Luận văn thạc sĩ
Đặc điểm địa danh
Quảng Nam
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
DẪN
LUẬN
1
1. Lý do chọn đề
tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn
đề 3
2.1. Lịch sử nghiên cứu địa danh ở Việt
Nam 3
2.2. Lịch sử nghiên cứu địa danh ở Quảng
Nam 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu 9
3.1. Đối tượng nghiên
cứu 9
3.2. Phạm vi nghiên
cứu 9
4. Mục đích nghiên
cứu 9
5. Phương pháp nghiên
cứu 10
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại, miêu
tả 10
5.2. Phương pháp so sánh, đối
chiếu 10
5.3. Phương pháp điền
dã 10
5.4. Phương pháp khảo sát bản
đồ 10
6. Bố cục của luận
văn 11
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ NHỮNG NÉT SƠ LƯỢC VỀ QUẢNG
NAM 12
1.1. Cơ sở lý
thuyết 12
1.1.1. Khái niệm địa
danh 12
1.1.2. Đối tượng nghiên cứu và vị trí của địa danh
học 15
1.1.3. Phân loại địa
danh 16
1.2. Những nét sơ lược về Quảng
Nam 21
1.2.1. Vài nét về lịch sử và địa lý hành chính Quảng
Nam 21
1.2.2. Tổng quan về Quảng
Nam 33
1.3. Tiểu
kết
. 46
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM VỀ MẶT CẤU TẠO CỦA ĐỊA DANH QUẢNG
NAM 48
2.1. Địa danh Quảng Nam: kết quả thu thập và phân
loại 48
2.1.1. Phân loại theo loại
hình 48
2.1.2. Phân loại theo nguồn gốc ngữ
nguyên 49
2.1.3. Phân loại theo số lượng âm
tiết 50
2.2. Các phương thức cấu thành địa danh Quảng
Nam 51
2.2.1. Phương thức tự
tạo 53
2.2.2. Phương thức chuyển
hoá 63
2.3. Đặc điểm cấu tạo địa danh Quảng
Nam 70
2.3.1. Cấu tạo
đơn 70
2.3.2. Cấu tạo
phức 71
2.4. Vấn đề danh từ chung và thành tố chung trong địa danh Quảng
Nam 74
2.4.1. Danh từ chung và tên
riêng 74
2.4.2. Danh từ chung và thành tố
chung 76
2.4.3. Một số danh từ chung và thành tố chung trong địa danh Quảng
Nam 77
2.5. Tiểu
kết
. 79
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VỀ MẶT CHUYỂN BIẾN CỦA ĐỊA DANH
QUẢNG NAM 81
3.1. Các nguyên nhân làm biến đổi địa
danh 81
3.1.1. Nguyên nhân xã
hội 81
3.1.2. Nguyên nhân ngôn
ngữ 87
3.2. Đặc điểm chuyển biến của các loại địa
danh 90
3.2.1. Đặc điểm chuyển biến của địa danh chỉ địa hình thiên
nhiên 90
3.2.2. Đặc điểm chuyển biến của địa danh hành
chính 93
3.2.3. Đặc điểm chuyển biến của địa danh chỉ công trình xây
dựng 107
3.3. Tiểu
kết
111
Chương 4: ĐẶC ĐIỂM VỀ NGUỒN GỐC – Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ PHẢN
ÁNH HIỆN THỰC CỦA ĐỊA DANH QUẢNG
NAM 113
4.1. Đặc điểm về nguồn gốc – ý
nghĩa 113
4.1.1. Một số địa danh có nguồn gốc rõ
ràng 113
4.1.2. Một số địa danh có nguồn gốc còn tranh
cãi 117
4.2. Giá trị phản ánh hiện
thực 119
4.2.1. Giá trị phản ánh về mặt lịch
sử 119
4.2.2. Giá trị phản ánh về mặt địa lý tự
nhiên 125
4.2.3. Giá trị phản ánh về mặt kinh
tế 127
4.2.4. Giá trị phản ánh về mặt văn
hoá 130
4.2.5. Giá trị phản ánh về mặt ngôn
ngữ 133
4.3. Tiểu
kết
136
KẾT
LUẬN
138
TÀI LIỆU THAM
KHẢO 141
PHỤ
LỤC
147
Chương 4
ĐẶC ĐIỂM VỀ NGUỒN GỐC – Ý NGHĨA
VÀ GIÁ TRỊ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC CỦA ĐỊA DANH QUẢNG
NAM
4.1. Đặc điểm về nguồn gốc – ý nghĩa
4.1.1. Một số địa danh có nguồn gốc rõ ràng
4.1.1.1. Chùa Cầu
Nằm ở tiếp giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú (HA),
Chùa Cầu (hay còn gọi là chùa Nhật Bản) là công trình kiến trúc do các
thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Hội An xây dựng vào khoảng giữa thế
kỷ XVI. Chùa Cầu có dáng hình chữ Công, mặt cầu bằng ván gỗ cong vòng ở
giữa, bắt qua con lạch thông ra sông Hoài. Cầu có mái che uốn cong mềm
mại và được chạm trổ nhiều hoạ tiết tinh xảo. Năm 1717, chúa Nguyễn Phúc
Chu trong một lần tuần du tỉnh Quảng Nam, đã đến thăm Hội An, nhân đó đã
đổi tên chiếc cầu này thành tên chữ “Lai Viễn Kiều” (có nghĩa là cầu của
khách phương xa đến). Ba chữ này được chạm nổi trên cửa chính của cầu.
Trên sườn cầu có một ngôi miếu nhỏ thờ thần Bắc Đế Trấn Vũ – vị thần
chuyên trấn trị phong ba, lũ lụt theo tín ngưỡng của người Trung Hoa. Ở hai
đầu cầu có đặt hai nhóm tượng khỉ và chó bằng gỗ ngồi chầu.
Lai lịch của Chùa Cầu gắn liền với truyền thuyết về con Cù – một loài thuỷ
quái có đầu nằm ở Ấn Độ, mình ở Việt Nam và phần đuôi ở tận Nhật Bản.
Mỗi lần Cù cựa quậy là gây lũ lụt, động đất ở những nơi này. Vì vậy, ngoài
việc xây cầu để phục vụ giao thông, người xưa còn có hàm ý trấn yểm loài
thuỷ quái, giữ cho cuộc sống yên bình.
Chùa Cầu là một tài sản vô giá và đã được chọn làm biểu tượng của Hội An.
4.1.1.2. Bằng Than
Dân gian quen gọi là “Bàn Than” và cả trên một số sách báo cũng thường
viết là “Bàn Than”, với cách giải thích theo kiểu trực quan là hòn núi có đỉnh
bằng phẳng như mặt “bàn” và màu đen như than. Thực ra, đúng tên là “Bằng
Than”. Trong ngôn ngữ địa phương trước đây đã xảy ra hiện tượng từ “bằng”
vốn là tính từ được dùng như danh từ, chẳng hạn như: Bằng Thùng là tên một
ngọn núi ở phía tây huyện Quế Sơn giống như một cái thùng úp ngược; Bằng
Võ là tên một khu đất ngày xưa nghĩa quân của Nguyễn Duy Hiệu hay tập võ
nghệ; ở huyện Duy Xuyên có núi gọi là Hòn Bằng; ở miền tây Quảng Ngãi
có địa danh Bằng Chò là đỉnh núi bằng phẳng có nhiều cây chò mọc. [54,
tr.828]
Bằng Than là một hòn núi thấp, nằm sát biển, thuộc xã Tam Hải (NT), dài
khoảng 2km, cao 40m, trên đỉnh bằng phẳng, rộng khoảng 20ha, phủ đầy một
loại cỏ thân cứng và những cây dại như chà là, sim, mua. Thời kháng chiến
chống Mỹ, trực thăng của quân đội Mỹ nhiều lần đổ quân trên hòn Bằng
Than trong các cuộc càn quét. Điều đáng chú ý là ở mặt phía đông và đông
nam, vách đá cao dựng đứng màu đen như than. Từ ngoài biển nhìn vào, ta
thấy có một số hang động do sự xâm thực của sóng biển lâu ngày và những
bãi cát lô nhô nhiều hòn lớn nhỏ cùng những hố ẩn hiện trong những tia nước
và bọt biển trắng xoá trên cái phông màu đen của đá kéo dài đến hút tầm mắt.
Theo hình dáng tự nhiên và qua trí tưởng tượng phong phú của người dân địa
phương, những vách đá, hố nước nơi đây được đặt tên như: hố Cột Tàu, khe
Bà Che, hố Đùng, …
Về thắng cảnh này, sách Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Quảng Nam viết: “Núi
Phú Xuân có tên là núi Bàn Than, ở cách huyện Hà Đông 50 dặm về phía
đông nam, nằm lề bên cửa biển Đại Áp ở phía bắc; mạch núi nguyên từ núi
Chủ Sơn kéo về, chia ra quanh co qua các xã Hoà Vấn, Phú Hoà đến thôn
Phú Xuân Hạ thì nổi vọt lên một ngọn núi, sắc đá đen như than, đứng xa thấy
đỉnh núi bằng màu đen như cái mâm than, nên gọi tên như thế”.
4.1.1.3. Bồ Bồ
Núi đất cao 55m so với mực nước biển, đỉnh tương đối bằng phẳng, rộng
khoảng 1,5km2, làm ranh giới giữa hai xã Điện Tiến và Điện Thọ (ĐB).
Về nguồn gốc địa danh Bồ Bồ được giải thích như sau: Nguyên đây là đỉnh
núi cao nhất của cụm “núi đất” dài hơn 2km thuộc làng Đức Ký. Sau “Hiệp
ước phòng thủ chung” ở Đông Dương giữa Pháp và Nhật được ký kết (23-7-
1941), quân Nhật được tự do đóng quân ở Đông Dương. Trên đất Điện Bàn,
Nhật xây dựng căn cứ dã chiến để bảo vệ Đà Nẵng, thường được gọi là “trảng
Nhật”. Cùng thời gian này, quân Nhật xây trên đỉnh cao của núi đất một trạm
bằng gạch, mỗi bề 5x5m, cao 0,5m, ở giữa có cây trụ, bên trên đặt một vật
hình tròn bằng gỗ bọc phên tre bên ngoài, ở xa trông giống cái bồ đựng thóc,
sơn nửa đỏ nửa trắng để làm dấu hiệu dẫn đường cho máy bay Nhật. Người
dân bằng cảm quan trực tiếp của mình, gọi đó là “bồ bồ”. Về sau, khi quân
Nhật không dùng trạm này nữa, vật “giống cái bồ” bị mục nát, chỉ còn lại địa
danh Bồ Bồ.
Năm 1949, giặc Pháp đã đóng một đồn lớn trên núi Bồ Bồ, nhằm án ngữ mặt
trận phía nam, bảo vệ Đà Nẵng. Ngày 19-7-1954, sau hai giờ chiến đấu, quân
ta đã tiêu diệt cứ điểm Bồ Bồ, diệt 100 tên, bắt sống 300 tên, trong đó có một
đại tá. [54, tr.1645]
Sau ngày toàn thắng, một tượng đài chiến thắng đã được xây dựng trên đỉnh
Bồ Bồ.
4.1.1.4. Ông Đốc
Địa danh này gắn liền với trận đánh “có một không hai” của nghĩa quân
Quảng Nam trong thời kháng chiến chống Pháp. Câu chuyện như sau:
Để trấn an tinh thần cho quan Khâm sai, đồng thời thị uy với nghĩa quân
vùng Phú Kỳ (làng Gò Nổi – ĐB), quân Pháp đã cho bảy ca nô đầy lính
tráng, súng ống, ngược sông Vĩnh Điện lên neo đậu tại Bãi Chài thuộc làng
Vân Ly (ĐB).
Từ trạm tiền tiêu của nghĩa quân ở Phong Thử do đội Côn và đội Thoá trấn
giữ bảo vệ đại đồn Bình Yên, địa phận huyện Quế Sơn. Tán tương Nghĩa hội
Trần Huy liền cho mời bang tá Nguyễn Đình Tán từ đồn Phong Thử lên khẩn
bàn. Kế hoạch tập kích được vạch ra tỉ mỉ. Theo đó, nghĩa quân chia làm ba
mặt trận tấn công vào Bãi Chài, một đội xung kích sẽ từ bến đò đánh ra.
Tán tương đồn Bình Yên - Trần Huy - cho người lên thượng lưu sông Thu
Bồn đóng bè bằng hom dâu thả trôi xuống Bãi Chài. Đây là loại bè có điều
khiển bằng cách gióng các sợi mây hai bên, thả trôi ngầm dưới nước để kéo
bè đi. Đến một cự li nhất định, gần mục tiêu, bè mới được bứt dây cho lao
tới. Lúc phát hiện được bè, sẽ không còn cách nào tránh kịp. Trên bè, nghĩa
quân đặt nhiều trái phá với liều thuốc nổ cực mạnh, nhằm công phá đội
xuồng máy của giặc đang neo đậu tại Bãi Chài.
Đúng giờ quy định, các chiếc bè theo con nước đổ xuôi rất mạnh được bứt
dây, phóng vun vút vào đám ca nô. Bọn giặc Pháp thấy thế, ơi ới gọi nhau lấy
bất cứ thứ gì có được nhằm đẩy bè ra xa. Nhưng đã quá chậm, các chiếc bè
công kềnh cứ thế lao tới, đâm sầm vào đội xuồng máy của giặc. Một loạt
tiếng nổ long trời lở đất làm cho các chiếc xuồng tung toé, ba trong bảy chiếc
lật úp xuống sông. Tức thì ba mặt, trên nước và đất liền, nghĩa quân theo
quân lệnh “hễ thấy tàu, thuyền có cắm cờ ba sắc cứ bắn xả vào” đã khai hoả
vào mục tiêu và dùng câu liêm móc đầu bọn giặc nhào xuống nước, hoặc
dùng giáo đâm giặc.
Về phía nghĩa quân, đốc binh họ Bùi hy sinh. Để tưởng nhớ ông, nhân dân
gọi nơi ông ngã xuống là bến đò Ông Đốc. Địa danh ghi lại một sự kiện lịch
sử, thể hiện lòng biết ơn, tôn kính đối với vị anh hùng họ Bùi. Ngày nay, bến
đò Ông Đốc ở thôn Vân Ly xã Điện Quang huyện Điện Bàn.
4.1.2. Một số địa danh có nguồn gốc còn tranh cãi
4.1.2.1. Faifo
Hội An trong lịch sử có nhiều tên gọi khác nhau: Hải Phố, Hoài Phố, Hội
Phố, Hoa Phố, Haiso, Faifo, … vốn là một thương cảng nằm bên bờ con sông
lớn nhất tỉnh, đã có một thời kỳ phát triển phát đạt nhất khu vực Đông Nam
Á. Nơi này thu hút thuyền buôn nhiều nước Đông Nam Á và nhiều nước
phương Tây đến đây để trao đổi, mua bán hàng hoá. Về địa danh Faifo: từ
Faifo lần đầu tiên xuất hiện trong hồi ký của nhà truyền giáo người Ý
Christoforo Borri đã từng sống ở Hội An và Đàng Trong từ năm 1618 đến
năm 1621. Cách giải thích nguồn gốc từ Faifo có nhiều thuyết khác nhau:
1- Faifo từ Hải Phố mà ra (theo Chapuis).
2- Faifo từ Hội An phố mà ra (theo Trần Kinh Hoà).
3- Faifo từ Hoa Phố mà ra (theo Châu Phi Cơ).
4- Faifo từ Hoài Phố mà ra (theo Phan Khoang).
5- Ngoài ra, có người cho rằng từ Faifo phát xuất từ cách hỏi tên đường của
người phương Tây đến Hội An hồi đó “Có phải phố không?”, người địa
phương trả lời “Phải phố.”, do không hiểu tiếng Việt nên “phải phố” được
chuyển thành Faifo.
Trong các cách giải thích trên, có lẽ Faifo từ Hoài Phố (phố chợ trên sông
Hoài – tên gọi của sông Thu Bồn ngày nay) có sức thuyết phục hơn cả.
Từ đầu thế kỷ XX, trong các văn bản chính quyền thực dân thường dùng từ
Faifo thay cho từ Hội An. Còn trong ngôn ngữ sinh hoạt thường ngày, người
dân hay dùng từ phố để chỉ Hội An. [54, tr.1661]
4.1.2.2. Chu Lai
Vùng đất ở huyện Núi Thành. Nơi đây là khu kinh tế mở được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt thành lập Ban chỉ đạo xây dựng theo Quyết định số
204/1999 ngày 18-10-1999 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là khu kinh tế mở
đầu tiên của Việt Nam, có diện tích rộng 150km2. Địa danh này có hai cách lí
giải khác nhau:
1- Có người cho rằng địa danh này đã có từ thời nhà Nguyễn.
2- Vào năm 1965, khi quân Mỹ đổ bộ vào vùng này đã cho xây dựng ở đây
một sân bay, tên sân bay được đặt theo tháng xây dựng “July” (tháng 7). Chu
Lai do biến âm từ July mà ra. (Sân bay xây dựng trên vùng đất cát xã Tam
Nghĩa (NT), nằm phía đông đường sắt và quốc lộ 1A, có đường băng bằng bê
tông dài 3.050m, rộng 45m và một đường băng phụ dài 2.400m, rộng 30m.)
Cách lí giải thứ hai có sức thuyết phục hơn, vì những nguyên nhân sau:
1- Nguyên văn câu vè “Châu Lai, Châu Ổ bao xa” thực ra là “Sa Cần, Châu
Ổ bao xa”.
2- Nếu địa danh này ra đời dưới thời nhà Nguyễn thì sẽ được gọi tên là Châu
Lai (giống như cách gọi Châu Ổ - Quảng Ngãi, Châu Thành, …), vì kiêng
huý chúa Nguyễn Phúc Chu nên không bao giờ người dân gọi là Chu Lai.
3- Địa danh Chu Lai xuất hiện từ thời chống Mỹ (1965). Trong danh mục
làng xã trước đây không hề có địa danh này. (cf. Lê Trung Hoa) [37, tr.103]
4.1.2.3. Thạnh Mỹ
Vùng đất là nơi hai con sông Đắc My (từ Phước Sơn chảy về) và sông Thanh
(từ biên giới Lào về) gặp nhau để cùng đổ vào sông Bung. Nhân dân nơi đây
lấy từ Thanh ghép vào từ My thành tên gọi vùng đất: Thanh My (theo cách
gọi của đồng bào Cơ Tu).
Lại có ý kiến cho rằng: vùng đất Thạnh Mỹ hiện nay là vùng đất đá vôi (lớn
nhất ở Quảng Nam), có nhiều hang động, nhiều tảng đá rất đẹp nên được gọi
là Thạch Mỹ (từ gốc Hán Việt: vẻ đẹp của đá). Đây là cách gọi của người
Kinh.
Ngày nay, do bị biến âm nên gọi chệch đi thành Thạnh Mỹ (cf. Nguyễn Tri
Hùng). Thạnh Mỹ hiện nay là thị trấn của huyện Nam Giang.
4.1.2.4. Tr’Hy
Sau khi Gia Long (Nguyễn Ánh) lên ngôi, lập ra triều nhà Nguyễn, vị vua
này tiến hành truy sát binh lính của triều Tây Sơn – Nguyễn Huệ. Một số
người dân vùng Đại Lãnh (ĐL) phải lánh nạn lên núi, cư trú tại vùng của
đồng bào dân tộc thiểu số. Tại nơi đây, họ được đồng bào Cơ Tu che chở,
nuôi nấng và trở thành dân làng. Những người Kinh chạy nạn này thường kể
cho đồng bào nghe việc làm tốt đẹp của quan quân nhà Tây Sơn là lấy đất
người giàu chia cho dân nghèo và thường nói câu “Tây Sơn hy hữu” (ít có
như Tây Sơn). Chính vì câu chuyện này mà người dân tại đây lấy luôn cụm
từ “Tây Sơn hy hữu” để đặt tên cho làng mình. Vì cái tên quá dài nên được
rút gọn lại là Tây Hy, về sau biến âm thành Tr’Hy. (cf. Nguyễn Tri Hùng)
Hiện nay, Tr’Hy là một xã của huyện Tây Giang, nằm giáp với nước bạn
Lào.
4.2. Giá trị phản ánh hiện thực
Địa danh ra đời trong những điều kiện lịch sử, địa lý nhất định. Địa danh
chứa đựng những thông tin về chính trị, lịch sử, văn hoá, xã hội. Những
thông tin đó cho ta biết được đặc điểm của vùng đất cư trú. Cũng giống như
địa danh trên thế giới, địa danh Việt Nam, địa danh Quảng Nam cũng thế.
Khi nghiên cứu những giá trị phản ánh hiện thực của địa danh, ta có thể tìm
ra những ý nghĩa về nhiều mặt của đời sống xã hội được thể hiện thông qua
địa danh. Không sai khi có người cho rằng địa danh giống như “vật hoá
thạch”, hay người khác lại cho rằng đó là những “đài kỷ niệm”. Trải qua lịch
sử hình thành gần 600 năm, địa danh Quảng Nam thể hiện rõ những giá trị
hiện thực như vậy.
4.2.1. Giá trị phản ánh về mặt lịch sử
Quảng Nam là vùng đất mang nhiều biến cố lịch sử. Có nhiều vùng đất, qua
những biến thiên của lịch sử, đã trở thành phế tích, nằm sâu dưới lớp phù sa
cũ và mới nhưng lịch sử hình thành và phát triển của nó vẫn tồn tại trong tên
của chính nó. Bên cạnh những di tích lịch sử cụ thể, địa danh cũng góp phần
ghi lại những thông tin quan trọng khi muốn tìm hiểu về lịch sử.
4.2.1.1. Phản ánh quá trình di trú
Xứ Quảng vốn là địa bàn cư trú của người Chăm từ khoảng thế kỷ thứ II. Nơi
đây đã hình thành nên vương quốc với những tên gọi khác nhau như Lâm Ấp,
Chiêm Thành, … Quảng Nam là nơi đặt kinh đô Sinhapura (kinh thành Sư
Tử), nay là vùng Trà Kiệu (DX) từ thế kỷ thứ IV đến giữa thế kỷ thứ VIII, và
cũng là nơi đặt kinh đô Indrapura (kinh thành Sấm Sét) tại khu vực Đồng
Dương (TB) từ khoảng giữa thế kỷ thứ IX đến cuối thế kỷ thứ X. Chính vì
thế, ở Quảng Nam có không ít những làng Việt đan xen với làng Chăm hoặc
làng Việt được hình thành ngay trên phế tích của làng Chăm. Đó là những
làng có nhiều công trình như đền, chùa, miếu, … được xây dựng với những
vật liệu đá cũ như ở Chiêm Sơn (DX), Trà Kiệu (DX), làng Thanh Chiêm
(ĐB), Cù Lao Chàm (HA), Đồng Dương (TB), Hương Quế (QS), … Dấu ấn
Chămpa còn lưu lại khá rõ ở các tên làng đã được Việt hoá như: Trà Quế
(HA), Trà Nhiêu (DX), Trà Châu (DX), Trà Đoả (TB), Thi Lại (DX), …
Những cư dân đầu tiên đến định cư, mở đất ở Trà Kiệu là 13 tráng binh quê
gốc Thanh Hoá và Nghệ An trong đội quân bình Chiêm của vua Lê Thánh
Tông được phân công ở lại để tổ chức khai hoang, lập làng. Chính 13 người
này là 13 vị thuỷ tổ của làng Ngũ Xá Trà Kiệu (DX), về sau chia thành 5
làng: Trà Kiệu Thượng, Trà Kiệu Đông, Trà Kiệu Tây, Trà Kiệu Nam, Trà
Kiệu Trung.
Minh Hương (HA) là địa danh thể hiện rõ ràng nguồn gốc những cư dân đầu
tiên của làng. Cư dân ở đây chủ yếu là người Hoa, họ chính là lưu dân nhà
Minh (Trung Quốc), chạy sang cư trú ở Hội An để tránh sự truy bắt của quân
Thanh. Được sự cho phép của chúa Nguyễn, họ đã định cư tại nơi đây và lấy
tên Minh Hương làm tên làng.
Quá trình cộng cư của người Việt, người Chăm và người Hoa trên đất Quảng
Nam đã được thể hiện trong sách Ô Châu cận lục khi miêu tả đời sống của
dân Điện Bàn (được hiểu là nửa tỉnh phía bắc Quảng Nam lúc bấy giờ) vào
giữa thế kỷ XVI như sau: “Dân lấy thóc làm giàu, nhà nông dùng trâu đạp
lúa; xe tiện chuyên chở đường bộ, ghe thuyền thuận lợi đường sông. Vườn
Mạc Xuyên trồng lắm hoa hồng, người Lang Châu dệt nhiều lụa trắng… Phụ
nữ mặc quần vải Chiêm, đàn ông tay cầm quạt Tàu…”.
Một trường hợp khá đặc biệt của một tập thể lưu dân gồm 33 người quê
huyện Nghi Lộc (tỉnh Nghệ An) vào Quảng Nam thế kỷ XVI, lập ra bốn làng
ở phía nam chân núi Hòn Tàu. Để ghi nhớ quê gốc, họ đặt tên ba làng lấy từ
đầu là “Nghi”, đó là các làng Nghi Thượng, Nghi Hạ, Nghi Trung và một
làng lấy từ cuối là “Lộc”, làng Lộc Đại. Cả bốn địa danh này nay là bốn thôn
của xã Quế Hiệp (QS).
Ở huyện Quế Sơn còn có một trường hợp khác, đó là địa danh Đức Giáo.
Đức Giáo nguyên là tên của một làng ở Phú Xuân (Thuận Hoá) nơi có nhiều
người chuyên nghề hát tuồng. Vào tháng 4 năm Ất Sửu (1805), khi vua Gia
Long bắt đầu xây dựng kinh thành Phú Xuân thì Đức Giáo nằm trong diện
giải toả. Thế là phần lớn dân Đức Giáo vào Quảng Nam, đến định cư tại làng
Khánh Đức (nay là một thôn thuộc xã Quế Hiệp – QS). Tuy ở địa phận
Khánh Đức nhưng nhóm dân di cư này vẫn lập một làng riêng và giữ tên làng
cũ là Đức Giáo. Làng này đặc biệt ở chỗ “hữu đinh vô điền”, tức là có dân mà
không có ruộng đất. Dân Đức Giáo vẫn tiếp tục giữ nguyên nghề cũ của mình
là hát tuồng, do đó mới có câu phổ biến trong vùng là “Đức Giáo vô địa lập
chuỳ, dĩ xướng ca vi nghệ” (Đức Giáo không có đất cắm dùi, chỉ lấy việc
xướng ca làm nghề vui sống) [54, tr.1093]. Đức Giáo là một trong những cái
nôi đã khai sinh ra nghệ thuật hát bội đặc sắc của Quảng Nam.
Qua tìm hiểu của chúng tôi, một số địa danh có nguồn gốc dân tộc thiểu số ở
Quảng Nam cũng phản ánh quá trình cư trú của dân tộc họ. Khi những người
Ve chuyển từ nước Lào về huyện Nam Giang, họ vẫn tiếp tục lấy tên làng cũ
để đặt tên cho làng họ đến cư trú, như: làng Đắc Pring (NG), làng Đắc Pre
(NG). Hay trường hợp đồng bào Cơ Tu dù đã chuyển đến sinh sống tại huyện
Tây Giang nhưng vẫn lấy tên ngọn núi ở quê cũ (nước Lào) để đặt tên cho xã
mới, đó là xã Bhalêê (TG).
Trường hợp khá thú vị khi chúng tôi tìm hiểu về huyện Phước Sơn. Ở xã
Phước Xuân (PS) có hai thôn là Lao Đu và Lao Mưng, đây là hai thôn tập
trung nhiều dân tộc Giẻ triêng sinh sống. Về nguồn gốc địa danh của hai thôn
này được giải thích như sau: trước đây, những người Giẻ triêng đầu tiên sống
trong hai thôn này vốn là người cùng một làng ở huyện Đắc Glây (tỉnh Kon
Tum). Khi quyết định chuyển cư về Phước Sơn họ tiến hành chia dân, tách
thành hai nhóm, số dân trong hai nhóm không đều nhau. Khi đến Phước Sơn,
họ lập hai làng mới, làng đi ít dân hơn gọi là làng La Đu (“La” có nghĩa là
“đi”, “Đu” có nghĩa là “ít”), làng đi nhiều dân hơn gọi là làng La Mâng
(“Mâng” có nghĩa là “nhiều”). Về sau tên làng bị biến âm và được gọi là Lao
Đu, Lao Mưng như hiện nay. (cf. Nguyễn Tri Hùng)
Qua những ví dụ như trên, chúng ta có thể khẳng định rằng, chính địa danh là
nơi phản ánh quá trình di trú, là “cái nôi” lưu giữ nguồn gốc của con người
sống trên vùng đất hiện tại, là yếu tố quan trọng để tìm hiểu nguồn cội xa
xưa.
4.2.1.2. Phản ánh sự kiện, biến cố lịch sử
Như mọi danh từ, danh ngữ chung, địa danh có chức năng định danh sự vật.
Đó là đứng trên quan điểm đồng đại. Nếu đứng trên quan điểm lịch đại, địa
danh có chức năng bảo tồn. Rất nhiều những biến cố chính trị, lịch sử được
lưu giữ trong địa danh.
Đối với vùng đất Quảng Nam, năm 1976 là mốc khởi đầu cho quá trình
nghiên cứu văn hoá Sa Huỳnh với cuộc khai quật ở Tam Mỹ (NT) của Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam. Hàng loạt những cuộc khai quật và khám phá kế tiếp
được thực hiện ở các địa điểm Phú Hoà (NT), Bàu Trám (NT), Tam Giang
(NT), Quế Lộc (NS), Tiên Hà (TP), Gò Muồng (ĐL), Tabhing (NG), An
Bang (HA), … Tính đến năm 2006, có khoảng 40 địa điểm khảo cổ học đã
được phát hiện và khai quật trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Với những sưu tập
hiện vật cụ thể gồm công cụ đá, đồng, sắt, gốm và đồ trang sức, Quảng Nam
được giới nghiên cứu khảo cổ học trong và ngoài nước nhìn nhận như một
trung tâm của văn hoá Sa Huỳnh.
Thời đại nhà Nguyễn được đánh dấu bằng sự thiết lập dinh trấn Thanh
Chiêm. Thanh Chiêm được chúa Nguyễn Hoàng chọn làm nơi đặt thủ phủ
của trấn Quảng Nam vào năm 1602 – nằm trên bờ bắc sông Thu Bồn. Thanh
Chiêm cũng được gọi là Dinh Chiêm, còn người ngoại quốc gọi là Cacciam,
Caccham, hay Kẻ Chàm. Về vị thế lịch sử, dinh trấn Thanh Chiêm đóng vai
trò là một thủ phủ thứ hai của Đàng Trong, là nơi thực thi đường lối mở cửa
dưới thời chúa Nguyễn.
Thời Tây Sơn cũng để lại dấu ấn của mình trên vùng đất Quảng mà cụ thể
chúng tôi đã tìm được một số địa danh ở huyện Đại Lộc cùng sự tích về trái
Nam Trân đã khẳng định điều này. Tại Đại Lãnh (ĐL) vùng núi từ gò Đình,
gò Trao lên hướng tây bắc có một gò núi hình dáng như nghiên bút, suối
nước chảy quanh, dân địa phương gọi là gò Tôn Dương, sát bên có một hóc
núi gọi là Hóc Tướng. Địa thế gò Tôn Dương không rộng lắm nhưng khá
hiểm trở, phía sau gò là dãy núi Dương Thành cao vút án ngữ phía bắc, dọc
gò có dốc đá cao, cheo leo, đi lại rất khó khăn. Những người dân vùng Trúc
Hà đã truyền miệng nhau từ đời này sang đời nọ rằng: “Tối lại từ gò Tôn
Dương đến Hóc Tướng đến đồng cây cui thường nghe tiếng ngựa hí, đèn
đuốc sáng trưng một vùng… những người già thường không cho trẻ nhỏ chăn
trâu bò và nô đùa ở đây vì rất thiêng”. Vậy phải chăng chúa Nguyễn đã một
thời định đô tại đây và lấy tên chúa Tôn Dương (Nguyễn Phúc Dương) đặt
tên cho vùng đất chúa lên ngôi. Vùng Trúc Hà còn có một vùng đất mang tên
“Đồng Canh Quan Trại”, tương truyền đây là nơi đóng quân của Tây Sơn.
Địa danh Tr’Hy (Tây Sơn Hy Hữu – ít có như triều Tây Sơn) cũng khởi
nguồn từ vùng đất này.
Khi thực dân Pháp rồi kế đến là đế quốc Mỹ tiến hành xâm lược Việt Nam,
chúng đã để lại không ít dấu tích trên đất nước ta, Quảng Nam cũng không
ngoại lệ. Ngoài những địa danh như Faifo (HA), Bót Xít (PS), Chu Lai (NT),
Bồ Bồ (ĐB), … hàng loạt những địa danh khác đã đi vào trí nhớ của người
dân nơi đây. Những địa danh này là nơi khắc sâu tội ác của bọn xâm lược,
nơi chứa máu và nước mắt của người dân xứ Quảng, đó là các xã Đại Hiệp,
Đại Nghĩa, Đại Hoà (ĐL), xã Điện Tiến, Điện Quang (ĐB) nơi thực hiện
chính sách “tam quang” (đốt sạch, giết sạch, phá sạch) của thực dân Pháp,
triệt phá từng thôn xóm, giết hại dân chúng một cách dã man. Hàng loạt vụ
thảm sát, giết hại đồng bào ta đã xảy ra dưới bàn tay vấy máu của đế quốc
xâm lược Mỹ: vụ thảm sát của lính tiểu đoàn 611 tại chợ Được (TB) ngày 4-
9-1954, vụ thảm sát Chiên Đàn (TK) diễn ra ngày 23-9-1954, vụ thảm sát tại
chợ Cây Cốc (TP) vào trưa ngày 27-9-1954 của lính tiểu đoàn bảo an 601, dã
man nhất là vụ thảm sát tập thể ở đập Vĩnh Trinh (DX)… Những địa danh
này được nhắc đến trong ca dao thời ấy, như ghi lại không khí khủng bố đen
tối, ngột ngạt, thê lương trên làng quê đất Quảng:
“Chợ Mỹ Lược khăn tang trắng xoá,
Đập Vĩnh Trinh cánh quạ đen ngòm!”
Nhân dân xứ Quảng anh hùng còn ghi trong lòng mình niềm tự hào về những
chiến thắng vang dội trong công cuộc kháng chiến chống xâm lược. “Ngọn
lửa Trà Nô” với cuộc nổi dậy của người dân làng Ông Tía (HĐ), chiến thắng
Núi Thành (NT) cùng lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng quân Mỹ xâm lược”
được cắm trên đỉnh Núi Thành, chiến thắng Thượng Đức (ĐL), chiến thắng
Cấm Dơi (QS), …
Tất cả những địa danh này là nhân chứng trung thành của lịch sử, nơi thể hiện
tinh thần, ý chí quật cường, niềm tự hào về truyền thống yêu nước của nhân
dân tỉnh Quảng Nam.
4.2.1.3. Phản ánh những tấm gương văn hoá, lịch sử
Cũng như nhiều địa phương khác, Quảng Nam có nhiều địa danh mang tên
những vị anh hùng của dân tộc. Tiểu loại tên đường thường gắn liền với
những tấm gương văn hoá này, chẳng hạn như: đường An Dương Vương
(HA), đường Bùi Thị Xuân (TK), đường Đoàn Thị Điểm (HA), đường Hải
Thượng Lãn Ông (NT), …
Là một vùng đất “địa linh nhân kiệt”, Quảng Nam đã sản sinh ra rất nhiều
người con ưu tú, anh hùng. Tên tuổi của những con người ấy đã gắn liền với
quê hương, góp phần vinh danh danh hiệu “trung dũng, kiên cường” của
miền đất Quảng. Và giờ đây, tên của những nhân vật đã từng sống, hoạt
động, tham gia chiến đấu, gắn bó với nhân dân, có những đóng góp quan
trọng, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người dân miền đất này đã được vinh
danh cùng với những con đường, bến đò, con dốc, làng xã, … của tỉnh nhà.
Ví dụ như: dốc Phan Thanh Thủ (ĐL, Phan Thanh Thủ quê ở Đại Lộc, ông là
Bí thư Đảng bộ huyện Đại Lộc), đường Bùi Chát (HA, Bùi Chát sinh ra ở xã
Cẩm Hà – HA, là người đầu tiên quê Quảng Nam được phong danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kháng chiến chống Pháp và cũng là
lớp chiến sĩ được phong Anh hùng đầu tiên của lực lượng vũ trang Quân khu
V), đường Đỗ Đăng Tuyển (TK, ông quê ở xã Đại Cường – ĐL, theo đánh
giá của Quốc sử quán triều Nguyễn, ông là nhân vật trọng yếu của Nghĩa hội
Quảng Nam), đường Huỳnh Thúc Kháng (TK, quê ông là làng Thạnh Bình,
nay là xã Tiên Cảnh – TP, ông từng giữ chức Chủ tịch Hội Liên Hiệp Quốc
dân Việt Nam – tiền thân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay), đường
Nguyễn Văn Trỗi (TK, Nguyễn Văn Trỗi sinh năm 1940 tại làng Thanh Quýt,
nay thuộc xã Điện Thắng (ĐB). Anh là người xung phong nhận nhiệm vụ đặt
mìn ở cầu Công Lý – nơi Bộ trưởng Quốc phòng Mc Namara cùng phái đoàn
Mỹ đi qua. Nguyễn Văn Trỗi bị bắt và hy sinh ngày 15-10-1964 tại sân sau
nhà lao Chí Hoà. Trước khi ngã gục, anh vẫn dõng dạc hô to: Đả đảo đế quốc
Mỹ xâm lược! Đả đảo Nguyễn Khánh! Việt Nam muôn năm! Hồ Chí Minh
muôn năm! Hãy nhớ lấy lời tôi!), bến đò Ông Đốc (HA, nơi đốc binh họ Bùi
hy sinh), …
4.2.2. Giá trị phản ánh về mặt địa lý tự nhiên
4.2.2.1. Phản ánh địa hình
Địa danh ra đời trong môi trường nào thì sẽ phản ánh những đặc điểm của
môi trường ấy. Địa danh chỉ địa hình tự nhiên càng thể hiện rõ nét hơn điều