” chủ
nghĩa xã hội là chính, còn “Diễn biến hòa bình” được xem như một biện pháp
hỗ trợ cho tiến công quân sự để xâm nhập vào các lĩnh vực, thúc đẩy sự biến
đổi bản chất của chế độ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Tháng 12 năm 1957, Tổng thống Aixenhao công khai tuyên bố sẽ thực
hiện chiến lược giành thắng lợi bằng hòa bình. Những năm sau đó, nhiều đời
Tổng thống kế tiếp như Kennơđi, Giônxơn, Níchxơn, Pho...đã coi trọng và
thực hiện biện pháp “hòa bình” để chống lại phong trào cộng sản trên thế giới.
Trong hai ngày 18 và 19 tháng 10 năm 1983, Mỹ triệu tập hội nghị “dân chủ
hoá các nước xã hội chủ nghĩa” với mục đích tìm biện pháp thúc đẩy “tự do

hoá và dân chủ hoá” trong các nước xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, kể từ sau Đại chiến thế giới II đến những năm đầu thập niên
80 của thế kỷ XX, “Diễn biến hòa bình” được hình thành, là những tư tưởng,
hành động chống phá và được coi là một thủ đoạn hỗ trợ cho các chiến lược
quân sự để chống phá chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn hai từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX đến nay. Những tư
tưởng về “Diễn biến hòa bình” có sự phát triển, được nâng lên thành chiến
lược phản cách mạng toàn cầu và không ngừng được điều chỉnh cho phù hợp
với diễn biến mới của tình hình.


6
Sau gần 40 năm “ngăn chặn” chủ nghĩa xã hội bằng biện pháp quân sự,
người Mỹ đã nhận ra rằng không thể ngăn chặn và tiêu diệt được Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa bằng chính sách pháo hạm. Đồng thời vào những
năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, Liên Xô và nhiều nước xã hội chủ nghĩa
khác ở Đông Âu gặp phải khó khăn về nhiều mặt, tiến hành cải cách, cải tổ,
nội bộ phát sinh nhiều mâu thuẫn và những vấn đề phức tạp… Mỹ và phương
Tây cho rằng “lúc này chính là thời cơ mang tính lịch sử” để thực hiện “Diễn
biến hòa bình” và chúng đã điên cuồng thực hiện “Diễn biến hòa bình” chống
phá Liên Xô và các xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Năm 1988, Tổng thống Mỹ Rigân công bố chiến lược an ninh quốc gia
“vượt trên ngăn chặn” và “Diễn biến hòa bình” là nội dung chủ yếu của chiến
lược “vượt trên ngăn chặn”. Kể từ đây, những tư tưởng về “Diễn biến hòa
bình” đã phát triển thành chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Trong báo cáo
chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ, Tổng thống Mỹ Rigân nêu rõ “phải
khuyến khích khuynh hướng tự do hoá ở Liên Xô và các nước phụ thuộc Liên
Xô” do đó “Diễn biến hòa bình” được chúng thi hành tích cực và điên cuồng.
Tháng 7 năm 1994 Mỹ công bố chiến lược an ninh quốc gia “dính líu và
khuếch trương” (còn gọi là “can dự và mở rộng”) nhằm xoá bỏ các nước xã hội

chủ nghĩa còn lại, hình thành trật tự thế giới đơn cực do Mỹ cầm đầu. Thực
hiện “can dự và mở rộng”, Mỹ tăng cường vai trò của mình trong các vấn đề
quốc tế, can thiệp sâu hơn vào công việc nội bộ các nước có chủ quyền, chống
lại phong trào độc lập dân tộc, xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, kiềm
chế các nước có khả năng thách thức vị trí siêu cường của Mỹ, tiêu diệt các
nước cứng đầu, các nước chống lại Mỹ hoặc không tuân theo “gậy” chỉ huy
của Mỹ. Thực hiện mưu đồ đó, Mỹ lấy “Diễn biến hòa bình” là chủ yếu kết
hợp với kích động các hoạt động chống đối, bạo loạn lật đổ từ trong nội bộ các
nước đồng thời vẫn duy trì sức ép quân sự để sẵn sàng can thiệp vũ trang từ
bên ngoài vào… làm suy yếu để chuyển hoá và tiến tới lật đổ chế độ chính trị
xã hội của các nước tiến bộ và các nước xã hội chủ nghĩa.
Các đời Tổng thống Mỹ sau này như Clintơn, Bush, Ôbama… đã nhiều
lần điều chỉnh và công bố các chiến lược an ninh quốc gia mới song về cơ bản


7
Mỹ vẫn thực hiện “Diễn biến hòa bình” nhưng biện pháp, bước đi có sự điều
chỉnh cho phù hợp với tình hình mới như thông qua viện trợ, trao đổi buôn
bán, mậu dịch, du lịch, giao lưu, đào tạo lưu học sinh... Mới đây, Tổng thống
Ôbama tuyên bố chiến lược an ninh quốc gia mới, không thực hiện chiến lược
quân sự “tiến công chặn trước, đánh đòn phủ đầu”. Chính vì thế, trên thực tế
chúng càng coi trọng và đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”,
can thiệp sâu hơn vào nội bộ các quốc gia có chủ quyền, bất chấp luật pháp
quốc tế, ngang nhiên triển khai lực lượng của mình ở nhiều nước để thực hiện
cái gọi là “tiêu diệt các lực lượng khủng bố, các phần tử khủng bố”….
Từ đó, có thể khẳng định rằng hiện nay và về sau này, chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch phản động vẫn sử dụng “Diễn biến hòa bình” là chiến
lược phản cách mạng cơ bản để tiếp tục chống phá các nước tiến bộ và các
nước xã hội chủ nghĩa còn lại.
1.1.3. Đặc trưng cơ bản của chiến lược “Diễn biến hòa bình”

Một là, sử dụng các biện pháp phi vũ trang là chủ yếu để chống phá các
nước xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc. Bằng phương thức hoà
bình, từng bước gây ảnh hưởng có lợi tiến tới xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa,
dập tắt phong trào cách mạng, phong trào độc lập dân tộc. Đây là cuộc chiến
tranh không mùi thuốc súng, không có khói lửa, chết chóc đổ máu… nhưng
cực kỳ nguy hiểm.
Hai là, thông qua các “công cụ mềm” như kinh tế, ngoại giao, văn hoá,
chính trị... để làm sụp đổ các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong. Tuy đế quốc
Mỹ và các thế lực thù địch sử dụng các biện pháp “phi quân sự” là chủ yếu để
làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn coi trọng sức mạnh quân sự để
răn đe, sẵn sàng can thiệp và làm hậu thuẫn cho các thủ đoạn trên.
Ba là, tác động từ bên ngoài vào tạo sự tự diễn biến ở bên trong để đối
phương tự chuyển hoá chế độ chính trị. Khác với các cuộc chiến tranh thông
thường bằng vũ lực, “Diễn biến hòa bình” chủ yếu dùng lực lượng con người,
phương tiện của đối phương đánh phá từ trong nội bộ đối phương với sự hỗ
trợ, tác động từ bên ngoài vào làm cho đối phương mơ hồ, mất cảnh giác, ngộ


8
nhận về bản chất phản động của chủ nghĩa đế quốc, làm cho đối phương tự
diễn biến và sụp đổ nhanh chóng.
Bốn là, ru ngủ tinh thần cảnh giác cách mạng của nhân dân bằng thủ
đoạn tinh vi, xảo quyệt như mua chuộc bằng vật chất, đòi mở rộng dân chủ để
thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, xâm nhập, thao túng khống
chế về kinh tế... tiến tới làm mục ruỗng nội bộ, sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nhịp điệu phát triển từ từ, “thẩm thấu hoà bình”, liều lượng vừa đủ để đối
phương mất cảnh giác. Cảm nhận có vẻ ít khốc liệt, không rầm rộ, không tàn
phá như chiến tranh vũ lực nhưng hiệu quả lớn hơn nhiều lần.
Năm là, chiến lược “Diễn biến hòa bình” mang tính toàn cầu trong
chống phá các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc. Chiến

lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch không giới hạn thời gian và
không gian, là chiến lược phá hoại toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, quân sự, ngoại giao... đẩy đối phương suy yếu dẫn đến
rối loạn nội bộ rồi sụp đổ.
1.2. Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống
phá cách mạng Việt Nam.
1.2.1. Khái quát quá trình chống phá cách mạng Việt Nam của các
thế lực thù địch.
Quá trình chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch luôn coi
Việt Nam là một mắt xích, trọng điểm chống phá. Chúng không từ bất kỳ âm
mưu thủ đoạn nào nhưng luôn coi trọng sử dụng “Diễn biến hòa bình”. Chúng
chống phá trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đối với mọi tổ chức,
mọi lực lượng, mọi địa bàn, mọi vùng, miền của đất nước và có thể chia quá
trình đó thành 3 giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến tháng 4
năm 1975. Thời kỳ này chủ nghĩa đế quốc dùng hành động quân sự là chủ yếu
tiến hành gây chiến tranh xâm lược Việt Nam, âm mưu biến Việt Nam thành
thuộc địa (cả kiểu cũ và mới) của chúng, song chúng vẫn sử dụng “Diễn biến
hòa bình” để hỗ trợ cho hành động quân sự đi xâm lược. Tuy nhiên âm mưu


9
thủ đoạn đó của chúng đã bị thất bại hoàn toàn trước tinh thần, ý chí và sức
mạnh của dân tộc Việt Nam.
Giai đoạn hai từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 01 năm 1994. Thất bại
bằng hành động quân sự, không đạt được mục đích xâm lược Việt Nam, biến
Việt Nam thành thuộc địa, chúng chuyển sang chống phá bằng biện pháp phi
quân sự, bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” là chủ yếu với các thủ đoạn nổi
bật nhất lúc này là “bao vây, cấm vận kinh tế”, “cô lập về ngoại giao”, lợi dụng
những khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại, những yếu kém trong công tác

quản lý xã hội của ta để chống phá... và trên thực tế đã gây cho ta nhiều khó
khăn nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Giai đoạn ba từ tháng 02 năm 1994 đến nay, chúng vẫn sử dụng chiến
lược “Diễn biến hòa bình” là chủ yếu để chống phá sự nghiệp cách mạng nước
ta nhưng có sự điều chỉnh phương thức, thủ đoạn chống phá linh hoạt và mềm
dẻo hơn cho phù hợp với diễn biến mới của tình hình. Sự điều chỉnh đó nhìn
hiện tượng bên ngoài có vẻ rất thân thiện, gần gũi bằng việc “xóa bỏ lệnh cấm
vận kinh tế”, “bình thường hoá quan hệ” nhưng thực chất đằng sau đó sự
chống phá tinh vi hơn và quyết liệt hơn. Ngày 03 tháng 02 năm 1994, Mỹ
tuyên bố bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam và ngày 11 tháng 7 năm 1995,
tuyên bố bình thường hoá quan hệ với nước ta. Chúng ta cũng mong muốn Mỹ
xoá bỏ cấm vận kinh tế, bình thường hoá quan hệ để mở rộng quan hệ đối
ngoại, phát huy và khai thác hết các nguồn lực cho sự phát triển. Tuy nhiên,
trong tình hình đó ta càng phải nâng cao cảnh giác cách mạng trước âm mưu
thủ đoạn mới, lợi dụng chính sách mở cửa của ta để dễ bề thâm nhập, thẩm
thấu chống phá của chúng. Cựu Tổng thống Mỹ B.Clintơn từng tuyên bố (khi
điều trần trước Nghị viện về việc Mỹ xóa bỏ cấm vận kinh tế, bình thường hoá
quan hệ với Việt Nam ngày 13 tháng 7 năm 1995): “Việc bình thường hoá
quan hệ của chúng ta với Việt Nam không phải là kết thúc những nỗ lực của
chúng ta. Chúng ta tiếp tục phấn đấu cho đến khi chúng ta có được câu trả lời
mà chúng ta có thể có. Tôi tin rằng việc bình thường hoá quan hệ và tăng
cường tiếp xúc giữa người Mỹ với người Việt Nam sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do
ở Việt Nam như đã từng diễn ra ở Liên Xô và Đông Âu trước đây”.


10
1.2.2. Mục tiêu, thủ đoạn chống phá chủ yếu.
Mục tiêu xuyên suốt, nhất quán của chiến lược “Diễn biến hòa bình”
chống phá cách mạng Việt Nam là xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; lái Việt Nam vào quỹ

đạo của chủ nghĩa tư bản phục vụ cho quyền lợi của Mỹ ở khu vực.
Để thực hiện được mục tiêu đó chúng không từ bất kỳ thủ đoạn nào.
Trong đó, thủ đoạn chống phá chủ yếu chúng là thực hiện ngầm (Bí mật, ngấm
ngầm thông qua bình phong, “vỏ bọc” như các vấn đề “tự do”, “dân chủ”,
“nhân quyền”, “chống tham nhũng”, “góp ý kiến xây dựng Đảng”... tìm mọi sơ
hở, thiếu sót ngay trong nội bộ đối phương để chống phá làm cho đối phương
không nhận biết được mục đích, bản chất của sự chống phá dẫn đến mơ hồ,
mất cảnh giác, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ...); mềm (dùng các
biện pháp phi vũ trang là chủ yếu thay cho hành động vũ trang cứng rắn trước
đây, đối thoại thay cho đối đầu, bắt tay thay cho súng đạn. Nếu nhìn hiện
tượng bên ngoài rất thân thiện, rất gần gũi, song sự thân thiện và gần gũi đó là
giả tạo, để che đậy cho các các âm mưu và hành động chống phá, còn thực chất
sự chống phá, tinh vi hơn, linh hoạt hơn và quyết liệt hơn); và sâu (chống phá
từ bên trong, cài cắm, tạo dựng lực lượng chính trị phản động chống đối trong
nội bộ đối phương, thúc đẩy đối phương suy yếu, rối loạn, tự diễn biến, tự
chuyển hóa từ bên trong, từ trên cao. Chống phá toàn diện nhưng có xác định
trọng tâm, trọng điểm ...).
Chúng chống phá trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đối với
mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi địa bàn, mọi vùng miền của đất nước. Trong
đó, lấy chống phá về tư tưởng lý luận là khâu trọng tâm “đột phá”; chống phá
về kinh tế là “mũi nhọn”; lĩnh vực dân tộc, tôn giáo được coi là “ngòi nổ”;
ngoại giao để “hỗ trợ”; quân sự để “răn đe”. Kết hợp công khai với bí mật, hợp
pháp với bất hợp pháp. Đặc biệt triệt để khai thác và lợi dụng những sơ hở, yếu
kém trong công tác lãnh đạo, quản lý xã hội, những khó khăn thiếu thốn trong
đời sống, những mâu thuẫn bức xúc trong nhân dân, những điểm nóng trong nội
bộ của ta để chống phá... kết hợp với tạo dựng lực lượng phản động từ bên trong
làm cho ta tự suy yếu, tự diễn biến, dẫn đến sụp đổ chế độ chính trị xã hội.


11

Chúng đặc biệt coi trọng chống phá sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chuyển hoá đội ngũ cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước ta, làm “vô
hiệu hóa” lực lượng vũ trang nhân dân, “phi chính trị hoá” Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân. Quá trình chống phá khi thấy có điều kiện thời cơ sẽ kết
hợp “Diễn biến hòa bình” với bạo loạn lật đổ, can thiệp vũ trang, phát động
chiến tranh xâm lược... và các thủ đoạn khác để nhanh chóng đạt dược mục
tiêu chiến lược.
II. ÂM MƯU THỦ ĐOẠN “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ
LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ TA TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG LÝ
LUẬN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG HIỆN NAY

2.1. Âm mưu thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
trên lĩnh vực tư tưởng lý luận đối với Việt Nam hiện nay
2.1.1. Mục đích của các thế lực thù địch
Chúng xác định chống phá trên lĩnh vực tư tưởng lý luận là vấn đề trọng
tâm hàng đầu. Tất cả các lĩnh vực khác suy đến cùng để hỗ trợ mặt trận này.
Cựu Tổng thống Mỹ Richát Níchxơn- một trong những tác giả của “Diễn biến
hòa bình” từng viết trong cuốn sách “chiến thắng không cần chiến tranh”: “Mặt
trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất. Toàn bộ vũ khí của chúng ta, các
hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ quốc tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng
ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”.
Mục đích của chúng chống phá trên lĩnh vực tư tưởng lý luận nhằm làm
cho Đảng ta xa rời chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư
tưởng, lý luận, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng ta; xoá bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với xã hội; chống phá đội ngũ cán
bộ đảng viên nhất là cán bộ chủ chốt các cấp và lãnh tụ của Đảng, Nhà nước;
làm mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; xoá
dần bản sắc văn hóa dân tộc, truyền thống cách mạng, chuẩn mực đạo đức con
người Việt Nam… Trong khi nền tảng văn hóa Việt Nam là văn hóa làng xã,
mất nước nhưng không mất làng, phép vua thua lệ làng... thì hiện nay trên một

số trang Web phản động do các thế lực thù địch dựng lên xuất hiện nhiều bài


12
viết hùng hồn tuyên bố “Diễn biến hòa bình” sẽ làm cho Việt Nam “tan làng,
nát xã, rã huyện, lay chuyển tỉnh để điều chỉnh Trung Ương”. Để làm mất
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, các
thế lực thù địch triệt để khai thác, lợi dụng một số yếu kém trong quản lý xã
hội của ta để rêu rao với lời lẽ thâm độc “Trung Ương chỉ biết tương xuống
tỉnh, tỉnh chỉnh huyện, huyện điện xuống xã, xã nã xuống thôn, thôn dồn
xuống xóm, xóm tóm cổ dân”; hay như là “Đảng chỉ tay, Quốc hội dơ tay, mặt
trận vỗ tay, chính quyền bó tay, doanh nghiệp móc tay, nhân dân trắng tay...”.
Gần đây, sau sự kiện cưỡng chế đất ở Tiên Lãng- Hải Phòng, Văn Giang –
Hưng Yên, chúng ra sức rêu rao... “chính quyền bất nhất, cán bộ bất minh,
chính trị xã hội bất ổn, nhân dân bất an”... Chúng biến cái không thể thành có
thể, thật giả, trắng đen lẫn lộn khó phân biệt, không mua được bằng tiền thì
mua bằng rất nhiều tiền, bằng gái đẹp, bằng uy quyền... Nhịp điệu chống phá
từ từ, liều lượng vừa đủ, mềm dẻo, linh hoạt…để ta khó nhận biết bản chất và
bộ mặt thật của chúng và từ tác động ban đầu chúng mong muốn làm cho ta tự
chuyển hóa, tự diễn biến từ trên cao, ngay trong nội bộ...
2.1.2. Thủ đoạn chủ yếu
Chúng ra sức xuyên tạc chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nói xấu
lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước. Rất thâm độc, thời gian qua chúng
đã xây dựng và trình chiếu bộ phim “Sự thật về Hồ Chí Minh” nhưng hoàn
toàn không đúng sự thật nhằm bôi nhọ và “phá vỡ nền tảng cuối cùng của chế
độ cộng sản Việt Nam là hình tượng chủ tịch Hồ Chí Minh”. Chúng xuyên tạc
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của ta
là “nhốt cả dân tộc vào cái rọ chuyên chính vô sản về mặt chính trị”. Chúng
nghiên cứu rất kỹ chủ nghĩa Mác- Lênin để tìm cách chống phá, xuyên tạc.

Chúng thừa nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà C.Mác chỉ ra phải dựa
trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác gắn với cơ sở vật chất xã hội là một
nền đại công nghiệp là đúng để phủ nhận: Liên Xô trước kia chưa có đại công
nghiệp mà xây dựng chủ nghĩa xã hội nên là đẻ non cho nên sẽ chết yểu và
thực tế đã sụp đổ là khách quan đúng quy luật. Còn Việt Nam quá độ lên chủ


13
nghĩa xã hội từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế tiểu nông lạc hậu,
hoàn toàn không đúng với lí luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chủ
nghĩa C.Mác chỉ ra cho nên là quái thai của lịch sử ...Nếu chúng ta không nhận
thức đúng bản chất vấn đề, không nắm chắc điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa mà Lênin đã chỉ ra thì khó có thể bác bỏ
quan điểm chống phá đó. Chúng còn tìm mọi cách phủ nhận những vấn đề cơ
bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Chúng cho rằng phải phân chia sự phát triển xã
hội loài người dựa trên các nền văn minh như văn minh đồ đá, đồ đồng, văn
minh công nghiệp, hậu công nghiệp... để phủ nhận học thuyết Mác- Lênin về
hình thái kinh tế xã hội. Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay chúng
cho rằng không còn đấu tranh giai cấp, đấu tranh ý thức hệ mà chỉ có “hòa
đồng ý thức”, “hòa đồng hệ tư tưởng” để cùng “dắt tay nhau đi dưới tấm biển
chỉ đường của con đường thứ ba không theo hệ tư tưởng vô sản mà cũng chẳng
theo hệ tư tưởng tư sản” để xóa bỏ học thuyết của Mác- Lênin về vấn đề đấu
tranh giai cấp... Hay như chúng trắng trợn xuyên tạc rằng Học thuyết MácLênin về đấu tranh giai cấp chính là nguyên nhân của chiến tranh và xung đột
trên thế giới...
Chúng chú trọng gây dựng, nuôi dưỡng các tổ chức phản động người Việt
lưu vong ở cả trong và ngoài nước để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta.
Theo thống kê của cơ quan bảo vệ an ninh Quân đội, đến 6/2014 có gần 500 tổ
chức phản động ở hải ngoại với 255 tổ chức có danh tính thường xuyên hoạt
động chống phá Việt Nam. Chúng lôi kéo những phần tử cơ hội, bất mãn, thâm
thù với cách mạng vào hoạt động chống phá ta trên mặt trận tư tưởng lý luận.

Năm 2009 lực lương an ninh Việt Nam từng phá vụ án với mã số T509 bắt các
tên cầm đầu Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Trần Anh Kim....đã xét xử
ngày 20 tháng 01 năm 2010 với tội danh chống phá nhà nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, trong lời khai nhận tội, các đối tượng trên đều thừa nhận
đã nhiều lần tiếp xúc, chịu sự chỉ đạo và làm việc cho phản động nước ngoài.
Gần đây chúng công khai cổ súy, giật dây, kích động những nhân vật như
Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Lý, Cù Huy Hà Vũ... chống
đối ta trên nhiều mặt, nói xấu Đảng và Nhà nước, đòi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp


14
nước ta, bôi đen hai cuộc kháng chiến của dân tộc, đòi đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập... Trong khi Việt Nam chúng ta thống nhất trong toàn Đảng, toàn
dân, toàn xã hội một phương hướng chính trị duy nhất (nhất nguyên chính trị)
đúng là đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các thế lực thù địch ra sức tuyên
truyền, gây sức ép và bằng nhiều thủ đoạn, mong muốn trong Đảng và xã hội
xuất hiện nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau từ đó đòi đa nguyên chính
trị, đảng đối lập. Hoặc như chúng từng rêu rao và tuyên truyền “cái” mà Việt
Nam ta đang ra sức xây dựng không phải là chủ nghĩa xã hội mà thực chất là
chủ nghĩa tư bản định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng triệt để lợi dụng và núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân
quyền”, đòi “tự do dân chủ, tự do báo chí, tự do bầu cử”... để chống phá. Uỷ
ban nhân quyền Mỹ đã từng đề xuất để Hạ viện Mỹ thông qua dự luật nhân
quyền Việt Nam chúng đưa ra 5 nội dung (Biện pháp, chế tài trừng phạt nếu
Việt Nam không cải thiện tình hình nhân quyền; đưa ra những “tiêu chuẩn” đo
lường nhân quyền của Việt Nam; chi ngân sách 2 triệu đôla để phát triển nhân
quyền ở Việt Nam; chi 10 triệu đôla để phát triển đài Châu Á tự do và đẩy
mạnh chương trình định cư cho người Việt tại Mỹ). Hoặc như nghị quyết nhân
quyền đòi thả Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Cù huy
Hà Vũ... đây là những điều vô lý, nực cười và thực chất là chúng đang lợi dụng

vấn đề “nhân quyền”; coi “nhân quyền” cao hơn chủ quyền để can thiệp sâu
hơn vào công việc nội bộ Việt Nam.
Chúng còn lợi dụng “chống tham nhũng”, “góp ý kiến xây dựng Đảng”
để kích động, phân hoá, chia rẽ nội bộ, gây mâu thuẫn trong nội bộ Đảng và
nhân dân, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Kích động, lôi kéo một số
văn nghệ sĩ thiếu bản lĩnh chính trị vào sáng tác “theo đơn dặt hàng” các nội
dung có tính phản động, đồi truỵ. Ra sức tuyên truyền để đưa các tài liệu, văn
hoá phẩm độc hại vào nước ta để chống phá, để “xâm lăng văn hóa”. Một số
nhân vật điển hình trong hoạt động này như Dương Thu Hương, Trần Khải
Thanh Thuỷ với nhiều tác phẩm phản động như “đỉnh cao chói lọi”, “văn hóa
Ba Đình” ... Triệt để sử dụng và khai thác thế mạnh của các phương tiện thông
tin đại chúng để bôi nhọ, nói xấu, vu cáo Việt Nam. Với quan điểm “một đài


15
phát thanh có thể bình định một nước đất nước, một đôla tuyên truyền có tác
dụng bằng năm đôla chi cho quân sự” chúng đang lợi dụng các phương tiện
thông tin đại chúng như hệ thống báo chí, truyền thanh, truyền hình... đặc biệt
là mạng Internet để chống phá Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Cục Bảo
vệ an ninh Quân đội, hiện nay có tới 54 đài phát thanh, truyền hình; 600 sách,
báo, tạp chí; 78 nhà xuất bản có chương trình tiếng Việt mang nội dung bôi
nhọ, nói xấu, vu cáo Việt Nam.
Chúng còn tuyên truyền lối sống phương Tây, sống gấp, sống buông thả,
ích kỷ, thực dụng... không phù hợp với chuẩn mực đạo đức và văn hóa Việt
Nam, làm xuống cấp đạo đức, lối sống, văn hóa ứng xử, sinh hoạt cộng
đồng…. Lợi dụng chương trình giúp đỡ giáo dục đào tạo để đưa cán bộ của ta
ra nước ngoài, mua chuộc, khống chế, làm tha hoá, để đào tạo ra một thế hệ
cán bộ thân Mỹ… Thực hiện âm mưu “dùng cộng sản con để lật đổ cộng sản
cha”, làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng thế hệ cán bộ trẻ.
Những âm mưu thủ đoạn trên của chúng rất tinh vi, thâm độc đòi hỏi

chúng ta phải luôn cảnh giác, tỉnh táo, tích cực chủ động và kiên quyết đấu
tranh làm thất bại nó.
2.2. Một số giải pháp đấu tranh phòng, chống âm mưu thủ đoạn
“Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng lý
luận đối với Việt Nam hiện nay.
Đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng lý luận đối với Việt Nam hiện nay cần
quán triệt và thực hiện nghiêm Chỉ thị số 34- CT/TW, ngày 17 tháng 4 năm
2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về tăng cường cuộc đấu tranh chống
âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa và
Thông báo số 21-TB/TW ngày 25 tháng 4 năm 2011 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng “Về tăng cường công tác nghiên cứu, đấu tranh chống thông tin,
quan điểm sai trái, thù địch” nhằm giữ vững định hướng chính trị xã hội chủ
nghĩa, bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam”. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 5, khóa X, ngày 01/8/2007 “Về công


16
tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”. Nghị quyết chỉ rõ: “Triển
khai đồng bộ, chủ động cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, phản bác các
luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm
thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình”, thực hiện đa nguyên chính trị, hình
thành lực lượng đối lập, gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch; thường
xuyên cảnh giác, chủ động phòng, chống nguy cơ tự diễn biến ở cả trung ương
và các ngành, các cấp” và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Trong đó cần tập
trung vào một số giải pháp cụ thể.
2.2.1. Kiên trì lập trường quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng
và sự nghiệp cách mạng, không ngừng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, bổ
sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và
thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng
đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân”1.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết cách mạng nhất, hoàn chỉnh nhất,
là tinh hoa của trí tuệ loài người, là sản phẩm có tính quy luật của sự phát triển
những tư tưởng tiên tiến của nhân loại, nó chỉ ra quy luật vận động khách quan
của tự nhiên, xã hội, tư duy; chỉ ra quy luật phát triển tất yếu của xã hội loài
người là tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan,
phương pháp luận, là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân và Đảng Cộng
sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều nhưng chủ nghĩa chắc chắn nhất, chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ
nghĩa Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
1. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.20,21.


17
tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân
dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng
Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân, về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán
bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của

nhân dân. Chính vì vậy trong bất kỳ tình huống nào Đảng ta cũng phải kiên
định với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là nguyên tắc
bất di bất dịch của Đảng. Xa rời nguyên tắc này tất yếu sẽ dẫn đến xa rời bản
chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản, xa rời mục tiêu, lý tưởng, hệ tư
tưởng cách mạng và khoa học của Đảng, làm cho Đảng thoái hoá, biến chất,
không còn đủ bản lĩnh chính trị, năng lực, trí tuệ để lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, kinh nghiệm xây dựng
chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu tranh tư tưởng ở các nước xã hội chủ nghĩa cho
thấy, kiên trì lập trường quan điểm lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư
tưởng không đồng nghĩa với việc biến chủ nghĩa Mác-Lênin thành một thứ
kinh thánh để ca tụng và vận dụng giáo điều, máy móc. Vấn đề là Đảng phải
nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu tinh
hoa văn hóa của nhân loại, tri thức mới của thời đại, nâng cao năng lực trí tuệ;
phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy lý
luận, kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt, sáng tạo về sách lược,
phương pháp; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc đổi mới vô nguyên tắc, chủ
quan, nóng vội.
Bên cạnh việc bổ sung, phát triển lý luận, phải kiên trì đấu tranh với các
tư tưởng, quan điểm sai trái, những nhận thức không đúng để bảo vệ chủ nghĩa
Mác-Lênin, bảo vệ lý tưởng mác xít, làm cho các giá trị tiến bộ của nhân loại
trở nên sống động trong hiện thực và trong tâm hồn, trái tim mỗi con người, trở
thành giá trị vĩnh hằng của nhân loại. Đồng thời, tăng cường nghiên cứu, học


18
tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân vào từng hoạt
động, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để cho tư tưởng Hồ Chí
Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho

hành động của Đảng, của nhân dân, đưa sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước đi đến thắng lợi hoàn toàn. Đó là sự bác bỏ có sức thuyết
phục nhất đối với những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực phản động.
2.2.2. Xây dựng cơ sở chính trị trong sạch vững mạnh, đấu tranh
phòng chống có hiệu quả quan liêu tham nhũng và tiêu cực xã hội.
Cơ sở chính trị là nền tảng của chế độ chính trị xã hội. Cơ sở chính trị xã
hội được xây dựng trong sạch vững mạnh sẽ bảo đảm cho chế độ chính trị xã
hội luôn ổn định, phát triển bền vững. Xây dựng cơ sở chính trị trong sạch
vững mạnh chính là củng cố và giữ vững chế độ chính trị xã hội ngay từ địa
phương, cơ sở, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xóa bỏ chế độ chính trị xã hội
chủ nghĩa bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Xây dựng cơ sở chính trị thực chất là xây dựng các cấp uỷ Đảng, chính
quyền, các tổ chức chính trị xã hội, khối đại đoàn kết toàn dân, các cộng đồng
dân cư ở địa phương, cơ sở vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo, quản lý, điều
hành mọi hoạt động của địa phương, cơ sở. Trong khi hiện nay, vai trò, uy tín,
niềm tin và hiệu quả hoạt động của cơ sở chính trị ở một số nơi có biểu hiện
suy giảm. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp uỷ Đảng cơ sở có nơi
giảm sút; chính quyền quan liêu, lãng phí, xa dân, quản lý điều hành xã hội
kém hiệu quả; các tổ chức chính trị xã hội, khối đại đoàn kết toàn dân, các
cộng đồng dân cư không được ủng cố, hoạt động không đúng chức năng,
nhiệm vụ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất. Đặc
biệt tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tệ nạn xã hội còn sảy
ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Đây chính là những sơ hở, yếu
kém trong nội bộ của chúng ta mà các thế lực thù địch triệt để khai thác, lợi
dụng, khoét sâu để đẩy mạnh “Diễn biến hòa bình” chống phá ta, làm cho ta tự
diễn biến, tự chuyển hóa. Do vậy, để đấu tranh phòng, chống, làm thất bại âm
mưu thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hiện nay, nhất



19
thiết phải xây dựng cơ sở chính trị trong sạch vững mạnh gắn với đấu tranh
phòng chống có hiệu quả quan liêu tham nhũng và tiêu cực, tệ nạn xã hội và
đây là việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Để xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh và đấu tranh phòng chống có
hiệu quả quan liêu tham nhũng và tiêu cực xã hội trước hết phải củng cố và giữ
vững trận địa chính trị tư tưởng trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, phẩm chất năng lực, đạo
đức cách mạng, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh thực hiện
cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở địa
phương, cơ sở đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả. Tập trung nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp uỷ Đảng cơ sở, xây dựng Đảng
thực sự trong sạch vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ theo đúng tinh thần Nghị
quyết Trung Ương 4 khóa XI. Duy trì nghiêm kỷ luật của Đảng ở các cấp, xử lí
kịp thời những cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng có khuyết điểm; khen thưởng
kịp thời những đảng viên, tổ chức Đảng và quần chúng thực hiện tốt đường lối,
chủ trương, Điều lệ Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chú trọng
xây dựng và củng cố các tổ chức ở cơ sở thực sự trong sạch vững mạnh, làm
việc đúng chức năng, nhiệm vụ. Phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của
đội ngũ cán bộ đảng viên ở cơ sở. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở gắn
với kỷ luật, kỷ cương. Củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao
chất lượng, hiệu quả, nền nếp hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội, các
cộng đồng dân cư. Đổi mới và cải cách thủ tục hành chính, xây dựng nền nếp
và quy chế làm việc gần dân, tôn trọng nhân dân, sâu sát thực tế. Quan tâm
chăm lo và bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân.
Triệt để giải quyết những vướng mắc, khó khăn, không để tạo thành bức xúc
kéo dài trong nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện các phong trào hành động cách
mạng trong nhân dân, nhất là phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc,
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá mới. Kiên quyết đấu
tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đẩy lùi những biểu hiện suy

thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống bằng những việc làm cụ thể. Từng bước
loại trừ những việc làm sai trái, tiêu cực, tệ nạn ra khỏi đời sống xã hội. Giữ


20
vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực hoạt động, xây dựng, củng
cố niềm tin và sự đồng thuận trong xã hội. Không để các thế lực thù địch lợi
dụng để khoét sâu các sơ hở, yếu kém, mâu thuẫn nội bộ, kích động quần
chúng nhân dân đứng lên biểu tình chống lại Đảng, chính quyền địa phương,
gây mất ổn định chính trị xã hội. Việc đấu tranh loại trừ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, những việc làm sai trái, tiêu cực, tệ nạn xã hội đồng thời cũng
là giải pháp hàng đầu trong xây dựng cơ sở chính trị trong sạch vững mạnh
hiện nay.
2.2.3. Củng cố vững chắc trận địa chính trị, tư tưởng, nâng cao cảnh
giác cách mạng, xây dựng ý chí, niềm tin cho toàn Đảng, toàn Quân và toàn
dân ta, chống “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”.
Tư tưởng lý luận là lĩnh vực trọng tâm hàng đầu mà các thế lực thù địch
tập trung chống phá nhằm làm phai nhạt mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa,
tinh thần cảnh giác cách mạng, ý chí, niềm tin của nhân dân và lực lượng vũ
trang nhân dân ta. Hơn nữa, cũng trên lĩnh vực này, hiện nay chúng ta còn bộc
lộ không ít những thiếu sót, yếu kém mà các thế lực thù địch thường xuyên
khoét sâu để chống phá, biểu hiện cụ thể là nhận thức về chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của một bộ
phận nhân dân và lực lượng vũ trang chưa sâu sắc; bản lĩnh chính trị, niềm tin,
ý chí quyết tâm có dấu hiệu suy giảm; sự đồng thuận trong xã hội có lúc, có
nơi chưa được chú trọng; tinh thần cảnh giác cách mạng không cao, có biểu
hiện mơ hồ, không nắm chắc bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các
thế lực thù địch…
Do đó, để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” trên mặt
trận tư tưởng lý luận, trước hết phải củng cố vững chắc trận địa chính trị, tư
tưởng, xây dựng ý chí, quyết tâm và niềm tin cho toàn Đảng, toàn quân và toàn

dân ta. Phải tổ chức học tập, giáo dục, tuyên truyền để mọi người hiểu đúng
bản chất và những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; làm cho chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò thống
trị trong đời sống chính trị tinh thần của xã hội. Làm cho nhân dân và lực
lượng vũ trang nhân dân ta nhận thức sâu sắc đường lối quan điểm của Đảng;


21
đoàn kết, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của
Nhà nước. Xây dựng sự đồng thuận trong xã hội trên cơ sở nhận thức sâu sắc lí
luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, sự đồng thuận trên cơ sở quán triệt sâu sắc đường lối, quan
điểm của Đảng ta. Xây dựng niềm tin vào sự thắng lợi của công cuộc đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay; niềm tin vào con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Tỉnh táo vạch trần
những luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ
nhận vai trò và đường lối lãnh đạo của Đảng ta. Kiên quyết đấu tranh chống
âm mưu, thủ đoạn đa nguyên chính trị của các thế lực thù địch (chúng muốn và
tìm mọi cách để trong nội bộ Đảng, nhân dân và xã hội ta xuất hiện nhiều
khuynh hướng chính trị khác nhau, thậm chí là đối lập nhau để từ đó đòi thực
hiện đa đảng đối lập. Mục đích cuối cùng của chúng thực chất nhằm xóa bỏ vai
trò lãnh đạo của Đảng ta, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn là duy nhất đúng).
Đồng thời phải nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho quân và dân
ta. Luôn luôn đề cao cảnh giác, nắm chắc mọi âm mưu, thủ đoạn mới mà các
thế lực thù địch sử dụng để chống phá cách mạng nước ta. Bởi vì “Diễn biến
hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng lý luận các thế lực thù địch thực hiện “ngầm,
mềm, sâu”, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, che đậy bản chất phản động; ru ngủ
tinh thần cảnh giác cách mạng của nhân dân và lực lượng vũ trang. Nhịp điệu
phát triển từ từ, liều lượng vừa đủ để đối phương khó có thể nhận biết, nhìn

bên ngoài có vẻ ít khốc liệt, ít tàn phá như chiến tranh bạo lực nhưng hiệu quả
lớn hơn rất nhiều. Đồng thời “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn
hóa còn thông qua các “công cụ mềm”, đánh phá từ trong nội bộ kết hợp với sự
hỗ trợ từ bên ngoài làm cho ta mơ hồ, ảo tưởng. Nếu không nhận rõ về bản
chất phản động, âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, thì rất dễ dẫn đến
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và sụp đổ từ bên trong.
Do vậy phải giáo dục rộng rãi trong toàn xã hội để mọi người dân Việt
Nam, mọi tổ chức chính trị- xã hội đều nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn
trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của kẻ thù chống phá cách mạng Việt


22
Nam. Luôn luôn cảnh giác trước mọi âm mưu thủ đoạn của chúng, không để
sảy ra bị bất ngờ về tư tưởng trong mọi tình huống. Đặc biệt, với lực lượng vũ
trang phải đề cao cảnh giác, xây dựng và luyện tập các phương án, các tình
huống phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
sát với diễn biến từng địa phương, từng đơn vị, từng cấp, từng ngành. Mỗi âm
mưu thủ đoạn, hình thức, biện pháp mà kẻ thù sử dụng trong chiến lược “Diễn
biến hòa bình” , lực lượng vũ trang và nhân dân ta cần có phương thức xử lí cụ
thể, hiệu quả, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân và của cả hệ thống
chính trị. Cần phải đấu tranh phê phán những biểu hiện và hành vi mơ hồ, mất
cảnh giác cách mạng trong một bộ phận nhân dân, lực lượng vũ trang, nhất là
trong thanh niên như học sinh, sinh viên... Chống những sơ hở, yếu kém từ
trong nội bộ không để địch lợi dụng chống phá, chống nguy cơ “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”… Mỗi người dân Việt Nam phải có tri thức, có bản lĩnh chính
trị, có phương pháp xem xét, phát hiện và báo cáo kịp thời những thủ đoạn
chống phá của kẻ thù với cơ quan chức năng xử lí, không để bất ngờ trong mọi
tình huống. Và mọi người trong xã hội, tùy theo công việc, khả năng của mình
nhưng phải tích cực tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý luận, làm thất
bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá cách

mạng Việt Nam.
2.2.4. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Giữ vững sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nội
dung đặc biệt quan trọng đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến
hòa bình” trên mặt trận tư tưởng lý luận. Bởi vì “Diễn biến hòa bình” với mục
tiêu xuyên suốt là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, lái Việt Nam vào
quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Ta giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội tức là đã làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “Diễn
biến hòa bình” của địch. Hơn nữa hiện nay, chệch hướng xã hội chủ nghĩa còn
là một nguy cơ của cách mạng nước ta thì việc giữ vững sự phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Phải
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội


23
nhưng trước hết và quan trọng hàng đầu là định hướng về chính trị tư tưởng và
kinh tế… ở tất cả các cấp, các ngành, từ Trung ương đến địa phương, cơ sở;
trong mọi tổ chức, mọi con người nhất là trong đội ngũ cán bộ đảng viên, trong
Đảng, trong hệ thống chính trị…
Chống và khắc phục mọi biểu hiện chệch hướng về chính trị từ cấp vi
mô đến vĩ mô. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa xuất hiện ở hầu hết các
lĩnh vực đời sống xã hội và ngay cả trong tư duy, cách nghĩ, cách làm ở mỗi
người mà không thể xem nhẹ. Đặc biệt, khi nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, sẽ xuất hiện
nhiều tiêu cực cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội như phân hoá giàu
nghèo ngày một gia tăng, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, sự tha hoá
một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là trong thế hệ trẻ, sự gia tăng
các tệ nạn xã hội …Trong khi đó Đảng và Nhà nước ta cho phép đảng viên làm
kinh tế tư nhân không giới hạn quy mô, nếu không có sự hướng dẫn và những

chế tài mang tính pháp lý đầy đủ, chặt chẽ thì dễ tự phát dẫn đến chệch hướng
xã hội chủ nghĩa, kéo theo sự gia tăng tệ nạn tham nhũng, tình trạng chạy theo
lợi nhuận kinh tế mà coi nhẹ việc nâng cao ý thức chính trị, quốc phòng, an
ninh và ý thức bảo vệ chế độ. Mặt khác, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra trong hoàn cảnh các thế lực thù địch luôn tìm
mọi cách chống phá và lợi dụng kẽ hở của cơ chế thị trường để chống chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, thì những tác động tiêu cực của nó đối với các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đối với mỗi con người và từng tổ chức càng có cơ sở gây
tác hại. Đây là tác động tiêu cực, là “lực cản” to lớn làm chệch hướng xã hội
chủ nghĩa mà không thể xem nhẹ sự tác động này. Mọi sự chủ quan, xem nhẹ
sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường sẽ đều dẫn đến những hậu quả nguy
hại đối với cách mạng, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
2.2.5. Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc, chống khuynh hướng thương mại hoá các hoạt động văn hoá, đẩy lùi
văn hoá xấu độc, lối sống không lành mạnh.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là động lực, vừa là mục
tiêu của sự phát triển kinh tế- xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên


24
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng,
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ tiến bộ; làm cho văn hóa gắn
kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội trở thành sức mạnh nội
sinh quan trọng là một trong những định hướng lớn của Đảng ta trong đấu
tranh làm thất bại âm mưu thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư
tưởng lý luận hiện nay.
Những năm gần đây, nền văn hoá có bước phát triển về nhiều mặt, đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tinh thần của nhân dân, góp phần tích cực vào
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên vẫn còn những sản
phẩm văn hoá độc hại từ bên ngoài xâm nhập vào nước ta bằng nhiều con

đường, tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi của
một bộ phận nhân dân, nhất là thanh thiếu niên; làm xói mòn nền tảng và
những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, nảy sinh lối sống thực dụng, vụ lợi,
vị kỷ, thích hưởng lạc, sa đọa; cái xấu, cái ác, phi nhân tính có dấu hiệu tăng
lên. Môi trường đạo đức và văn hoá lành mạnh bị đe dọa, có nguy cơ lệch
chuẩn dẫn tới khủng hoảng tinh thần và niềm tin của một bộ phận công chúng.
Tình trạng đó đó và đang ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh chính trị xã hội, dẫn
đến khuynh hướng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị trong
xã hội. Hơn nữa, một số tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, mặt trận Tổ quốc và
đoàn thể các cấp... chưa nhận thức rõ tác hại nghiêm trọng của các sản phẩm
văn hoá độc hại. Đồng thời do sự yếu kém, lúng túng, bị động, buông lỏng
trong quản lý xã hội, quản lý văn hoá; sự bất cập của cơ chế quản lý trước
những đặc điểm mới của quá trình hội nhập quốc tế; sự chống phá của các thế
lực thù địch triệt để khai thác và sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng
đài phát thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh, ca nhạc, văn học nghệ thuật...
để tiến hành “Diễn biến hòa bình” chống phá trên mặt trận tư tưởng văn hóa.
Vì thế mà phải xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nâng
nhận thức cho cán bộ đảng viên và nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ biết kế thừa
và phát triển trên cơ sở chọn lọc những tinh hoa truyền thống dân tộc và văn
hóa nhân loại. Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản
ánh diện mạo, cốt cách của nền văn hoá Việt Nam, là dấu hiệu cơ bản để phân


25
biệt văn hoá Việt Nam với văn hoá dân tộc khác. Biểu hiện tập trung trong
truyền thống văn hoá dân tộc, lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường, tinh thần
đoàn kết, nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đức tính cần cù, sáng tạo trong
lao động, tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống… Bản sắc dân tộc của
văn hoá Việt Nam là “căn cước”, là “bộ gien” di truyền của văn hoá dân tộc.
Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là yêu cầu khách quan, là mục tiêu

của việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam, làm cho văn hoá thấm sâu vào từng
khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện giá trị mới của con người
Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn
hoá của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hoá đồi truỵ, độc hại. Xây
dựng, bảo vệ nền văn hoá tiên tiến, đậm đậm đà bản sắc dân tộc phải khơi dậy
ý chí, lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương, thuần phong, mỹ tục tốt đẹp
của dân tộc... thông qua các hình thức, loại hình giáo dục, tuyên truyền phù
hợp từng đối tượng. Trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế cần phải
nghiên cứu kỹ sự vận động và phát triển của văn hoá, từ đó có nhận thức đúng
trước những vấn đề mới đang đặt ra và những vấn đề mà các thế lực thù địch
đang tận dụng, mong muốn đạt tới “chủ nghĩa đa nguyên văn hoá”. Chúng ta
cần giáo dục, củng cố, xây dựng niềm tin bằng hệ giá trị chân, thiện, mỹ và
những truyền thống quý báu của dân tộc và chế độ. Ngăn chặn những luồng
thông tin xấu, phim ảnh rẻ tiền, chạy theo cơ chế thị trường có yếu tố không
lành mạnh mang màu sắc độc hại. Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc phải trên cơ
sở kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với tổ chức hành động, quản lý để thế hệ trẻ
hôm nay và mai sau biết tự hào dân tộc để có ý chí phấn đấu hoàn thành tốt sự
nghiệp mà thế hệ cha anh đó phấn đấu hi sinh bảo vệ, xây dựng. Phải gắn được
những tri thức từ sách vở với thực tiễn cuộc sống mà thế hệ đó qua cũng như
thế hệ hôm nay và mai sau cần phải vươn tới, luôn đặt con người vào vị trí
trung tâm của sự phát triển. Tạo phong trào quần chúng sâu rộng, ngăn chặn,
đẩy lùi sự xâm nhập và tác động tiêu cực của các sản phẩm văn hoá độc hại.
Xây dựng, nâng cao ý thức cảnh giác, năng lực nhận biết, bài trừ của cán bộ,
đảng viên và nhân dân trước sự xâm nhập, tác động của các sản phẩm văn hoá
độc hại. Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý xã hội, quản lý văn hoá của các


×