Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

luận văn thạc sĩ Khảo sát địa danh hành chính tỉnh Bắc Kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 115 trang )

Header Page 1 of 166.
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------------------------

HÀ THỊ HỒNG

KHẢO SÁT ĐỊA DANH HÀNH CHÍNH
TỈNH BẮC KẠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ

Thái nguyên - 2008

Footer Page 1 of 166.


Header Page 2 of 166.
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------------------------

HÀ THỊ HỒNG

KHẢO SÁT ĐỊA DANH HÀNH CHÍNH
TỈNH BẮC KẠN
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ
: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ


CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS – TS. HÀ QUANG NĂNG

Thái nguyên - 2008

Footer Page 2 of 166.


Header Page 3 of 166.

Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trính nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ
một công trính nào.
Tác giả luận văn

Hà Thị Hồng

1

Footer Page
166.
Số hóa3
bởiof
Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





Header Page 4 of 166.

Mục lục
Mục lục……………………………………………………………………..…3
Mở đầu ………………………………………………………………….……7
I. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………….…7
II. Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu …………………………...8
III. Lịch sử vấn đề ………………………………………………………….............8
IV. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ………………………….…..10
V. Phương pháp và tư liệu nghiên cứu …………………………………..11
VI. Cấu trúc luận văn …………………………………………………………….12
Chương 1: cơ sở lý thuyết liên quan đến địa danh và địa danh học ………......................................15
1.1. Khái niệm về địa danh..………………………………………….…15
1.1.1. Định nghĩa địa danh ………………………………………………...15
1.1.2. Địa danh hành chính ………………………………………………..18
1.2. Phân loại địa danh. …………………………………………………....19
1.3. Đặc điểm của địa danh …………………………………………….….20
1.4. Các phương diện nghiên cứu địa danh ………………………………21
1.5. Những nét chính về địa bàn liên quan đến địa danh hành chính tỉnh Bắc
Kạn …………………………………………………………………….........22
1.5.1. Về địa lý ……………………………………………………………...22
1.5.2. Về lịch sử …………………………………………………………….23
1.5.3. Về văn hoá…………………………………………………………...26
1.5.4. Về dân cư…………………………………………………………….27
1.5.5. Về ngôn ngữ…………………………………………………………29
1.6. Tiểu kết ………………………………………………………………..30
Chương 2: Đặc điểm cấu tạo của địa danh hành chính tỉnh Bắc Kạn …….......................32
2.1. Mô hình cấu trúc phức thể địa danh hành chính tỉnh Bắc Kạn …..32
2.2. Thành tố chung ……………………………………………………….33


Footer SốPage
of tâm
166.
hóa bởi4
Trung
Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2



Header Page 5 of 166.

2.2.1. Khái niệm ……………………………………………………………33
2.2.2. Vấn đề thành tố chung trong địa danh hành chính tỉnh Bắc Kạn …33
2.2.3. Các thành tố chung có khả năng chuyển hoá thành những yếu tố riêng
và đứng ở các vị trí khác nhau trong tên riêng …………………….

33

2.3. Tên riêng ………………………………………………………………35
2.3.1. Giới thiệu chung …………………………………………………….35
2.3.2. Về số lượng yếu tố trong tên riêng ………………………………….36
2.3.2.1. Kết quả thống kê địa danh theo số lượng âm tiết trong tên riêng….36
2.3.2.2. Về số lượng các yếu tố trong địa danh……………………………..37
2.4. Các yếu tố và các địa danh có tần số xuất hiện cao ………………..38
2.4.1. Các yếu tố có tần số xuất hiện cao ………………………………….38
2.4.2. Một số địa danh có tần số xuất hiện cao ……………………………39
2.5. Đặc điểm cấu tạo địa danh …………………………………………...40
2.5.1. Đặc điểm cấu tạo nội dung ………………………………………….41

2.5.1.1. Phương thức cấu tạo mới…………………………………………...41
2.5.1.2. Phương thức chuyển hoá…………………………………………...45
2.5.1.3. Phương thức vay mượn…………………………………………......47
2.5.2. Đặc điểm cấu tạo hình thức ……………………………………...…48
2.5.2.1. Nhận xét khái quát về các kiểu cấu tạo địa danh…………………..49
2.5.2.2. Đặc điểm của một số kiểu cấu tạo địa danh do phương thức định danh
chi phối……………………………………………………………….. .........53
2.6. Tiểu kết ………………………………………………………………...57
Chương 3: Đặc điểm về ý nghĩa của địa danh hành chính tỉnh Bắc kạn .............................59
3.1. Mối quan hệ giữa ý nghĩa địa danh và hiện thực được phản ánh ….59
3.2. Tính rõ ràng về nghĩa của các yếu tố trong địa danh thể hiện qua nguồn
gốc ngôn ngữ……………………………………………………… .......... .61
3.2.1. Hiện tượng các yếu tố rõ ràng về nghĩa ……………………………61

Footer SốPage
of tâm
166.
hóa bởi5
Trung
Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3



Header Page 6 of 166.

3.2.2. Hiện tượng các yếu tố chưa rõ ràng về nghĩa ………………………
3.3. Các yếu tố trong địa danh hành chính tỉnh Bắc Kạn phản ánh tính đa
dạng các loại hình đối tượng địa lý và mang tính cảnh quan rõ nét.......62

3.3.1. Sự phản ánh tính đa dạng của các loại hình đối tượng địa lý...….. 63
3.3.2. Sự phản ánh bức tranh địa hình mang tính cảnh quan rõ nét ……63
3.4. Cách phân loại nghĩa của các yếu tố trong địa danh ………………65
3.5. Các nhóm từ và tên gọi theo trường nghĩa ………………………….66
3.5.1. Nhóm ý nghĩa thứ nhất ……………………………………………..66
3.5.2. Nhóm ý nghĩa thứ hai ………………………………………………73
3.6. Một số địa danh gắn với lịch sử, văn hoá, xã hội ………………..…76
3.6.1. Địa danh tỉnh Bắc Kạn ……………………………………….…….76
3.6.2. Địa danh huyện Ba Bể ………………………………………...........79
3.6.3. Địa danh thôn Nà Tu ……………………………………………….82
3.7. Tiểu kết ……………………………………………………………….83
Kết luận ……………………………………………………………………85
Những bài báo của tác giả có liên quan đến luận văn đã được công bố........88
Tài liệu tham khảo………………………………………………………….89
Phụ lục……………………………………………………………….....…..92

Footer SốPage
of tâm
166.
hóa bởi6
Trung
Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4



Header Page 7 of 166.

Mở đầu

I. Lý do chọn đề tài
1. Địa danh là một bộ phận từ vựng trong vốn từ vựng của ngôn ngữ
nói chung và tiếng Việt nói riêng. Nghiên cứu địa danh một vùng cung cấp
cho ta những cơ sở để tím hiểu những cơ chế định danh của một sự vật hiện
tượng. Mỗi ngôn ngữ có cách định danh riêng.
2. Địa danh liên quan chặt chẽ đến lịch sử, văn hoá, cư dân của một
vùng nhất định. Địa danh lưu giữ những trầm tìch về lịch sử, văn hoá, phong
tục, tập quán của cư dân ở một vùng đất. Nghiên cứu địa danh sẽ giúp nghiên
cứu văn hoá, lịch sử của vùng đất ấy.
3. Địa danh có những nguyên tắc riêng trong cấu tạo, trong cách gọi
tên, có thể một vùng đất có nhiều tên gọi khác nhau, trải qua nhiều giai đoạn
lịch sử khác nhau. Nghiên cứu địa danh giúp nghiên cứu lịch sử phát triển
của một vùng đất, giúp khám phá sự ảnh hưởng và tác động của những nhân
tố bên ngoài vào cách đặt địa danh: Đất nước học, tôn giáo, tìn ngưỡng, lịch
sử tộc người …Mặt khác địa danh, nhất là địa danh hành chình, thường là
sản phẩm của một chế độ nhất định. Nó được gọi tên bởi những quan điểm,
chình sách, ý tưởng của chình quyền hoặc dân chúng đương thời. Trong hoàn
cảnh một vùng đất có nhiều dân tộc nối tiếp nhau sinh sống, địa danh có
nhiều dấu tìch từ vựng của các ngôn ngữ. Mỗi địa danh được hính thành
trong một hoàn cảnh văn hoá, lịch sử nhất định và còn lưu dấu mãi về sau.
Nhiều địa danh thường mang tên người, cây cỏ, cầm thú, sự vật, địa hính
thiên nhiên…Tất cả những điều ấy cho thấy địa danh trở thành “vật hoá
thạch”, “tấm bia bằng ngôn ngữ độc đáo về thời đại mà nó chào đời”.
4. Bắc Kạn là một trong những chiếc nôi của cách mạng. Nghiên cứu
địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn giúp chúng ta tím hiểu một chặng đường
lịch sử lâu dài và hào hùng của dân tộc ta; giúp chúng ta học tập, giữ gín
5

Footer Page
166.

Số hóa7
bởiof
Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 8 of 166.

truyền thống văn hoá dân tộc, đồng thời góp phần vào việc phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội và mở rộng, phát triển du lịch của cả nước nói chung và tỉnh
Bắc Kạn nói riêng.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài của luận văn là “ Khảo sát
địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn”.
II. Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các địa danh hành chình tỉnh
Bắc Kạn. Các địa danh này có nguồn gốc từ nhiều ngôn ngữ khác nhau.§
Mục đìch nghiên cứu của luận văn là xác định những cơ sở lý luận liên
quan đến việc nghiên cứu địa danh và địa danh học.M
Về nội dung của luận vănV, chúng tôi tập trung vào các mặt sau:
- Nghiên cứu những đặc điểm về phương diện cấu tạo của các địa danh
hành chình tỉnh Bắc Kạn
- Tím hiểu về phương thức định danh các địa danh hành chình tỉnh Bắc
Kạn, đồng thời qua đó bước đầu tím hiểu về nội dung ngữ nhĩa địa danh.
- ở một chừng mực nhất định, tím hiểu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
văn hoá trong những địa danh nổi tiếng của tỉnh.
III. Lịch sử vấn đề
1. Vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới
Vấn đề nghiên cứu địa danh được phát triển từ lâu trên thế giới. ở

Trung Quốc, ngay từ thời Đông Hán (32 – 92 sau công nguyên), Ban Cố đã
ghi chép hơn 4000 địa danh, trong đó một số một số đã được giải thìch rõ
nguồn gốc và ý nghĩa. Đến thời Bắc Nguỵ (380 - 535), trong “Thuỷ Kinh
Chú sớ”, Lịch Đạo Nguyên chép hơn 2 vạn địa danh, số được giải thìch ngữ
nguyên là trên 2300. [11], [31].
ở các nước phương Tây, bộ môn địa danh học chình thức ra đời vào
cuối thế kỷ XIX. Năm 1872, J.J. Eghi (Thuỵ Sĩ) viết “Địa danh học” và năm

6

Footer Page
166.
Số hóa8
bởiof
Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 9 of 166.

1903, J.W. Nagl (người Áo) cũng cho ra đời tác phẩm “Địa danh học”.
Những năm 90 của thế kỷ XIX và 20 năm đầu của thế kỷ XX, hàng loạt Uỷ
ban địa danh của các nước như Mỹ, Thuỵ Điển, Anh được ra đời. Thời kỳ
đầu, các tác phẩm địa danh học chú trọng khảo chứng nguồn gốc địa danh.
Từ thế kỷ XX, bước vào giai đoạn nghiên cứu tổng hợp về địa danh. J.
Gilliénon (1854 - 1926) đã viết “Atlát ngôn ngữ Pháp”, nghiên cứu địa
danh theo hướng phát triển địa lý học. Năm 1926, A. Dauzat (người Pháp) đã
viết “Nguồn gốc và sự phát triển địa danh”, đề xuất phương pháp văn hoá

địa lý học để nghiên cứu các lớp niên đại của địa danh.
Tiên phong trong lĩnh vực xây dựng hệ thống lý luận về lý thuyết định
danh là các nhà địa danh học Xô Viết. Vào những năm 1960 đã có hàng loạt
công trính nghiên cứu về lĩnh vực này được ra đời. Cụ thể, A.V.Superanskaia
trong cuốn “Địa danh là gì” (1985) và E.M.Murzaev với “Những khuynh
hướng nghiên cứu địa danh học” (1964) đã cùng quan tâm đến vấn đề
khuynh hướng nghiên cứu chung. Cùng góp phần cho sự sáng tỏ về lý
thuyết, A.I.Popov (1964) đưa ra những nguyên tắc cơ bản của công tác
nghiên cứu địa danh, trong đó chú trọng hai nguyên tắc chình là phải dựa vào
tư liệu lịch sử của các ngành ngôn ngữ học, địa lý học, lịch sử học…và phải
thận trọng khi sử dụng phương pháp thành tố để phân tìch ngữ vĩ của địa
danh. Ngoài các tác giả trên, Iu.A.Kapenco (1964) với những suy nghĩ bàn
về địa danh học đồng đại và N.V.Podonxkaja trong phân tìch, lì giải địa danh
mang những thông tin gí cũng đã góp thêm những ý kiến cho sự nghiên cứu
địa danh

đi sâu vào bản chất bên trong của đối tượng. Đặc biệt,

A.V.Superanskja (1985) với “Địa danh là gì” đã đặt ra những vấn đề vừa
mang tình cụ thể, vừa mang tình khái quát, tổng hợp cao. Trong nội dung
trính bày, tác giả đi sâu vào những vấn đề có liên quan thiết thực đến việc
nhận diện và phân tìch địa danh. Ngoài cách hiểu về khái niệm địa danh, tác

7

Footer Page
166.
Số hóa9
bởiof
Trung

tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 10 of 166.

giả còn quan tâm đến các vấn đề khác như tình liên tục của tên gọi, không
gian tên riêng và các loại địa danh (địa danh kì hiệu, địa danh mô tả, địa
danh đăng kì, địa danh ước vọng) cũng như tên gọi các đối tượng địa lý theo
loại hính…Có thể nói đây là công trính có giá trị tổng kết những kết quả
nghiên cứu mới, làm cơ sở vững chắc cho sự nghiên cứu địa danh tiếp theo ở
Liên bang Xô Viết trước đây. Ngoài các nhà địa danh Xô Viết, những người
nghiên cứu địa danh ở các nước khác cũng đã góp phần cho sự phong phú,
đa dạng về những vấn đề nghiên cứu trong lĩnh vực này. Chẳng hạn,
Ch.Rostaing (1965) với “Les noms de lieux” đã chú trọng trong việc nêu ra
hai nguyên tắc nghiên cứu địa danh là phải tím ra các hính thức cổ của các từ
cấu tạo địa danh và muốn biết từ nguyên của địa danh thí phải dựa trên kiến
thức ngữ âm học địa phương. Đây là một chuyên luận bổ sung thêm cho vấn
đề mà A.I.Popov đã đưa ra trước đó. [3], [11], [20].
2. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Việt Nam
ở Việt Nam, vấn đề địa danh được quan tâm từ rất sớm. Các tài liệu
Tiền Hán thư, Địa lí chí, Hậu Hán thư, Tấn thư trong thời Bắc thuộc có
đề cập đến địa danh Việt Nam, trong đó mục đìch chình trị được đặc biệt chú
ý. Các tài liệu này đều do người Hán viết, phục vụ trực tiếp cho cuộc xâm
lược nước ta.
Sau thời Bắc thuộc, đặc biệt từ thế kỷ XV trở đi, việc nghiên cứu địa
danh mới được các nhà nghiên cứu Việt Nam thực hiện. Lúc này, địa danh
được thu thập, tím hiểu về nguồn gốc và ý nghĩa. Có thể kể đến Dư địa chí
của Nguyễn Trãi (1435), Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy

Chú (1821), Phương Đình dư địa chí cuả Nguyễn Văn Siêu (1900)…
[3].[11].
Cũng theo xu hướng phát triển của ngôn ngữ học, đặc biệt là của địa
danh học trên thế giới, vấn đề nghiên cứu địa danh Việt Nam có được bước

8

Footer Page
of 166.
Số hóa10
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 11 of 166.

tiến đáng kể từ những năm 1960 trở đi. Hoàng Thị Châu với “Mối quan hệ
về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông” (1964) được
xem như là người cắm cột mốc đầu tiên trong nghiên cứu địa danh dưới góc
nhín ngôn ngữ học. Các công trínhnghiên cứu tiếp theo của bà cũng theo
hướng này, nhưng nặng về mặt phương ngữ học. Lê Trung Hoa với “Địa
danh ở thành phố Hồ Chí Minh” (1991) đã đưa những vấn đề lý thuyết
làm cơ sở cho sự phân tìch và chỉ ra các đặc điểm về cấu tạo, nguồn gốc và ý
nghĩa, về mặt phản ánh hiện thực và sự chuyển biến của địa danh một thành
phố lớn ở miền Nam. Đến 1996 Nguyễn Kiên Trường với luận án PTS
“Những đặc điểm chính về địa danh Hải Phòng” đã bổ sung thêm những
vấn đề lì thuyết định danh mà Lê Trung Hoa đã dẫn ra trước đó. Đặc biệt,
luận án đã khái quát được những đặc điểm cấu tạo, ý nghĩa, nguồn gốc và sự

biến đổi của địa danh Hải Phòng trong vài nét đối sánh với địa danh các
vùng khác của Việt Nam. Tiếp theo sau là luận án tiến sĩ của Từ Thu Mai “
Nghiên cứu địa danh Quảng Trị (2004), Phạm Xuân Đạm với “§ịa danh
Nghệ An” (2005) .v.v. Những công trính này đều có những đóng góp đáng
trân trọng khi tiếp cận vấn đề địa danh học dưới cách nhín ngôn ngữ học.
Nhằm góp phần cho sự đa dạng của các khuynh hướng, các phương
pháp nghiên cứu địa danh, Trần Trì Dõi đã có hàng loạt các bài viết về địa
danh theo hướng so sánh lịch sử. Đó là các bài viết “Một vài địa danh, tên
riêng gốc Nam Đảo trong vùng Hà Nội xưa” (2000) , “Về địa danh Cửa
Lò” (2000), “Không gian ngôn ngữ và tính kế thừa đa chiều đa chiều của
địa danh (qua phân tích một vài địa danh ở Việt Nam)” và “Vấn đề địa
danh biên giới Tây Nam: Một vài nhận xét và những kiến nghị” (2001).
Nếu như các tác giả trên đều nghiên cứu địa danh theo cách tiếp cận
ngôn ngữ học thí Nguyễn Văn Âu với “Một số vấn đề về địa danh học

9

Footer Page
of 166.
Số hóa11
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 12 of 166.

Việt Nam” (2000) lại tiếp cận từ góc độ địa lý – lịch sử – văn hoá. [2], [3],
[11], [20], [31].

Ngoài ra, còn một số công trính ra đời dưới dạng sách, từ điển, sổ tay,
vì dụ như các công trính của Trần Thanh Tâm, Đinh Xuân Vịnh…Các công
trính này đều nghiên cứu một cách công phu nhưng nặng về tập hợp tư liệu,
tình lý thuyết chưa cao.
Nhín chung các khuynh hướng nghiên cứu địa danh ở Việt Nam rất
phong phú và đa dạng. Chình sự phong phú, đa dạng ấy đã giúp chúng ta
nhín nhận địa danh ở những khìa cạnh khác nhau.
Mặc dù vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới đã có từ rất sớm
nhưng việc nghiên cứu địa danh ở Việt Nam vẫn chưa tạo được chỗ đứng
vững vàng của mính. Các công trính nghiên cứu ở nước ta mới đang ở bước
đầu đi vào từng vùng cụ thể hoặc có cái nhín bao quát về địa danh dưới góc
độ văn hoá - lịch sử. Các công trính nghiên cứu về địa danh theo góc độ
ngôn ngữ còn có ìt công trính đầu tư đi sâu.
3. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Bắc Kạn
Địa danh Bắc Kạn là đối tượng hết sức mới mẻ, chưa có công trính nào
đi sâu nghiên cứu. Hiện chỉ có một số bài báo nhỏ giải thìch về tên gọi Bắc
Kạn, cụ thể: Lương Bèn (1997) với “Chính tả một địa danh: Viết Bắc Kạn
hay Bắc Cạn?”, Cao Thâm (1997) với “Viết Bắc Kạn hay Bắc Cạn”.
Tóm lại, mặc dù vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới đã có từ rất
sớm nhưng việc nghiên cứu địa danh ở Việt Nam vẫn chưa tạo được chỗ
đứng vững vàng của mính. Các công trính nghiên cứu ở nước ta mới đang ở
bước đầu đi vào từng vùng cụ thể hoặc có cái nhín bao quát về địa danh dưới
góc độ văn hoá - lịch sử. Các công trính nghiên cứu về địa danh theo góc độ
ngôn ngữ còn có ìt công trính đầu tư đi sâu.
IV. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

10

Footer Page
of 166.

Số hóa12
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 13 of 166.

Trước chúng tôi đã có một số công trính, luận án tím hiểu địa danh Hải
Phòng, Nghệ An, Quảng Trị, Thành phố Hồ chì Minh và các vùng khác. Với
địa danh Bắc Kạn, từ trước tới nay hầu như chưa được khảo sát và nghiên
cứu. Đây là đề tài đầu tiên đi sâu tím hiểu vấn đề cả về phương diện lý thuyết
lẫn thực tế về địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn. Luận văn tím hiểu các địa
danh hành chình tỉnh Bắc Kạn về các mặt cấu tạo, ý nghĩa, nguồn gốc quá
trính biến đổi. Luận văn cũng chỉ ra một vài đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá
của địa danh trong mối quan hệ với địa lý, lịch sử, dân cư và ngôn ngữ. Đây
cũng có thể là tư liệu quý cho ngành địa phương học, cho ngành nghiên cứu
lịch sử, văn hoá Bắc Kạn.
V. Phương pháp và tư liệu nghiên cứu
* Phương pháp
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, công việc đầu tiên là phải thu thập
tư liệu, bổ sung và chỉnh lý các thông tin, thông số của địa danh. Mặt khác
phải tra cứu các tài liệu về lịch sử, địa lý, truyền thống văn hoá của tỉnh Bắc
Kạn. Chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại: Đây là phương pháp giúp chúng tôi
tập hợp và phân loại các địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn trên cơ sở thu
thập địa danh qua các nguồn khác nhau.
- Phương pháp miêu tả được sử dụng để phản ánh những đặc điểm cấu
tạo và đặc trưng ngữ nghĩa của các yếu tố tên riêng trong phức thể địa danh.

- Phương pháp phân tìch lịch sử: Dựa vào các cứ liệu ngôn ngữ, đặc
điểm tâm lý của con người và quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, nghiên cứu
một số địa danh để tím hiểu xuất xứ, nguồn gốc một số địa danh nổi tiếng
của tỉnh Bắc Kạn.
* Tư liệu nghiên cứu

11

Footer Page
of 166.
Số hóa13
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 14 of 166.

Với mục đìch phản ánh đầy đủ, trung thực hệ thống địa danh hành
chình tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi đã tiến hành tập hợp các tư liệu cần thiết từ
những nguồn sau:
- Dựa vào niên giám thống kê của tỉnh.
- Dựa vào một số công trính nghiên cứu về văn hoá, lịch sử, tôn giáo,
kinh tế của địa phương.
- Dựa vào những tư liệu lưu giữ ở chình quyền địa phương. Đây là tư
liệu quan trọng nhất, có tình pháp lì để đảm bảo tình minh xác của những
điều trính bày trong luận văn.
- Điền dã để thu thập tư liệu, ghi chép, bổ sung, chỉnh lý các thông số,
thông tin của từng địa danh.

VI. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chương I: Những cơ sở lý thuyết liên quan đến địa danh và địa
danh học.
Chương này sẽ trính bày những vấn đề lý thuyết làm cơ sở cho việc
triển khai các chương mục tiếp theo. Ngoài ra, vấn đề tư liệu về địa lý, lịch
sử, văn hoá, dân cư, ngôn ngữ trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn được trính bày làm
cơ sở cho các phần nội dung luận văn.
Chương II: Đặc điểm cấu tạo của địa danh hành chính tỉnh Bắc
Kạn.
Chương này sẽ trính bày cách xác định thành tố chung và tên riêng
trong phức thể địa danh. Nội dung của chương sẽ đi sâu tím hiểu những đặc
điểm về cấu tạo địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn.
Chương III: Đặc điểm về ý nghĩa của địa danh hành chính tỉnh
Bắc Kạn.

12

Footer Page
of 166.
Số hóa14
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 15 of 166.


ở chương này, chúng tôi sẽ đi sâu tím hiểu đặc điểm về ý nghĩa của
các yếu tố cấu tạo nên địa danh. Qua đó giải thìch lý do đặt tên cho các đối
tượng địa lý được phản ánh trong địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn qua hệ
thống các trường nghĩa và bộ phận của các yếu tố cấu tạo.

Chương 1

Những cơ sở lý thuyết liên quan đến địa danh và địa danh
học
1.1.

Khái niệm về địa danh

1.1.1. Định nghĩa về Địa danh
Cuộc sống của con người gắn với những điểm địa lý khác nhau.
Những điểm địa lý này được gọi bằng những từ ngữ riêng. Đó là những tên
gọi địa lý (địa danh). Những tên gọi này tạo nên một hệ thống riêng và tồn
tại trong vốn từ của các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Những tên gọi địa
lý, địa danh ấy được thể hiện bằng thuật ngữ toponima hay toponoma (có
nguồn gốc từ tiếng Hi Lạpc) với ý nghĩa “ tên gọi điểm địa lý”.
Cần phải hiểu đúng khái niệm địa danh theo phạm vi xuất hiện của nó.
Nếu hiểu theo lối chiết tự thí “địa danh” là tên đất. Thế nhưng, khái niệm này
cần phải hiểu rộng hơn ví đây chình là đối tượng nghiên cứu của một ngành
khoa học. Cụ thể địa danh không chỉ là tên gọi của các đối tượng địa lý gắn
với từng vùng đất cụ thể mà là tên gọi của các đối tượng địa lý tồn tại trên
trái đất. Nó có thể là tên gọi của các đối tượng địa hính thiên nhiên, đối
tượng địa lý cư trú hay là công trính do con người xây dựng, tạo lập nên.
Địa danh là lớp từ ngữ nằm trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ, được
dùng để đặt tên, gọi tên các đối tượng địa lý.Ví thế, nó hoạt động và chịu sự
tác động, chi phối của các qui luật ngôn ngữ nói chung về mặt ngữ âm, từ

vựng – ngữ nghĩa và ngữ pháp.
13

Footer Page
of 166.
Số hóa15
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 16 of 166.

Hiện nay đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những định nghĩa khác
nhau về địa danh. Nhà ngôn ngữ học Nga A.V.Superanskiaja trong cuốn
“Địa danh là gì” đã cho rằng địa danh (địa danh các tên gọi địa lý) là những
từ ngữ biểu thị tên gọi các địa điểm mục tiêu địa lý (các đặc điểm, mục tiêu
địa lý là các vật thể tự nhiên hay nhân tạo được định vị xác định trên bề mặt
trái đất).
ởëViệt Nam, các nhà nghiên cứu địa danh học đã chia thành hai nhóm
nghiên cứu là nghiên cứu địa danh học theo góc độ địa lý - văn hoá và
nghiên cứu địa danh theo góc độ ngôn ngữ học. Đại diện cho nhóm thứ nhất,
Nguyễn Văn Âu cho rằng: “ Địa danh là tên đất, gồm tên sông, núi, làng
mạc…hay là tên các địa phương, các dân tộc”. [3, tr.15].
Đại diện cho nhóm thứ hai là Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên Trường, Từ
Thu Mai, Phạm Xuân Đạm
Lê Trung Hoa cho rằng “Địa danh là những từ hoặc ngữ cố định được
dùng làm tên riêng của địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng, các
đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ”.[31, tr.15].

Nguyễn Kiên Trường quan niệm N: “Địa danh là tên riêng của các
đối tượng địa lý tự nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt trái
đất”.[31, tr.16].
Từ Thu Mai đưa ra cách hiểu: “Địa danh là những từ ngữ chỉ tên riêng
của các đối tượng địa lý có vị trí xác định trên bề mặt trái đất”. [20, tr. 21].
Phạm Xuân Đạm cho rằngP: “Địa danh là lớp từ ngữ đặc biệt được
định ra để đánh dấu vị trí, xác lập tên gọi các đối tượng địa lý tự nhiên và
nhân văn”. [11, tr.12].
Như vậy, Nguyễn Văn Âu với mong muốn đi tím một khái niệm với
nguyên nghĩa của từ toponomie, ông quan niệm địa danh chình là “tên gọi
các địa phương hay tên gọi địa lý”, theo đó “địa danh học là một môn khoa

14

Footer Page
of 166.
Số hóa16
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 17 of 166.

học chuyên nghiên cứu về tên địa lý của các địa phương. Quan niệm này khá
đơn giản, dễ hiểu, trùng với cách hiểu thông thường của nhân dân, của từ
điển ngữ văn giải thìch, chẳng hạn trong Từ điển Hán Việt, Đào Duy Anh
giải thìch “Địa danh là tên gọi các miền đất”, Từ điển Tiếng Việt do
Hoàng Phê chủ biên giải thìch địa danh là “tên đất, tên làng”. Nguyễn Văn

Âu cố gắng thoát ra khỏi quan niệm cho rằng địa danh học “chuyên nghiên
cứu về tên riêng”, ông “chú ý tới các từ chung”.
Lê Trung Hoa là một trong những người có ý thức trính bày các vấn đề
địa danh đặt trong khung cảnh ngôn ngữ học, hướng đến tình lý thuyết, tình
hệ thống sớm hơn cả so với nhiều tác giả khác. Lê Trung Hoa cho rằng:
“Địa danh là những từ hoặc ngữ cố định được dùng làm tên riêng của địa
hình thiên nhiên, các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều, các
đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ”. [13, tr.77 ]. Định nghĩa này thiên về
việc chỉ ra ngoại diên của khái niệm, đồng thời chỉ ra cách phân loại các địa
danh. Do đó, khó có thể khuôn được hiện thực các kiểu loại địa danh vốn đa
dạng trong thực tế vào trong định nghĩa phân loại này.
Nguyễn Kiên Trường là người đầu tiên đưa ra định nghĩa nêu giới hạn
ngoại diên của địa danh chỉ thuộc về những gí ở trên trái đất một cách hiển
ngôn. Dựa trên tiêu trì mà Lê Trung Hoa đưa ra, Nguyễn Kiên Trường chia
địa danh thành từng loại nhỏ. Bên cạnh đó, ông còn tiến hành phân loại theo
nguyên ngữ, theo chức năng của địa danh.
Từ Thu Mai cho rằng, khi xác định khái niệm địa danh cần chú ý đến
những vấn đề trong nội tại bản thân khái niệm. Định nghĩa của Từ Thu Mai
có điểm xuất phát từ cách hiểu địa danh của A. V. Superanskaja.
Theo chúng tôiT, mặc dù nằm trong hệ thống những loại hính khác
nhau nhưng các đối tượng địa lý bao giờ cũng xuất hiện trong thực tế với
những cá thể độc lập. Đầu tiên, người ta thường sử dụng các tên chung để

15

Footer Page
of 166.
Số hóa17
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





Header Page 18 of 166.

định danh, tạo tên riêng cho đối tượng. Tên riêng của các đối tượng này xuất
hiện muộn hơn các tên chung chỉ loại. Do vậy, có thể nói rằng địa danh là
những kì hiệu ngôn ngữ đặc biệt được tạo thành từ một hệ thống kì hiệu đã
có thể định danh cho một đối tượng cụ thể, được xác định. Nó chình là đơn
vị định danh bậc hai trên cơ sở vốn từ chung. Ví vậy, khi xác định khái niệm
địa danh cần phải chú ý đến những vấn đề nội tại trong bản thân địa danh.
Trước hết, mỗi địa danh đều phải có tình lý do, phải giải thìch được nguyên
nhân đặt tên đối tượng. Chức năng gọi tên và cá thể hoá, khu biệt đối tượng
là tiêu chì thứ hai. Tiêu chì thứ ba là các đối tượng được gọi tên phải là các
đối tượng địa lý tồn tại trên bề mặt trái đất và ngoài trái đất. Các đối tượng
này có thể là đối tượng địa lý tự nhiên hay không tự nhiên.
Phạm Xuân Đạm có quan niệm khá độc đáo, khác với những người đi
trước. Cách hiểu của ông về địa danh rất hợp lý, tiến bộ theo hướng chức
năng của địa danh, tránh được lối nghĩ ngoại diên của khái niệm. Về cách
phân loại địa danh, cũng như Từ Thu Mai, tác giả kế thừa cách phân loại của
Lê Trung Hoa.
Nhín chung, trong các định nghĩa và phân loại địa danh, các tác giả
đều thừa nhận rằng, các đối tượng được định danh rồi nhóm lại dưới cái tên
gọi “địa danh” chỉ là những đối tượng thuộc về trái đất. Như vậy, các đối
tượng ngoài trái đất như Trạm vũ trụ Hoà Bính, sao Hoả…sẽ không được coi
là địa danh. Điều này khác với quan điểm của nhiều nhà khoa học nước
ngoài.
Từ những vấn đề trên, chúng tôi tán thành quan điểm của Phạm Xuân
Đạm khi ông cho rằng: “Địa danh là lớp từ ngữ đặc biệt, được định ra để

đánh dấu vị trí, xác lập tên gọi các đối tượng địa lý tự nhiên và nhân văn”.
[11. tr.12]. Luận văn này sẽ nghiên cứu những từ ngữ chỉ tên riêng của các
đối tượng địa lý thuộc địa danh hành chình trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.

16

Footer Page
of 166.
Số hóa18
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 19 of 166.

1.1.2. Địa danh hành chính
Địa danh hành chình là địa danh do chình quyền hoặc người dân đặt
tên, nhằm phục vụ cho mục đìch quản lý của nhà nước.
Các đơn vị hành chình trong tỉnh bao gồm:
1. Tỉnh
Là đơn vị hành chình trực thuộc trung ương, gồm nhiều huyện, thị xã
và thị trấn.
2. Thành phố
Là đơn vị hành chình trực thuộc tỉnh. Đây là nơi tập trung đông dân
cư, thường có công nghiệp và thương nghiệp phát triển.
3. Huyện, thị xã
Là đơn vị hành chình trực thuộc tỉnh, gồm nhiều xã, phường. Dân cư,
công nghiệp, thương nghiệp không phát triển bằng thành phố.

4. Thị trấn
Là trung tâm hành chình của huyện nhưng hoạt động kinh tế khác với
huyện, có khi trùng tên với huyện.
5. Xã, phường
Là đơn vị hành chình cơ sở ở nông thôn trực thuộc huyện, gồm nhiều
thôn, bản, tổ phố.
Có thể nói rằng, địa danh hành chính là các tên riêng của các đơn vị
hành chính có biên giới rõ ràng, có thể xác định được diện tích và nhân
khẩu; đồng thời ra đời bằng các văn bản quyết định của chính quyền trung
ương và địa phương.
Các thôn, bản, tổ phố hiện nay cũng được quản lý chặt chẽ, đứng đầu
là tổ trưởng, trưởng thôn, trưởng bản, có diện tìch và nhân khẩu rõ ràng hơn
nữa lại trực thuộc xã phường, cho nên chúng tôi cũng tạm xếp vào địa danh
hành chình.

17

Footer Page
of 166.
Số hóa19
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 20 of 166.

1. 2. Phân loại địa danH
Hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các nhà ngôn ngữ học có

những cách phân loại khác nhau về địa danh. Chẳng hạn, G.P. Smolichnaja
và M.V. Gorbanevskij cho rằng địa danh có 4 loại: Phương danh (tên các địa
phương), sơn danh (tên núi gò đồi…), thuỷ danh (tên các dòng chảy, ao ngòi
sông, vũng), phố danh: (tên các đối tượng trong thành phố). Còn nhà khoa
học Nga A.V. Superanxkaia lại chia làm 7 loại: Phương danh, thuỷ danh, sơn
danh, phố danh, viên danh, lộ danh, đạo danh (tên các đường giao thông trên
đất, dưới đất, trên nước, trên không).
ở Việt Nam, Nguyễn Văn Âu quan niệm: “Phân loại địa danh là sự
phân chia địa danh thành các kiểu, nhóm khác nhau, dựa trên những đặc
tính cơ bản về địa lý cũng như về ngôn ngữ và lịch sử. [3, tr. 37]. Và ông đã
chia địa danh Việt Nam thành 2 loại: Địa danh tự nhiên và địa danh kinh tế –
xã hội, 7 kiểu: Thuỷ danh, lâm danh, sơn danh, làng xã, huyện thị, tỉnh,
thành phố, quốc gia và 12 dạng: Sông ngòi, hồ đầm, đồi núi, hải đảo, rừng
rú, truông - trảng, làng - xã, huyện - quận, thị trấn, tỉnh, thành phố, quốc
gia. Mỗi dạng lại có thể phân chia thành các dạng sông, ngòi, suối…Cách
phân loại này của tác giả nghiêng về tình dân gian, dễ tiếp thu song hơi sa
vào chi tiết, thiếu tình khái quát, đối tượng nghiên cứu và tên gọi đối tượng
nghiên cứu chưa được làm rõ.
Lê Trung Hoa phân loại địa danh dựa vào nguồn gốc địa danh. Cách
phân loại của ông dựa vào hai tiêu chì tình tự nhiên và không tự nhiên. Đây
là cách phân loại thường gặp và tương đối hợp lý, có tình bao quát. Ông
phân loại địa danh: Địa danh chỉ loại hính, địa danh chỉ công trính xây dựng,
địa danh hành chình, địa danh chỉ vùng.
Nguyễn Kiên Trường phân loại dựa trên tiêu chì mà Lê Trung Hoa
đưa ra nhưng tiếp tục chia nhỏ thành một bước nữa. Ông chia đối tượng tự

18

Footer Page
of 166.

Số hóa20
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 21 of 166.

nhiên thành 2 loại nhỏ: Các đối tượng sơn hệ và các đối tượng thuỷ hệ; đối
tượng nhân văn thành địa danh cư trú và địa danh chỉ công trính xây dựng.
Địa danh cư trú bao gồm: đơn vị cư trú tự nhiên, đơn vị hành chình, đường
phố. Địa danh chỉ công trính xây dựng bao gồm: Đơn vị hành chình, đường
phố và các đối tượng khác. Bên cạnh đó, Nguyễn Kiên Trường còn tiến hành
phân loại theo nguyên ngữ địa danh, theo chức năng giá trị của địa danh. [3],
[11], [20], [27], [31].
1.3. Đặc điểm của địa danh
Xét về phương diện ngôn ngữ họcX, nhín vào toàn bộ hệ thống định
danh một vùng đất, có thể thấy rõ các đặc điểm sau đây:
1.3.1. Địa danh là một hệ thống tên gọi rất đa dạng. Nếu so sánh với
nhân danh và vật danh thí hệ thống địa danh vừa đa dạng vừa phức tạp. Cấu
tạo của địa danh vừa có cấu tạo đơn vừa có cấu tạo phức (vừa có từ vừa có
cụm từ, vừa có danh từ vừa có danh ngữ). Trong cấu tạo đơn có địa danh
thuần Việt có địa danh vay mượn, có địa danh đơn tiết, có địa danh đa
tiết.Trong cấu tạo phức có cả ba quan hệ: Quan hệ đẳng lập, quan hệ chình
phụ, quan hệ chủ vị.
1.3.2. Địa danh thường diễn ra hiện tượng chuyển hoá.
Chuyển hoá là lấy tên gọi một đối tượng địa lý này để gọi một đối
tượng địa lý khác. Hiện tượng này có thể xảy ra các trường hợp như:
- Chuyển hoá trong nội bộ từng loại địa danh. Vì dụ:

Huyện Chợ Mới

-> Thị trấn Chợ Mới

- Chuyển hoá giữa các loại địa danh. Vì dụ:
Nà Lẹng (ruộng hạn) -> Thôn Nà Lẹng.
- Chuyển hoá từ địa danh vùng này sang địa danh vùng khác. Vì dụ:
Huyện Cẩm Giàng (Hải Dương) -> xã Cẩm Giàng (Bắc Kạn).
- Chuyển hoá nhân danh thành địa danh. Vì dụ:

19

Footer Page
of 166.
Số hóa21
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 22 of 166.

Chị Nguyễn Thị Minh Khai

-> phường Nguyễn Thị Minh Khai

1.3.3. Phương thức cấu tạo rất phong phú: Nghiên cứu các phương
thức cấu tạo định danh, ta thấy vừa tồn tại phương thức dựa vào đặc điểm
bản thân đối tượng để đặt tên (Thôn Đồng Luông - Đồng Rộng, thôn Nà

Đeng – ruộng đỏ, thôn Khuổi Ún – Suối ấm…); vừa dựa vào sự vật, yếu tố
có quan hệ chặt chẽ với đối tượng để đặt tên (Thôn Cây Thị, thôn Đèo Gió,
thôn Con Kiến…); lại tồn tại phương thức ghép các yếu tố Hán Việt để đặt
tên (huyện Ngân Sơn, xã Liêm Thuỷ, xã Cư Lễ…); dùng số đếm hoặc chữ
cái để đặt tên (tổ dân phố 1t, Khu A…) và cách ghép giữa yếu tố Hán Việt
với số đếm hoặc chữ cái (thôn Thạch Ngoã 1, bản Đồn 1, tổ dân phố 1A, tổ
dân phố 1B…)
1.4. Các phương diện nghiên cứu địa danh
Đối tượng nghiên cứu của địa danh học rất rộng. Nói đến danh học§,
người ta thường thiết lập một danh sách những khái niệm có liên quan như:
Tên người /nhân danh, tên các hành tinh, tên gọi các tổ chức chình trị - xã
hội, tên các tộc người, tên các nghiệp đoàn, tên các con đường, tên gọi các
con sông, dòng suối, tên gọi các con vật, tên gọi các đấng siêu nhiên, thần
linh, tên gọi các quả đồi, ngọn núi, tên các công trính xây dựng để ở, tên
người gọi theo dòng bố, tên gọi theo dòng mẹ, tên người gọi theo con cháu
v..v… Bộ môn khoa học nghiên cứu về tên gọi như vậy được gọi là danh
học. Các địa danh cũng chỉ là một trong nhiều đối tượng nghiên cứu của
khoa học danh học mà thôi. Địa danh học cũng là một bộ môn trong danh
học, được đặt trong thế phân biệt với nhân danh học. Đặt trong khung cảnh
của ngôn ngữ học, địa danh học nằm trong lòng bộ môn từ vựng học, ví đối
tượng nghiên cứu của địa danh học chình là các từ ngữ được sử dụng để đặt
tên, gọi tên.

20

Footer Page
of 166.
Số hóa22
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





Header Page 23 of 166.

Địa danh học là một bộ môn ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu về
nguồn gốc, cấu tạo, ngữ nghĩa, sự biến đổi, sự lan toả, phân bố của địa danh.
Người chuyên nghiên cứu về địa danh được gọi là nhà địa danh học.
Như vậy một nhà địa danh học thường phải làm, nghiên cứu giải quyết
những công việc chình sau đây:
- Tím hiểu nguồn gốc lịch sử của địa danh.
- Tím hiểu ngữ nghĩa của địa danh.
- Tím hiểu các mô hính địa danh, các phương thức quá trính tạo địa
danh.
- Tím hiểu sự nảy sinh, lan toả, sự phân bố của địa danh qua các không
gian, các khoảng thời gian khác nhau.
- Chuẩn hoá các địa danh.
Trong những vấn đề lớn trên, người ta lại chia nhỏ thành nhiều vấn
nhau để nghiên cứu.
Về quan điểm tìn hiệu học, địa danh có tình lì do. Vậy, vấn đề quan
trọng là cội nguyên, ngữ nghĩa của địa danh. Điều này, ta thường thấy trong
định nghĩa địa danh học: Là bộ môn nghiên cứu về nguồn gốc, ngữ nghĩa của
địa danh.
Dựa trên hướng nghiên cứu, người ta chia ra các bộ phận nhỏ như:
Ngôn ngữ địa danh học, địa lý địa danh học, lịch sử địa danh học, đối chiếu
địa danh học…Ngôn ngữ địa danh học chú ý nhiều đến những diễn tiến về
mặt ngôn ngữ của địa danh, đặc điểm cấu tạo ngôn ngữ của địa danh, ngữ
nghĩa của địa danh, các mô hính cấu tạo của địa danh…; địa lý địa danh học
chú ý nhiều đến sự phân bố về địa danh, sự liên quan giữa sự phân bố của địa

danh đối với các vùng, các đối tượng không gian địa lý…; lịch sử địa danh
học chú ý nhiều đến các quá trính hính thành địa danh, sự phát triển của địa
danh, sự phân bố của địa danh có liên quan đến các tộc người, đối chiếu địa

21

Footer Page
of 166.
Số hóa23
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 24 of 166.

danh học nghiêng về sự đối sánh để tím ra những nét tương đồng và dị biệt
giữa hệ thống địa danh của tộc người này, dân tộc này, đất nước này với tộc
người khác, dân tộc khác, đất nước khác, tím hiểu tình chất nhân học trong
địa danh.
Ngoài ra, người ta có thể chia địa danh thành địa danh học lý thuyết,
địa danh học mô tả.
1.5. Những nét chính về địa bàn liên quan đến địa danh hành
chính tỉnh Bắc Kạn
1.5.1. Về địa lý
Bắc Kạn là một tỉnh vùng núi phìa bắc nằm ở trung tâm căn cứ địa
cách mạng, phìa Bắc giáp Cao Bằng, phìa Nam giáp Thái Nguyên, phìa
Đông giáp Lạng Sơn, phìa Tây giáp Tuyên Quang, một góc phìa Tây Bắc
gần kề với Hà Giang.

Về vị trì địa lýV, Bắc Kạn có giới hạn từ vĩ độ 22°,44‟B đến vĩ độ
21‟48‟B, từ kinh độ 106°,14‟Đ đến 105°,26‟Đ. Như vậy từ Bắc xuống Nam
Bắc Kạn có chiều dài 56 phút vĩ độ, từ đông sang tây có chiều rộng 48 phút
kinhđộ.
Bắc Kạn có diện tìch 4857,21km2, gồm 7 huyện và một thị xã (Chợ Mới,
Bạch Thông, Chợ Đồn, Na Rí, Ngân Sơn, Ba Bể và thị xã Bắc Kạn), 8 thị
trấn, 116 xã phường, 1388 thôn bản, tổ phố.
Địa hính Bắc Kạn là địa hính miền núi cao, cao hơn các tỉnh xung
quanh và bị chi phối bởi các mạch núi cánh cung kéo dài từ Bắc xuống Nam
ở hai phìa Tây và Đông của tỉnh: Cánh cung Ngân Sơn nối liền một dải, chạy
suốt từ Nậm Quét (Cao Bằng) dọc theo phìa Đông của tỉnh Bắc Kạn đến
Lang Hìt (phìa Bắc tỉnh Thái Nguyên) uốn thành hính cánh cung rõ rệt theo
hướng Bắc Nam. Cánh cung Ngân Sơn đóng vai trò quan trọng trong địa
hính ví đây là dãy núi chia nước giữa lưu vực các sông chảy sang Trung

22

Footer Page
of 166.
Số hóa24
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Header Page 25 of 166.

Quốc và các sông chảy xuống đồng bằng Bắc Bộ. Ngân Sơn cũng là bức
bính phong chắn gió mùa đông bắc. Hệ thống cánh cung sông Gâm kéo dài

dọc theo phìa Tây của tỉnh. Cấu tạo chủ yếu bằng đá thạch anh, đá cát kết, đá
vôi, có lớp dày nằm trên nền đá kết tinh rất cổ…Tạo nên các đỉnh núi cao
thấp khác nhau. Thỉnh thoảng lại bắt gặp những khối đá vôi màu sẫm, hính
dáng kí dị, đường nét sắc sảo, chình đá vôi đã góp phần làm cho vùng hồ Ba
Bể trở thành một thắng cảnh nổi tiếng trong cả nước.
Là địa bàn vùng cao ở trung tâm vùng núi phìa Đông Bắc Bộ, lại có
địa hính dạng cánh cung mở ra đón gió nên Bắc Kạn là tỉnh tiếp nhận sớm
nhất và chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của gió mùa Đông Bắc ở nước ta. Bắc
Kạn là tỉnh nằm trong khu vực khì hậu nhiệt đới gió mùa, tuần hoàn theo bốn
mùa rõ rệt, nhưng nổi bật nhất là mùa hạ nóng nực, nắng lắm mưa nhiều và
mùa đông khô hanh lạnh lẽo bởi gió mùa Đông Bắc.
Đồi núi Bắc Kạn trập trùng, chiếm 80% diện tìch toàn tỉnh. Độ cao
trung bính so với mặt biển là 500m. Mật độ sông suối dày đặc, có ảnh hưởng
đến sự thông thương kinh tế và giao lưu văn hoá dẫn đến sự giao thoa về
ngôn ngữ. [21], [22], [26], [28].
1.5.2. Về lịch sử
Theo “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, vào thời vua Hùng lập quốc,
vùng đất Cao Bằng, Bắc Kạn thuộc bộ Vũ Định (một trong 15 bộ của nước
Văn Lang, Âu Lạc), phìa Đông giáp bộ Lục Hải (vùng Lạng sơn), phìa Tây
giáp bộ Tân Hưng (vùng Hà Giang, Tuyên Quang). Nguyễn Trãi xác định
“Vũ Định là phên giậu thứ hai về phương Bắc”.
Qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc - thời thuộc Hán, Bắc Kạn thuộc
vào quận Giao Chỉ, sang đời nhà Đường (VIII-IX-X) Bắc Kạn là vùng đất
thuộc Châu Long sau đó thuộc châu Võ Nga.

23

Footer Page
of 166.
Số hóa25

bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




×