Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ phần bánh kẹo hải hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.92 MB, 120 trang )

1

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào.

Tác giả luận văn

Dư Thị Hồng Hảo

1


2

2

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn tận tình, giúp đỡ quý báu của các thầy cô và các bạn đồng
nghiệp. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân
thành tới:
Ban Giám Hiệu nhà trường, Khoa Sau Đại học, Bộ môn Tài chính – Ngân
hàng Trường Đại học Thương Mại đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập, nghiên cứu và đã truyền đạt những kiến thức rất giá trị của các
học phần trong suốt khóa học.
Và đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến PGS.TS Phạm Thị
Tuệ, người đã giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành


luận văn.
Tôi xin cũng gửi lời cảm ơn đến Ban giám đốc công ty, Trưởng các phòng ban
chuyên môn của Công ty Cổ Phần Bánh kẹo Hải Hà đã tạo điều kiện thuận lợi giúp
tôi nghiên cứu, thu thập số liệu và truyền đạt những kinh nghiệm thực tế tại đơn vị
để tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Sau cùng, tôi muốn cảm ơn đến những người trong gia đình, những người bạn
đã tận tình hỗ trợ, góp ý và động viên tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do sự hiểu biết và kinh nghiệm còn hạn
chế, nên bài Luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn để bài Luận văn của tôi
được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Tác giả

Dư Thị Hồng Hảo

2


3

3

MỤC LỤC

3


4


4

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

4

Chữ viết tắt
TNHH
TSDH
TSNH
TSCĐ
VCSH
TSLĐ
LNTT
LNST
SXKD

Tên đầy đủ
Trách nhiệm hữu hạn

Tài sản dài hạn
Tài sản ngắn hạn
Tài sản cố định
Vốn chủ sở hữu
Tài sản lưu động
Lợi nhuận trước thuế
Lợi nhuận sau thuế
Sản xuất kinh doanh


5

5

DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG
Sơ đồ 2.1 : Sơ đồ bộ máy quản lý của Công ty Cổ phần Bánh kẹo Hải Hà :.....36

5


6

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết, lý do lựa chọn đề tài

Một trong những vấn đề quan trọng và cần được xem xét đầu tiên khi nói đến
tài chính doanh nghiệp, đó là vốn kinh doanh. Vốn là yếu tố không thể thiếu giúp
doanh nghiệp khởi nghiệp, tồn tại và phát triển. Đồng thời vốn kinh doanh còn là
điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh được

liên tục. Do đó, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải tổ chức huy động vốn
sao cho hiệu quả, đồng thời cũng cần phải có những biện pháp thiết thực để quản lý
việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm, mang lại lợi ích tối đa cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng làm tốt việc đó, nhất là trong
bối cảnh nền kinh tế hiện nay, chỉ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của những
doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam đang có xu hướng giảm dần đều. Mặc dù vậy các
doanh nghiệp vẫn chú trọng đến việc tăng quy mô vốn thay vì tập trung nâng cao
hiệu quả và hiệu suất sử dụng vốn. Thực tế cho thấy nếu tăng quy mô vốn mà không
có biện pháp quản lý hiệu quả, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng thất thoát, lãng
phí vốn, lại thêm gánh nặng trả lãi, chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt những năm gần đây nền
kinh tế thế giới nói chung đang phải đối mặt với khủng hoảng và nền kinh tế Việt
Nam cũng không ngoại trừ rơi vào tình trạng chung đó . Do vậy đây chính là thách
thức lớn đối với các doanh nghiệp. Nên vai trò của vốn lại càng trở nên cấp thiết
hơn bao giờ hết. Vốn là chìa khóa, là phương tiện để biến các ý tưởng trong kinh doanh
thành hiện thực. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn sẽ góp phần quyết định sự thành bại của
doanh nghiệp, chính vì vậy bất kỳ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ, dù to hay bé
thì đều quan tâm đến vốn và vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Từ việc nhận thức về tầm quan trọng của vốn trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, cũng như thấy được vai trò quan trọng của việc cần thiết phải nâng cao hiệu
quả quản lý và sử dụng vốn đối với Công ty cổ phần Bánh kẹo Hải Hà cũng như bất
kỳ một doanh nghiệp, công ty nào khác. Qua quá trình tìm hiểu tại Công ty cổ phần
6


7

Bánh kẹo Hải Hà tôi đã đi sâu tìm hiểu nghiên cứu và chọn đề tài "Hiệu quả sử
dụng vốn tại Công ty cổ phần Bánh kẹo Hải Hà".

Đây là một vấn đề thiết thực với thực trạng của nền kinh tế đang phát triển
hiện nay, hơn nữa đề tài này cũng vận dụng được khối lượng lớn những kiến thức
chuyên ngành mà tôi đã được lĩnh hội trong toàn bộ khóa học cao học – ngành Tài
chính ngân hàng.
2. Tổng quan nghiên cứu

2.1.Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Năm 2005, trong bài viết ‘Một lý thuyết động về cơ cấu vốn tối ưu và sự bồi
thường điều hành’ , Andrew Atkeson và Harold L. Cole đã đưa ra một lý thuyết về
cấu trúc vốn tối ưu của công ty dựa trên Jensen (1986) giả thuyết rằng sự lựa chọn
của một công ty về cơ cấu nguồn vốn được xác định bởi một sự cân bằng giữa chi
phí trung gian và chi phí giám sát. Họ tạo ra mô hình cân bằng tự động này. Họ giả
định rằng trong quá trình sản xuất, các nhà đầu tư bên ngoài phải đối mặt với một
sự tiếp cận thông tin liên quan đến các quỹ rút với từ các công ty hao mòn theo thời
gian. Họ giả định rằng các công ty cũng phải đối mặt với một sự tiếp cận gia tăng
theo thời gian đối với quỹ trái bên trong công ty. Các vấn đề xác định cấu trúc vốn
tối ưu của công ty cũng như việc bồi thường tối ưu của người quản lý là một vấn đề
lựa chọn thanh toán cho các nhà đầu tư bên ngoài và các nhà quản lý ở từng giai
đoạn của sản xuất để cân bằng được hai va chạm này.
Kehinde James Sunday (2011), đã nghiên cứu ‘Hiệu quả của công tác quản lý
vốn tại doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs)’. Bài nghiên cứu cho thấy sự cần thiết
phải quản lý vốn lưu động hiệu quả trong doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) khá
quan trọng đối với khả năng thanh toán và thanh khoản của SMEs. Hầu hết SMES
không quan tâm đến tình hình tài chính của họ, họ chỉ biết kinh doanh và tập trung
vào việc nhận lợi nhuận. Bài nghiên cứu này đưa ra: tỷ lệ vốn làm việc tiêu chuẩn
được sử dụng để đo lường hiệu quả của vốn lưu động trong các doanh nghiệp lựa
chọn. Các công ty được lựa chọn có thể có dấu hiệu mất khả năng thanh toán và
thiếu tính thanh khoản, trong khi mối quan tâm của doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa
mà không cần biết khả năng thanh toán. Nghiên cứu đã đề nghị cho doanh nghiệp
nhỏ muốn tồn tại trong nền kinh tế Nigeria, họ phải thiết kế một chính sách tín dụng

7


8

tiêu chuẩn và đảm bảo báo cáo tài chính tốt và hệ thống điều khiển, cung cấp đầy đủ
thức rõ để quản lý vốn lưu động để đảm bảo tính liên tục, sự tăng trưởng và khả
năng thanh toán. Tuy nhiên bài nghiên cứu mới dừng lại ở trong phạm vi doanh
nghiệp vừa và nhỏ, chưa nghiên cứu đối với các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn,
tổng công ty
Năm 2014, trong bài viết ‘Làm thế nào để tổ chức nhỏ có thể đạt hiệu quả
trong việc lập kế hoạch vốn đầu tư?’ Tanya K. Hahn cho rằng nhiều tổ chức nhỏ vật
lộn với việc đánh giá hàng năm về cách quản lý các dự án vốn thường xuyên. Sự
tồn đọng của các hạng mục bảo trì chậm hơn nữa có thể làm phức tạp việc lập kế
hoạch. Và quá trình này là không thể khi bạn xem xét các cuộc thảo luận đang diễn
ra như thế nào để thêm, cải tạo hoặc thay thế các trung tâm sinh viên, nhà ở, sức
khỏe hoặc giải trí tòa nhà và học tập trong môi trường kinh tế hiện nay, tính cạnh
tranh là rất cao, tăng trưởng doanh thu có thể bị hạn chế và chiến dịch đôla vốn có
thể bị căng thẳng. Điều quan trọng là tổ chức thực hiện các bước chủ động để quản
lý quá trình lập kế hoạch vốn để duy trì thành công lâu dài của họ, cả về uy tín và
tài chính.
Các nghiên cứu ở trên đã phần nào nói lên tác động của vốn, vai trò của vốn
đối với các doanh nghiệp kinh doanh. Mỗi nghiên cứu nói đến một khía cạnh khác
về vốn, đưa ra các lý luận đề suất có tính ứng dụng cao, tuy nhiên các nghiên cứu ở
trên chỉ vận dụng cho từng nền kinh tế riêng biệt, với từng điều kiện khác nhau.
Trong điều kiện kinh tế Việt Nam với những đặc trưng riêng, cần phải có những
nghiên cứu phù hợp, đưa ra đề suất khả thi với điều kiện nước ta.
2.2.Tình hình nghiên cứu trong nước:
Đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến vấn đề hiệu quả
sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp, cụ thể là:

- Đàm Hồng Phương, năm 2009, đã nghiên cứu về Nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn của các Ngân hàng Thương mại trên địa bàn Hà Nội trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế quốc dân.
Đây là đề tài luận án tiến sĩ của tác giả Đàm Hồng Phương, các vấn đề mà tác
giả Đàm Hồng Phương viết trong đề tài này gồm: Những vấn đề cơ bản về nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn của các Ngân hàng Thương mại, thực trạng nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn của các Ngân hàng Thương mại trên địa bàn Hà Nội trong quá trình
8


9

hội nhập quốc tế giai đoạn 2002 - 2008, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn của các Ngân hàng Thương mại trên địa bàn Hà Nội trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Trần Đình Huân, năm 2011, đã nghiên cứu về ‘Nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn tại Công ty TNHH các hệ thống viễn thông VNPT -FUJITSU (VFT)’. Bài viết
đã trình bày lý luận chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp,
đồng thời làm rõ các nhân tố ảnh hưởng tới sử dụng vốn và ý nghĩa của việc nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Phân tích và đánh giá thực trạng sử
dụng vốn tại công ty trách nhiệm hữu hạn các Hệ thống Viễn thông VNPT
-Fujitsu (VFT). Trên cơ sở phân tích các phương hướng hoạt động của công ty VFT
trong thời gian tới, đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của công ty VFT.
- Nguyễn Thị Hồng Oanh (2015), Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
của Tổng công ty đầu tư nước và môi trường Việt Nam – VIWASEEN, Đại học
Thương Mại.
Đây là đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hồng Oanh thuộc Đại
học Thương Mại. Đề tài này đã viết về thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh;
phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Tổng công ty đầu tư nước

và môi trường Việt Nam – VIWASEEN và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn kinh doanh tại VIWASEEN.
- Bùi Thị Bích Thuận (2015), Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong
công ty Cổ phần Kinh Đô, Đại học Kinh tế- Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Đây là đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Thị Bích Thuận thuộc Đại học
Kinh tế- Đại học quốc gia Hà Nội. Đề tài này đã viết về thực trạng hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh; đánh giá hiệu quả tổ chức, sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Cổ
phần Kinh Đô và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
tại Công ty Cổ phần Kinh Đô.
-

Nguyễn Thị Thúy Hiền (2015), Hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ Phần Cơ điện
và Xây dựng Việt Nam (MECO JSC), Đại học Thương Mại.
Đây là đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hiền thuộc Đại học
Thương Mại. Các vấn đề mà tác giả Nguyễn Thị Thúy Hiền đã viết trong đề tài này
bao gồm: hệ thống hoá lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
9


10

doanh nghiệp; phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ
phần Cơ điện và Xây dựng Việt Nam (MECO JSC), trên cơ sở đó rút ra những kết
quả đạt được và những tồn tại; đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh tại Công ty Cổ phần Cơ điện và Xây dựng Việt Nam (MECO JSC).
Những đề tài trên đã nêu lên những thực tế tồn tại hiện nay của vấn đề hiệu
quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp. Nhưng chưa có luận văn nào nghiên cứu
hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Bánh Kẹo Hải Hà. Trên cơ sở đó,luận
văn tiếp tục nghiên cứu theo hướng cụ thể và không trùng lắp với những kết quả,
công trình đã công bố trước đó.

3. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích:
+ Nghiên cứu tổng quan về những vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng
vốn của doanh nghiệp.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Bánh kẹo
Hải Hà giai đoạn 2013 – 2015.
+ Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho Công ty Cổ phần
Bánh kẹo Hải.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Đưa ra được nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ
phần Bánh kẹo Hải Hà giai đoạn 2013 – 2015.
+ Nghiên cứu các yêu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ
phần Bánh kẹo Hải Hà.
+ Đánh giá được thực trạng sử dụng vốn của Công ty Cổ phần Cổ phần Bánh
kẹo Hải Hà giai đoạn 2013 – 2015. Từ đó, rút ra được thuận lợi, khó khăn trong
công tác quản trị vốn của Công ty.
+ Đưa ra được các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty
Cổ phần Bánh kẹo Hải Hà.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tình hình sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn tại
Công ty Cổ phần Bánh kẹo Hải Hà trong 3 năm 2013, 2014 và 2015.

10


11

- Phạm vi nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Bánh kẹo
Hải Hà trong 3 năm 2013, 2014 và 2015. Từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty.

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1.Phương pháp thu thập dữ liệu
Luận văn được nghiên cứu từ thông tin thứ cấp được thu thập sau:
- Dữ liệu của Công ty Cổ phần Bánh kẹo Hải Hà về báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh, báo cáo tài chính hợp nhất năm 2013, 2014, 2015.
- Các tài liệu tham khảo và thông tin trên các trang báo mạng;
- Các báo cáo của cơ quan quản lý nhà nước về tình hình kinh tế xã hội.
5.2.Phương pháp phân tích số liệu
a. Phương pháp so sánh
- So sánh giữa các chỉ tiêu vốn trên bảng cân đối kế toán năm 2014 so với năm
các năm trước để thấy sự biến động tăng giảm và từ đó xác định nguyên nhân.
- So sánh theo chiều dọc để thấy tỷ trọng từng khoản mục trong tổng VKD,
VCĐ,VLĐ.
- So sánh theo chiều ngang để thấy được sự biến động về số tương đối và số
tuyệt đối của từng khoản mục vốn qua các năm
b. Phương pháp dùng bảng biểu, sơ đồ phân tích
Sử dụng phương pháp này giúp việc phân tích trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn
cho việc theo dõi, đối chiếu, so sánh giữa các chỉ tiêu trên bảng và biểu đồ so sánh.
- Biểu mẫu phân tích: Được thiết kế theo các dòng và cột tùy thuộc vào nội
dung phân tích. Trong đề tài, phương pháp này sử dụng ở tất cả các nội dung phân
tích hiệu quả sử dụng VKD của doanh nghiệp.
- Sơ đồ, biểu đồ, đồ thị thể hiện rõ sự tăng (giảm) của các chỉ tiêu kinh tế trong
khoảng thời gian khác nhau.
Qua bảng biểu so sánh về các chỉ tiêu của công ty: doanh thu, lợi nhuận, mức
thu nhập, thuế trong vòng 3 năm sẽ cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp có phát triển hay không? Qua bảng biểu so sánh chúng ta sẽ rút ra
được các nhận xét, dự đoán, tìm ra các quy luật của sự phát triển hay biến đổi để từ
11



12

đó đưa ra các kết luận, kiến nghị nhằm phát triển thị trường của Công ty Cổ phần
Bánh kẹo Hải Hà một cách hiệu quả.
6. Kết cấu đề tài
Chương 1: Lý luận chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn của công ty cổ phần
Chương 2:Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Cổ phần Bánh Kẹo
Hải Hà.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Cổ
phần Bánh kẹo Hải Hà.

12


13

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Tổng quan về vốn của công ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm,đặc trưng cơ bản của vốn
Mỗi góc độ tiếp cận khác nhau về vốn cho ta quan niệm khác nhau về vấn đề
“Vốn là gì?”
Theo nghĩa rộng thì: “Vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí để
sản xuất hàng hóa, dịch vụ như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các kiến thức kinh
tế, kỹ thuật của doanh nghiệp được tích lũy, sự khéo léo về trình độ quản lý và các
tác nghiệp của các cán bộ điều hành, cùng đội ngũ cán bộ công nhân viên trong
doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp”.
Theo nghĩa hẹp thì: “Vốn là tiềm lực tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp, mỗi quốc gia”
Theo quan điểm của Mác, dưới góc độ các yếu tố sản suất, Mác cho rằng:

“Vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là đầu vào của quá trình sản suất”.
Định nghĩa của Mác về vốn có tầm khái quát lớn vì nó bao hàm đầy đủ bản chất và
vai trò của vốn. Bản chất của vốn là giá trị, mặc dù nó được thể hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau: tài sản cố định, nguyên vật liệu, tiền công... Tuy nhiên, do hạn
chế về trình độ phát triển của nền kinh tế, Mác chỉ bó hẹp khái niệm về vốn trong
khu vực sản suất vật chất và cho rằng chỉ có quá trình sản xuất mới tạo ra giá trị
thặng dư cho nền kinh tế. Đây là một hạn chế trong quan niệm về vốn của Mác.
P.A.Samuelson, đại diện tiêu biểu của học thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại,
coi đất đai và lao động là các yếu tố ban đầu sơ khai, còn vốn và hàng hoá chỉ là kết
quả của sản xuất. “Vốn bao gồm các loại hàng hoá lâu bền được sản xuất ra và được
sử dụng như các đầu vào hữu ích trong quá trình sản xuất sau đó. Một số hàng hoá
vốn có thể tồn tại trong vài năm, trong khi đó một số khác có thể tồn tại trong một
thế kỷ hoặc lâu hơn”. Đặc điểm cơ bản nhất của hàng hoá vốn thể hiện ở chỗ chúng
13


14

vừa là sản phẩm đầu ra vừa là yếu tố đầu vào trong sản xuất. Về bản chất vốn là
phương pháp sản xuất gián tiếp tốn thời gian.
Theo David Begg, trong cuốn “Kinh tế học” ông đã đưa ra hai định nghĩa về
vốn là: “Vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là giá trị của
hàng hóa đã sản xuất được sử dụng để tạo ra hàng hóa và dịch vụ khác. Vốn tài
chính là các giấy tờ có giá và tiền mặt của doanh nghiệp”. Như vậy, đã có sự đồng
nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp trong định nghĩa của David Begg.
Trong các định nghĩa trên, các tác giả đã thống nhất với nhau điểm chung cơ
bản: Vốn là một đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong cách
định nghĩa của mình, các tác giả đã đều thống nhất vốn với tài sản của doanh
nghiệp. Qua các khái niệm trên cho thấy, doanh nghiệp dù hoạt động trong bất cứ
lĩnh vực nào cũng cần có một lượng vốn nhất định. Lượng vốn đó dùng để thực hiện

các khoản đầu tư cần thiết như chi phí thành lập doanh nghiệp, chí phí mua sắm tài
sản cố định, nguyên vật liệu...Vốn trong sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp
luôn luôn tồn tại dưới hai hình thức cơ bản đó là hình thái giá trị và hình thái hiện
vật. Về hình thái giá trị vốn tồn tại dưới hình thái tiền tệ, đây là hình thái ban đầu và
cũng là hình thái cuối cùng của vốn, bởi vì sau một chu kỳ kinh doanh vốn kinh
doanh lại được thu hồi về dưới dạng ban đầu là tiền theo vòng chu chuyển T- H –
T’.Tiền ở đây bao gồm cả tiền nội tệ và tiền ngoại tệ.
Về hình thái hiện vật vốn tồn tại dưới hìnhthái tư liệu sản xuất như: máy móc,
thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vân tải, vật tư hàng hóa,...
Toàn bộ sự vân động của vốn trong sản xuất kinh doanh có thể biểu diễn bằng
sơ đồ sau:
TLSX
T–H

…SX ..H’…T’
Sức lao động

Tóm lại, vốn là một phạm trù được xem xét, đánh giá theo nhiều quan niệm, với
nhiều mục đích khác nhau. Do đó, khó có thể đưa ra một định nghĩa về vốn thoả mãn
14


15

tất cả các yêu cầu, các quan điểm đa dạng. Song hiểu một cách khái quát, ta có thể coi:
“Vốn của doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu, tham gia liên tục vào
quá trình sản xuất kinh doanh với mục đích đem lại giá trị thặng dư.”Tuy nhiên để
hiểu rõ hơn về khái niệm “ vốn” chúng ta cần phân tích rõ về đặc trưng của vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là yếu tố số một của mọi quá trình sản xuất
kinh doanh, số vốn đó không tự nhiên mà có. Vì vậy để quản lý và sử dụng vốn có

hiệu quả cần thiết nhận thức đầy đủ về những đặc trưng của vốn sau đây.
Thứ nhất: Vốn phải đại diện cho một lượng giá trị tài sản, điều đó có nghĩa là
vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản hữu hình và vô hình như nhà
xưởng, đất đai, thiết bị, nguyên liệu, chất xám, thông tin....Như vậy một lượng tiền
phát hành thoát ly giá trị thực của hàng hóa để đưa vào đầu tư hoặc những khoản nợ
không có khả năng thu hồi được thi không đúng với nghĩa của vốn.
Thứ hai: Vốn phải vận động và sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng
tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để biến thành vốn thì tiền đó phải được vận
động sinh lời. Trong quá trình vận động, đồng vốn có thể thay đổi hình thái biểu
hiện nhưng điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị - là tiền. Đồng tiền
phải quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn. Đó cũng là nguyên lý đầu tư, sử dụng
bảo toàn và phát triển vốn. Vì vậy, khi đồng vốn bị ứ đọng, tài sản cố định không
vận động, tài nguyên, sức lao động không được sử dụng, tiền vàng bỏ ống cất trữ
hoặc các khoản nợ khó đòi... chỉ là những đồng “ vốn chết”. Mặt khác tiền có vận
động nhưng lại bị phân tán không quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn thì đồng
vốn cũng không được đảm bảo chu kỳ vận động tiếp theo sẽ bị ảnh hưởng.
Thứ ba: Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể
phát huy tác dụng. Để đầu tư vào sản xuất kinh doanh vốn phải được tích tụ thành
món lớn. Do đó các doanh nghiệp không những chỉ khai thác các tiềm năng về vốn
của doanh nghiệp mà còn phải tìm cách thu hút nguồn vốn như nhận vốn liên doan,
phát hành cổ phiếu, vay vốn,...

15


16

Thứ tư: Vốn có giá trị về mặt thời gian. Điều này cũng có nghĩa là phải xem
xét giá trị thời gian của đồng vốn. Trong cơ chế kinh tế hàng hóa tập trung vấn đề
này không được xem xét kỹ lưỡng vì nhà nước đã tạo ra sự ổn định của đồng tiền

một cách giả tạo trong nền kinh tế. Trong điều kiện của cơ chế thị trường phải xem
xét giá trị thời gian của tiền vốn, bởi vì do ảnh hưởng sự biến động của giá cả, lạm
phát nên sức mua của dồng tiền ở các thời điểm đều khác nhau ( Khi định giá doanh
nghiệp cần phải xem xét đặc trưng này).
Thứ năm: Vốn phải gắn với chủ sở hữu. Mỗi một đồng vốn đều có chủ sở hữu
nhất định. Trong nền kinh tế thị trường không thể có những đồng vốn vô chủ, ở đâu
còn những đồng vốn vô chủ thì ở đó sẽ chi tiêu lãng phí, kém hiệu quả. Ngược lại
chỉ khi xác định rõ chủ sở hữu thì đồngvốn mới được chi tiêu tiết kiệm và có hiệu
quả. Cũng cần phân biệt rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn. Tùy theo từng hình
thức đầu tư mà người sở hữu vốn có thể đồng nhất với người sử dụng vốn, hoặc
người sở hữu vốn được tách khỏi người sử dụng vốn. Song chỉ trong trường hợp
nào thì người sở hữu vốn vẫn phải được ưu tiên đảm bảo quyền lợi và được tôn
trọng quyền sở hữu vốn của mình. Đây là một nguyên tắc để huy động và quản lý
vốn. Nếu vi phạm nguyên tắc này thì không thể sử dụng vốn có hiệu quả và không
huy động được vốn nhàn rỗi trong xã hội.
Thứ sáu: Trong nền kinh tế thị trường, vốn phải được quan niệm là một hàng
hóa đặc biệt. Những người sẵn có vốn, có thể đưa vốn vào thị trường còn những
người khác cần có vốn thì lại tới thị trường này – nghĩa là họ được quyền sử dụng
vốn của người chủ nợ. Hay nói rõ hơn là quyền sở hữu vốn không di chuyển nhưng
quyền sử dụng được chuyển nhượng qua sự vay, nợ. Người vay phải trả một tỷ lệ
lãi suất tức là họ trả giá cho quyền sử dụng vốn. Như vậy khác với hàng hóa thông
thường hàng hóa vốn khi bán đi không mất quyền sở hữu mà người chủ của nó chỉ
mất quyền sử. Người mua được quyền sử dụng vốn trong thời gian nhất định và
phải trả cho người sở hữu vốn một khoản tiền gọi là lãi suất. Việc mua bán vốn (lãi
suất) cũng tuân theo quy luật cung cầu trên thị trường.

16


17


Thứ bẩy: Trong nền kinh tế thị trường vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của
các tài sản hữu hình như: vị trí địa lý kinh doanh, nhãn hiệu thương mại, bản quyền
phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ,....Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường với sự tiến bộ của khoa học – công nghệ thì tài sản vô hình này càng phong phú
đa dạng và chúng ngày càng có vai trò quan trọng trong việc tạo ra khả năng sinh lời
của doanh nghiệp. Vì vậy tất cả những tài sản vô hình này đều phải được lượng hóa để
quy về giá trị.Việc xác định chính xác giá trị của các tài sản nói chung và tài sản vô
hình nói riêng là rất cần thiết khi góp vốn đầu tư liên doanh, khi đánh giá doanh
nghiệp, khi xác dịnh giá trị chi phí phát hành, khi bán hoặ thanh lý doanh nghiệp,....
Những đặc trưng trên cho thấy rằng vốn kinh doanh được sử dụng cho sản
xuất kinh doanh tức là mục đích tích lũy chứ không phải là mục đích tiêu dùng như
một sô quỹ tiền tệ khác trong doanh nghiệp. Vốn kinh doanh được ứng ra trước khi
hoạt động sản xuất kinh doanh được bắt đầu. Và sau một chu kỳ hoạt động vốn kinh
doanh phải được thu về để sử dụng cho các chu kỳ hoạt động tiếp theo.
1.1.2. Phân loại vốn
Vốn của doanh nghiệp có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Với mỗi tiêu thức, vốn sẽ được nhìn nhận và xem xét dưới mỗi góc độ khác nhau,
từ đó thấy được các hình thái vận động của vốn, đặc tính của vốn để sử dụng vốn có
hiệu quả.
1.1.2.1.Căn cứ theo quan hệ sở hữu vốn
Căn cứ theo quan hệ sở hữu vốn, vốn của doanh nghiệp được chia thành 2
loại: Vốn chủ sở hữu và Nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có
đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, chi phối và định đoạt. Tùy theo loại hình doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở hữu có nội dung khác
nhau, như vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, vốn góp bổ sung trong quá trình
hoạt động (như phát hành cổ phiếu), chênh lệch tỷ giá, đánh giá lại tài sản...
- Vốn góp ban đầu: Khi DN được thành lập bao giờ cũng phải có một lượng

vốn ban đầu nhất định do các chủ sở hữu đóng góp. Đối với DN có vốn đầu tư của
Nhà Nước, Nhà Nước có thể góp một phần hoặc toàn bộ vốn tùy theo tầm quan
17


18

trọng của DN trong nền kinh tế quốc dân. Đối với công ty cổ phần thì số vốn ban
đầu do các cổ đông đóng góp, các cổ đông là chủ sở hữu của công ty và chịu trách
nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ phiếu mà họ nắm giữ. Đối với công ty tư nhân hay
công ty trách nhiệm hữu hạn thì số vốn ban đầu do chủ doanh nghiệp tự bỏ ra. Còn
với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì số vốn ban đầu do nhà đầu tư nước
ngoài và nhà đầu tư Việt Nam cùng góp vốn, luật pháp chỉ hạn chế lượng vốn góp
tối thiểu (là 30% vốn điều lệ) mà không giới hạn mức góp tối đa (nếu nhà đầu tư
nước ngoài góp 100% vốn thì hình thức pháp lý của DN là DN 100% vốn đầu tư
nước ngoài)
- Lợi nhuận không chia: Quy mô vốn ban đầu là một yếu tố quan trọng, tuy
nhiên số vốn này cần được tăng theo sự phát triển của DN trong qúa trình hoạt động
sản xuất kinh doanh. Nếu DN sử dụng vốn có hiệu quả thì nguồn vốn của DN tăng
lên từ phần lợi nhuận không chia. Nguồn vốn từ lợi nhuận khuận không chia được
sử dụng để tái đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia – nguồn vốn nội bộ là một trong những
phương thức tạo nguồn quan trọng và thuận lợi, vì giảm chi phí sử dụng vốn, giảm
sự phụ thuộc vào bên ngoài, tăng tính chủ động... Các DN coi trọng chính sách tái
đầu tư từ lợi nhuận không chia, đối với DN có vốn đâù tư của Nhà Nước thì số lợi
nhuận không chia không chỉ phụ thuộc vào khả năng tài chính của bản thân DN mà
còn phụ thuộc vào chính sách tái đầu tư của NN. Đối với các công ty trách nhiệm
hữu hạn hoặc DN tư nhân thì phần lợi nhuận không chia phụ thuộc vào chủ DN.
Đối với công ty cổ phần, số lợi nhuận không chia thể hiện ở chính sách phân chia cổ
tức hoặc phân chia cổ tức rất thấp để dành lợi nhuận vào tái đầu tư mở rộng DN, khi

đó các cổ đông không được nhận cổ tức hoặc được nhận số cổ tức rất thấp nhưng bù
lại họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty.
- Phát hành cổ phiếu mới: Các doanh nghiệp được phép có thể bổ sung vốn
trong quá trình hoạt động bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Phát hành cổ phiếu
mới được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của DN vì đây là số vốn chủ sở hữu và
không có thời hạn hoàn trả vốn gốc.
Nợ phải trả
18


19

Nợ phải trả là phần vốn doanh nghiệp được sử dụng nhưng thuộc sở hữu của
chủ thể khác. Doanh nghiệp có quyền sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất
định, sau đó doanh nghiệp phải hoàn trả cả gốc và lãi cho chủ sở hữu phần vốn đó.
Nợ phải trả bao gồm các khoản vay dài hạn, vay ngắn hạn, các khoản thanh
toán cho cán bộ công nhân viên, phải trả nhà cung cấp, phải trả Nhà Nước và một
số khoản phải trả phải nộp khác.
Nợ phải trả là nguồn vốn rất quan trọng với doanh nghiệp, đây là nguồn vốn
đáp ứng cho nguồn vốn thiếu hụt trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Thông thường, doanh nghiệp phải kết hợp cả hai nguồn vốn trên để đảm bảo
đủ vốn cho nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh, và cách phân loại này giúp cho
các nhà quản lý có thể xác định được mức độ an toàn trong công tác huy động vốn,
tổ chức sử dụng vốn sao cho vừa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh
doanh, vừa đảm bảo an toàn về mặt tài chính với chi phí sử dụng vốn bình quân là
thấp nhất.
1.1.2.2 .Căn cứ theo thời gian huy động và sử dụng vốn
Căn cứ theo thời gian huy động và sử dụng vốn có thể chia nguồn vốn thành
hai loại: Nguồn vốn thường xuyên và Nguồn vốn tạm thời.

Nguồn vốn thường xuyên
Nguồn vốn thường xuyên là tổng thể các nguồn vốn có tính chất lâu dài và ổn
định mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Tương ứng với mỗi quy mô sản xuất nhất
định, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn thường xuyên để đảm bảo cho
quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục. Nguồn này được dùng cho việc hình
thành TSCĐ và một phần TSLĐ thường xuyên cần thiết của doanh nghiệp. Nguồn
vốn thường xuyên bao gồm: vốn chủ sở hữu và vay dài hạn.
Nguồn vốn tạm thời
Nguồn vốn tạm thời là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (thường là dưới 1
năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng dể đáp ứng các nhu cầu về vốn có tính
chất tạm thời, bất thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguồn vốn tạm thời bao gồm: các khoản vay ngắn hạn ngân hàng, các khoản nợ
ngắn hạn khác.
19


20

Việc phân loại nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời giúp nhà quản
lý doanh nghiệp xem xét huy động các nguồn một cách phù hợp với thời gian sử
dụng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn.
1.1.2.3. Căn cứ theo phạm vi huy động vốn
Căn cứ theo phạm vi huy động vốn, nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm hai
bộ phận: Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp và nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.
Nguồn vốn bên trong
Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp là nguồn vốn có thể huy động trong nội bộ
doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn quan trọng đảm bảo khả năng tự chủ về mặt tài
chính của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có thể huy động từ nội bộ bên trong DN như: :Lợi nhuận để lại,

các quỹ của doanh nghiệp, số tiền khấu hao lũy kế, các khoản thu do thanh lý,
nhượng bán TSCĐ...
+ Lợi nhuận để lại: Khi DN hoạt động có lãi, DN có thể trích một phần lợi
nhuận để thực hiện đầu tư SXKD. Nguồn vốn tích lũy từ LN không chia là một bộ
phận LN được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của DN.
Huy động vốn từ LN không chia giúp DN giảm chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc
vào bên ngoài. Hầu hết các DN đều coi trọng chính sách tái đầu tư từ LN để lại. Đối
với DN có vốn của NN thì huy động vốn từ LN để lại không chỉ phụ thuộc vào LN
của DN mà còn phụ thuộc vào chính sách của NN. Đối với các Công ty Cổ phần thì
phụ thuộc vào các cổ đông. Nếu LN không được sử dụng để chia cổ tức thì các cổ
đông không được lợi nhuận tiền lãi nhưng bù lại họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần
tăng lên của Công ty.
Hiện nay, các công ty cổ phần thường đưa ra chính sách không trả cổ tức ngay
mà để tích lũy lợi nhuận đầu tư phát triển quy mô DN hoặc chính sách trả cổ tức
bằng cổ phiếu, nghĩa là phần LN thu được để tăng vốn cho đầu tư. Vậy khi DN
thiếu vốn có thể sử dụng phần LN để lại này.
+ Số tiền khấu hao lũy kế: Là số tiền khấu hao được cộng dồn đến thời điểm
tính, DN gọi là quỹ khấu hao của DN. Quỹ khấu hao này chỉ được DN dùng đến để
đầu tư TSCĐ mới khi TSCĐ cũ hết thời gian sử dụng. Vì vậy, khi TSCĐ chưa hết
20


21

thời gian sử dụng, quỹ khấu hao của DN tạm thời nhàn rỗi, DN có thể linh động sử
dụng trong khi tạm thời thiếu vốn.
+ Các quỹ của DN như: Qũy dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng, phúc lợi...
chỉ được sử dụng đến khi có nhu cầu, nghĩa là cac quỹ này luôn có 1 số dư nhất
định. Khi thiếu vốn DN có thể huy động nhanh mà không mất chi phí sử dụng vốn.
+ Trong quá trình hoạt động, có rất nhiều TS đã khấu hao hết, hết thời gian sử

dụng hư hỏng, lạc hậu, không phù hợp với đặc điểm SXKD của DN... thì DN nên
bán thanh lý để thu hồi vốn, tận dụng tối đa số vốn hiện có để phục vụ cho hoạt
động SX nhằm đem lại hiệu quả sử dụng vốn cao nhất cho DN.
Việc doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn bên trong có thuận lợi là chủ động về
mặt tài chính, huy động nhanh, không mất thời gian làm các thủ tục như vay vốn
ngân hàng, và không mất chi phí sử dụng vốn. Tuy nhiên, cũng chính vì lợi thế
không phải trả chi phí sử dụng vốn mà doanh nghiệp sinh ra tâm lý chủ quan, làm
giảm hiệu quả sử dụng vốn, và việc sử dụng nguồn vốn bên trong có thể ảnh hưởng
đến uy tín của doanh nghiệp, chẳng hạn doanh nghiệp linh động sử dụng các quỹ
khi tạm thời thiếu vốn nhưng doanh nghiệp lại có nhu cầu phát sinh đột xuất phải
chi trả từ các quỹ này thì ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của doanh nghiệp (ví dụ DN
tạm sử dụng số tiền khấu hao lũy kế nhưng TSCĐ của DN bị mất và DN phải tiến
hành mua mới TSCĐ khác, lúc đó DN rất bị động trong việc huy động một nguồn
vốn khác để trả vào số tiền đã sử dụng).
Nguồn vốn bên ngoài
Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp là nguồn vốn được huy động bên ngoài
phạm vi doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Doanh nghiệp có thể huy động các nguồn từ bên ngoài DN như: vốn vay ngân
hàng và các tổ chức tín dụng, vốn liên doanh liên kết, vốn do phát hành trái phiếu,
vốn tín dụng thương mại...
+ Vốn vay ngân hàng: Có thể nói vốn vay NH là 1 trong những nguồn vốn
quan trọng nhất. Sự hoạt động và phát triển của các DN đều gắn liền với các dịch
vụ tài chính do Ngân hàng Thương mại cung cấp trong đó có việc cung ứng các
nguồn vốn.
21


22


Khi huy động vốn từ Ngân hàng Thương mại DN cần đáp ứng được những
yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng của NH, chịu sự kiểm soát của NH. Ngoài ra DN
phải trả lãi suất vay vốn và chỉ được sử dụng vốn vay trong thời gian nhất định.
+ Vốn liên doanh liên kết: Đây là những nguồn vốn đóng góp theo tỷ lệ của
các chủ đầu tư để thực hiện mục đích kinh doanh nhằm mục tiêu thu LN.
+ Vốn do phát hành trái phiếu: Khi DN thiếu vốn có thể huy động vốn từ bên
ngoài qua việc phát hành trái phiếu. Trái phiếu là các giấy vay nợ trung và dài hạn.
Trái phiếu quy định thời hạn, lãi suất, thời gian trả lãi và mệnh giá.
+ Tín dụng thương mại: Được hình thành khi DN mua chịu hàng hóa, dịch vụ
của nhà cung cấp. Đối với DN huy động vốn bằng tín dụng thương mại là một
phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt, ngoài ra nó còn tạo ra khả năng mở
rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lầu bền. Tuy nhiên, sử dụng vốn tín
dụng thương mại DN cũng phải trả chi phí là chi phí lãi vay tính vào giá thành sản
phẩm, dịch vụ “ ẩn” dưới hình thức thay đổi mức giá bán.
Hình thức huy động vốn này tạo cho doanh nghiệp một cơ cấu nguồn vốn linh
hoạt. Nếu doanh nghiệp đạt được tỷ suất doanh lợi cao hơn chi phí sử dụng vốn thì
việc huy động vốn từ bên ngoài sẽ đem lại hiệu quả sử dụng vốn cao (Nhưng nếu
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì việc sử dụng nguồn vốn bên ngoài như con dao hai
lưỡi, sẽ làm cho doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro và số lỗ cao hơn)
Tuy nhiên, khi sử dụng nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp phải trả lãi vay và
hoàn trả tiền vay đúng thời hạn, ngoài ra để được sử dụng nguồn vốn bên ngoài thì
doanh nghiệp phải làm các thủ tục khá phức tạp (ví dụ phải có tài sản đảm bảo nếu
doanh nghiệp muốn vay vốn ngân hàng, phải có hợp đồng kinh tế nếu doanh nghiệp
mua chịu của nhà cung cấp...), và nếu không tuân thủ đúng các quy định thì sẽ phải
chịu phạt kinh tế và ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của doanh nghiệp.
Vì vậy doanh nghiệp cần căn cứ vào ưu nhược điểm của từng nguồn để
huy động vốn nhằm mang lại hiệu quả sử dụng vốn cao nhất với chi phí và rủi
ro là thấp nhất.
1.1.3. Đặc điểm vốn của công ty cổ phần
22



23

Công ty cổ phần là một thể chế kinh doanh, một loại hình doanh nghiệp hình
thành, tồn tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cổ đông. Trong công ty cổ
phần, số vốn điều lệ của công ty được chia nhỏ thành các phần bằng nhau gọi là cổ
phần. Các cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông, chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. Công
ty cổ phần được phép phát hành chứng khoán và có tư cách pháp nhân.
Vốn của công ty cổ phần có các đặc điểm sau:
Về cấu trúc vốn trong CTCP
Xét về phương diện cấu trúc, vốn của doanh nghiệp nói chung và của CTCP
nói riêng được hiểu là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm các bộ phận cấu thành có
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Cấu trúc vốn là đặc điểm cơ bản nhất tạo
nên bản chất pháp lý của CTCP.
Nhìn từ góc độ pháp lý, cấu trúc vốn của doanh nghiệp gồm: vốn điều lệ và
vốn vay.
Vốn điều lệ:
Vốn điều lệ của CTCP là số vốn do các cổ đông góp hoặc cam kết góp và
được ghi vào Điều lệ công ty.
Vốn điều lệ của CTCP được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Mệnh giá cổ phần do công ty quyết định và được phản ánh trong cổ phiếu. Vốn điều
lệ của công ty có thể bao gồm nhiều loại cổ phần với những tính chất pháp lý khác
nhau. Cụ thể đó là:
+ Cổ phần phổ thông: đây là loại cổ phần bắt buộc phải có của CTCP. Cổ
phần phổ thông tạo cho người nắm giữ nó các quyền lợi về kinh tế và “quyền lực”
trên cơ sở nguyên tắc đối vốn. Người sở hữu cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ
thông. Tỷ suất cổ tức mà cổ đông phổ thông được hưởng phụ thuộc vào kết quả
kinh doanh của công ty. Do đó, cổ đông phổ thông chỉ được trả cổ tức khi công ty

kinh doanh có lãi, đã hoàn thành các nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác
theo quy định của pháp luật, trích lập các quỹ công ty và bù đắp đủ lỗ trước đó theo
quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.
23


24

+Cổ phần ưu đãi: là loại cổ phần có tính chất pháp lý khác biệt so với cổ phần
phổ thông. Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi, được hưởng một số
quyền lợi cao hơn quyền lợi của người sở hữu cổ phần phổ thông và phải chịu một
số hạn chế khác. Cổ phần ưu đãi có thể được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông
theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông nhưng cổ phần phổ thông không thể được
chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi của CTCP bao gồm:
Cổ phần ưu đãi biểu quyết: là loại cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn
so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết
do Điều lệ công ty quy định. Người sở hữu loại cổ phần ưu đãi này gọi là cổ đông
ưu đãi biểu quyết.
Cổ phần ưu đãi cổ tức: là cổ phần được trả số cổ tức với mức cao hơn so với
mức cổ tức của cổ đông phổ thông hoặc mức cổ tức hàng năm gồm cổ tức cố định
và cổ tức thưởng. Người được quyền mua cổ phần ưu đãi cổ tức do Điều lệ công ty
quy định hoặc do Đại hội đồng cổ đông quyết định. Cổ tức cố định không phụ thuộc
vào kết quả kinh doanh của công ty.
Cổ phần ưu đãi hoàn lại: đây là loại cổ phần sẽ được công ty hoàn lại vốn góp
bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu cổ phần hoặc theo các điều kiện được
ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại (Điều 83 Luật doanh nghiệp 2005). Cổ
đông sở hữu cổ phần ưu đãi này có các quyền như cổ đông phổ thông và cũng bị
hạn chế một số quyền như đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức.
Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định.
Có thể thấy rằng, với cơ cấu vốn điều lệ có thể bao gồm nhiều loại cổ phần với

những tính chất pháp lý đa dạng, CTCP có thể thiết lập cơ chế góp vốn linh hoạt,
đáp ứng được những nguyện vọng, yêu cầu khác nhau của các nhà đầu tư. Nhà đầu
tư có thể lựa chọn cách thức góp vốn phù hợp với điều kiện cụ thể và nhu cầu lợi
ích của mình. Mặt khác, tính tự do chuyển nhượng của các cổ phần đã quy định cấu
trúc “vốn mở” của CTCP. Với cấu trúc này, vốn của công ty có thể dễ dàng xã hội
hoá, cơ cấu cổ đông có thể thay đổi uyển chuyển, linh hoạt mà không ảnh hưởng
đến sự tồn tại của công ty. Đây chính là cơ sở quan trọng cho việc hình thành thị
trường vốn mà đỉnh cao là thị trường chứng khoán.
24


25

Về vốn vay
Vốn vay có ý nghĩa quan trọng đối với các công ty đang trong tình trạng khó
khăn về tài chính hay công ty muốn thay đổi quy trình công nghệ cũng như mở
rộng quy mô sản xuất. Vốn vay là nguồn vốn huy động từ bên ngoài bằng các hình
thức khác nhau như: vay ngân hàng; vay của các tổ chức, cá nhân khác ... và phát
hành trái phiếu.
Nguồn vốn vay bằng hình thức trái phiếu có vị trí quan trọng và thể hiện rõ ưu
thế của CTCP so với nhiều hình thức doanh nghiệp khác.
Tóm lại, cấu trúc vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với các doanh
nghiệp nói chung và CTCP nói riêng. Nguồn vốn của công ty phải đáp ứng được
một cách đích thực cho quá trình đầu tư, phát huy được vai trò và ý nghĩa trong hoạt
động kinh doanh của công ty. Các nhà đầu tư cần chú trọng đến tỷ lệ, mối tương
quan về mặt giá trị giữa các loại vốn sao cho thật phù hợp, tạo khả năng mạnh mẽ
nhất để công ty đạt lợi nhuận tối đa và có nền tài chính lành mạnh phù hợp với quy
định của pháp luật.
Về vấn đề huy động vốn của CTCP
Vốn trong công ty cổ phần được hiểu là số lượng tiền cần thiết mà công ty

dùng vào cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty cổ phần có hai cách để
huy động vốn: tăng vốn chủ sở hữu và tăng vốn vay. Công ty cổ phần có một số
hình thức huy động vốn như sau:
Một là: Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu.
Phương thức này cho phép huy động vốn có hiệu quả các nguổn tài chính
trong xã hội để có một số vốn lớn và ổn định cho đầu tư kinh doanh. Đặc trưng của
hình thức này là tăng vốn những không tăng nợ của doanh nghiệp bởi những người
sở hữu cổ phiếu sẽ trở thành thành viên công ty. Kết quả của việc bán cổ phiếu sẽ
làm tăng vốn điều lệ (và vì vậy tăng vốn chủ sỏ hữu) của công ty.
Hai là: Huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu.
Công ty cổ phần phát hành lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu
thường có kỳ hạn xác định và bán cho công chúng. Đặc trưng cơ bản của hình thức
này là tăng vốn gắn liền với tăng nợ cho công ty. Với hình thức này, công ty cổ
25


×