Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.1 KB, 25 trang )

1

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được
những thành tựu to lớn về kinh tế xã hội, làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của đất
nước.Với đường lối phát triển kinh tế phù hợp, đường lối đối ngoại mở cửa hội nhập
và giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội đã đưa đất nước ta phát triển vươn lên.
Trong những năm gần đây, vị thế của Việt Nam ngày càng lên cao trên trường quốc
tế. Chúng ta đã tổ chức thành công hội nghị APEC năm 2004; trở thành thành viên
của WTO năm 2006 và cuối năm 2007, Việt Nam là uỷ viên không thường trực của
Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc.
Tuy nhiên, trên con đường đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta không chỉ có những thuận lợi mà còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Tình
hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, luôn tiềm ẩn những nhân tố gây
mất ổn định. Hoà bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo nhưng vẫn còn đó
những nguy cơ tác động đến hoà bình, ổn định, chủ quyền của mỗi quốc gia dân tộc.
Từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ thì Việt Nam trở
thành trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Trong những năm gần đây, chủ
nghĩa đế quốc đang tích cực thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”; trong đó, chúng
coi trọng hàng đầu “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá với những
thủ đoạn hết sức thâm độc, nguy hiểm. Chúng ra sức lợi dụng vấn đề “dân chủ, nhân
quyền, dân tộc, tôn giáo”;lợi dụng những sơ hở, yếu kém của một bộ phận tổ chức,
cán bộ, đảng viên để “khoét sâu”, “thổi phồng”; tăng cường những luận điệu xảo trá
nhằm xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước hòng làm
giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Đặc biệt, nó đang diễn ra
trong điều kiện nước ta đang đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng nên tính
chất của nó càng trở lên phức tạp.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, để giữ vững ổn định chính trị - xã hội, chúng ta
phải coi trọng công tác đấu tranh chống mọi hoạt động phá hoại của các thế lực thù


địch. Chúng ta kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định
đó là hệ tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của toàn Đảng, toàn dân trong sự
nghiêp cách mạng của dân tộc. Chúng ta phải nhận thức sâu sắc rằng đấu tranh chống
“diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá là cuộc đấu tranh một mất, một
còn và rất gay go, quyết liệt.


2

Nhằm bước đầu thử nghiệm nghiên cứu, xem xét các vấn đề một cách có hệ
thống, khoa học, tôi chọn đề tài: “Đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến
hoà bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá” làm tiểu luận
môn học Hệ tư tưởng. Qua đó giúp bản thân nhận thức đúng, không mơ hồ, mất cảnh
giác trước những âm mưu thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, nâng
cao hơn bản lĩnh chính trị của mình phục vụ cho học tập và công tác sau này.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trước những âm mưu, thủ đoạn, những luận điệu sai trái của các thế lực thù
địch và bọn phản động thì đã có nhiều nhà tư tưởng, lý luận của Đảng và Nhà nước,
các nhà khoa học của các viện, trung tâm nghiên cứu, các trường đại học…đã có
những công trình nghiên cứu khoa học trong đó phê phán nhỡng quan điểm sai trái,
phản động chống chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống chủ nghĩa xã
hội và chống Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời nêu lên những giải pháp hiệu quả
để đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hoà bình”. Có nhiều tác phẩm như: Văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và X; “ Chiến lược diễn biến hoà bình của đế quốc
Mỹ và các thế lực phản động quốc tế chống chủ nghĩa xã hội và chông Việt Nam xã
hội chủ nghĩa” của tác giả Nguyễn Anh Luân ( NXB Chính trị quốc gia – 1993);
“Chiến lược diễn biến hoà bình của Mỹ” của Lương Văn Đồng, Tân Trọng Cần
(NXB Chính trị quốc gia – 1993); “Đánh thắng chiến tranh phá hoại của địch về tư
tưởng ( NXB Chính trị quốc gia – 2001); “ Cuộc đọ sức giữa hai chế độ xã hội: Bàn
về chống “diễn biến hoà bình” của tác giả Cốc Văn Khang ( NXB Chính trị quốc gia

– 2001).
Ngoài ra, nội dung của đề tài còn sử các bài viết đăng trên Báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí tư tưởng - văn hoá, tạp chí Lý Luận
và Thực Tiễn…
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích: Đề tài với mục đích bước đầu nghiên cứu, tìm hiểu về chiến
lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên thế giới hiện nay; nhận rõ bản
chất, đánh giá đúng thực trạng tình hình và đề ra những giải pháp đấu tranh chống âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng – văn
hoá. Từ đó giúp cho bản thân nhận thức đúng, không mơ hồ mất cảnh giác và kiên
quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa.
3.2. Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của “diễn biến hoà bình”.


3

- Xem xét, đánh giá những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với
nước ta trên lĩnh vực văn hoá – tư tưởng.
- Đánh giá thực trạng cuộc đấu tranh làm thất bại “diễn biến hoà bình” trên lĩnh
vực tư tưởng – văn hoá của toàn Đảng, toàn dân ta.
- Nêu lên những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống “diễn
biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Do thời gian và khả năng cho phép, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những nội
dung về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với nước ta trên lĩnh vực tư
tưởng – văn hoá. Đồng thời nêu ra những giải nhằm nâng cao hiệu qủa cuộc đấu tranh
chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá.
5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng các phương pháp tổng hợp – phân tích, lịch sử, lôgic học kết
hợp với phương pháp so sánh, mô tả…trong quá trình xem xét, tìm hiểu, đánh giá
những vấn đề cần nghiên cứu.
6. Kết cấu tiểu luận: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, bố cục tiểu luận
còn gồm ba chương và danh mục tài liệu tham khảo.


4

B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về “diễn biến hoà bình”
1.1. Khái niệm “diễn biến hoà bình”
“Diễn biến hoà bình” là chiến lược tấn công trên quy mô toàn cầu chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch nhằm chống phá, đẩy lùi và đi đến xoá bỏ chủ nghĩa xã
hội và phong trào cộng sản quốc tế, trong điều kiện chúng không thể đạt được mục
tiêu trên bằng biện pháp quân sự.
“Diễn biến hoà bình là một chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch tiến hành một cuộc “chiến tranh mềm không có tiếng súng” chống phá các
nước xã hội chủ nghĩa. Đó là chiến lược “triệt tiêu kẻ thù” thay cho chiến lược “vượt
trên ngăn chặn”. Đây là một chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động quốc tế, được thực hiện duới một phương thức, thủ đoạn mới để chống phá, đẩy
lùi và đi đến xoá bỏ chủ nghĩa xã hội.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của “diễn biến hoà bình”
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã diễn ra nhiều cuộc chiến
tranh, thôn tính lẫn nhau để giành quyền thống trị xã hội; đã xuất hiện những hình
thức không dùng vũ lực để làm suy yếu và cuối cùng tiêu diệt đối phương. Các triều
đại phong kiến Trung Quốc đã biết sử dụng những sách lược làm nội bộ đối phương
lục đục, nghi ngờ dẫn đến tự tan rã. Như vậy, manh nha của “diễn biến hoà bình” bắt
đầu từ thời kỳ phong kiến cách đây hàng ngàn năm.
Trong thời kỳ hiện đại khi mà cuộc chiến tranh giữa hai hệ thống tư bản chủ

nghĩa và xã hội chủ nghĩa diễn ra quyết liệt. chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
dùng mọi âm mưu, thủ đoạn nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội và thiết lập một trật tự thế
giới mới do Mỹ điều khiển. Những ý tưởng ban đầu về “diễn biến hoà bình” được các
chuyên gia Mỹ soạn thảo ra từ cuối những năm 40 của thế kỷ XX, sau đó liên tục
được bổ sung. Có thể chia quá trình hình thành và phát trển của nó làm 2 giai đoạn sau:
+ Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 năm 1945 đến cuối những năm 70 của
thế kỷ XX:
Sau chiến tranh thế lần thứ hai, chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống các
nước xã hội chủ nghĩa, là chổ dựa vững chắc của phong trào đấu tranh vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Sự phát triển của hệ
thống xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc đã làm thay đổi căn bản tình
hình sách lược lực lượng trên thế giới.Hệ thống chủ nghĩa xã hội phát triển rộng ở
Đông Âu, như: Ban Lan, Ru Ma Ni, An Ba Ni, Liên Xô. Châu Á như: Trung Quốc,
Việt Nam, Triều Tiên. Châu Mỹ có: Cu Ba.v.v.


5

Đế quốc Mĩ thực thi chiến lược toàn cầu "ngăn chặn" nhằm ngăn chặn Cộng
sản, làm suy yếu, thu hẹp ảnh hưởng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; với
chiến lược này, chúng sử dụng biện pháp quân sự là chủ yếu, nhưng cũng rất coi
trọng thủ đoạn "diễn biến hoà bình". Ngày 22/12/1946 người đại diện của Mĩ ở Liên
Xô đã trình lên chính phủ Mĩ kế hoạch chống Liên Xô toàn diện: bao vây quân sự,
phong toả kinh tế; lật đổ chính trị, có thể dùng vũ lực can thiệp. Kế hoạch đó gọi là
"ngăn chặn phi vũ trang" và được các học giả tư sản, tập đoàn thống trị Mĩ hoan
nghênh, bổ sung. Đalet, giám đốc CIA cho rằng "ngăn chặn và giải phóng" là phương
pháp hoà bình có nghĩa là: lấy uy hiếp quân sự làm hậu thuẩn để tập trung xâm nhập
về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá đối với các nước xã hội chủ nghĩa, khiến các
nước này tan rã từ bên trong "rút ngắn tuổi thọ của chế độ cộng sản".
Những năm 60 của thế kỷ XX, Tổng thống Mĩ, Ken-Nơ-Đi đưa ra chiến lược

hoà bình với chính sách " mũi tên và cành ô liu" từ đây biến "diễn biến hoà bình" trở
thành một biện pháp không thể thiếu được của chủ nghĩa đế quốc và luôn đi bên cạnh
với các sức mạnh quân sự.
Những năm 70 của thế kỷ XX, Tổng thống Nich-Xơn với chính sách "cây gậy
với củ cà rốt", vừa đe doạ sức mạnh quân sự nhưng cũng vừa mua chuộc về kinh tế
nhằm khuất phục các nước, nhất là các nước chậm phát triển. Biểu tượng của thuật
ngữ " Cây gậy với củ Carot" của nguyên tổng thống Mĩ Nich-Xơn. Chúng chủ trương
tăng cường tiếp xúc, hoà hoãn với các nước xã hội chủ nghĩa, tiến hành thẩm thấu tư
tưởng, văn hoá, gieo rắc nhân tố chống phá từ bên trong, thúc đẩy tiến trình "diễn
biến hoà bình" đối với các nước xã hội chủ nghĩa. Đàm phán trên thế mạnh là một
phương sách của Nich-Sơn để thực hiện "diễn biến hoà bình" trong giai đoạn này.
+ Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay:
Những năm 80, các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện cải tổ, cải cách đổi mới
đây là một chủ trương đúng đắn, nhằm làm cho chủ nghĩa xã hội phát triển, nhưng
trong quá trình thực hiện và phương pháp cải tổ có một số sai lầm, lợi dụng tình hình
đó đế quốc Mỹ đã điều chỉnh chiến lược chống phá các nước xã hội chủ nghĩa và
phong trào cách mạng thế giới. Vào những năm 80 đầu những năm 90 (thế kỷ XX)
Thổng thống G. Bush ( cha đẻ của tổng thống G. Bush hiện nay) đã xúc tiến nhanh
chiến lược toàn cầu " vượt trên ngăn chặn", dùng biện pháp "phi quân sự" là chủ yếu
tiến công làm cho Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ.
Như vậy, “Diễn biến hoà bình” là một biện pháp, thủ đoạn trong chiến lược
toàn cầu " ngăn chặn", đã phát thành chiến lược "diễn biến hoà bình" trong chiến lược
toàn cầu "vượt trên ngăn chặn", của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mĩ. Ngày nay đế
quốc Mĩ vẫn nuôi tham vọng thống trị thế giới, mưu đồ xoá bỏ các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại. Chúng đã điều chỉnh chiến lược toàn cầu thành "dính líu", "khuếch


6

trương", "chủ động", "can dự sớm"coi chiến lược "diễn biến hoà bình" là một bộ phận

trọng yếu trong chiến lược toàn cầu. Chúng ta phải luôn luôn cảnh giác chuẩn bị mọi
điều kiện của đất nước, chủ động đánh bại chiến lược "diễn biến hoà bình " của chủ
nghĩa đế quốc.
1.3. Đặc trưng của “diễn biến hoà bình”
Chiến lược “Diễn biến hoà bình” có những đặc trưng cơ bản sau:
+ Là cuộc chiến tranh không có khói súng: các thế lực thù địch sử dụng các
biện pháp phi quân sự, phi vũ trang, bằng phương thức hoà bình, từng bước gây ảnh
hưởng có lợi nhằm chống phá, tiến tới xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa và dập tắt
phong trào cách mạng thế giới.
+ Chủ yếu dùng lực lượng gián tiếp thông qua con người, lực lượng và phương
tiện của chính đối phương. Đồng thời khi cần thiết mới dùng sức mạnh quân sự còn
chủ yếu sử dụng ngoại giao, kinh tế, văn hoá – tư tưởng làm thay đổi chế độ chính trị.
+ Tác động bên ngoài tạo sự chuyển hoá diễn biến từ bên trong, với sự hỗ trợ
tích cực từ bên ngoài để đánh phá từ trong nội bộ đối phương làm cho đối phương mơ
hồ, mất cảnh giác, làm cho đối phương tự suy yếu, nhanh chóng sụp đổ. “Diễn biến
hoà bình” mang tính chất toàn cầu triển khai trên quy mô lớn và rộng khắp; tiến hành
“gặm nhấm” có trọng tâm, trọng điểm.
+ Chúng tạo dựng ngọn cờ tập hợp ngay trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa
bằng cách mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ những người có chức vụ cao, các văn nghệ sĩ trí
thức có uy tín, những người có tư tưởng dao động, bất mãn với chế độ.
1.4. Mục tiêu, nội dung chủ yếu của “diễn biến hoà bình”
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để thực
hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” với mục tiêu là chống phá, tiến tới xoá bỏ chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, làm thay đổi chế độ của các nước xã hội chủ
nghĩa và các nước có khuynh hướng phát triển phi tư bản chủ nghĩa, đưa các nước
này theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.
Nội dung cốt lõi chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch ở
Việt Nam là sự tác động toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cả hạ
tầng cơ sở và kiến trúc thượng tầng, nhằm tạo ra sự “tự diễn biến” từ bên trong để
chuyển biến chế độ, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội

ở nước ta. Mặt trận tiến công của chúng là: Lấy mặt trận kinh tế làm mũi nhọn, từng
bước chuyển hoá nền kinh tế nước ta sang quỹ đạo kinh tế tư bản chủ nghĩa; chuyển
hoá kinh tế kết hợp với chuyển hoá chính trị; ráo riết xây dựng lực lượng chống đối,
tạo dựng ngọn cờ đối lập trong nước. Cả ba mặt trận trên đều nhằm đi đến chống phá


7

vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo sự chuyển hoá từ bên trong nội bộ về tư tưởng, quan
điểm, đường lối và tổ chức nhân sự, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, làm cho Việt Nam lệ
thuộc vào chúng.
Chương 2:
Thực trạng âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù
địch đối với Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá.
2.1. Những tiền đề dẫn đến hoạt động “diễn biến hoà bình” ở Việt Nam.
Trong 78 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng đánh thắng hai thế lực xâm
lược lớn là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong suốt hành trình lịch sử của mình,
dân tộc Việt Nam liên tục trải qua những cuộc chiến tranh điển hình về tính chất ác
liệt và sự gian khổ hy sinh, luôn phải đương đầu với những thế lực xâm lược điển
hình về tính chất tàn bạo và sự hiếu chiến, có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh hơn ta
gấp nhiều lần, nhưng dân tộc ta không chịu khuất phục, không bị đồng hoá như một
số dân tộc khác trong lịch sử nhân loại. Vì sao như vậy? Đó là vì dân tộc ta đã tự xây
dựng được bản lĩnh chính trị, bản sắc văn hoá và sức mạnh chính trị-tinh thần to lớn,
mà cốt lõi là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó là yếu tố quan trọng hàng đầu, có ý
nghĩa quyết định trong sức mạnh của dân tộc Việt Nam và đế quốc Mỹ, giải phóng
dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Dân tộc ta tiếp tục vượt lên qua cơn lốc sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và Đông Âu, thu được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong công cuộc
đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa. Chính trong điều kiện lịch sử đó, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
được bồi đắp và phát triển lên tầm cao mới, từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống lên chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Hiện nay và trong những thập kỷ tới, các thế lực thù địch chọn Việt Nam là
một trọng điểm chống phá; chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”
để chống phá, tiến tới xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xoá bỏ
hoàn toàn chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- VN ở vị trí chiến lược quan trọng và luôn kiên định lý tưởng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Việt Nam là ngọn cờ đấu tranh cho độc lập dân tộc,
đang kiên quyết nhất trong việc chống chủ nghĩa đế quốc xâm lược.
- Việt Nam có một Đảng Cộng sản lãnh đạo và giàu truyền thống, có đội ngũ
đảng viên kế cận vững vàng. Đảng Cộng sản Việt Nam nắm rất chắc ngọn cờ dân tộc.
Như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói : "Nước Việt Nam là một, Dân tộc Việt
Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay


8

đổi. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vững vàng và tiến lên. Lòng tin của nhân dân vào
Đảng và chủ nghĩa xã hội ngày càng được cũng cố.
- Nếu xoá bỏ được chủ nghĩa xã hội Việt Nam, sẽ có nhiều thuận lợi xoá bỏ
chủ nghĩa xã hội ở các nước còn lại, uy hiếp độc lập dân tộc của các nước.
- Cuối cùng, do Mỹ đã thua Việt Nam trên chiến tranh, bây giờ phải thắng
trong hoà bình, đã thua trên chiến trường; chừng nào chưa xoá bỏ được chủ nghĩa xã
hội thì Mỹ vẫn cho đó là chưa hoàn thành được nhiệm vụ trong đấu tranh ý thức hệ.
Vì thế, trong điều kiện hiện nay, chúng ta phải luôn nâng cao cảnh giác và nỗ
lực trong đấu tranh phòng chống các quan điểm, tư tưởng sai trái, phản động, nhận rõ
âm mưu chống lại sự lãnh đạo của Đảng,con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của “diễn
biến hoà bình”,đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá. Đây là vấn đề có ảnh hưởng
đến sự tồn vong của chế độ.

2.2. Thực trạng âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực
thù địch đối với Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá.
Âm mưu cơ bản, lâu dài của “diễn biến hoà bình” là xoá bỏ nền tảng tư tưởng
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam, tiến tới xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong chiến lược “diễn
biến hoà bình”, hoạt động chống phá trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá được coi là mũi
đột phá, là khâu mũi nhọn. Chúng dùng những thủ đoạn cực kỳ thâm hiểm làm tan rã
nội bộ tiến tới tiêu diệt hoàn toàn chúng ta.
Các nhà tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc đã tổng kết: “Một đài phát thanh cũng
có thể bình định xong một đất nước”, “có những việc 100 máy bay chiến đấu không
thực hiện nổi, nhưng chỉ cần 10 sứ giả lại có thể hoàn thành”, “làn sóng điện đang
thay thế thanh gươm, cây bút là phương tiện đi vào trái tim khối óc con người”…
chính ông R. Ních-xơn (nguyên tổng thống Mỹ) đã nhiều lần nhấn mạnh rằng: “Mặt
trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”; “toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hoạt
động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại
trên mặt trận tư tưởng”.
Ý thức được điều đó, để lật đổ được chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch cho rằng: Đối với Việt Nam cần phải điều chỉnh
các biện pháp và phương thức, thay đổi các thủ đoạn để tiến hành diễn biến hoà bình
cho thích hợp, vì tình hình Việt Nam không giống các nước Đông Âu, Liên xô trước
đây. Chúng chủ trương phá hoại chúng ta trên tất cả các lĩnh vực: Tư tưởng, chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, ngoại giao, khoa học, giáo dục và khi cần thiết thì dung cả
biện pháp quân sự. Song, chúng coi phá hoại về tư tưởng – văn hoá là trọng tâm then
chốt, là mặt trận quyết định nhất. Bởi vì chúng xác định rằng: Một khi đã làm tan rã


9

niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra khỏng trống để dần dần đưa hệ
tư tưởng tư sản vào, tiến tới xoá bỏ hoàn toàn hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Với

những âm mưu trên, chúng đã tiến hành những thủ đoạn chống phá Việt Nam trên
lĩnh vực tư tưởng – văn hoá như sau:
2.2.1. Tiến công vào nền tảng tư tưởng, cương lĩnh của Đảng, hiến pháp và
chính sách Nhà nước.
Các thế lực thù địch lợi dụng các diễn đàn hội thảo để tuyên truyền các quan
điểm dân chủ tư sản, các khuynh hướng cơ hội chính trị: chúng phủ nhận thành quả
cách mạng, phủ nhận lịch sử đấu tranh của Đảng và dân tộc ta, đòi từ bỏ mục tiêu xã
hội chủ nghĩa để lùi về giai đoạn dân chủ nhân dân, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội hiện
thực, ra sức ca ngợi và công khai hô hào đi theo con đường tư bản chủ nghĩa…
Chúng sử dụng một số phần tử bất mãn, dao động lên tiếng đòi bác bỏ toàn bộ chủ
nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng đòi Đảng ta từ bỏ quyền
lãnh đạo, đòi từ bỏ điều 4 của hiến pháp; đòi tự do dân chủ vô độ, tố cáo ta vi phạm
nhân quyền, đàn áp tư tưởng những người khác chính kiến… Chúng lợi dụng những
thời điểm Đảng chuẩn bị Đại hội để biên soạn và phát tán tài liệu chống phá Đảng và
Nhà nước ta…
Hiện nay, chúng đang lớn tiếng rêu rao rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã “lỗi
thời”, chủ nghĩa xã hội hiện thực là “quái thai” của lịch sử; con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội là con đường “phi lịch sử” không có cơ sở hiện thực. Dựa vào sự sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, chúng cho rằng : Chủ nghĩa xã hội đã
hết sức sống, Đảng cộng sản đã bất lực không còn nắm được vai trò lãnh đạo xã
hội… và khuyên chúng ta nên từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, từ bỏ chủ nghĩa
Mác-Lênin để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bởi vì, chúng cho rằng thực tế
chưa có một nước nào quá độ lên chủ nghĩa hội không qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa thành công. Mục tiêu chống phá về tư tưởng của chúng là gây sự hỗn loạn
về lý luận, tư tưởng, tạo ra sự “mơ hồ về chính trị”, “khoảng trống về tư tưởng”, tạo
ra sự nghi ngờ gây hoang mang trong quần chúng, làm cho quần chúng mất niềm tin
vào vai trò lãnh của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Chúng lợi dụng vào những sai lầm của Đảng Cộng sản trong quá trình vận
dụng và phát triển học thuyết Mác-Lênin để bới móc, xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng; Đảng ta khó có thể tránh khỏi sai lầm khuyết
điểm ở một khâu nào đó và chúng sẽ lợi dụng những sai lầm, khuyết điểm đó để tiến
công vào Đảng theo thể thức tuyệt đối hoá sai lầm khuyết điểm, thổi phồng những sai
lầm khuyết điểm, cho rằng sai lầm khuyết điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên,
một tổ chức Đảng là sai lầm khuyết điểm của toàn Đảng; sai lầm ở một khâu nào đó


10

trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối, tổng kết thực tiễn hoặc sai lầm trong
công tác cá bộ của Đảng thành sai lầm toàn của toàn bộ đường lối của Đảng, thậm chí
chúng còn cho rằng đó là sai lầm của cả học thuyết, sai lầm thuộc về bbản chất của
chủ nghĩa xã hội và của Đảng cộng sản. Bên cạnh đó họ còn lợi dụng lỗ hổng trong
việc sửa chữa sai lầm khuyết điểm để phủ định sạch trơn quá khứ, phủ định những
thành tựu vĩ đại của Đảng và dân tộc ta đã đạt được nhằm gây tâm lý hoang mang,
gieo rắc hoài nghi trong nhân dân, lôi kéo những cán bộ đảng viên bất mãn, thoái hoá,
biến chất bổ sung vào đội ngũ phản động hòng chống Đảng, chống nhân dân.
2.2.2. Tiến công vào nội bộ Đảng
Để tiến công vào nội bộ của Đảng, chúng tập chung mũi nhọn vào những điểm
yếu của một bộ phận cán bộ, đảng viên, từ đó phá hoại trực tiếp về chính trị, tư tưởng
và tổ chức của Đảng. Đó là những người do trình độ lý luận và năng lực thực tiễn hạn
chế, trước những diễn biến phức tạp của tình hình, đã không nắm bắt được những vấn
đề cốt lõi để có định định hướng đúng đắn, dẫn đến làm sai đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và nhà nước, vi phạm quyền dân chủ, làm tổn hại đến lợi ích của
người lao động, gây dư luận xấu trong quần chúng. Lợi dụng tình hình này, các thế
lực thù địch tuyên truyền, xuyên tạc, cho rằng Đảng ta bất tài, cán bộ năng lực kém,
mất dân chủ, không xứng đáng với vai trò lãnh đạo đất nước. Đặc biệt, chúng tập
trung khoét sâu vào căn bệnh tham nhũng, nhằm dựng lên bức tranh ảm đạm về xã
hội ta, để hạ thấp uy tín của Đảng.
Chúng lợi dụng đấu tranh tự phê bình, phê bình trong nội bộ Đảng, xử lý kỷ

luật cán bộ hoặc thay đổi cán bộ lãnh đạo để gây mâu thuẫn, chia rẽ bè phái trong
Đảng với nhân dân. Thủ đoạn này của các thế lực thù địch là vô cùng nguy hiểm
hòng tạo ra sự rạn nứt từ bên trong, làm suy yếu từ nội bộ Đảng để dễ bề chống phá.
Với kỷ luật tự giác nghiêm minh, Đảng ta luân khẳng định phê bình và tự phê bình là
quy luật phát triển của Đảng. Phê bình và xử lý kỷ luật Đảng viên là để duy trì sức
mạnh đoàn kết trong Đảng. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, đồng thời là tình cảm
cách mạng trong sáng, vượt lên trên tình cảm cá nhân, vì lợi ích của Đảng. Do đó, ta
phải đập tan âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng đấu tranh phê bình trong Đảng
hòng chia rẽ Đảng, phát huy hơn nữa sức mạnh đoàn kết trong Đảng, đấu tranh phê
bình và tự phê bình có lý có tình.
2.2.3. Tiến công vào tính Đảng, tính cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Với luận điểm: khoa học phi giai cấp, phi chính trị, các thế lực thù địch cho
rằng khoa học đứng ngoài chính trị và đã nói đến cách mạng tức là không còn khoa
học,… nhìn nhận những vấn đề lịch sử, các thế lực thù địch đòi trả lại cho lịch sử sự
chân thực nhưng thực tế chúng luôn bới móc, xuyên tạc lịch sử. Lịch sử là một quá


11

trìn diễn ra vô cùng phức tạp với vô vàn tư liệu và nhân chứng, nếu không đứng trên
quan điểm giai cấp để nhìn nhân lịch sử sẽ không thể có cách nhìn khoa học.
Luận điệu xuyên tạc lịch sử của các thế lực thù địch thực chất là sự phơi bày “
đống rác cũ” của lịch sử, chúng đem những gì không cần thiết của lịch sử nhưng lại
coi nó thực sự cần thiết đối với để xuyên tạc phục vụ âm mưu “diễn biến hoà bình”.
Đây là thủ đoạn cực kỳ thâm độc và xảo quyệt. Bởi vì nó tuyên truyền cho tư tưởng
về một khoa học “thuần tuý”, phát hiện và lợi dụng sự tìm tòi khám phá khoa học để
phục vụ mưu đồ chính trị, hòng chống Đảng, chống Nhà nước. Chúng ta thấy rằng,
muốn tìm hiểu sự ra đời của học thuyết Mác thì phải hiểu không chỉ lịch sử hình
thành mà còn phải nắm vững lý luận mác-xít, xuyên qua những sự kiện lịch sử cụ thể
để tổng kết lịch sử đúc rút bài học kinh nghiệm, góp phần cải tạo hiện thực và định

hướng cho tương lai. Đó là nhiệm vụ của lịch sử và những người nghiên cứu lịch sử
phải thực hiện. Hiện nay, các thế lực thù địch luôn lợi dụng sự hiểu biết chưa đầy đủ
về lịch sử, xem nhẹ truyền thống và chạy đua theo lối sống thực dụng của một bộ
phận nhân dân mà chủ yếu là thanh niên để xuyên tạc, bóp méo lịch sử.
2.2.4. Lợi dụng các vấn đề “tôn giáo”, “dân tộc”, “dân chủ”, “nhân quyền”
để can thiệp vào nội bộ ta.
Có thể nói một trong các mũi nhọn chủ yếu của các thế lực thù địch là vấn đề
dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo. Nó được coi là bốn đột phá khẩu, bốn mũi
xung kích để hòng chọc thủng mặt trận chính trị tư tưởng của chúng ta. Chúng lợi
dụng các diễn đàn công khai để tuyên truyền tự do dân chủ, nhân quyền, tuyên truyền
cho quan điểm cá nhân ích kỷ, lối sống thực dụng, suy đồi đạo đức; chúng vu cáo ta vi
phạm dân chủ, nhân quyền để tạo cớ can thiệp vào nước ta. Gần đây họ nói rằng: “Mục
tiêu nhân quyền sẽ là lưỡi gươm để buộc Hà Nội đi chệch hướng trong đối sách…Nếu
nhân tố dân chủ được phát triển tại Việt Nam trong Đại hội X thì cục diện chính trị hóa
dân chủ có thể chuyển sang cuộc cách mạng xanh”…
Gần đây, một số người đã tập hợp lực lượng để tổ chức ra những cái gọi là
“Đảng dân chủ nhân dân”, “Đảng Thăng tiến”, tổ chức 8406, Hội kêu oan, Hội nối
vòng tay lớn,… ra Tuyên ngôn tự do, Dân chủ cho Việt Nam,… Hằng năm, Mỹ và
các nước phương Tây trực tiếp hoặc lôi kéo một số nước trình dự thảo lên án một só
nước vi phạm nhân quyền ra Hội nghị thường niên của Liên hiệp quốc về vấn đề nhân
quyền trong đó có Việt Nam. Ngày 04/5/2004 tại cuộc bỏ phiếu tại hội đồng kinh tế
xã hội của Liên hiệp quốc, Mỹ đã công khai, trắng trợn gây sức ép buộc các nước
thành viên không bỏ phiếu cho Việt Nam, loại Việt Nam khỏi Ủy ban nhân quyền.
Ngày 19/7/2004, Hạ viện Mỹ thông qua “Dự luật quyền Việt Nam 2004”(HR 1587),
dự luật này dựa trên dự luật năm 2003, nhấn mạnh, xuyên tạc tình hình Việt Nam
không có tiến bộ nào trong việc giải quyết thoả đáng đối vớí các trường hợp được coi


12


là tù nhân chính trị, còn đàn áp tự do tôn giáo, đàn áp người Thượng biểu tình ở Tây
Nguyên, phá rối sóng đài Châu Á tự do…
Vừa qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra bản thúc trình thường niên về tình hình
nhân quyền tại các nước trên thế giới năm 2006. Bản phúc trình đề cập đến vấn đề
thực thi nhân quyền cũng như những hạn chế của nó tại 196 quốc gia. Đánh giá chung
về tình hình nhân quyền ở Việt Nam năm 2006, bản phúc trình đưa ra nhận định mơ
hồ, vô căn cứ: “Thành tích nhân quyền của Chính phủ Việt Nam vẫn chưa đạt yêu
cầu”. Rằng: “vẫn có việc bắt giữ người vì hoạt động chính trị và đánh đập các nghi
phạm”. Ngài Đại sứ Mỹ tại Việt Nam M. Mơ-rin lên tiếng kêu gọi Nhà nước ta cởi
mở hệ thống chính trị độc đảng và trả tự do cho những người bất đồng chính kiến,
trong đó có linh mục Công giáo Nguyễn Văn Lý? Ông ta còn lên giọng kẻ cả rằng:
“Vì sự hội nhập quốc tế và phát triển sâu rộng hơn của Việt Nam, Chính phủ Việt
Nam cần trả tự do cho những người này và các cá nhân khác ngay…”. Tiếp đó, uỷ ban
tự do Tôn giáo quốc tế của Mỹ khuyến nghị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ C. Rai-xơ
đưa Việt Nam trở lại danh sách “những quốc gia đặc biệt quan tâm về tôn giáo”(CPC).
Đó là những đòi hỏi vô cùng ngang ngược và phi lý!
Chúng đã lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để nhen nhóm tổ chức ra các đảng
phái; thảo luận ra các “tuyên ngôn”, “điều lệ”, “cương lĩnh” và đề ra những hình thức,
phương pháp hoạt động, hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thủ tiêu vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chống phá Nhà nước, chế độ, gây mất ổn định an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đó là bộ mặt thật của những cái gọi là “những tổ cức
đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam” và nó cũng là những hoạt động vi
phạm pháp luật. Việc chúng ta xét xử nghiêm minh những người vi phạm pháp luật là
việc làm bình thường, theo đúng quy định của pháp luật Nhà nước Việt Nam và phù
hợp với luật pháp quốc tế.
2.2.5. Kích động gây rối, bạo động, xây dựng “ngọn cờ” từ bên trong.
Một số thế lực thù địch ở nước ngoài tìm mọi cách tiếp tay, kích động những
phần tử chống phá cách mạng Việt Nam, chống phá Nhà nước và chế độ ta. Khi
chúng ta vạch mặt, bóc trần bản chất của chúng và đem ra xử lý theo pháp luật thì
Các tổ chức phản động người chúng kêu la, hò hét rằng: Nhà nước ta vi phạm

dân chủ, nhân quyền, vi phạm tự do tín ngưỡng, đàn áp tôn giáo, đàn áp những người
bất đồng chính kiến. Đó là sự xuyên tạc thô bạo sự thật, đổi trắng thay đen nhằm che
giấu những âm mưu đen tối của chúng.Việt lưu vong ở nước ngoài tiếp tục kích động,
chia rẽ nội bộ ta; chúng tìm mọi cách câu kết , móc nối với những người bất mãn
trong nước, kêu gọi người Việt ở hải ngoại ủng hộ, tiếp sức cho lực lượng “quốc nội”
nổi dậy. Theo thống kê, hiện có hơn 695 tổ chức và nhóm phản động người Việt lưu
vong ở nước ngoài( nhiều nhất là ở Mỹ, Pháp, Úc, Canada, Đức… và đang phát triển


13

sang các nước Đông Âu, Liên Xô trước đây). Gần đây họ dấy lên phong trào đòi áp
dụng mô hình “xã hội dân sự” mà thực chất là đòi tự do dân chủ kiểu vô chính phủ và
đang cố dựng lên những “ngọn cờ” để chống phá ta. Chúng tập trung các hoạt động
này vào các vùng dân tộc thiểu số với thủ đoạn mị dân nhằm tập hợp, lôi kéo quần
chúng vào các tổ chức phản động nấp dưới các hình thức; ráo riết tổ chức lực lượng
để hình thành cái gọi là “nàh nước Đề Ga độc lập”, “nhà nước Khơme Crôm độc
lập”, “Vương quốc Chăm pha”, tăng cường hoạt động giành giật quần chúng với ta ở
cơ sở, kích động bạo loạn.
Một số phần tử cơ hội chính trị, bất mãn lợi dụng các diễn đàn, các mối quan
hệ để truyền bá những quan điểm sai trái, liên tiếp viết đơn, tài liệu tung lên mạng
hoặc phát tán, rỉ tai vu cáo, đả kích chế độ ta, kích động nhân dân, nhất là thanh niên,
sinh viên, văn nghệ sĩ, trí thức… đứng lên lật đổ chế độ.
Một số phần tử đội lốt tôn giáo ra sức tuyên truyền, vận động, lôi kếo quần
chúng theo đạo, gây thanh thế, tranh giành ảnh hưởng, đòi thoát ly sự quản lý của
Nhà nước. Một số chức sắc truyền đạo trái phép, kích động tín đồ chống lại chủ
trương, chính sách của Đản và Nhà nước, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, lôi kéo tín
đồ, kể cả cán bộ, đảng viên đi lễ bái và tham gia vào các hoạt động mê tín.
Chúng kích động, chia rẽ nội bộ, tung ra những luận điệu gây mất dân chủ, mất
đoàn kết trong ta. Chúng bịa đặt lịch sử, đòi “lật án”, vu cáo, bôi nhọ các các bộ lãnh

đạo cấp cao của Đảng… Những luận điệu của chúng không có gì mới, nhưng nó được
tung ra, truyền bá vào lúc này là hết sức độc hại, nguy hiểm; chí ít nó cũng gieo rắc
hoài nghi, xói mòn niềm tin của nhân dân, gây phân tâm, nghi ngờ nội bộ. Không
phải không có những cơ sở xã hội nhất định để làm nảy sinh hoạc tiếp nhận những
quan điểm, tư tưởng sai trái đó.
2.2.6. Tăng cường luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc
Các trung tâm phá hoại ở nước ngoài tăng cường các hoạt động truyền thông
đại chúng để tuyên truyền, xuyên tạc, kích đôngj chống phá Đảng và nhà nước ta.
Chúng sử dụng 56 đài phát thanh và truyền hình có chương trình Việt ngữ, 600 tờ báo
và tạp chí tiếng Việt, 74 nhà xuất bản để tuyểntuyền chống phá Việt Nam. Chỉ tính
riêng năm 2001 ta đã phát hiện 3476 tài liệu chiến tranh tâm lý, 43.160 thư ân xá
quốc tế chuyển vào Việt Nam, sử dụng internet và sẵn sàng mở khoá cho các đối
tượng để truy cập những thông tin sai lệch do chúng đưa lên. Chúng còn dùng điện
thoại trự tiếp phỏng vấn, kích động, tâng bốc một số người có quan điểm sai trái. Ta
đã phát hiện một số người Việt Nam cung cấp tin tức hoặc viết bài cho nước ngoài có
nội dung xuyên tạc, bôi nhọ tình hình đất nước.


14

Hệ thống phát thanh, truyền hình ở nước ngoài của Mỹ và Tây Âu ngày đêm
truyền bá tư tưởng phương Tây, khống chế trực tiếp về hình thái ý thức toàn cầu. Lịch
sử sẽ không bao giờ quên bài học về sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu trước đây. Sự đổ vỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa cuối thế kỷ XX do
nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chắc chắn có sự góp công quan trọng của thứ
vũ khí cực kỳ nguy hiểm là “chiến tranh tâm lý” kéo dài suốt thời kỳ “chiến tranh
lạnh”. Không sai khi cho rằng “chiến tranh tâm lý” đã đạp đổ bức tường Béc-lin, điều
mà sức mạnh của cả hệ thống quân sự khổng lồ của phương Tây đã không làm vỡ nổi
một viên gạch. Hiện nay đài Châu Á tự do vẫn chĩa vào các nước xã hội chủ nghĩa
còn lại, ra rả suốt ngày suốt đêm không nhằm gì khác ngoài mục đích xuyên tạc sự

thật về công cuộc đổi mới, mở cửa, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và kêu gọi
lật đổ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa.
2.2.7. Một thủ đoạn cực kỳ nguy hiểm là làm cho xã hội ta “tự diễn biến”
Tất cả các mũi tấn công trên nhằm thẩm thấu và phát triển nhân tố chống chủ
nghĩa xã hội, gặm nhấm các giá trị của bản sắc văn hoá, làm cho người ta quên đi gốc
gác của mình. Nó đang tìm cách tạo ra các mâu thuẫn xã hội, kiên trì tấn công vào
nhận thức tư tưởng cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhằm làm phai nhạt lý
tưởng, khủng hoảng tư tưởng, đánh mất phương hướng. Chúng đang thúc đẩy sự hình
thành xã hội hội thụ động dưới tác động của hàng hoá, nguồn vốn của phương Tây,
ràng buộc nền kinh tế và lối sống theo tiêu chuẩn giá trị phương Tây, hình thành tâm
lý sùng bái đồng đô la, mở rộng lực lượng cán bộ, đảng viên có quan điểm sai trái;
phát triển lối sống thực dụng, nhất là trong thanh niên; phát triển mạng lưới kinh tế tư
nhân để hình thành giai cấp đối lập với giai cấp công nhân và nhân dân lao động; kích
động mâu thuẫn chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ dân tộc, tôn giáo… để làm cho chúng ta
“tự diễn biến” chuyển hoá sang chế độ tư bản chủ nghĩa.
Tóm lại; với bản chất cực kỳ phản động và hiếu chiến, các thế lực thù địch luôn
trăm phương nghìn kế để chống phá Đảng và Nhà nước ta; đòi hỏi chúng ta phải luôn
cảnh giác, nhận thức đúng bản chất tình hình và có những biện pháp đấu tranh hiệu quả
chống “diễn biến hoà bình”, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá.
2.3. Cuộc đấu tranh làm thất bại “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư
tưởng – văn hoá của toàn Đảng, toàn dân ta.
Trong tình hình hiện nay, khi mà bối cảnh trong nước và quốc tế có những diễn
biến hết sức nhạy cảm và phức tạp, đất nước ta tiến hành đổi mới toàn diện, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chính sách mở cửa, hội
nhập, vừa hợp tác vừa đấu tranh, các thế lực thù địch đang lợi dụng để ra sức chống
phá cách mạng nước ta, thì cuộc đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực
tư tưởng – văn hoá càng vị trí hết sức quan trọng.


15


Chúng ta đã nhận thức và đấu tranh với thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi
dụng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô cho rằng: đó là
sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chúng đồng nhất sự sụp đổ
của một bộ phận của chủ nghĩa xã hội hiện thực với sự sụp đổ của cả học thuyết dẫn
đường là chủ nghĩa Mác-Lênin. từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
phủ nhận sự tồn tại của hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa. Nhưng, thực tiễn
đã chỉ ra lịch sử diễn ra không chỉ toàn những con đường trơn tru và thẳng tắp; cái
mới, cái tiến bộ ra đời khó tránh khỏi những thất bại tạm thời, cục bộ trên con đường
hoàn thiện. Trong khi đó, sự ra đời của một hình thái kinh tế xã hội chưa từng có
trong lịch sử là xã hội chủ nghĩa thì sự tồn tại của những khúc quanh là điều dễ hiểu;
và chính sự thất bại của mô hình chủ nghĩa xã hội chưa đúng đắn, chưa khoa học ở
Liên Xô, Đông Âu chỉ là khúc quanh của sự trưởng thành, phát triển của lịch sử xã
hội loài người.
Chúng biết rất rõ Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân Việt nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là nguồn gốc của mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua. Với đường lối đúng đắn và bằng những tấm
gương hy sinh cao cả của hàng vạn đảng viên. Đảng ta đã chiếm được niềm tin của
đông đảo các tầng lớp nhân dân và cả dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh,
uy tín của Đảng cao trong quần chúng thì không một thế lực nào có thể làm cách
mạng Việt Nam đi chệch khỏi con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí minh làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Chúng nhận thức rõ,
nếu không loại bỏ sự lãnh của Đảng Cộng sản Việt Nam thì không thể xoá bỏ những
ảnh hưởng sâu rộng của Đảng đã bám rễ vào xã hội Việt Nam và ngược lại, nếu
không tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì không
phá hoại được Đảng Cộng sản. Vì vậy, chúng ra sức đả kích vào sự lãnh đạo của Đảng
với mưu đồ loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội là một trong những mục
tiêu quan trọng hành đầu của chiến lược “diễn biến hoà bình” chống phá ta về tư
tưởng.

Đảng ta luôn nhận thức được rằng, để giữ vai trò lãnh đạo, Đảng phải tự đổi
mới, tự chỉnh đốn, xây dựng mình thật trong sạch, vững mạnh,tự phấn đấu vươn lên
ngang tầm với đòi hỏi yêu cầu nhiệm vụ. Nhưng đổi mới không phải là sự đổi hướng
sang con đường tư bản chủ nghĩa. Chúng ta vẫn kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa,
kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định, nhưng không bảo
thủ, giáo điều rập khuôn, máy móc, mà luôn nhận thức lại một cách đúng đắn, phát
triển sáng tạo nó phù hợp với điều kiện mới. Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới đúng
đắn để lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới. Đường lối đó đã phát huy


16

được nội lực của đất nước, khai thác được tiềm năng thế mạnh, giải phóng sức sản
xuất để phát triển đất nước: đồng thời bảo đảm cho nước ta từng bước hội nhập vào
khu vực và quốc tế. Đường lối đổi mới của Đảng đã được nhân dân đồng tình ủng hộ,
được bạn bè quốc tế ca ngợi, bởi nó thực sự đã đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân
dân, góp phần giữ vững hoà bình, ổn định ở khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, các thế lực
thù địch, những kẻ mưu toan xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng thì không hề muốn cho
đất nước ta phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, chúng sẽ tìm mọi cách xuyên
tạc, bôi nhọ, phủ nhận vai trò lãnh đạo và đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng ta.
Trong toàn bộ kịch bản chống phá chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các thế lực thù
địch tập trung vào điểm mấu chốt nhất là đường lối của Đảng, từ đường lối chung đến
những vấn đề cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh
trong đó trọng tâm là đường lối phát triển kinh tế. Trước hết, họ đòi hỏi phải xoá bỏ
vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Với luận điệu, đã chuyển sang kinh tế thị
trường tức là nền kinh tế đã vận động theo các quy luật vốn có của nó thì cần gì phải
có ai có vai trò chủ đạo? Có thể nói đây là một mũi tên hiểm độc nhằm tới hai mục
tiêu: vừa làm suy yếu để đi tới xóa bỏ kinh tế Nhà nước, phục vụ mưu đồ tư nhân hóa
toàn bộ nền kinh tế, tạo cơ sở cho việc “tự diễn biến”, chuyển hóa sang chế độ tư bản
chủ nghĩa; vừa làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường của

nước ta. Đúng là, khi chuyển đổi sang nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa các
thành phần kinh tế tự do cạnh tranh phát triển theo quy luật và theo quy định của
pháp luật. Nhưng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nếu kinh
tế nhà nước không giữ vai trò chủ đạo thì nền kinh tế sẽ vận động theo hướng khác,
chứ không thể phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa nữa. Trong điều kiện đất
nước tham gia hội nhập kinh tế thế giới nếu không có kinh tế Nhà nước đủ mạnh,
điều tiết, hỗ trợ thì các thàmh phần kinh tế khác khó có thể vươn lên trong hợp tác
cạnh tranh với các đối tác nước ngoài. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa có nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước nhất thiết phải nắm giữ
vai trò chủ đạo ở những lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa quyết định nhất. Không một
đất nước nào có thể buông lỏng vai trò của kinh tế nhà nước, vì nó là cơ sở trực tiếp
của chế độ xã hội và nó luôn thể hiện sự định hướng, sự hỗ trợ và điều tiết đối với
toàn bộ nền kinh tế. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta luôn luôn khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
để mọi thành phần kinh tế bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh cùng phát triển trên mọi
lĩnh vực, mọi địa bàn, mọi điều kiện. Nhà nước ta đã đầu tư phát triển kinh tế, tạo
công ăn việc làm cho nhân dân ở các địa bàn biên giới, hải đảo là những nơi có ý
nghĩa chiến lược về quốc phòng – an ninh, bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước.
Không những thế, khu vực kinh tế nhà nước cũng là lực lượng chủ lực bảo đảm cho
nền kinh tế đất nước ổn định trước các biến đổi mạnh mẽ, bất thường về tài chính, giá


17

cả; khu vực này là lực lượng chủ yếu trong khắc phục thiên tai, cứu nạn cứu hộ,… Rõ
ràng, với khả năng của mình, kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa; là chỗ dựa đắc lực cho công cuộc xã hội chủ nghĩa và
bảo vệ tổ quốc cũng như hội nhập kinh tế quốc tế. Những thành tựu về tốc độ phát
triển kinh tế nhanh và ổn định của nền kinh tế nước ta trong những năm qua là minh
chứng sinh động.

Trong những năm qua, Đảng ta đã kiên quyết loại bỏ những cán bộ, đảng viên
biến chất, tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, làm tổn hại nghiêm trọng đến uy tín
của Đảng. Đảng ta nhận thức được sự nguy hại và tính chất phức tạp của tệ nạn tham
nhũng, coi đó là thứ “giặc nội xâm”, nếu không chiến thắng nó thì sự nghiệp đổi mới
khó đi đến thành công. Qua hai nhiệm kỳ đại hội gần đây, Đảng xác định tham
nhũng, tiêu cực là một trong bốn nguy cơ của chế độ và kiên quyết tuyên chiến với
nạn tham nhũng, hối lộ. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII và gần đây là
Luật phòng, chống tham nhũng đã được Quốc hội thông qua đã thể hiện thái độ kiên
quyết của Đảng và kiên quyết chỉ đạo các cơ quan bảo vệ pháp luật tiến Nhà nước ta.
Với vụ án PMU18, một số người liên quan là cán bộ cao cấp của Đảng, mặc dù vào
thời điểm gần Đại hội X, nhưng Đảng, Chính phủ đã hành điều tra làm rõ mọi sai
phạm và công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhân dân thấy rõ bộ
mặt của những kẻ đục khoét, phá hoại tiền của của nhân dân. Đảng ta rút ra bài học
đắt giá trong quản lý nhà nước, về công tác xây dựng Đảng, về lựa chọn, sử dụng,
giám sát cán bộ, về sự bao che, nể nang đối với các vấn đề tiêu cực, về những tác hại
của bệnh quan liêu,… Trước tình hình đó, những người chống đối mưu toan đẩy vụ
việc lên thành trận động đât làm lung lay vị thế của Đảng ta, hoặc chí ít cũng thành
bóng mây phủ đến Đại hội X của Đảng. Còn nhân dân ta, với kinh nghiệm của mình
vẫn bình tĩnh, sáng suốt nhận rõ: đâu là những kẻ sâu mọt, đâu là đông đảo cán bộ, đảng
viên của Đảng đang lao động sáng tạo, chiến đấu quên mình cùng nhân dân cả nước làm
nên những thành tựu của hơn 20 năm đổi mới. Nhân dân hết sức đồng tình và tin tưởng,
ủng hộ thái độ kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước.
Trong bối cảnh quốc tế mới, sự bủng nổ thông tin và sự phá triển như vũ bão
của khoa học kỹ thuật và công nghệ, âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch là không bỏ lỡ cơ hội ra sức tuyên truyền tác động vào thế hệ trẻ tư tưởng sống
gấp, chạy theo đồng tiền, xem nhẹ quá khứ,…. Sự nguy hiểm của những âm mưu thủ
đoạn này là nó đã gieo rắc tư tưởng hoài nghi, phủ định quá khứ; coi lịch sử là cái để
phê phán còn hiện tại chỉ đơn thuần là lối sống hưởng thụ, thực dụng theo cơ hội theo
cơ chế thị trường tự do… Chúng ta nhận thức rằng, đất nước ta có được như ngày nay
là sự phát triển liên tục của hàng ngàn năm lịch sử và được Đảng ta nâng lên một tầm

cao mới. Trách nhiệm của chúng ta là phải giáo dục thế hệ trẻ phát huy truyền thống


18

yêu nước, anh hùng trong chiến đấu và xây dựng, nhân nghĩa thương yêu đùm bọc lẫn
nhau trong cuộc sống; không ngừng chăm lo giáo dục ý thức chính trị, phẩm chất đạo
đức cách mạng cho thanh niên, tạo công ăn việc làm, lôi cuốn họ đóng góp sức mình
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đó chính là những biện pháp hữu hiệu
nhằm ngăn chặn có hiệu quả ảnh hưởng tiêu cực của các luận điệu tuyển truyền của
các thế lực thù địch đến thế hệ trẻ, xây dựng những người kế tục sự nghiệp của cha
ông, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước.
Có thể khẳng định, cuộc đấu tranh tư tưởng trong tình hình hiện nay với mục
tiêu chung là: kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kế thừa và
phát huy truyền thống và bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa thế giới; bảo vệ lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng, bảo vệ nhà nước,
bảo vệ chế độ, bảo vệ mọi thành quả cách mạng đã giành được, làm thất bại âm mưu
phá hoại của các thế lực thù địch. Ta phải thấy rằng âm mưu của các thế lực thù địch
rất thâm độc, tham vọng rất lớn nhưng chúng có thực hiện được hay không còn tùy
thuộc vào ta. Điều cơ bản là ta tuyệt nhiên không được chủ quan, lơ là, mất cảnh giác.
Tuy nhiên, công tác đấu tranh tư tưởng trong tình hình hiện nay của ta còn gặp
không ít khó khăn. Đó là, công tác xây dựng Đảng chưa chuyển biến cơ bản; bệnh cơ
hội, thực dụng, thiếu trung thực có chiều hướng gia tăng; sự suy thoái, biến chất của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn rất nghiêm trọng; chưa tạo được sự
chuyển biến cơ bản ngăn chặn và đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; dân
chủ trong Đảng còn hạn chế; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, tình trạng mất đoàn
kết ở một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa được giải quyết dứt điểm. Một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên tính chiến đấu, tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng còn yếu, có biểu hiện thờ ơ, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng; một
số ít có biểu hiện bất mãn, mất lòng tin, thậm chí chống đối, nói và làm sai với quan

điểm, đường lối của Đảng; tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, hẹp hòi, cá nhân chủ
nghĩa có chiều hướng gia tăng …
Trong hoạt động kinh tế, đối ngoại, khoa học, văn hóa, báo chí - xuất bản… có
những sơ hở để địch lợi dụng khai thác những bí mật quốc gia. Công tác quản lý, xuất
nhập khẩu văn hóa phẩm, các hoạt động giao lưu trao đổi văn hóa, giáo dục, khoa học
- kỹ thuật với nước ngoài còn lỏng lẻo, gây nên những hậu quả xấu, để lan truyền
nhiều ấn phẩm độc hại.
Công tác tư tưởng, tuyên truyền giáo dục chưa thường xuyên, chưa kịp thời,
tính chiến đấu chưa cao. Sự phối hợp và chủ động tiến công trên mặt trận tư tưởng văn hóa giữa các ngành các cấp còn hạn chế, có lúc hiệu quả chưa cao.
Một số địa phương, cơ sở quan niệm đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” là
việc của trung ương, của cấp trên; nhiều người không thấy hết những hoạt động của


19

kẻ địch đã và đang tác động đến người dân ở các cơ sở, len lỏi đến cả vùng sâu, vùng
xa trên nhiều lĩnh vực. Tình trạng mất dân chủ ở cơ sở dẫn đến khiếu kiện kéo dài,
vượt cấp; tệ quan liêu tham nhũng chưa được đẩy lùi và các tệ nạn xã hội khác đang
diễn biến hết sức phức tạp là nhân tố làm suy yếu khả năng ngăn chặn âm mưu diễn
biến hòa bình.


20

Chương 3:
Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn
biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá.
3.1. Một số vấn đề đặt ra trong tình hình hiện nay.
Với đường lối đổi mới đúng đắn, đất nước ta đang phát triển đi lên trong xu thế
hội nhập sẽ tạo ra những cơ hội, những điều kiện mới để tiếp tục phát triển đất nước.

Xu thế phát triển đi lên với quyết tâm và khả năng bứt phá mạnh mẽ sẽ tạo ra niềm
tin, niềm tự hào và phấn khởi trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, góp phần tăng
cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố niềm tin vào định hướng xã
hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng. Mặc dù vậy, trong quá trình phát triển đi lên,
trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá cũng sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp mới
nảy sinh trước yêu cầu phát triển cũng như những tác động ngày càng quyết liệt của
âm mưu “diễn biến hoà bình”.
Thứ nhất, quá trình hội nhập và những khoảng cách nhất định giữa quốc gia và
quốc tế, giữa các vùng miền, giữa các giai tầng trong xã hội sẽ được các thế lực thù
địch và các phần tử cơ hội chính trị lợi dụng và khoét sâu nhằm phục vụ cho các mưu
đồ chống phá của chúng, đặc biệt là tác động tiêu cực vào tình hình tư tưởng và tâm
trạng xã hội.
Thứ hai, vai trò của mạng thông tin toàn cầu, cùng với công nghệ mới đối với
đời sống xã hội và những bất cập trong quản mạng, quản lý văn hoá sẽ được các thế
lực thù địch tiếp tục lợi dụng một cách triệt để nhằm chống phá cách mạng Việt Nam,
đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá.
Thứ ba, cơ chế thị trường một mặt làm cho mỗi con người trong xã hội tích
cực, năng động, nhạy bén hơn; một mặt nó cũng kích thích chủ nghĩa cá nhân, tư
tưởng thực dụng nảy nở phát triển, mà đặc điểm nổi bật của nó là chỉ quan tâm đến
lợi ích vật chất đơn thuần, coi nhẹ giá trị tinh thần, lợi ích cơ bản, lâu dài.
Thứ tư, trong những điều kiện cụ thể về tình hình kinh tế - xã hội hiện nay của
nước ta, việc xử lý những vấn đề xã hội nói chung và những vấn đề cụ thể về tôn giáo
nói riêng gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Trong khi đó, những âm mưu lợi dụng các
vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền sẽ được các thế lực thù địch tiến hành
một cách ráo riết và quyết liệt hơn. Những âm mưu chống phá đó cộng với những hạn
chế, yếu kém cụ thể trong quá trình phát triển chắc chắn sẽ tác động phức tạp đến lĩnh
vực văn hoá – tư tưởng.
3.2. Giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả đấu tranh chống âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá.



21

3.2.1. Trong bối cảnh hiện nay, biện pháp chủ yếu của cuộc đấu tranh chống
âm mưu “diễn biến hoà bình” trên mặt trận tư tưởng là giáo dục một cách sâu rộng
trong Đảng và trong toàn xã hội về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phải thực sự coi trọng giáo dục lý luận
chính trị cho Đảng viên, cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, các đoàn thể, cán bộ
quản lý doanh nghiệp, đội ngũ trí thức, thanh niên sinh viên, lực lượng vũ trang đảm
boả cho họ luôn kiên định, giữ vững niềm tin vào mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc
gắn liền chủ nghĩa xã hội, kiên định sự lãnh đạo của Đảng, nhất trí và có trách nhiệm
cao trong thực hiện đường lối của Đảng. Giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng, tạo
sức đề kháng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, chủ động tấn công đánh bại từng
âm mưu, thủ đoạn của “diễn biến hoà bình”.
3.2.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, tăng
cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nêu cao bản lĩnh chính trị của
từng cán bộ, đảng viên; nêu cao ý thức chấp hành pháp luật của các tầng lớp nhân
dân.Quán triệt mạnh mẽ phương châm “xây và chống” trong quá trình đấu tranh
chống âm mưu “diễn biến hoà bình”. Trong đó lấy xây là chính,với nội dung cơ bản
bao gồm: xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, thường xuyên nâng cao cảnh cách
mạng và tinh thần chủ động phòng ngừa trước những âm mưu “diễn biến hoà bình”
của các thé lực thù địch, củng cố, tăng cường sức đề kháng bên trong của tổ chức
Đảng, đoàn thể, các cơ quan, đơn vị các bộ, đảng viên và nhân dân để đủ sức đối phó,
đẩy lùi sự tiến công chống phá trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá của các thế lực thù
địch. để đảm bảo tính chủ động phòng ngừa, công tác tư tưởng – văn hoá phải tiếp tục
được coi trọng và đề cao một cách thực chất, xứng đáng với vai trò, vị trí của nó
trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và củng cố nền tảng tư
tưởng trong toàn Đảng, toàn xã hội.
3.2.3. Phát huy sức mạnh nội sinh, tăng cường khả năng đề kháng của toàn xã
hội. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đấu tranh bác bỏ mọi

quan điểm tư tưởng phản động, sai trái; củng cố vững chắc trận địa văn hoá – tư
tưởng của Đảng mà nền tảng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, làm
rõ con Đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các cơ quan nghiên cứu lý luận,
các trường Đảng, trường chính trị, các trung tâm công tác tư tưởng cần đưa nội dung
đấu tranh tư tưởng chống “diễn biến hoà bình” vào chương trình, nội dung bài giảng.
3.2.4. Củng cố và tăng cường sự nhất trí tư tưởng trong Đảng, sự thống nhất về
chính trị và tinh thần trong nhân dân, làm cho toàn Đảng toàn dân vững tin ở tương
lai, giữ vững trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường giáo dục bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, đề cao cảnh giác đối với
các thủ đoạn của kẻ thù, chủ động phòng ngừa đồng thời nêu cao tính chiến đấu, tinh


22

thần cách mạng tiến công, kịp thời phản kích, đấu tranh vô hiệu hoá các luận điệu,
các hoạt động phá hoại tư tưởng của kẻ thù.
Tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng, đạo đức công dân trong Đảng và
trong xã hội; đẩy mạnh tổ chức rộng khắp, có chiều sâu, thiết thực và hiệu quả cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo Chỉ thị 06 của
Bộ Chính trị; gắn nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, chống suy thoái về tư tưởng, chính trị đạo đức, lối sống
của cán bộ, đảng viên. Làm cho Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh, tăng cường
sự thống nhất trong Đảng, nâng cao tính chiến đấu của Đảng, đẩy lùi bốn nguy cơ,
trong đó có “diễn biến hoà bình”. Đồng thời tiếp tục thực hiện có hiệu quả nghị quyết
Trung ương về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Đồng thời đấu trânh bài trừ các nọc độc văn hoá phản động, những biểu hiện
lai căng, đời sống đồi bại, buông thả, nhất là trong lớp trẻ.
3.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng theo hướng:
- Thông tin đầy đủ kịp thời theo đúng định hướng và giữ nghiêm kỷ luật thông tin.
- Thông qua các hình thức tuyên truyền miệng, báo cáo chuyên đề , báo chí…

sách báo, văn hoá, văn nghệ, nghiên cứu lý luận để giáo dục, nâng cao cảnh giác cách
mạng, ý thức chiến đấu của mỗi cán bộ, đảng viên trước những luận điệu xuyên tạc
của các thế lực thù địch vả những phần tử cơ hội chính trị hiểu biết về đường lối
chính sách của Đảng , mở rộng thông tin đi đôi với việc bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức của cán bộ đảng viên, xây dựng sự vững vàng về chính trị tư tưởng, sự đoàn kết
nhất trí trong Đảng và ngoài xã hội.
- Chủ động tiến công, giáng trả kịp thời những luận điệu thù địch. Sử dụng
nhiều hình thức, phương pháp đấu tranh chống lại sự tuyên truyền lừa bịp, phản cách
mạng của các thế lực thù địch.
- Làm tốt công tác tư tưởng ở các “điểm nóng”, ở những nơi xảy ra mâu thuẫn
nội bộ trong nhân dân.
- Xây dựng ý thức thường trực chống “diễn biến hoà bình” nhất là trong cán bộ
lãnh đạo các cấp, các ngành, trong cán bộ làm công tác đối ngoại, cán bộ làm công
tác đối nọi, cán bộ làm công tác tư tưởng – văn hoá.
- Làm tốt cả hai mặt của cuộc đấu tranh: đấu tranh về lý luận và kịp thời vạch
trần những kẻ thù đưa tin đồn nhảm, dựng lên dư luận xã hội xuyên tạc sự thật, xuyên
tạc tình hình thực tiễn đất nước ta. Cuộc đấu tranh về lý luận tập trung bảo vệ nền
tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối đổi mới của Đảng. Cuộc đấu tranh về thực tiễn,
tập trung bảo vệ khẳng định đường lối đổi mới, vạch trần sự xuyên tạc, thổi phồng,
bóp méo những khuyết điểm của ta, lợi dụng những tiêu cực xã hội mà chúng ta chưa


23

khắc phục tốt để bôi nhọ Đảng, các lãnh đạo của Đảng, chia rẽ nội bộ Đảng, ly gián
Đảng với nhân dân. Thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch là móc nối lôi kéo,
kích động những người có quan điểm sai trái hoặc có tư tưởng bất mãn… tạo sự chia
rẽ, chống đối từ bên trong. Do đó, trong đấu tranh tư tưởng chúng ta cần tỉnh táo phân
biệt các quan hệ nội bộ với quan hệ địch – ta, tập trung phê phán những quan điểm
chính trị phản động, cô lập cao độ các thế lực thù địch. Uốn nắn những lệch lạc trong

nội bộ, giữ vững nguyên tắc đồng thời kiên trì thuyết phục, chân thành giúp đỡ những
người có quan điểm sai trái. Động viên những người tích cực trong giới trí thức, văn
nghệ sĩ tham gia cuộc đấu tranh này.
3.2.6. Thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết, chính sách tôn giáo và chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng
thời đánh bại mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo, dân tộc để chống phá hoại công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta. Trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hoà bình”,
sức mạnh của nhân dân ta có ý nghĩa quyết định. Phát huy vai trò và đổi mới phương
thức hoạt động của các tổ chức quần chúng, xây dựng lực lượng nòng cốt, động viên
và tổ chức nhân dân tham gia tích cực cuộc đấu tranh này.


24

C. KẾT LUẬN
Nhìn lại chặng đường phát triển đất nước qua hơn 20 năm đổi mới, toàn Đảng,
toàn dân có quyền tự hào khẳng định rằng những thành tựu về kinh tế xã hội, an ninh
quốc phòng, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc mà chúng ta đạt được thực sự là to lớn và có ý nghĩa lịch sử cả về lý
luận và thực tiễn. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta, trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là hoàn toàn đúng đắn và sáng
tạo; chứng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng nước ta là phù hợp hoàn
cảnh thực tế Việt Nam và thích ứng xu hướng thời đại.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; chủ động hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế quốc tế tạo ra những cơ hội
thuận lợi để phát triển đất nước. Bên cạnh những cơ hội mới của quá trình hội nhập,
chúng ta đang đứng trước những nguy cơ, thách thức to lớn. Các thế lực thù địch với
dã tâm của mình ra sức dùng những thủ đoạn “diễn biến hoà bình” cực kỳ nham
hiểm, thâm độc để chống phá công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; trọng tâm là
trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá, bởi chúng coi đây là khâu mũi nhọn, là mũi đột phá.

Vì vậy, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng
đất nước tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu,
thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của kẻ thù là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của đất nước.
Với âm mưu tiêu diệt các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trên thế giới, các thế
lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh “diễn biến hoà bình” dưới nhiều thủ đoạn, trước hết
đánh vào ý thức hệ của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm xói mòn
niềm tin của nhân dân đối với chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng. Chúng đang
tìm mọi cách phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chống lại con đường độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xuyên tạc lịch sử cách mạng, lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng. Chúng
đưa nhiều loại ấn phẩm có nội dung phản động, đồi trụy, đưa ra các nhiều thuyết giải
phản động, sử dụng các chiêu bài “tự do”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”, kích
động phá hoại tư tưởng. Chúng ra sức tuyên truyền nối sống phương Tây, xuyên tạc
bóp méo tình hình, đồng thời khuếch đại những hạn chế của Đảng, Nhà nước và
những khó khăn tạm thời trước mắt về kinh tế - xã hội…
Trong tình hình hiện nay, Đảng ta phải phát huy hơn nữa vai trò của công tác
tư tưởng - văn hoá trong đấu tranh phòng chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà
bình” của các thế lực thù địch, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng, tiếp tục bảo
vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó phải tuyên
truyền và giáo dục để nhân dân nhận thức được lòng yêu nước hiện nay cũng chính là


25

yêu chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập phải gắn bó với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Nâng cao tinh thần cảnh giác phát hiện và đấu tranh kịp với các luận diểm
xuyên tạc, phản động các thế lực thù địch ngay tại cấp cơ sở.
Các cán bộ lý luận, các cán bộ thông tin đại chúng, đội ngũ giảng viên chính
trị, báo cáo viên, tuyên truyền viên, phải làm tròn vai trò chiến sỹ xung kích trong

cuộc đấu tranh phòng chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá.
Hơn lúc nào hết các cán bộ tư tưởng chuyên trách của Đảng phải ra sức học tập lý
luận chính trị và nghiệp vụ, rèn luyện bản lĩnh và đạo đức cách mạng, mài sắc vũ khí
tư tưởng và phát huy sức mạnh tổng hợp của đội ngũ công tác tư tưởng, giữ vững ổn
định chính trị, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa; sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


×