PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ những nước nông nghiệp lạc hậu, nhiều nước đã vươn lên trở thành
những nước nông – công nghiệp phát triển, trong đó có những nước đã trở thành
nước công nghiệp mới như trường hợp Singapore. Sự phát triển năng động đã góp
phần tạo nên huyền thoại “Kỷ nguyên châu Á – Thái Bình Dương”. Đạt được
những thành tựu như vậy là do các nước đã xác định được chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội đúng đắn: đó là “nền kinh tế mở, hướng về xuất khẩu, hội nhập
với khu vực và toàn cầu”. Chính vì vậy tự do hóa thương mại đóng một vai trò
chính yếu trong việc kích thích sự phát triển ở nhiều nước. Thương mại càng
được tự do hóa thì sẽ càng làm gia tăng xu hướng toàn cầu hóa – Một xu hướng
cho đến nay đã mang lại nhiều lợi ích. Kinh tê đôi ngoại nói chung và ngoại thương
nói riêng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình Việt Nam hội nhập nền
kinh tế thế giới, tiến hành Công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Với mô hình
Công nghiệp hóa hiện đại hóa “hướng về xuất khẩu là chính, đồng thời thay thế nhập
khẩu đối với những sản phẩm sản xuất có hiệu quả trong nước”, nhiệm vụ của ngoại
thương càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết.
Kinh tế trên địa bàn Thành phố Cần Thơ là một bộ phận của nền kinh tế Việt
Nam, có vị trí đặc biệt quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu
Long. Trong những năm qua, thành phố Cần Thơ đã chứng tỏ vị thế bởi sự phát triền
năng động và có hiệu quả của mình, thông qua hoạt động ngoại thương thành phố Cần
Thơ đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế Thành phố
nói riêng và cả nước nói chung. Trong hoạt động xuất khẩu thành phố đã có nhiều
biện pháp chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường và từng bước thực
hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu. Có thể nói việc tập trung đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu của thành phố là nhân tố tích cực để đấy nhanh tiến độ thực hiện Công
nghiệp hóa và Hiện đại hóa Đất nước. Tuy nhiên công tác xuất khẩu của Cần Thơ vẫn
còn bộc lộ một số tồn tại như quy mô và kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ bé; cơ cấu các
mặt hàng xuất khẩu còn ở tình trạng lạc hậu, chất lượng chưa cao, mặt hàng manh
mún, sức cạnh tranh yếu; thị trường xuất khẩu còn bấp bênh, nhiều trường hợp phãi
buôn bán qua trung gian, còn thiếu những hợp đồng lớn và dài hạn; nhiều doanh
1
nghiệp chưa giữ được chữ tín với bạn hàng nước ngoài… Từ năm 2015 trở đi, Việt
Nam sẽ ngày càng hội nhập sâu với các nền kinh tế thế giới khi kí kết thành công hiệp
định TPP và các FTA phát huy hiệu quả. Do vậy, việc tìm hiểu về tình hình xuất khẩu
hàng hóa để đề xuất những giải pháp đổi mới và hoàn thiện chính sách nhằm thúc đẩy
hàng hóa xuất khẩu trong giai đoạn mới, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực
tiễn. Đó là lý do em chọn dề tài “Tìm hiểu về thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu
quả xuất khấu những mặt hàng chủ lực ở Thành phố Cần Thơ”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề về xuất khẩu của Việt Nam nói chung và
xuất khẩu ở thành phố Cần Thơ nói riêng. Luận văn đánh giá thực trạng xuất khẩu
những mặt hàng chủ lực ở thành phố Cần Thơ đó là mặt hàng gạo và thủy sản, đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã
hội thành phố phát triển.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, Trình bày thực trạng xuất khẩu những mặt hàng chủ lực ở thành phố
Cần Thơ từ năm 2011- 6/2015.
Hai là, Trình bày những thành tựu và hạn chế cũng như những nguyên nhân
của việc xuất khẩu những mặt hàng chủ lực trên địa bàn Thành phố Cần Thơ.
Ba là, Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu góp phần
thúc đẩy kinh tế - xã hội thành phố phát triển.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những mặt hàng xuất khẩu chủ lực ở thành phố Cần Thơ
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Tìm hiểu về tình hình xuất khẩu trên địa bàn thành phố Cần Thơ
- Về thời gian: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu về tình hình xuất khẩu từ 2011
đến 6/2015
4. Phương pháp nghiên cứu
2
Luận văn sử dụng phương pháp luận cơ bản, chỉ đạo trong quá trình nghiên cứu là
phép biện chứng duy vật. Vận dụng phương pháp luận chung; phương pháp cụ thể là
logic lịch sử, phân tích và tổng hợp so sánh, theo dõi, thống kê.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm 3 chương, 12 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất khẩu
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu những mặt hàng chủ lực ở thành phố Cần Thơ
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu những mặt
hàng chủ lực ở thành phố Cần Thơ
3
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các loại hình xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm về xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia với
phần còn lại của thế giới dưới hình thức mua bán thông qua quan hệ thị trường
nhằm mục đích khai thác lợi thế của quốc gia trong phân công lao động quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương đã
xuất hiện từ lâu đời và ngày càng phát triển. Tuy hình thức đầu tiên chỉ là hàng
đổi hàng, song ngày nay hình thức xuất khẩu đã được thể hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế,
từ xuất khẩu hàng hóa tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc, thiết bị, công
nghệ kĩ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm đem lại lợi ích cho
quốc gia. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi phạm vi cả về không gian lẫn thời
gian. Nó có thể diễn ra trong thời gian ngắn và cũng có thể diễn ra kéo dài hàng
năm. Đồng thời nó có thể được tiến hành trên phạm vi toàn lãnh thổ một quốc gia
hay nhiều quốc gia khác nhau.
1.1.2. Đặc điểm của xuất khẩu
Vì xuất khẩu là việc bán hàng ra nước ngoài nên có những đặc điểm riêng
khác biệt và phức tạp hơn bán hàng trong nước:
Một là, Thị trường rộng lớn hơn nên khó kiểm soát, mua bán qua trung
gian chiếm tỉ trọng lớn, việc thanh toán được tiến hành bằng nhiều hình thức
phức tạp, đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ mạnh có khả năng thanh toán
trên thị trường quốc tế như USD, GBP, EURO, DEM, GPY,… vì thế kinh doanh
xuất khẩu chịu ảnh hưởng rất lớn của sự phát triển sản xuất trong nước, ngoài
nước và sự biến động của tỷ giá hối đoái.
Hai là, Người mua và người bán thuộc các quốc gia khác nhau nên ngôn
ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán, chính trị, pháp luật (chính sách ngoại thương),
4
trình độ quản lý ở mỗi quốc gia cũng khác nhau. Do vậy ngôn ngữ trong hợp
đồng cần phãi thống nhất và dễ hiểu.
Ba là, Vì khoảng cách địa lý xa. Hàng hóa phãi vận chuyển trên quãng
đường dài nên mọi phương tiện vận tải như vận tải đường không, đường biển,
đường sắt và đường bộ đều có thể được sử dụng và hàng hóa xuất khẩu cũng cần
phãi được bảo quản tốt để đáp ứng với điều kiện khí hậu khác nhau nhằm tránh
mất mát về số lượng và hỏng về chất trong quá trình vận chuyển.
Bốn là, Hàng xuất khẩu đòi hỏi chất lượng cao, mẫu mã đẹp, hợp thị hiếu
tiêu dùng từng khu vực, từng quốc gia trong từng thời kỳ. Đối tượng của hoạt
động xuất khẩu là những hàng hóa thuộc thuộc lợi thế so sánh của mỗi nước.
Năm là, Ngoài yếu tố chính trị hoặc nghĩa vụ quốc tế thì hoạt động kinh
doanh xuất khẩu quan tâm đến những hàng hóa có giá trị thực trên thị trường thế
giới lớn hơn giá trị thực trong thị trường nội địa.
1.1.3. Các loại hình xuất khẩu
1.1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khấu trực tiếp là hình thức giao dịch trong đó người bán (nhà xuất khẩu)
bán hàng trực tiếp cho khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài.
Khi doanh nghiệp có đủ khả năng về tài chính, phát triền đủ mạnh để có thể
thành lập một tổ chức hay một đơn vị bán hàng của riêng mình, có thể kiểm soát trực
tiếp, nắm bắt được nhu cầu thị trường về số lượng, chất lượng, giá cả từ đó có thể làm
thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường.
Hình thức này đòi hỏi phãi có cán bộ có nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu
có trình độ cao, am hiểu và có kinh nghiệm kinh doanh quốc tế đặc biệt là nghiệp vụ
thanh toán quốc tế thông thạo. Chi phí tiếp thị ở nước ngoài cao nên đối với những
doanh nghiệp có quy mô nhỏ, ít vốn không nên áp dụng hình thức này.
1.1.3.2. Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hoá, dịch vụ của công ty ra thị
trường nước ngoài thông qua trung gian (qua người thứ ba) hay nói cách khác xuất
khẩu gián tiếp là cách thức mà nhà sản xuất tiến hành xuất khẩu sản phấm của mình ra
nước ngoài thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt tại quốc gia tiếp nhận xuất
khẩu.
5
Hình thức này có ưu điểm:
- Giảm chi phí bán hàng, chi phí tiếp thị. Những người trung gian thường có cơ
sở vật chất nhất định, do vậy người uỷ thác giảm được một khoản chi phí cho việc đầu
tư trực tiếp vào nước nhập khẩu.
- Người trung gian thường là những người bản địa, am hiểu thị trường, pháp
luật, tập quán buôn bán của địa phương vì vậy họ có thể đẩy mạnh việc kinh doanh,
buôn bán và tránh những rủi ro mà người uỷ thác có thể gặp phải.
Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là:
- Chủ thể tham gia kinh doanh xuất khẩu sẽ mất đi sự liên hệ với thị trường, lợi
nhuận bị chia sẻ. Ngoài ra, bên phía trung gian thường đưa ra những yêu cầu đòi hỏi
bên chủ thể xuất khẩu phãi đáp ứng, tạo thế bị động cho bên xuất khấu.
- Hình thức này thường được sử dụng khi xâm nhập vào thị trường mới hoặc
khi mặt hàng khó bảo quản như các mặt hàng tươi sống ...
1.1.3.3. Buôn bán đối lưu (Counter – trade)
Buôn bán đối lưu là một trong những phương thức giao dịch xuất khẩu trong
xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người mua,
lượng trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Trong phương thức xuất khẩu này
mục tiêu là thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Việc xuất khẩu ở đây
không phải là thu về một lượng ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá cần thiết
có giá trị xấp xỉ lô hàng xuất khẩu. Vì đặc điểm này mà phương thức này còn có tên
gọi khác như xuất nhập khẩu liên kết, hay hàng đổi hàng.
Khi tiến hành thực hiện hình thức này các bên cần phải tôn trọng nguyên tắc
cân bằng. Nguyên tắc này được thể hiện:
- Cân bằng về mặt hàng: hàng quý hiếm đổi lấy hàng quý hiếm, hàng ế thừa đổi
lấy hàng ế thừa.
- Cân bằng điều kiện giao dịch: cùng giao dịch FOB – cảng đi hay cùng giao
dịch CIF - cảng đến.
- Cân bằng giá cả: cùng tính cao hơn hay thấp hơn giá cả quốc tế.
- Cân bằng về tổng giá trị hàng hoá mà các bên giao cho nhau.
1.1.3.4. Xuất khẩu hàng hóa theo nghị định thư
6
Đây là hình thức xuất khấu hàng hoá (thường là để gán nợ) được ký kết theo
nghị định thư giữa hai chính Phủ.
Đây là một trong những hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp tiết kiệm được
các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường: tìm kiếm bạn hàng, mặt khách
không có sự rủi ro trong thanh toán.
Trên thực tế hình thức xuất khẩu này chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Thông thường
trong các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và trong một số các quốc gia có quan hệ
mật thiết và chỉ trong một số doanh nghiệp nhà nước.
1.1.3.5. Xuất khẩu tại chỗ
Xuât khẩu tại chỗ là hình thức bán hàng cho nước ngoài ngay trên lãnh thổ
nước mình.
Đây là hình thức xuất khẩu mới nhưng ngày càng phát triển trong nền kinh tế
thị trường mở cửa. Loại hình này ở Việt Nam chủ yếu diễn ra dưới hình thức bán hàng
cho các khu chế xuất. Hình thức xuất khẩu này có đặc điểm là hàng hoá không bắt
buộc phải vượt qua biên giới quốc gia mới đến tay của khách hàng. Ngoài ra, các thủ
tục xuất khẩu thì đơn giản hơn, chi phí xuất khẩu cũng như rủi ro thấp. Tuy nhiên thị
trường đối với loại hình này là không lớn, chỉ gồm những người nước ngoài đi du lịch
hoặc làm việc tại nước xuất khẩu tiêu thụ.
1.1.3.6. Gia công xuất khẩu
Gia công xuất khẩu là hình thức bên nhận gia công sẽ nhập khẩu nguyên liệu
hoặc bán thành phẩm của bên đặt gia công để sản xuất ra thành phẩm rồi giao lại cho
bên đặt gia công và hưởng phí gia công.
Ở Việt Nam hình thức này chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực gia công dệt may,
giày dép. Hình thức này tạo điều kiện cho người lao động có công ăn việc làm, tăng
thêm thu nhập và học hỏi kinh nghiệm sản xuất, tiếp cận với công nghệ mới của nước
ngoài. Mặt khác, với hình thức này thị trường tiêu thụ sẵn có vì vậy nó đem lại lợi ích
tương đối lớn đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức này là tính bị động cao do toàn bộ hoạt
động của các doanh nghiệp phụ thuộc vào bên đặt gia công về thị trường, giá bán, giá
đặt gia công, nguyên vật liệu, mẫu mã ... Nhiều trường hợp bên ngoài lợi dụng gia
7
công để bán máy móc cho nước nhận gia công, sau một thời gian không đặt gia công
nữa gây tổn thất, lãng phí cho bên nhận gia công.
1.1.3.7. Tạm nhập tái xuất
Đây là hình thức mà hàng hoá xuất khẩu đi qua một số nước trung gian rồi mới
đến nước nhập khẩu và trong đó nước tái xuất sẽ thu được một khoản chênh lệch giữa
khoản tiền bỏ ra để nhập khẩu và khoản tiền thu được khi xuất khẩu.
Ưu điểm của hình thức này là rủi ro ít do nhà xuất khẩu chỉ đóng vai trò xuất
khẩu hàng hoá sang nước thứ hai, nước thứ hai có vai trò là một trung gian vì thế rủi
ro lúc này được san sẻ. Tuy nhiên lợi nhuận thu được của các nhà xuất khẩu là thấp do
các chi phí về dịch vụ vận tải, bến bãi… là tương đối lớn.
Tóm lại, mỗi một hình thức xuất khẩu hàng hóa đều có ưu nhược điểm nhất
định. Vì vậy, để thu được hiệu quả kinh tế cao nhất đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi nhà
xuất khẩu cần có những chiến lược, định hướng lựa chọn phù hợp với sự phát triển
kinh tế, khả năng, năng lực của mình
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xuất khẩu hàng hóa
1.2.1. Các nhân tố về cơ chế chính sách và môi trường pháp lý
Cơ chế và chính sách tác động trực tiếp tới các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá
nói chung và hàng xuất khẩu nói riêng. Khi môi trường luật pháp từng bước được cải
thiện, rõ ràng, minh bạch thì chính cơ chế và chính sách đã giúp cho các doanh nghiệp
làm ăn thuận lợi hơn. Với một khối lượng quá lớn văn bản đủ loại từ luật đến pháp
luật, nghị quyết, nghị định, quyết định, thông tư của các cấp khi hoạt động có hiệu quả
hay không có hiệu quả đã tạo ra những thay đổi lớn trong sự tăng trưởng của từng
ngành cũng như từng doanh nghiệp. Các cơ chế chính sách phù hợp, thông thoáng sẽ
tạo thuận lợi cho các ngành sản xuất các địa phương và các thành phần kinh tế tham
gia xuất nhập khẩu. Ngược lại, nếu cơ chế chính sách không thông thoáng sẽ tạo nên
rào cản cho việc xuất khấu hàng hóa của các doanh nghiệp.
Mỗi một quốc gia đều có cơ chế chính sách thể hiện qua luật pháp. Chính vì
vậy mà nó chi phối tới hoạt động kinh doanh trong nước cũng như tới hoạt động kinh
doanh quốc tế. Tuy nhiên, dù luật pháp các nước có khác nhau thì nó cũng ảnh hưởng
tới các hoạt động xuất khẩu trên các mặt như: quy định về giao dịch, hợp đồng; về
cạnh tranh, độc quyền; về giá cả, các loại thuế; về vấn đề bảo vệ môi trường, tiêu
8
chuẩn chất lượng, bao bì, về thương hiệu, quảng cáo; về vấn đề tự do thương mại hay
bảo hộ mậu dịch...
Như vậy, cơ chế chính sách và môi trường pháp lý vừa tạo thuận lợi cho các
doanh nghiệp mở rộng thị trường, tăng lợi nhuận nhưng đồng thời cũng tạo ra những
hàng rào ngăn cản và hạn chế khả năng của doanh nghiệp trong việc khai thác các cơ
hội kinh doanh của mình trên trường quôc tê.
1.2.2. Các nhân tố về kinh tế - văn hóa - xã hội
Các quốc gia với các chính sách kinh tế khác nhau sẽ tạo cơ hội kinh doanh
khác nhau. Trong đó các yếu tố về kinh tế như chính sách tài chính tiền tệ qui định
thuế xuất khẩu, các ưu đãi về thuế xuất khẩu, về vốn...rồi các công cụ thuế quan, phi
thuế quan có ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp bởi các qui định do Nhà nước
đề ra nhằm quản lý hoạt động kinh doanh cũng như điều tiết lượng cung cầu hàng hoá
tiêu dùng ở mỗi quốc gia. Bên cạnh đó thì các chính sách về lãi suất, dự trữ ngoại tệ,
tỷ giá hối đoái...cũng tác động không nhỏ đối với mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào
thị trường quốc tế. Vì khi đồng tiền của một quốc gia tăng giá, giá cả trong nước tăng
lên, khả năng cạnh tranh của nước đó giảm đi dẫn đến sự giảm sút hiệu quả xã hội. Do
vậy, sự biến động của tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ ảnh hướng phần nào đến
hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá cũng như đến sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân.
Về các nhân tố văn hoá xã hội bao gồm cả phong tục tập quán, thị hiếu tiêu
dùng, tôn giáo, ngôn ngữ đều được coi là yếu tố bên ngoài quan trọng nhất có tác
động đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp. Mỗi một quốc gia có
một nét văn hóa riêng biệt, con người của nước đó mang theo đặc thù văn hóa, thói
quen riêng mà khó có thể thay đổi. Chính điều này sẽ tạo cho mỗi nước có thị hiếu và
xu hướng tiêu dùng riêng. Do đó, việc nghiên cứu kỹ thị trường và xây dựng được
một chiến lược marketing xuất khẩu phù hợp là nhiệm vụ tiên quyết đối với mỗi
doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.
1.2.3. Các nhân tố về cơ sở hạ tầng và trình độ khoa học công nghệ
Cơ sở hạ tầng và trình độ khoa học công nghệ cũng là những nhân tố góp phần
không nhỏ tới sự thành công của hoạt động xuất khẩu hàng hóa. Cơ sở hạ tầng bao
gồm các yếu tố như đường giao thông, công trình điện nước, cơ sở vật chất nơi sản
9
xuất... Đây là những yếu tố tác động trực tiếp tới tình hình sản xuất. Nếu cơ sở hạ tầng
thường xuyên được củng cố và nâng cấp sẽ giúp cho việc nâng cao năng lực sản xuất,
tạo điều kiện cho việc vận chuyển, lưu thông hàng hóa được nhanh hơn, giảm chi phí
vận chuyển, giảm thiểu các chi phí hao mòn vô ích...Những yếu tố này giúp cho việc
giảm giá thành sản phẩm, tạo cho doanh nghiệp đạt được tính kinh tế theo qui mô.
Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, nhiều công
nghệ tiến bộ mới ra đời thay thế các công nghệ cũ đã tạo ra những cơ hội mới đối với
tất cả các ngành nghề. Các doanh nghiệp có thể giao dịch với khách hàng thông qua
các phương tiện truyền thông đặc biệt như điện thoại, thư điện tử, fax sẽ làm giảm
được phần nào các chi phí giao dịch trực tiếp, nhất là đối với các doanh nghiệp xuất
khẩu hàng hoá khi mà khoảng cách địa lý là rất lớn. Thông qua mạng Internet, các
doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu có thể tiếp cận với nhau dễ dàng và thuận tiện
hơn, mở rộng cơ hội hợp tác giữa các doanh nghiệp. Ngoài ra, khoa học công nghệ
còn tác động tới các lĩnh vực như vận tải hàng hóa, giao thông, ngân hàng, tài chính,
hải quan… Làm cho các khâu trong quá trình giao nhận hàng hóa được thuận tiện và
tăng độ an toàn.
1.2.4. Các nhân tố thị trường
Thị trường - một nhân tố không thể không có trong hoạt động kinh doanh. Việc
nắm bắt được thị trường và tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ là một việc hết
sức khó khăn đối với xuất khẩu. Thị trường, nơi quan hệ cung cầu được thực hiện
thông qua giá cả, tạo động lực thúc đẩy cho sản xuất, phân phối và sử dụng có hiệu
quả nguồn lực của doanh nghiệp. Hơn nữa khi nắm bắt được các điều có liên quan đến
mặt hàng kinh doanh của mình trên thị trường nước ngoài đó như: dung lượng thị
trường, tập quán, thị hiếu tiêu dùng, các kênh tiêu thụ và sự biến động giá cả sẽ giúp
cho các đơn vị sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu có được những phương án kinh
doanh kịp thời đáp ứng với xu thế phát triển của nền kinh tế quốc tế. Thị trường cũng
là nơi có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Yếu tố cạnh tranh này có tác động
mạnh mẽ đến phương hướng, chiến lược sản xuất của mỗi doanh nghiệp. Dựa trên vị
thế tương quan giữa mình và đối thủ cạnh tranh mà mỗi doanh nghiệp đưa ra các
quyết định đúng đắn trong việc điều chỉnh, phát triển sản phẩm. Ngoài ra, doanh
nghiệp còn chịu sức ép từ phía người tiêu dùng và từ phía các nhà cung cấp.
10
Việc xác định cung - cầu trên thị trường nước nhập khẩu là yếu tố rất quan
trọng đối với mỗi doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa. Các doanh nghiệp cần nắm được
mức cầu trên thị trường nước nhập khẩu ra sao và tình hình cung như thế nào để có
thể đưa ra chiến lược xuất khẩu hiệu quả nhất cho doanh nghiệp mình. Khi mức cầu
tăng lên dẫn đến giá cả sản phẩm tăng, qui mô thị trường cũng được mở rộng hơn tạo
điều kiện cho doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng đó đồng thời tăng doanh
thu bán hàng trên thị trường nhập khẩu. Ngược lại, khi mức cầu giảm dẫn đến giá
thành sản phẩm có xu hướng hạ xuống và yêu cầu về chất lượng, mẫu mã sản phẩm sẽ
tăng lên. Khi đó, doanh nghiệp xuất khẩu cần có chiến lược cải tiến mẫu mã sản
phẩm, nâng cao chất lượng, gia tăng các tiện ích của sản phẩm, tăng các dịch vụ
khuyến mãi đi kèm để kích thích nhu cầu mua của người tiêu dùng. Bên cạnh lượng
cầu thì lượng cung của thị trường cũng tác động mạnh đến việc xuất khẩu hàng hóa.
Nếu lượng cung quá lớn thì cạnh tranh trên thị trường nhập khẩu sẽ tăng lên, việc tiêu
thụ sản phẩm trên thị trường này sẽ giảm xuống làm ảnh hưởng đến doanh thu và kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu. Ngược lại, nếu lượng cung giảm thì sự
cạnh tranh trên thị trường cũng giảm xuống, doanh nghiệp dễ chiếm được thị phần
trên thị trường [13].
Như vậy việc xác định cung - cầu của thị trường nhập khẩu là rất quan trọng.
Các doanh nghiệp cần xác định được qui mô và tiềm năng đích thực của thị trường và
cần phải biết số lượng sản phẩm mà thị trường tiêu thụ thực sự và số lượng mà thị
trường có thể tiêu thụ trong tương lai. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần nghiên cứu
các vấn đề như: việc nhập cảng (khối lượng nhập cảng hiện nay, sản phẩm nhập đến
từ đâu, thị phần của các nhà cung cấp nước ngoài thay đổi và phát triển như thế nào,
giá cả hàng xuất khẩu thuộc các nguồn cung cấp khác nhau); qui mô và khuynh hướng
sản xuất bên trong thị trường nhập khẩu; lượng hàng xuất khẩu từ thị trường đó; các
yếu tố sẽ làm thay đối tỷ lệ nhập cảng trong tiêu thụ và đặc biệt tỷ lệ mà sản phẩm của
mình có thể chiếm lĩnh được; số lượng tiêu thụ sản phẩm mỗi năm...[4].
1.2.5. Các nhân tố liên quan đến marketing xuất khẩu của doanh nghiệp
Thâm nhập vào thị trường nước ngoài là một thử thách lớn đối với mỗi doanh
nghiệp xuất khẩu. Bên cạnh sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, mỗi doanh nghiệp cần chủ
động xây dựng các chiến lược marketing xuất khẩu cho riêng mình. Muốn thành công
11
trên thị trường quốc tế, mỗi doanh nghiệp cần phải sử dụng một cách hài hòa và sáng
tạo các chiến lược về sản phẩm, giá cá, phân phối và xúc tiến thương mại.
Chiến lược về sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp cung cấp những sản phẩm với chất
lượng cao, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của thị trường. Dựa trên kết quả việc phân
tích thị trường nhập khẩu một cách kỹ lưỡng và có hệ thống, các doanh nghiệp sẽ nắm
được thị hiếu của người tiêu dùng đối với từng loại sản phẩm và sẽ phát triển sản
phẩm theo hướng đáp ứng tối đa những nhu cầu này. Mỗi doanh nghiệp có thể áp
dụng nhiều giải pháp liên quan đến sản phẩm như: thích nghi sản phẩm, đa dạng hóa
sản phẩm, phát triển sản phẩm mới, phát huy và cải tiến sản phẩm truyền thống,
chuyên môn hóa sản phẩm, đổi mới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu...[6]. Tùy từng thị
trường nhập khẩu khác nhau mà doanh nghiệp nên chọn những giải pháp phù hợp cho
sản phẩm của mình. Một sản phẩm tốt sẽ là công cụ hữu hiệu tạo sức cạnh tranh cho
doanh nghiệp đó trên thị trường.
Chiến lược về giá cả sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được mức giá cả phù
hợp, cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh trên thế giới.
Thông thường các doanh nghiệp có thể định giá bán của các sản phẩm xuất khẩu
thông qua 3 cách định giá sau: định giá trung lập, định giá thâm nhập và định giá hớt
váng nhưng cách định giá trung lập là phổ biến hơn cả. Định giá trung lập là phương
pháp xác định giá dựa vào chi phí sản xuất hoặc theo giá thị trường. Dựa vào chi phí
sản xuất để định giá còn được gọi là định giá căn cứ vào chi phí sản xuất, nghĩa là
định giá sản phẩm dựa vào các chi phí và mức doanh lợi có liên quan như chi phí công
nghiệp (nguyên vật liệu, nhân công...), chi phí quán lý phân xưởng, chi phí cung ứng
vật tư, chi phí hành chính, chi phí vận tải nội địa...Dựa vào thị trường để định giá là
xem xét mặt hàng có liên quan được mua bán với giá bao nhiêu trên thị trường thì ta
đặt giá như thế ấy. Muốn vậy ta phải tham khảo giá thế giới như giá đấu giá quốc tế,
giá mua bán tại sở giao dịch hàng hóa quốc tế, giá chào hàng của một hãng lớn, giá ở
hợp đồng trước... [21]. Tùy từng thị trường và từng mặt hàng cụ thể mà doanh nghiệp
áp dụng các cách định mức giá phù hợp. Mức giá này sẽ giúp tăng tính cạnh tranh về
giá của sản phẩm. Ngoài ra, khi yếu tố chất lượng là ngang nhau thì yếu tố giá cả đóng
vai trò lớn trong quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Người tiêu dùng sể có xu
hướng lựa chọn loại sản phẩm có giá thành thấp hơn. Chính vì vậy mà mỗi doanh
12
nghiệp cần xây dựng cho mình một chiến lược giá cả hiệu quả để nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình so với đối thủ.
Chiến lược phân phối xác lập được hệ thống phân phối gián tiếp hay trực tiếp.
Đây cũng là một yếu tố quan trọng để người tiêu dùng có thể dễ dàng tiếp cận được
với sản phẩm nhập khẩu. Thông thường, trên một thị trường có thể cho nhiều mạng
lưới phân phối đối với mỗi sản phẩm nhất định. Thông thường, một sản phẩm được
bán cho một mạng lưới phân phối do đại lý đại diện cho nhà xuất khẩu. Việc lựa chọn
người đại lý này đều dựa vào các yếu tố căn bản giống như lựa chọn các nhà phân
phối.
Chiến lược xúc tiến thương mại là một nhân tố không thể thiếu trong chiến
lược marketing xuất khẩu của mỗi doanh nghiệp xuất khẩu. Một sản phẩm hàng hóa
xuất hiện trên thị trường nhưng không hề có tên tuổi, không được quảng cáo trên các
phương tiện thông tin đại chúng, không được hỗ trợ bởi các hình thức xúc tiến sẽ có
nguy cơ không thể tiêu thụ được trên thị trường đó, hay chỉ có thể thực hiện được điều
này bằng cách hạ giá hàng của mình và do đó sẽ làm giảm mức sinh lời của doanh
nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp cần đề ra các biện pháp xúc tiến thương mại hiệu
quả như quảng bá thương hiệu sản phẩm thông qua website, các phương tiện thông tin
đại chúng, hội trợ triển lãm, trưng bày sản phẩm...
1.3. Các lý thuyết về xuất khẩu
1.3.1. Thuyết trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương cho rằng một nước trở nên giàu có và hùng mạnh là
nhờ đẩy mạnh xuất khẩu. Nhưng xuất khẩu không phải là để nhập khẩu mà để thu về
vàng bạc và đá quý, coi đó là tài sản duy nhất. Thomas Mun (1571 - 1641) là người
đại diện điển hình nhất của quan điểm trên. Trong cuốn sách: “Kho bạc nước Anh qua
thương mại quốc tế” ông đã lớn tiếng đòi cấm xuất khẩu vàng, bạc và đá quý. Mặt
khác, phải tăng cường vai trò của Nhà nước đối với nhập khẩu. Xuất phát từ quan
điểm trên, vàng, bạc, đá quý bị gạt ra ngoài cơ cấu xuất khẩu.
1.3.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (1723 - 1790) về thương mại
quốc tế:
Lợi thế tuyệt đối chứng minh rằng: nước A sản xuất hàng X có lợi hơn nước B
và ngược lại, nước B sản xuất hàng Y có hiệu quả hơn nước A. Vì vậy hai nước có thể
13
sản xuất những mặt hàng mà mình có hiệu quả hơn đó và trao đổi cho nhau thì chắc
chắn hai bên đều có lợi. Theo học thuyết lợi thế tuyệt đối thì cơ cấu xuất khẩu sẽ được
hình thành trên cơ sở lợi thế tuyệt đối của hàng hoá. Song song với điều đó, A.Smith
chủ trương tự do hoá thương mại tức là cơ cấu xuất nhập khẩu phải để bàn tay vô hình
(Laissez faire) tự điều tiết. Với học thuyết lợi thế tuyệt đối này A.Smith hoàn toàn đối
nghịch với quan điểm xuất nhập khẩu của phái trọng thương.
1.3.3. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (1772 – 1823)
Mô hình Ricardo là mô hình đơn giản nhưng có thể giải đáp một cách khoa học
hai vấn đề: cơ sở phát sinh và lợi ích của nền thương mại quốc tế và mô hình của nền
thương mại đó. Theo mô hình này các nước sẽ lựa chọn việc xuất khẩu những hàng
hóa mà trong nước sản xuất tương đối có hiệu quả và ngược lại, nhập khẩu những
hàng hoá mà trong nước sản xuất ra tương đối kém hiệu quả. Ví dụ, hai nước A và B
đều sản xuất và tiêu thụ hai hàng hoá X và Y giống nhau. Nếu hao phí lao động để sản
xuất ra 1 đơn vị hàng hoá X và Y ở nước A là ax và ay, thì ở nước B là bx và by.Ta sẽ
có tương quan năng suất của X so với Y ở hai nước là: ax/ay và bx/by. Nếu ax/ay <
bx/by, tức là năng suất của X so với Y ở nước A cao hơn ở nước B và do vậy nước A
sẽ chọn sản xuất X để đổi Y từ nước B và ngược lại nước B sẽ sản xuất Y để đổi lấy X
từ nước A. Việc lựa chọn cơ cấu xuất nhập khẩu như trên sẽ đảm bảo cho cả hai bên
đều có lợi qua trao đổi trong ngoại thương, vừa thúc đẩy chuyên môn hoá quốc tế để
nước nào cũng có thể sản xuất quy mô lớn, vừa tạo khả năng lựa chọn lớn hơn cho
người tiêu dùng ở cả hai nước.
1.3.4. Học thuyết Heckscher - Ohlin (H - O):
Mô hình này chứng minh rằng lợi thế so sánh chịu ảnh hưởng của các mối quan
hệ tương hỗ giữa các tài nguyên của đất nước, tức là sự phong phú của các yếu tố sản
xuất và công nghệ sản xuất chi phối cường độ tương đối mà các yếu tố sản xuất khác
nhau được dùng để sản xuất ra các hàng hoá khác nhau.
Nội dung cơ bản của học thuyết này là một nước có nguồn cung của một tài
nguyên nào đó tương đối lớn hơn so với nguồn cung của các tài nguyên khác thì được
gọi là phong phú về nguồn tài nguyên đó, và sẽ có xu hướng sản xuất các hàng hoá sử
dụng nhiều tài nguyên phong phú đó nhiều hơn. Nói một cách khác, các nước có xu
14
hướng xuất khẩu các hàng hoá có hàm lượng về các yếu tố mà trong nước có nguồn
cung cấp dồi dào.
Mặc dù qua thực nghiệm quan điểm cho rằng những khác biệt về sự phong phú
của các yếu tố sản xuất giữa các nước quyết định cơ cấu ngoại thương nói chung
không khớp với thực tế nhưng mô hình H - O vẫn có tác động tích cực đến việc
nghiên cứu vai trò tái thu nhập của ngoại thương.
Các học thuyết ngoại thương được tóm lược trên đây đều có quan hệ đến việc
giải quyết cơ cấu xuất nhập khẩu về mặt định tính. Song trong thực tế cơ cấu xuất
nhập khẩu của một nước còn phải đối mặt với cung cầu tương đối của thị trường thế
giới. Chính cung cầu tương đối đó quyết định giá tương đối giữa xuất khẩu và nhập
khẩu của một nước, tức là điều kiện thương mại. Nên các yếu tố khác như nhau thì
điều kiện thương mại của một nước tăng sẽ làm cho phúc lợi của nước đó giảm. Trong
một phạm vi nhất định việc cải tiến cơ cấu xuất nhập khẩu sẽ tác động đến điều kiện
thương mại.
1.4. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
1.4.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế toàn cầu
Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên
của thương mại quốc tế, xuất khẩu có một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế của toàn thế giới. Do những điều kiện khác nhau nên một quốc gia
có thể mạnh về lĩnh vực này nhưng lại yếu về lĩnh vực khác, vì vậy để có thể khai thác
được lợi thế, tạo ra sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng các quốc gia
phải tiến hành trao đổi với nhau dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricacđo,
ông nói rằng: “Nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong
sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại
quốc tế để tạo ra lợi ích của chính mình”, và khi tham gia vào thương mại quốc tế thì
“quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất các loại hàng hoá sẽ tiến hành chuyên môn
hoá sản xuất và xuất khẩu những loại mặt hàng mà việc sản xuất ra chúng là ít bất lợi
nhất và nhập khẩu những loại mặt hàng mà việc sản xuất ra chúng có bất lợi lớn hơn”.
Nói cách khác, một quốc gia trong tình huống bất lợi vẫn có thể tìm ra điểm có lợi để
khai thác. Bằng việc khai thác các lợi thế này, các quốc gia tập trung vào sản xuất và
xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế tương đối. Sự chuyên môn hoá đó làm cho mỗi
15
quốc gia khai thác được lợi thế của mình một cách tốt nhất giúp tiết kiệm được nguồn
nhân lực như vốn, kỹ thuật, nhân lực trong quá trình sản xuất hàng hoá. Do đó, tổng
sản phẩm trên quy mô toàn thế giới cũng sẽ được gia tăng.
1.4.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc gia.
Xuất khẩu là hoạt động cơ bản của nền kinh tế quốc dân, là công cụ, phương
tiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có
ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Vai trò của xuất khẩu thể hiện ở các mặt sau:
1.4.2.1. Xuất khẩu tạo ra nguồn thu ngoại tệ
Trong các nguồn thu ngoại tệ cho Ngân sách quốc gia có một số nguồn thu
chính:
-
Xuất khẩu hàng hoá - dịch vụ.
Đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp.
Vay nợ của Chính phủ và tư nhân.
Kiều bào nước ngoài gửi về.
Các khoản thu viện trợ,…
Tuy nhiên, chỉ có thu từ xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là tích cực nhất vì
những lý do sau: không gây ra nợ nước ngoài như các khoản vay của Chính phủ và tư
nhân, Chính phủ không bị phụ thuộc vào những ràng buộc và yêu sách của nước khác
như các nguồn tài trợ từ bên ngoài, phần lớn ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu
thuộc về các nhà sản xuất trong nước được tái đầu tư để phát triển sản xuất, không bị
chuyển ra nước ngoài như nguồn đầu tư nước ngoài, qua đó cho phép nền kinh tế tăng
cường chủ động, đỡ bị lệ thuộc vào bên ngoài.
Do đó, đối với bất kỳ quốc gia nào, để tránh tình trạng nợ nước ngoài, giảm
thâm hụt cán cân thanh toán, con đường tốt nhất là đẩy mạnh xuất khẩu. Nguồn ngoại
tệ thu được từ xuất khẩu sẽ làm tăng tổng cung ngoại tệ của đất nước, góp phần ổn
định tỷ giá hối đoái, ổn định kinh tế vĩ mô. Liên hệ với cuộc khủng hoảng tài chính
Đông Nam Á, ta thấy nguyên nhân chính là do các quốc gia bị thâm hụt cán cân
thương mại thường xuyên trầm trọng, khoản thâm hụt này được bù đắp bằng các
khoản vay nóng của các doanh nghiệp trong nước. Khi các khoản vay nóng này hoạt
động không hiệu quả sẽ dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ
và buộc tuyên bố phá sản. Sự phá sản của các doanh nghiệp gây ra sự rút vốn ồ ạt của
16
các nhà đầu tư nước ngoài, càng làm cho tình hình thêm căng thẳng, đến nỗi Nhà nước
cũng không đủ sức can thiệp vào nền kinh tế, từ đó gây ra cuộc khủng hoàng tài chính
- tiền tệ.
1.4.2.2. Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, góp phần phục vụ
công nghiệp hóa - hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước.
Sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia đều đòi hỏi có các điều kiện về nhân
lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật. Song không phải bất cứ quốc gia nào cũng có đủ cả bốn
điều kiện trên, trong thời gian hiện nay, các nước đang phát triển đều thiếu vốn, kỹ
thuật, lại thừa lao động. Mặt khác, trong quá trình CNH - HĐH, để thực hiện tốt quá
trình đòi hỏi nền kinh tế phải có cơ sở vật chất để tạo đà phát triển. Để khắc phục tình
trạng này, các quốc gia phải nhập khẩu các thiết bị, máy móc, kỹ thuật công nghệ tiên
tiến.
Hơn nữa, xu thế tiêu dùng của thế giới ngày nay đòi hỏi ngày càng cao về chất
lượng sản phẩm. Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế, các
doanh nghiệp bắt buộc phải đầu tư để nâng cao trình độ công nghệ của mình - đây là
một yêu cầu cấp bách đặt ra đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Từ đó,
xuất hiện nhu cầu nâng cao công nghệ của các doanh nghiệp, trong khi xu hướng hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ cũng đang ngày càng phát triển và
các nước phát triển muốn chuyển giao công nghệ của họ sang các nước đang phát
triển. Hai nhân tố trên có tác động rất quan trọng tới quá trình chuyển giao công nghệ,
nâng cao trình độ công nghệ quốc gia. Tuy nhiên, một yếu tố vô cùng quan trọng mà
nếu thiếu nó thì quá trình chuyển giao công nghệ không thể diễn ra được, đó là nguồn
ngoại tệ, những khó khăn này được khắc phục thông qua hoạt động xuất khẩu. Hoạt
động xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ và các quốc gia có thể dùng nguồn thu này
để nhập công nghệ phục vụ cho sản xuất. Trên ý nghĩa đó, có thể nói, xuất khẩu quyết
định quy mô và tốc độ nhập khâu.
1.4.2.3. Xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát
triển.
Các cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đã làm cho cơ cấu sản xuất
và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi một cách mạnh mẽ. Sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá từ nông nghiệp sang công nghiệp là phù
17
hợp với xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới. Có hai cách nhìn nhận về tác động của
xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
- Xuất khẩu chỉ là tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu
nội địa. Theo cách hiểu này thì đối với những quốc gia lạc hậu và chậm phát triển khi
mà sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của
sản xuất thì xuất khẩu chi ở quy mô nhỏ và tăng trưởng chậm, sản xuất và sự thay đối
cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp.
- Coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm
này chính là xuất phát từ quan điểm coi nhu cầu của thị trường thế giới là nhu cầu cần
đáp ứng để tố chức sản xuất. Điều đó tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở chỗ:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội phát triển. Ví
dụ, khi phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu có thể kéo theo sự
phát triển của công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ nó hoặc nếu phát triển ngành giầy
dép xuất khẩu thì các ngành sản xuất nguyên liệu như chăn nuôi, thuộc da, hoá chất...
cũng phát triển theo. Chính điều này làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi một cách đồng
bộ, không có sự mất cân đối giữa các ngành với nhau. Như vậy xuất khẩu đã góp phần
tạo ra một cơ cấu kinh tế phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.
+ Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất
phát triển và ổn định.
Bất kì doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng thị trường, nâng cao khả năng
chiếm lĩnh thị trường từ đó thu lợi nhuận cao. Mặt khác, mở rộng thị trường xuất khẩu
là sự giảm phụ thuộc vào thị trường nội địa khi thị trường này có sự biến động ảnh
hưởng không tốt đến việc kinh doanh của doanh nghiệp và tăng khả năng thỏa mãn
nhu cầu cho người tiêu dùng.
Thị trường nước ngoài hầu như là những thị trường có sức tiêu thụ hàng hóa
lớn hơn so với nhu cầu tiêu dùng trong nước, chính vì vậy mọi doanh nghiệp đều luôn
cố gắng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu này để tăng doanh thu đạt lợi nhuận cao nhưng lợi
nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ
các doanh nghiệp khác, trong điều kiện như vậy thì doanh nghiệp muốn tồn tại và phát
triển đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực sản
18
xuất hiện có cả về số lượng và chất lượng bằng cách nhập các trang thiết bị kỹ thuật
hiện đại, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất
lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh với các doanh
nghiệp khác. Như vậy, xuất khẩu góp phần phát triển sản xuất ngày một hiện đại và ổn
định hơn.
+ Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo ra vốn, thu hút kỹ thuật công
nghệ mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, tạo ra năng
lực sản xuất mới.
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hoá các quốc gia sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh
trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Do cạnh tranh sâu sắc trên thị trường
quốc tế, các quốc gia buộc phải tổ chức lại sản xuất sao cho phù hợp và từ đó hình
thành cơ cấu sản xuất hợp lý.
1.4.2.4. Xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân.
Xuất khẩu góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Ở đây, chúng ta sẽ xem
xét hiệu quả dưới góc độ nghĩa rộng, bao gồm cả hiệu quả kinh doanh và hiệu quả
kinh tế. Theo tính toán của các nhà kinh tế, nếu đẩy mạnh xuất khẩu, tăng giá trị kim
ngạch xuất khẩu sẽ góp phần tạo mở công ăn việc làm đối với người lao động. Nếu
tăng thêm 1 tỷ USD giá trị kim ngạch xuất khẩu sẽ tạo ra từ 40.000 - 50.000 chỗ làm
việc trong nền kinh tế. Giải quyết việc làm sẽ bớt đi một gánh nặng cho nền kinh tế
quốc dân, có tác dụng ổn định chính trị, tăng cao mức thu nhập của người lao động.
Xuất khẩu tăng sẽ tạo điều kiện để tăng việc làm, đặc biệt trong ngành nông
nghiệp, công nghiệp chế biến các sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp dệt
may - là những ngành sử dụng nhiều lao dộng. Đó là vì xuất khẩu đòi hỏi nông nghiệp
phải tạo ra những vùng nguyên liệu lớn, đáp ứng cho nhu cầu lớn của nền công nghệ
sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn để nâng cao hiệu quả, đồng thời xuất khẩu cũng
buộc công nghiệp chế biến phải phát triển để phù hợp với chất lượng quốc tế, phục vụ
thị trường bên ngoài. Hiện nay, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của các nước đang phát
triển là hàng nông sản, hàng công nghiệp nhẹ, dầu thô, thủ công mỹ nghệ.... Điều đó
sẽ giải quyết tình trạng thiếu công ăn việc làm trầm trọng ở các nước này. Việt Nam là
nước đang phát triển, có dân số phát triển nhanh và thuộc loại dân số trẻ, tức là lực
19
lượng lao động rất đông, tuy nhiên trình độ tay nghề, trình độ khoa học công nghệ
chưa cao. Hơn nữa, Việt Nam lại là nước nông nghiệp với trên 70% dân số làm việc
trong lĩnh vực nông nghiệp, các hoạt động mang tính thời vụ, do đó, vào thời điểm
nông nhàn, số lao động không có việc làm ở nông thôn rất lớn, tràn ra thành thị tạo ra
sức ép về việc làm đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và đối với các thành phố nói
riêng.
Hoạt động xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp góp phần mở rộng sản xuất
nông nghiệp, nâng cao giá trị nông sản, nâng cao thu nhập cho người nông dân, tạo ra
nhu cầu về hàng công nghiệp tiêu dùng ở vùng nông thôn và hàng công nghiệp phục
vụ sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, cũng phải kể đến một hoạt động xuất khẩu góp
phần giải quyết công ăn việc làm là xuất khẩu lao động và hoạt động sản xuất hàng
gia công cho nước ngoài, đây là hoạt dộng rất phổ biến trong ngành may mặc ở nước
ta và đã giải quyết được rất nhiều việc làm.
1.4.2.5. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của đất nước.
Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối
ngoại khác, nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và sản
xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế... Đến lượt nó,
chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất kh ẩu. Thông qua
xuất khẩu, các quốc gia mới có điều kiện trao đổi hàng hoá - dịch vụ qua lại. Xuất
khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu là thiết thực
góp phần thực hiện phương châm đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoại
của Việt Nam, thông qua:
- Phát triển khối lượng hàng xuất khẩu ngày càng lớn ra thị trường các nước,
nhất là những mặt hàng chủ lực, những sản phẩm mũi nhọn.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu sang những thị trường mới mà trước đây ta
chưa xuất được nhiều.
- Thông qua xuất khẩu nhằm khai thác hết tiềm năng của đối tác, tạo ra sức
cạnh tranh nhiều mặt giữa các đối tác nước ngoài trong làm ăn, buôn bán với Việt
Nam.
20
Tóm lại, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau sâu sắc,
hình thành đan xen giữa lợi ích và mâu thuẫn, giữa hợp tác và cạnh tranh kinh tế,
thương mại giữa các trung tâm, giữa các quốc gia ngày càng gay gắt. Nghệ thuật khôn
khéo, thông minh của người lãnh đạo là biết phân định tình hình, lợi dụng mọi mâu
thuẫn, tranh thủ mọi thời cơ và khả năng để đẩy mạnh xuất khẩu, đưa đất nước tiến
lên trong cuộc cạnh tranh phức tạp, gay gắt.
1.4.3. Vai trò của xuất khẩu đối với các doanh nghiệp
Cùng với sự bùng nổ của nền kinh tế toàn cầu thì xu hướng vươn ra thị trường
quốc tế là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp. Xuất
khẩu là một trong những cách để các doanh nghiệp thực hiện kế hoạch bành trướng,
phát triển, mở rộng thị trường của mình.
Doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ buôn
bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài dựa trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, tăng dự trữ qua đó nâng
cao khả năng nhập khẩu, thay thế bổ sung, nâng cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật
liệu... phục vụ cho quá trình phát triển.
Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công
tác quản trị kinh doanh và công nghệ, kĩ thuật. Đồng thời giúp các doanh nghiệp kéo
dài tuổi thọ của chu kỳ sống của một sản phẩm.
Xuất khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi lẫn nhau giữa các đơn vị tham
gia xuất khẩu trong và ngoài nước. Đây là một trong những nguyên nhân buộc các
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu phãi nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu, hạ giá
thành sản phẩm.
1.5. Quan điểm của Đảng về hoạt động xuất khẩu.
Một trong những thành công trong lĩnh vực kinh tế mà Đại hội VI của Đảng ta
(năm 1986) khởi xướng là lĩnh vực thương mại. Chúng ta đã chuyển từ một nước
thương mại bao cấp, tự cung tự cấp, một giá, khép kín, hoạt động thương mại quốc tế
được thực hiện chủ yếu giữa các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa sang nền kinh
tế đa dạng hoá, đa phương hoá với các nước trên thế giới và đạt được những thành tựu
hết sức to lớn. Mặc dù trước đó Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc cải
cách quản lý kinh tế song chúng ta vẫn chưa thoát khỏi tư duy cũ, vì thế mà nhiều giải
21
pháp, chính sách vẫn còn mang tính tạm thời, chắp vá. Chính vì vậy trước Đại hội VI,
tình hình thương mại còn nhiều vấn đề phải giải quyết: lưu thông không thông suốt,
phân phối rối ren, vật giá tăng nhanh tác động tiêu cực đến xã hội, thương nghiệp
quốc doanh và hợp tác xã mua bán chưa được mở rộng; ít tiến bộ về tổ chức và
phương thức kinh doanh để làm chủ thị trường, một số bộ phận bị lôi cuốn vào những
hoạt động tiêu cực1. Từ Đại hội VI, nhờ thực sự đổi mới tư duy, vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ bao cấp, cơ chế hai giá, giá cả
được thể chế hoá mở đường cho cơ chế thị trường hoạt động nên nhiều sản phẩm hàng
hoá bước đầu đã được mua bán theo tín hiệu thị trường, nhiều cơ chế chính sách, công
cụ bắt đầu vận hành theo cơ chế mới. Từ đây hoạt động thương mai có nhiều đổi mới
và đã có bước phát triển tốt.
Đến đầu năm 1987, việc "ngăn sông cấm chợ" được hoàn toàn bãi bỏ, hệ thống
thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương được tự do hơn. Các doanh nghiệp được
quyền tự chủ rộng rãi hơn trên thị trường. Hàng loạt chủ trương, chính sách, luật pháp
của Đảng và Nhà nước được ban hành như Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4-1988),
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Luật công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân (năm
1990)... Từ năm 1988, sau khi Luật Đầu tư nước ngoài có hiệu lực và những năm sau
đó, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư sản xuất nhiều sản phẩm xuất khẩu. Trong nông
nghiệp, chính sách đổi mới đã tạo một bước đột phá, một cuộc cách mạng trong nông
nghiệp đã góp phần giúp cho Việt Nam từ một nước thường xuyên thiếu đói, hàng
năm phải nhập khẩu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều mặt hàng
nông, lâm, thủy sản khác. Những cái đó đã làm cho sản xuất và lưu thông hàng hoá
phát triển, quan hệ kinh tế, trong đó bao gồm cả xuất nhập khẩu cũng phát triển mạnh
hơn. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu (khoá VI) đã khẳng định lại các
quan điểm đúng đắn của Đại hội VI và đi đến kết luận hết sức cơ bản, cả nước là một
môi trường thống nhất do nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia. Cả nước dùng giá
thống nhất là giá thoả thuận, giá kinh doanh vì cả nước là một thị trường, xoá bỏ "chế
độ Nhà nước độc quyền ngoại thương", chuyển dần từng bước sang hình thức thương
mại tự do, trong đó Nhà nước quản lý ngoại thương, các doanh nghiệp của các thành
phần kinh tế có nhiều điều kiện để tham gia xuất khẩu với những hình thức khác nhau.
22
Việc thống nhất tỷ giá và thay đổi tỷ giá hối đoái (năm 1989) cũng đã có những tác
động tích cực tới hoạt động xuất khẩu của nước ta. Nhờ có những chính sách này mà
năm 1989 là năm đánh dấu một bước ngoặt trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Nhờ đó, thị trường của Việt Nam ở những năm đầu của đổi mới đã có bước khởi sắc;
hàng hoá phong phú hơn, các nhà doanh nghiệp bao gồm cả thương nhân được tự do
và bình đẳng kinh doanh trên thị trường, giá cả đã bắt đầu có sự vận động theo quy
luật của nó. Trong hoạt động xuất, nhiều mặt hàng chủ lực, phát huy được lợi thế so
sánh của nước ta đã có mặt trên thị trường thế giới, từ năm 1989 chúng ta đã lần đầu
tiên xuất khẩu gạo (mặc dù nhiều năm trước đó phải nhập khẩu gạo để cứu đói).
Những thành công bước đầu của công cuộc đổi mới đã tạo điều kiện để Đại hội VII
(năm 1991) khẳng định đường lối đổi mới do Đại hội VI khởi xướng là hoàn toàn
đúng đắn. Nền kinh tế nước ta chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Về thương mại quốc tế, chúng ta chủ trương phát huy những
lợi thế trong thị trường, mở cửa thị trường gắn thị trường trong nước với thị trường
quốc tế, tự do lưu thông hàng hoá, tạo lập các yếu tố của sản xuất.
Trong những năm 1991-1995, các chỉ tiêu kinh tế đều tăng trưởng, trong đó
kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 27,2%, gạo và nhiều mặt hàng nông sản chủ lực
xuất khẩu đều có mức tăng trưởng cao, phát huy được lợi thế là một nước nông
nghiệp. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu có kim ngạch xuất khẩu khá cao. Cũng trong
thời kỳ này, Nhà nước đã có những điều chỉnh cơ bản trong chính sách xuất nhập
khẩu.
Năm 1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta được tiến hành
trong một bối cảnh mới. Thực hiện chủ trương và đường lối mở cửa thị trường, đa
dạng hoá, đa phương hoá, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
chính sách, cơ chế xuất nhập khẩu cũng đã có sự thay đổi tích cực. Về thương mại
quốc tế trong thời kỳ này, Đại hội chủ trương:
- Một là, tạo thêm các mặt hàng xuất khấu chủ lực;
- Hai là, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường;
giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh
trong hàng xuất khẩu; nâng cao tỷ trọng phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất
23
khẩu. Nhờ có chủ trương và chính sách đúng đắn đó, mà chúng ta đã có quan hệ nhiều
với bạn hàng và thị trường trên thế giới.
- Ba là, ưu tiên việc nhập khẩu để phát triển sản xuất phục vụ xuất khẩu; bảo
hộ hợp lý sản xuất trong nước, điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực
vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và với các đối tác. Nhờ có chủ
trương và chính sách đúng đắn đó, mà chúng ta đã có quan hệ nhiều với bạn hàng và
thị trường trên thế giới.
Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2001 - 2010 do Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định rõ mục tiêu tổng quát
của chiến lược 10 năm 2001-2010 là: "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển;
nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn
lực con người, năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc
phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng
cao"1. Trang 113
Để thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, Nghị
quyết IX của Đảng đã tiếp tục khẳng định: "phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh
thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tê quốc tế để phát triển nhanh, có
hiệu quả và bền vững"1. Về lĩnh vực kinh tế đối ngoại, ngoại thương, Nghị quyết Đại
hội IX nhấn mạnh: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở,
đa phương hóa, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển"2 tr114, "Phát triển mạnh thương mại, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động
để mở rộng thị trường trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả"3 tr114,
"Tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những vật tư, thiết bị chủ
yếu, có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh”4 tr114, đồng thời phải xây dựng
chiến lược tăng tốc xuất khẩu toàn diện trên nhiều lĩnh vực, có những bước đột phá,
nhưng đồng thời củng cố vững chắc những thị trường và mặt hàng chủ lực.
Như vậy có thể thấy rõ về kinh tế đối ngoại và xuất khẩu, chính sách của Đảng
và Nhà nước là:
24
- Một là, ưu tiên cho xuất khẩu, tạo nguồn hàng, thị trường, gia tăng giá trị
hàng xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh. Tạo thị trường ổn định cho một số mặt hàng
nông sản thực phẩm vì hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh; tim kiếm các thị
trường cho mặt hàng xuất khẩu mới;
- Hai là, phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản
phẩm, ngành lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất
khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước;
- Ba là, nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu đặc biệt là các sản phẩm
mà ta có lợi thế, tăng thêm thị phần các thị trường truyền thống , tiếp cận và mở mạnh
các thị trường mới. Tiếp tục đầu tư nâng cao chất lượng để tăng kim ngạch xuất khẩu
các mặt hàng chủ lực;
- Bốn là, tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp và công dân sản
xuất và xuất khẩu các mặt hàng vào thi trường quốc tế.
Sau Đại hội IX của Đảng, ngày 27-11-2011, Bộ Chính trị đã thông qua Nghị
quyết 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế trong đó có lĩnh vực xuất khẩu: “Hội
nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập cần phát huy
mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo... Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ
đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước,
vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, tranh
thủ những ưu đãi... Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu
giữ vững an ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp
của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu
toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ "diễn biến hòa bình" đối với nước ta... Tích
cực tiến hành đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thê giới (WTO) theo các
phương án và lộ trình hợp lý phù hợp với hoàn cảnh nước ta là một nước đang phát
triển ở trình độ thấp và đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Gắn kết quá
trình đàm phán với quá trình đổi mới về mọi mặt hoạt động kinh tế ở trong nước"1.
Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng đề ra một số nhiệm vụ cụ thể: chủ động
và khẩn trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý để
25