SÁNG KIẾN CẢI TIÊN KỸ THUẬT
"Một số biện pháp quản lý, chỉ đạo đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
trong trường Mầm non"
1. Phần mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài:
Sinh thời Bác Hồ kính yêu đã từng nói: “Trẻ em hôm nay
Thế giới ngày mai”
Đúng vậy, trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của đất
nước, là lớp người kế tục sự nghiệp của cha anh, gánh vác mọi công việc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền được chăm
sóc, nuôi dưỡng, tồn tại và phát triển. Khi xã hội ngày càng phát triển thì giá trị con
người ngày càng được nhận thức đúng đắn và được đánh giá toàn diện. Trẻ em là
những chủ nhân tương lai đất nước, chính vì thế ngay từ tuổi ấu thơ, trẻ phải được
hưởng chế độ chăm sóc nuôi dưỡng phù hợp, hiện đại và toàn diện về mọi mặt về
đức - trí -thể - mỹ.
Đặc biệt, trẻ trong giai đoạn từ 0- 6 tuổi là giai đoạn trẻ phát triển nhanh hơn
bất kỳ giai đoạn nào khác trong cuộc đời. Đây là giai đoạn cơ thể trẻ rất non nớt,
dễ bị lây nhiễm các chất độc hại từ các loại thực phẩm không an toàn. Giai đoạn
này bản thân trẻ nhỏ chưa ý thức được việc chăm sóc sức khỏe của bản thân. Sự
phát triển của trẻ phụ thuộc rất lớn vào việc nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe của
người lớn. Muốn trẻ khoẻ mạnh, thông minh thì vấn đề chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ
vô cùng quan trọng, mà cốt lõi là công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở
các trường Mầm non.
Hiện nay, vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là mối quan tâm đặc
biệt của toàn xã hội. Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm ảnh hưởng rất lớn đối
với sự phát triển của con người nhất là thể chất của trẻ, nếu bị ngộ độc thực phẩm,
nhẹ thì trẻ có thể bị suy nhược cơ thể dẫn đến suy dinh dưỡng, nặng có thể dẫn đến
tử vong. Vì thế, công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đòi hỏi có tính liên
ngành cao và là công việc của toàn dân.
Đối với Ngành giáo dục nói chung, trong đó bậc học Mầm non đóng vai trò
rất lớn đến việc tổ chức khâu an toàn vệ sinh thực phẩm cho trẻ ăn bán trú tại
trường. Vì vậy, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí quan trọng đối với sức
khoẻ trẻ thơ, nó góp phần nâng cao sức học tập, lao động của trẻ trong xã hội ngày
càng phát triển. Nếu thực hiện tốt nhiệm vụ này là tăng thêm bao hạnh niềm phúc
cho đứa trẻ, cho gia đình và cho xã hội, góp phần thực hiện tốt mục tiêu của giáo
dục mầm non đề ra.
Là một cán bộ quản lý phụ trách chuyên môn trong nhà trường, với phần
hành được giao là phụ trách y tế học đường, giáo dục dinh dưỡng, giáo dục thể
chất. Bản thân tôi thực sự băn khoăn, trăn trở trước thực tế thị trường rất nhạy cảm
hiện nay, làm thế nào để đảm bảo an toàn tuyết đối cho trẻ tại trường mầm non,
đặc biệt là đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Vì thế, Tôi đã quyết định chọn đề
tài "Một số biện pháp quản lý chỉ đạo, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong
trường mầm non" làm đề tài nghiên cứu cho năm học 2014-2015.
1.2. Điểm mới và phạm vi áp dụng của đề tài:
* Điểm mới của đề tài:
Trên thực tế có rất nhiều đồng nghiệp đã viết về đề tài này, tuy nhiên mỗi đề
tài đề cập đến những khía cạnh khác nhau của việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm trong trường mầm non, phù hợp với tình hình thức tế của từng trường. Đối
với sáng kiến kỹ thuật của Tôi, điểm mới của đề tài là đã sử dụng một số biện pháp
mới có tính khả thi cao, phù hợp với tình hình của nhà trường, tác động và có hiệu
quả rất lớn về vệ sinh an toàn thực phẩm đối trẻ trong toàn trường.
* Phạm vi áp dụng của đề tài sáng kiến:
Nội dung đề tài viết trên tinh thần tập hợp những kinh nghiệm đúc kết được
của bản thân, chủ yếu là những giải pháp trong việc quản lý chỉ đạo, đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm tại trường mầm non nơi tôi đang công tác. Đề tài này có
thể áp dụng rộng rãi, có hiệu quả đối với các trường mầm non trên địa bàn huyện
Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình nói riêng và có thể áp dụng rộng rãi đối với các trường
mầm non trong tỉnh và trên toàn quốc nói chung.
2. Phần nội dung
2.1. Thực trạng của đề tài:
Trong những năm gần đây đã xảy ra nhiều vụ ngộ độc thực phẩm ở các địa
phương, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng của nhiều người. Nhà trẻ, mẫu
giáo là nơi tập trung đông trẻ, bản thân trẻ còn non nớt, chưa chủ động, ý thức
được đầy đủ về dinh dưỡng và vệ sinh, an toàn thực phẩm, nếu để xảy ra ngộ độc
thực phẩm trong các cơ sở GDMN thì hậu quả thật khôn lường. Vì vậy, giáo dục
dinh dưỡng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, xây dựng mô hình thực phẩm
sạch, đề phòng ngộ độc thức ăn là vấn đề có ý nghĩa thực tế vô cùng quan trọng.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hơn 1/3 dân số các nước
phát triển bị ảnh hưởng của các bệnh do thực phẩm gây ra mỗi năm. Các vụ ngộ
độc thực phẩm có xu hướng ngày càng tăng. Tại các nước đang phát triển, tình
trạng lại càng trầm trọng hơn nhiều, hơn 2,2 triệu người tử vong hàng năm do bị
nhiểm độc thực phẩm (tiêu chảy), trong đó phần lớn là trẻ em. Theo ước tính của
WHO, ở một số nước đang phát triển, tỷ lệ tử vong do ngộ độc thực phẩm chiếm
1/3 đến 1/2 tổng số trường hợp tử vong.
Thực trạng vi phạm an toàn thực phẩm ở nước ta rất đáng báo động. Theo
báo cáo tổng kết chương trình mục tiêu quốc gia về vệ sinh an toàn thực phẩm năm
2014 (tính đến ngày 15/12), toàn quốc ghi nhận 189 vụ ngộ độc thực phẩm với hơn
5.000 người mắc, 4.100 người đi viện và 43 trường hợp tử vong. So với cùng kỳ
năm 2013, số vụ ngộ độc thực phẩm tăng 22 vụ. Tuy nhiên, số người mắc giảm
402 người, số người đi viện giảm 901 người, nhưng số người tử vong tăng 15
người (54%).
Từ các số liệu nêu trên cho thấy, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm nói
chung và ở trường mầm non tổ chức bán trú nói riêng rất quan trọng và cấp bách.
Khi bước vào thực hiện đề tài này tôi thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi:
- Nhà trường có các trang thiết bị, đồ dùng phục vụ cho việc tổ chức bán trú,
có đầy đủ bảng biểu trong nhà bếp theo quy định.
- Có đầy đủ 2 bộ lưu mẫu thức ăn và thực hiện nghiêm túc việc lưu mẫu thức
ăn hàng ngày, xây dựng thực đơn phù hợp theo mùa, biết tận dụng thực phẩm sẵn
có ở địa phương giàu chất dinh dưỡng để chế biến món ăn cho trẻ.
- Nhân viên dinh dưỡng đã được qua đào tạo chuyên ngành chế biến món ăn,
biết cách tính khẩu phần bằng phần mềm dinh dưỡng phù hợp với trẻ.
- Thực hiện hợp đồng thực phẩm với các cửa hàng có uy tín tại địa phương
để cung cấp thực phẩm (gạo, trứng, thịt, cá, tôm, rau quả…), hợp đồng được quy
định chặt chẽ, quy trách nhiệm rõ ràng cho bên nhận và bên cung cấp thực phẩm.
Đa số các nhà cung cấp thực phẩm đều là phụ huynh của nhà trường.
- Nhân viên dinh dưỡng đã biết sắp xếp, bố trí bảng biểu, đồ dùng, dụng cụ
nhà bếp gọn gàng, ngăn nắp có khoa học và thường xuyên vệ sinh sạch sẽ.
* Khó khăn:
- Đa số nhân viên dinh dưỡng mới vào nghề nên chưa có nhiều kinh nghiệm
trong việc tiếp nhận thực phẩm (cân, đoong, đếm từ cô tiếp phẩm), trong việc chế
biến món ăn cho trẻ và chưa mạnh dạn trong công tác tuyên truyền về vệ sinh an
toàn thực phẩm.
- Đa số nhân viên dinh dưỡng còn hạn chế trong công tác chọn mua thực
phẩm, thực hiện công tác vệ sinh trong khi chế biến, việc bảo quản thực phẩm, vệ
sinh dụng cụ sử dụng trong bếp ăn bán trú nhà trường.
- Phụ cấp của nhân viên dinh dưỡng chủ yếu là từ nguồn xã hội hóa và phụ
thuộc vào sự đi học chuyên cần của trẻ nên còn thấp và không ổn định (từ
2.000.000-2.300.000).
- Một số hộ nông dân chăn nuôi, trồng các rau màu chưa ý thức được sự
nguy hiểm của các loại hóa chất đối với sức khỏe con người.
Từ những thuận lợi, khó khăn trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Trước
tình hình thực trạng về chất lượng an toàn thực phẩm của nhà trường, tôi suy nghĩ
tìm tòi và sử dụng một số biện pháp quản lý chỉ đạo, nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm trong trường mầm non như sau:
2.2 Một số biện pháp thực hiện:
2.2.1. Bồi dưỡng kiến thức về lý thuyết, thực hành dinh dưỡng, thực hiện
tốt vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh trong chế biến cho đội ngũ.
Định kỳ đầu năm học, nhà trường tổ chức tập huấn chuyên môn cho cán bộ
giáo viên, nhân viên dinh dưỡng về các nội dung tiếp thu ở Sở Giáo dục, theo tài
liệu bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ quản lý và giáo viên, nhân viên... Một
trong những nội dung quan trọng là đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong việc
tổ chức ăn cho trẻ tại trường mầm non, chú trọng vấn đề kiến thức thực hành dinh
dưỡng, thực hiện tốt vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh trong chế biến và vệ sinh
ăn uống cho trẻ.
Ví dụ: Nội dung chọn thực phẩm tươi sạch thì cung cấp cho giáo viên, nhân
viên biết:
+ Nếu là thực phẩm sống: Chỉ lựa chọn những thực phẩm còn tươi mới,
không bị dập nát, không có mùi, màu lạ.
+ Nếu là thực phẩm chín: Không mua khi thấy bày bán gần nơi cống rãnh,
bụi bẩn, bùn lầy, nước đọng, để lẫn lộn thực phẩm sống và chín, không có dao thớt
dùng riêng, không có giá kê cao, không có dụng cụ che đậy, màu sắc loè loẹt
không tự nhiên và không có đồ bao gói.
+ Nếu là thực phẩm bao gói sẵn: Không mua khi không có nhãn hàng hoá,
có nhãn mác nhưng không ghi hạn dùng, không ghi rõ nơi sản xuất.
+ Nếu là đồ hộp: Không mua khi hộp không có nhãn mác, không có hạn sử
dụng, không ghi rõ cơ sở sản xuất, hộp phồng, méo, rạn, nứt, han rỉ.
- Thực hiện vệ sinh phòng bệnh trong các nhóm lớp ở trường mầm non như:
+ Vệ sinh môi trường: Vệ sinh không khí, giữ sạch nguồn nước, xử lý chất
thải...
+ Vệ sinh nhóm lớp: Phòng học, đồ dùng, đồ chơi, nhà bếp...
+ Vệ sinh cá nhân: Vệ sinh cá nhân cán bộ, giáo viên, nhân viên trong toàn
trường.
+ Vệ sinh trẻ: thao tác rửa tay, lau mặt, đi tiểu tiện...
Những nội dung trên tôi tổ chức bằng nhiều hình thức khác nhau như giảng
trực tiếp, nghiên cứu tài liệu, thảo luận, dự thực hành...
Tổ chức bồi dưỡng kiến thức, cập nhập thông tin về vệ sinh dinh dưỡng an toàn
thực phẩm thường xuyên cho giáo viên, nhân viên dinh dưỡng trong toàn trường.
Đặc biệt, là tập luyện bồi dưỡng và chỉ đạo thực hiện tốt các công tác
nâng cao chất lượng giáo dục vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh nhóm lớp, cá nhân
và vệ sinh môi trường.
To iu kin cho giỏo viờn tham gia hc tp cỏc lp trờn chun cỏc lp tp
hun bi dng chuyờn mụn hố, cỏc lp bi dng chuyờn . i vi nhõn viờn
dinh dng phi c tham gia tp hun v sinh an ton thc phm v cú giy
chng nhn.
Song song vi vic t chc bi dng bng lý thuyt. Bn thõn cng ó chỳ
trng bi dng k nng thc hnh cho i ng giỏo viờn nh; Cỏch la chn thc
phm sch, thc hnh ch bin, t chc ba n, thc hnh v sinh cỏ nhõn, s cu
khi tr gp tai nn, thng tớch...
T chc thao ging mng dinh dng ngay t u nm. Xõy dng cỏc tit
dy mu cú lũng ghộp ch v sinh an ton thc phm qua cỏc mụn hc nh tỡm
hiu MTXQ, vn hc-ch vit, to hỡnh, th dc, hot ng vui chi... giỏo viờn
hc tp rỳt kinh nghim ỏp dng trong quỏ trỡnh chm súc tr.
Bờn cnh ú, Tụi ó tham mu vi hiu trng phõn cụng nhng nhõn viờn
lm nhim v nuụi dng cú k nng tt, cú kinh nghim ch bin mún n cho tr
kốm kp nhng nhõn viờn cha cú kinh nghim thc hin tt cụng tỏc dinh
dng tr.
Thụng qua cỏc hỡnh thc bi dng ú m mi mt cỏn b, giỏo viờn, nhõn
viờn trong trng nm c nhng ni dung cn thit trong cụng tỏc chm súc sc
kho, v sinh mụi trng, v sinh ATTP trong trng mm non v cng ng, góp
phần giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dỡng trong năm học.
2.2.2. Chú trọng công tác vệ sinh khu vực bếp, đồ dùng dụng cụ nhà bếp
và vệ sinh môi trường, vệ sinh đối với cô nuôi, giáo viên tại lớp và vệ sinh cá
nhân cho trẻ.
- Vệ sinh khu vực bếp: Thực hiện nguyên tắc bếp một chiều nhằm tránh
không để thực phẩm sống, chưa làm sạch và thức ăn chín, sạch chung một lối đi.
Sắp xếp vị trí các khu vực sao cho thuận tiện, gọn gàng để tránh lúc nấu
nướng phải đứng lên, ngồi xuống hoặc đi lại nhiều lần, đồng thời tránh được các
loại côn trùng, chuột vào bếp. Các khu vực hoạt động của bếp phải có biển đề rõ
ràng: Nơi tiếp nhận thực phẩm, khu sơ chế thực phẩm, khu tinh chế, khu nấu chín,
khu chế biến thực phẩm chín, khu chia ăn.
Nhà bếp có bảng phân công trong ngày: Người nấu chính, người nấu phụ,
người tiếp phẩm, sơ chế thực phẩm, vệ sinh dụng cụ.
Bếp ăn có bảng thực đơn theo tuần, bảng định lượng suất ăn hàng ngày và
công khai tài chính cụ thể rõ ràng.
Chỉ đạo nhân viên dinh dưỡng thực hiện nghiêm túc khâu vệ sinh nhà bếp
theo lịch hàng ngày, tuần và tháng.
Ví dụ: Hàng ngày, khi nấu nướng xong phải dọn dẹp, sắp xếp đồ dùng, dụng
cụ vào đúng nơi quy định, lau chùi quét dọn sạch sẽ, mở quạt thông gió, mở các
cửa sổ để thông gió cho khô, thoáng nhà bếp trước khi đóng cửa ra về.
- Vệ sinh đồ dùng, dụng cụ nhà bếp:
Chén bát và nơi để thức ăn phải thoáng có lưới để ngăn không cho ruồi,
nhặng, muỗi, chuột đậu hoặc ăn vào.
Chén bát hàng ngày phải được lau sạch, chỗ úp bát, thìa trẻ phải khô ráo,
không úp trực tiếp xuống bàn hoặc xuống tủ. Bát thìa của trẻ dùng bằng inox,
không dùng loại nhựa tái sinh và phải được hấp tráng nước sôi trước khi ăn.
Có đầy đủ dụng cụ chế biến thức ăn sống, chín riêng, dụng cụ dùng xong
phải được rửa sạch phơi khô, trước khi dùng phải rửa lại.
Ví dụ: Bát, dĩa, đũa, thìa… phải được rửa sạch giữ khô, ống đựng thìa đũa
phải thoáng khô sạch. Các dụng cụ như soong, nồi phải được rửa sạch, sau đó phải
treo cất đúng nơi quy định.
Thức ăn nấu chín được chia vào các dụng cụ bằng inox, không dùng loại
nhựa tái sinh, có nắp đậy hoặc phải có lòng bàn tránh ruồi nhặng bâu vào nhiễm
bẩn, tuyệt đối không dùng vải để che đậy, phủ trực tiếp lên thức ăn.
Chậu rửa, giá kệ úp dụng cụ: rổ rá, thớt, soong nồi phải được kê cao ráo,
thông thoáng và thoát nước.
Bàn chế biến và chia thức ăn được làm bằng inox và đá sạch để không thấm
nước và dễ cọ rửa.
- Vệ sinh môi trường:
Rác và thức ăn hàng ngày phải đổ vào đúng nơi quy định, rác ngày nào phải
xử lý ngày đó không để đến hôm sau mới xử lý gây mất vệ sinh và thu hút chuột,
dán tới. Thùng rác có nắp đậy sạch sẽ, tuyệt đối không để rác rơi vãi ra xung quanh
và nước thải rò rỉ ra ngoài, rác thải để xa nơi chế biến. Cống rảnh khu vực sân rửa
thực phẩm, nhà bếp luôn được thông thoáng, không ứ động.
Bên cạnh vệ sinh môi trường luôn sạch sẽ, tôi đã chú trọng việc xây dựng
môi trường xanh sạch đẹp, là một trong các tiêu chí hưởng ứng phong trào xây
dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Nhà trường đã phát động đến
toàn thể cán bộ viên chức, các bậc cha mẹ học sinh và các cháu cùng nhau xây
dựng môi trường sư phạm xanh-sạch-đẹp. Đây là phong trào đã được cán bộ viên
chức và toàn thể cha mẹ học sinh, các cháu học sinh đồng tình hưởng ứng, cho nên
cảnh quan môi trường, lớp học luôn xanh mát. Bảo vệ chăm sóc tạo cảnh quan môi
trường, bỏ rác đúng nơi quy định trong sân trường, đồ chơi đẹp-sạch-an toàn và
lành mạnh đó là những gì tất cả cán bộ giáo viên, cha mẹ học sinh và học sinh đã
hưởng ứng tốt phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
- Vệ sinh đối với cô nuôi, nhân viên nhà bếp:
Nhân viên dinh dưỡng đã được học và có chứng chỉ bồi dưỡng những kiến
thức về vệ sinh an toàn thực phẩm, qua đó nắm rõ trách nhiệm của mình là phải
đảm bảo nuôi dưỡng trẻ khoẻ mạnh và an toàn.
Chỉ đạo nhân viên dinh dưỡng thực hiện nghiêm túc khâu vệ sinh cá nhân
trong quá trình chế biến ăn cho trẻ như: mặc quần áo đồng phục ở trường, mang
tạp dề, đầu tóc gọn gàng, móng tay, móng chân cắt ngắn, sạch sẽ. Rửa tay bằng xà
phòng trước và sau khi chế biến thức ăn cho trẻ, khi tay bẩn, sau khi đi vệ sinh, qua
mỗi công đoạn chế biến. Có khăn lau tay riêng và được giặt phơi khô hàng ngày.
Phải tuân thủ đúng quy trình sử dụng dụng cụ chế biến thức ăn theo một
chiều, không tuỳ tiện sử dụng đồ dùng, dụng cụ đựng, chế biến thực phẩm sống,
chín lẫn lộn. Không được ho, khạc nhổ khi chế biến thức ăn cho trẻ, khi nếm thức
ăn còn thừa phải đổ đi.
Khi chia ăn cho trẻ phải đeo khẩu trang và chia bằng dụng cụ, không dùng
tay bốc, chia thức ăn. Thực hiện nghiêm túc việc cân, đoong chia thức ăn cho trẻ
đảm bảo định lượng.
Nhân viên nhà bếp 6 tháng phải khám sức khoẻ định kỳ, được bố trí nơi thay
quần áo và vệ sinh riêng, không dùng chung với khu chế biến thức ăn cho trẻ.
- Vệ sinh cá nhân đối với giáo viên và cô phụ tại lớp:
Chỉ đạo các giáo viên rửa tay bằng xà phòng trước khi chia ăn và cho trẻ ăn,
sau khi đi vệ sinh. Đầu tóc, quần áo gọn gàng, đeo khẩu trang khi chia thức ăn và
cho trẻ ăn, có dụng cụ chia thức ăn riêng, không dùng tay bốc. Chuẩn bị đủ bàn
ghế, khăn ướt lau tay, dĩa đựng thức ăn rơi vãi cho trẻ. Định kỳ 6 tháng cũng khám
sức khoẻ có xét nghiệm như nhân viên dinh dưỡng.
- Vệ sinh cá nhân trẻ:
+ Tăng cường kiểm tra các nhóm lớp thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt
trong ngày phù hợp với từng độ tuổi, chú trọng công tác chăm sóc nuôi dưỡng và
các thời điểm vệ sinh cho trẻ.
Ví dụ: Trẻ phải được rửa tay trước khi ăn bằng xà phòng dưới vòi nước
chảy, rửa xong lau khô. Dạy trẻ biết rửa tay sau khi đi vệ sinh và khi tay bẩn, nhắc
nhở cha mẹ trẻ hàng tuần cắt móng tay, móng chân cho trẻ.
+ Dạy trẻ có thói quen biết giữ vệ sinh ăn uống:
Ví dụ: Ăn chín, uống sôi, ăn chậm, nhai kỹ, ăn uống từ tốn, tránh rơi vãi, khi
thức ăn rơi vãi nhặt bỏ vào nơi quy định. Trẻ ăn xong biết đánh răng, súc miệng
sạch sẽ, uống nước.
2.2.3. Tăng cường công tác chỉ đạo, giám sát, kiểm tra đối với công tác
chăm sóc nuôi dưỡng, chú trọng kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm ở nhà bếp.
a. Chọn nguồn thực phẩm sạch:
Để có nguồn thực phẩm sạch, tôi đã tham mưu với đ/c hiệu trưởng và cùng
với nhân viên dinh dưỡng tổ chức ký hợp đồng với các cơ sở nuôi, trồng bán thực
phẩm sạch, có biên bản hợp đồng đảm bảo tính pháp lý.
Hợp đồng cung ứng thực phẩm sạch cần có những giao kèo chặt chẽ từ khâu
vận chuyển thực phẩm đến khâu giao nhận thực phẩm tại bếp ăn của nhà trường,
cung ứng phải đảm bảo kịp thời, đủ định lượng và chất lượng;
Ví dụ: Thực phẩm phải tươi, ngon, sạch sẽ, không bị dập nát, khô héo hoặc
ôi thiu…, các dụng cụ đựng thực phẩm nên là các thùng hộp nhựa cứng, thưa, trơn,
nhẵn để các thực phẩm khi vận chuyển không bị dập nát, khi rửa làm vệ sinh
thùng, hộp được dễ dàng, sạch sẽ.
Đối với những cơ sở sản xuất nuôi trồng chưa có giấy chứng nhận vệ sinh an
toàn thực phẩm thì việc ký hợp đồng thực phẩm cần có sự xem xét thống nhất giữa
nhà trường và phụ huynh nhằm đảm bảo nguồn thực phẩm an toàn cho trẻ.
Đối với những nơi không thể hợp đồng mua thực phẩm sạch tận gốc nuôi
trồng sản xuất, thì nhà trường ký hợp đồng mua thực phẩm sạch với các quầy hàng
có uy tín ở địa phương, các quầy hàng của phụ huynh có con em học tại trường.
- Chỉ đạo nhân viên dinh dưỡng phát triển mô hình VAC của nhà trường:
Bản thân luôn chú trọng phát triển mô hình vườn “Vườn rau của bé”, một
mặt vừa khoanh luống trồng các loại rau phù hợp với địa phương, phù hợp với độ
tuổi của trẻ, một mặt phải xây dựng đường đi lối lại giúp trẻ quan sát, tham quan
và có thể chăm sóc được vườn rau cùng với cô giáo.
Ngoài ra, xung quanh trường còn có vườn rau sạch làm bằng các lốp xe ô tô
củ cho cô và trẻ cùng chăm bón. Vườn rau này cũng là nguồn cung cấp rau lớn
nhất cho nhà bếp và thật sự là vườn rau sạch để có những bữa canh thật an toàn và
ngon miệng cho trẻ.
Tuyên truyền vận động cộng đồng nuôi trồng, sản xuất thực phẩm sạch để
cung ứng cho nhà trường, vận động các gia đình có con gửi ở trường hoặc các hộ
gia đình xung quanh trường nuôi trồng thực phẩm sạch để cung ứng cho bếp ăn
nhà trường.
Nghiêm túc thực hiện việc ký kết hợp đồng với các nhà cung cấp thực phẩm.
Bản hợp đồng thực phẩm có xác nhận của hiệu trưởng nhà trường, đại diện hội phụ
huynh, nhân viên dinh dưỡng và nhà cung cấp thực phẩm.
Phối hợp với Y tế địa phương và cơ quan quản lý nông nghiệp tuyên truyền
tác hại của việc sử dụng các loại hoá chất trong nuôi trồng sản xuất và bảo quản
thực phẩm cho các hộ nông dân.
b. Chỉ đạo công tác tiếp phẩm và giao nhận thực phẩm.
Chỉ đạo nhân viên nhà bếp tuyệt đối không mua thực phẩm không rõ nguồn
gốc, quá hạn sử dụng (đối với những thức ăn chế biến sẵn) không mua thực phẩm
đã qua sơ chế, chế biến nhưng không rõ nguồn gốc, nơi sản xuất, giấy phép đăng
ký chất lượng…Đặc biệt, không mua thực phẩm không đảm bảo chất lượng như
rau không xanh tươi, cá thịt không tươi…
Nhân viên nhà bếp khi tiếp nhận thực phẩm có sổ ghi nhận thực phẩm về
định lượng và tình trạng thực phẩm. Những thực phẩm bị dập nát có dấu hiệu
không tươi, nghi ngờ hỏng, không đảm bảo chất lượng, không đúng với hợp đồng
thì không được tiếp nhận và chế biến dùng cho trẻ. Các phẩm màu phụ gia thực
phẩm không rõ nguồn gốc, không nằm trong danh mục cho phép của Bộ Y tế thì
không được dùng trong trường mầm non.
Khi giao nhận thực phẩm, ngoài nhân viên nhà bếp còn có đại diện của nhà
trường, nhân viên y tế cùng kiểm tra thực phẩm.
Thực hiện nghiêm túc kiểm thực 3 bước (kiểm tra trước khi nhận thực phẩm,
Trước khi nấu và kiểm tra trước khi ăn).
Khâu bảo quản lưu giữ tại kho và tủ lạnh của bếp ăn nhà trường đảm bảo vệ
sinh, không để thực phẩm quá hạn, ẩm mốc, kém chất lượng. Các hộp đựng hoặc
chai, lọ đựng gia vị, thực phẩm phải có nhãn tên, không cất giữ chung với các loại
hoá chất diệt côn trùng, xà phòng, xăng dầu hoả với kho thực phẩm.
c. Chỉ đạo chế biến và bảo quản thực phẩm.
Nhân viên dinh dưỡng chế biến thực phẩm phải đảm bảo chất lượng ngon,
đẹp, phù hợp với trẻ, đảm bảo an toàn. Thức ăn phải được chế biến nấu chín kỷ,
nấu xong cho trẻ ăn ngay.
Thực hiện nghiêm túc quy định về lưu mẫu thức ăn: Hàng ngày, nhân viên
dinh dưỡng phải lưu mẫu thức ăn theo đúng quy định 24 h. Mẫu thức ăn phải được
lấy khi vừa nấu xong chuẩn bị chia ăn cho trẻ. Hộp đựng mẫu thức ăn được rửa
sạch và nhúng nước sôi sát trùng trước khi đưa thức ăn vào lưu giữ. Thức ăn lấy
mẫu cho vào lọ bằng sứ có nắp đậy, để 15-20 p cho nguội sau đó đưa vào lưu giữ
trong tủ lạnh (lưu ở ngăn mát) 24 h mới bỏ đi. Mỗi loại thức ăn phải để trong một
hộp riêng, có đủ lượng thức ăn tối thiểu (thức ăn đặc khoảng 150g, lỏng 250ml).
Khi lưu mẫu cần ghi đầy đủ ngày, giờ, tên người lấy mẫu thức ăn và niêm phong
cẩn thận. Trong tủ lạnh chỉ để lưu mẫu thực phẩm, tuyệt đối không để chung với
các loại thực phẩm khác.
Hàng tháng, ban giám hiệu kiểm tra thường xuyên việc chế biến và lưu mẫu
thực, góp ý điều chỉnh kịp thời những sai sót sau khi kiểm tra. Cuối tháng có nhận
xét ưu điểm, tồn tại và đề ra hướng khắc phục tồn tại để nhân viên dinh dưỡng
khắc phục sửa chữa và thực hiện tốt tháng tới.
2.2.4. Chỉ đạo theo dõi biểu đồ, khám sức khoẻ, quản lý công tác tiêm
chủng mở rộng và các dịch bệnh khác:
Việc theo dõi biểu đồ, khám sức khoẻ, quản lý công tác tiêm chủng mở rộng,
phòng chống dịch bệnh là việc không thể thiếu trong trường mầm non. Vì vậy, bản
thân đã tham mưu với hiệu trưởng xây dựng kế hoạch, chỉ đạo nhân viên y tế thực
hiện nghiêm túc việc theo dõi sức khoẻ bằng biểu đồ phát triển về cân nặng và
chiều cao.
Thực hiện nghiêm túc việc chuyển biểu đồ cho trẻ theo từng độ tuổi tức là
theo dõi liên tục (nhà trẻ - mẫu giáo bé - mẫu giáo nhỡ - mẫu giáo lớn). Thực hiện
đúng tin thần của cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung.
Quản lý tiêm chủng, giám sát dịch bệnh trong nhà trường. Nhân viên y tế
nắm vững lịch tiêm chủng hiện nay của các loại vác xin, kế hoạch tiêm phòng Sởi
mũi II, phòng sởi Rubella...và giám sát các bệnh truyền nhiễm trong chương trình
tiêm chủng Quốc gia.
Chỉ đạo nhân viên văn phòng xử lý và chuyển tải kịp thời các công văn liên
quan đến các dịch bệnh đối với cộng đồng như:
Công văn số 807/GD-ĐT ngày 12/9/2014 về việc triển khai chiến dịch tiêm
vắc xin Sởi-Rubella trong trường học; Công văn số 1315/NVY-SYT ngày
30/9/2014 về việc tăng cường phòng, chống dịch đau mắt đỏ trên địa bàn;
Công văn 886/GD-ĐT ngày 08/10/2014 về việc triển khai thực hiện Kế
hoạch số 328/KH-YTDP về giám sát VSATTP bếp ăn tập thể tại các trường học;
Công văn số 270/ATTP ngày 26/11/2014 về việc hướng dẫn thực hiện chế
độ kiểm thực 3 bước; Công văn số 69/UBND-YT ngày 16/01/2015 về việc triển
khai công tác đảm bảo VSATTP trong dịp tết Nguyên đán;
Công văn số 331/GD ngày 07/5/2015 về việc tổ chức hưởng ứng “Tuần lễ
tiêm chủng” năm 2015, tăng cường phòng chống dịch sốt xuất huyết và bệnh tay
chân miệng;
Công văn số 332/GD-ĐT về việc thực hiện Kế hoạch triển khai "Tháng hành
động vì an toàn thực phẩm" năm 2015... đến tất cả cán bộ giáo viên, nhân viên
trong toàn trường được biết để có các biện pháp, kế hoạch phù hợp với nhóm lớp
của mình. Qua đó càng nâng cao nhận thức của đội ngũ về công tác chăm sóc nuôi
dưỡng trẻ và VSATTP ở trường mầm non.
2.2.5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối với các ban ngành và phụ
huynh, lồng ghép nội dung VSATTP vào các hoạt động trong ngày của trẻ.
Chỉ đạo, hướng dẫn giáo viên, nhân viên thường xuyên làm tốt công tác
tuyên truyền với các ban ngành và phụ huynh về công tác chăm sóc nuôi dưỡng
giáo dục trẻ, thông qua những hình thức như: Tuyên truyền qua loa truyền thanh
địa phương, các buổi họp phụ huynh, các hội thi, qua góc tuyên truyền giáo dục
các bậc cha mẹ của lớp và nhà trường. Phối hợp với các ban ngành và phụ huynh
để triển khai các công văn khẩn cấp của Trung ương, địa phương về dịch bệnh theo
mùa, tuyên truyền tháng vệ sinh an toàn thực phẩm, tuyên truyền cho phụ huynh
nhận thức, thực hiện 10 lời khuyên dinh dưỡng hợp lý cho các bậc cha mẹ trong
việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ.
Tổ chức cho phụ huynh tham quan bếp ăn, hướng dẫn cách chế biến thức ăn,
tham quan giờ ăn của trẻ cũng như tham quan họat động bé tập làm nội trợ. Hàng
tháng yêu cầu phụ huynh kết hợp với nhà trường kiểm tra nhà bếp 1-2 lần về thuchi trong ngày, cách chế biến, VSAT thực phẩm, cân đong ...
Phụ huynh phải nhận thức thấy rõ việc ăn uống là một nhu cầu cấp bách
hàng ngày của trẻ. Ăn uống theo đúng yêu cầu dinh dưỡng thì thể lực, trí tuệ phát
triển tốt, giúp gia đình đạt được ước mơ con cái khoẻ mạnh, thông minh, học giỏi.
Bên cạnh đó, chỉ đạo giáo viên đưa nội dung giáo dục môi trường, vệ sinh an
toàn thực phẩm vào các giờ hoạt động, nhằm giúp trẻ tích cực tham gia giữ vệ sinh
đảm bảo an toàn thực phẩm như: lao động tự phục vụ, giữ vệ sinh môi trường, rèn
thói quen vệ sinh cá nhân và các hành vi văn minh nơi công cộng, tạo môi trường
thân thiện trong trường lớp mầm non.
Ví dụ: Tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng sức khỏe vào các chủ đề
Bản bản thân, gia đình... Ở các chủ đề này chỉ đạo giáo viên lồng ghép tích
hợp những nội dung sau:
- Làm quen với các món ăn tại trường, tập ăn hết suất, rèn luyện hành vi văn
minh trong ăn uống: Biết mời cô và các bạn trước khi ăn; ngồi ăn ngay ngắn,
không co chân lên ghế; cầm thìa bằng tay phải tự xúc ăn gọn gàng, tránh đổ vãi, ăn
từ tốn, nhai kỹ, không nói chuyện và đùa nghịch trong khi ăn.
- Tập tự phục vụ trong sinh hoạt hàng ngày tại trường: Tự cất, dọn đồ dùng
ăn uống sau khi ăn, lấy gối lên giường đi ngủ.
- Tập luyện thói quen tốt về vệ sinh cá nhân, đi vệ sinh đúng nơi qui
định. Giữ gìn vệ sinh môi trường như không khạc nhổ nơi công cộng, vứt rác
đúng nơi qui định.
Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động góc qua trò chơi “Bán hàng” chủ đề "Gia
đình, thế giới thực vật" khi mua hàng các cháu phải biết chọn thực phẩm tươi ngon,
thực phẩm không bị rập nát. Qua trò chơi “Nấu ăn” các cháu biết rửa tay và vệ
sinh đồ dùng, rửa sạch thực phẩm trước khi chế biến, phải biết ăn chín uống sôi.
Hoặc đối với chủ đề "Thế giới thực vật" cho trẻ làm quen các loại rau, quả
thông qua trò chơi học tập “Phân nhóm thực phẩm” thì cần phải chuẩn bị những lô
tô về các loại rau ăn củ, rau ăn quả, rau ăn lá và trò chơi“Thi xem ai nhanh” yêu
cầu trẻ lấy đúng và xếp nhanh, phân loại nhóm chất dinh dưỡng theo yêu cầu của
cô giáo. Qua các trò chơi giúp trẻ nhận biết và nhớ lâu các nhóm thực phẩm trẻ biết
nhóm nào nên ăn nhiều và nhóm nào ăn hạn chế.
2.2.6. Tham mưu mua sắm cơ sở vật chất.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị là phương tiện để thực hiện mục tiêu giáo dục
trẻ. Nếu cơ sở vật chất đầy đủ sẽ góp phần rất lớn vào kết quả chăm sóc giáo dục
trẻ nói chung và công tác VSATTP nói riêng.
Hàng năm, nhà trường đã trang cấp khá đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị
cho các lớp, nhất là đồ dùng phục vụ bán trú, nhưng qua quá trình sử dụng đã hư
hỏng nhiều. Vì vậy, qua đợt kiểm kê tài sản cuối năm học 2013-2014 ở nhà bếp và
các lớp, Tôi lên kế hoạch tham mưu với Hiệu trưởng để mua bổ sung đồ dùng,
trang thiết bị phục vụ cho bán trú và đồ dùng cho các lớp như: Như soong, nồi, rá,
xô, chậu, bếp, thớt, dao...cho nhà bếp đầy đủ.
Đối với các lớp tôi tham mưa mua sắm đầy đủ bàn ghế, chiếu, sạp ngủ, chăn,
gối, bát thìa, ca, khăn...đầy đủ theo số lượng trẻ.
Tham mưu với Hiệu trưởng hợp đồng những nhân viên dinh dưỡng có kiến
thức kinh nghiệm, có năng lực, sức khỏe để đảm bảo phục vụ tốt công tác chăm
sóc nuôi dưỡng trẻ. Nhờ vậy mà ngay từ đầu năm học trường đã ổn định đội ngũ
nhân viên dinh dưỡng, trường có đầy đủ các đồ dùng phục vụ cho công tác chăm
sóc nuôi dưỡng trẻ giúp trẻ phát triển một cách toàn diện về thể chất lẫn tinh thần.
2.3. Kết quả đạt được:
Qua một năm chỉ đạo công tác vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhà trường,
với sự kết hợp đồng bộ các biện pháp trên, nhà trường đã có sự chuyển biến rõ rệt
trong công tác VSATTP và đạt được một số kết quả sau:
1. Đối với nhà trường:
- Đội ngũ giáo viên, nhân viên có ý thức trách nhiệm cao trong việc giữ vệ
sinh chung, đặc biệt là vệ sinh an toàn thực phẩm. Biết vận dụng “Quy chế nuôi
dạy trẻ” vào quá trình chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Đặc biệt, chú trọng
công tác chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong
trường mầm non.
- Nhân viên dinh dưỡng thực hiện nghiêm túc công tác tiếp phẩm, quy trình
chế biến, chia ăn, hợp đồng thực phẩm với các nhà cung cấp, lưu mẫu thức ăn hàng
ngày. Chất lượng bữa ăn tại trường cho trẻ đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm,
thay đổi thực đơn theo mùa đảm bảo đủ lượng và chất cần thiết cho sự phát triển
của trẻ.
- Giáo viên biết kết hợp lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng vệ sinh an
toàn thực phẩm cho trẻ qua các hoạt động như tổ chức bữa ăn, các hoạt động khác
trong ngày cho trẻ tại trường mầm non.
- Nhà bếp đã được trung tâm y tế dự phòng kiểm tra và công nhận bếp đạt vệ
sinh an toàn thực phẩm. Dụng cụ: chén, thìa, ly được kiểm định đạt yêu cầu theo
đúng quy định.
- Hội thi “Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp, thân thiện và hiệu quả” cấp
huyện trường đạt giải 3. Từ đó, góp phần giúp nhà trường thực hiện tốt công tác
dinh dưỡng vệ sinh an toàn thực phẩm.
2. Đối với trẻ:
- Hiểu được vệ sinh an toàn thực phẩm rất quan trọng đối với đời sống con
người, biết giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường thông qua các giờ học tích hợp,
vui chơi, ca dao, đồng dao…
- Biết được một số lao động để giữ vệ sinh nơi công cộng, vệ sinh môi
trường như: không vứt rác, khạc nhổ nơi công cộng, biết bỏ rác đúng nơi quy định,
vệ sinh lớp học hàng ngày…và biết được công tác giữ vệ sinh rất quan trọng đối
với sức khoẻ con người.
- Trong năm học nhà trường không có trường hợp ngộ độc dịch bệnh xảy ra,
100% trẻ được ăn bán trú tại trường, đảm bảo an toàn, vệ sinh cá nhân sạch sẽ gọn
gàng, 100% trẻ được tiêm chủng đúng lịch, khám sức khỏe theo định kỳ 2 lần/năm,
được cân đo theo dõi biểu đồ phát triển 3 lần/năm. Nhờ vậy, tỷ lệ suy dinh dưỡng
cuối năm về cân nặng 2,5%, giảm so với đầu năm 4,4%; về chiều cao tỷ lệ thấp còi
3,2 giảm so với đầu năm 4,6%.
3. Đối với cha mẹ học sinh:
Tất cả các bậc cha mẹ học sinh đồng tình ủng hộ về cách giữ vệ sinh và
phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn xảy ra trong nhà trường. Đã có sự phối hợp
chặt chẽ trong công tác giáo dục trẻ biết giữ vệ sinh chung, vệ sinh cá nhân và
cùng nhau làm tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của đề tài:
Sức khỏe vô cùng quan trọng đối với con người, nếu không có sức khỏe thì
cơ thể chậm phát triển và sinh ra nhiều bệnh tật. Một trong những yếu tố quan
trọng ảnh hưởng trực tiếp tới tới sức khỏe đó là vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngộ
độc thực phẩm có thể xảy ra với bất kỳ một ai, gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc
ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ. Vì vậy, việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
là mối quan tâm lớn của toàn xã hội hiện nay, Đặc biệt là đối với trường mầm non
có tổ chức bán trú. Ngộ độc thực phẩm có thể phòng tránh được nếu chúng ta thực
hiện tốt việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính vì vậy mà mỗi chúng ta,
nhất là trường mầm non cần phải quan tâm công tác chăm sóc nuôi dưỡng để giúp
trẻ có một sức khỏe tốt.
Từ thực tế làm công tác quản lý trường mầm non, với phần hành chỉ đạo
công tác dinh dưỡng và sức khỏe nhà trường trong năm qua, bản thân tôi rút ra
được một số kinh nghiệm nhỏ sau:
- Thường xuyên nâng cao nhận thức cho đội ngũ về chăm sóc nuôi dưỡng,
giáo dục sức trẻ trong trường mầm non.
- Làm tôt công tác bồi dưỡng kiến thức thực hành dinh dưỡng, thực hiện tốt
vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh trong chế biến cho đội ngũ cán bộ giáo viên, vệ
sinh trong ăn uống cho trẻ. Chú trọng công tác vệ sinh khu vực bếp, đồ dùng, dụng
cụ nhà bếp và vệ sinh môi trường.
- Đầu tư đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng phục vụ cho việc tổ
chức bán trú. Tăng cường các hoạt động giáo dục vệ sinh đối với nhân viên dinh
dưỡng và vệ sinh cá nhân trẻ.
- Chỉ đạo nhân viên dinh dưỡng thực hiện tốt việc tạo nguồn thực phẩm
sạch. Thực hiện nghiêm túc công tác tiếp phẩm và giao nhận thực phẩm. Yêu cầu
trong chế biến và bảo quản thực phẩm.
- Thực hiện tốt việc theo dõi biểu đồ, khám sức khoẻ, quản lý công tác tiêm
chủng mở rộng, phòng chống dịch bệnh cho trẻ.
- Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra của ban giám
hiệu đối với công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ. Đặc biệt, chú trọng việc
kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền với cộng đồng và xã hội về công tác chăm
sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ trong trường mầm non.
- Thường xuyên đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo có hiệu quả về công tác
chăm sóc sức khỏe cho trẻ.
Là một cán bộ quản lý tôi sẽ cố gắng nhiều hơn nữa và mong muốn chuyển
tải những kinh nghiệm nhỏ của bản thân để trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp ở các
trường bạn. Tuyên truyền sâu rộng đến tất cả các bậc cha mẹ học sinh và cộng
đồng thấy được tầm quan trọng của việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong
trường mầm non trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
3.2. Kiến nghị đề xuất.
* Đối với UBND huyện:
Đầu tư kinh phí để xây dựng bếp ăn bán trú cho các trường mầm non đảm bảo theo
quy trình chế biến một chiều và mua sắm trang thiết bị bên trong đảm bảo an toàn
cho trẻ.
* Đối với Phòng GD&ĐT
- Tham mưu với các cấp hỗ trợ kinh phí và mua sắm trang cấp trang thiết bị, dụng
cụ phục vụ công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, đặc biệt các dụng cụ phục vụ công
tác bán trú.
- Phối hợp với trung tâm y tế dự phòng tiếp tục mở lớp bồi dưỡng cho cán bộ, giáo
viên cốt cán, nhân viên y tế, nhân viên cấp dưỡng những kiến thức cơ bản về cách
giữ vệ sinh và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non và cách tuyên
truyền với các bậc cha mẹ học sinh về bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm.
* Đối với nhà trường:
- Tăng cường bồi dưỡng kiến thức thực hành dinh dưỡng, thực hiện tốt vệ sinh an
toàn thực phẩm, vệ sinh trong chế biến cho đội ngũ cán bộ giáo viên, vệ sinh trong
ăn uống cho trẻ.
- Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá, động viên khuyến khích giáo viên tham
gia học tập nâng cao trình độ, đặc biệt là tự học tự bồi dưỡng thông qua các chuyên
đề, hội thảo, hội thi...
- Bổ sung đầy đủ các tài liệu, cơ sở vật chất và các trang thiết bị, dụng cụ phục vụ
công tác bán trú trong trường mầm non.
- Tiếp tục tham mưu với chính quyền địa phương hổ trợ kinh phí để xây dựng cơ
sở vật chất nhà trường.
* Đối với giáo viên:
Nhận thức đúng vai trò trách nhiệm của mình và luôn có ý thức tự học, tự bồi
dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm, rèn luyện phẩm chất
chính trị đạo đức của người giáo viên, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo
dục, chăm sóc nuôi dưỡng đặc biệt chú trong VSATT cho trẻ trong giai đoạn hiện
nay.
Trên đây là sáng kiến cải tiến kỹ thuật của bản thân, những gì đạt được còn
rất khiêm tốn và mới chỉ là nền tảng cho những năm tiếp theo. Rất mong nhận
được sự góp ý, nhận xét của các đồng chí đồng nghiệp để bản thân có được những
kinh nghiệm quý báu, giúp cho việc chỉ đạo chuyên môn của nhà trường ngày càng
được nâng cao, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ
trong trường mầm non./.